Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 12:09:52 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tướng lĩnh QĐND Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh  (Đọc 46494 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #30 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:33:51 pm »

         
2. ĐẠI TƯỚNG CHU HUY MÂN (CHU VĂN ĐIỀU)


        Đồng chí Chu Huy Mân sinh năm 1913, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân Đội nhân dân Việt Nam (1977-1986), Phó chủ tịch Hội đồng nhà nước (1981-1986).

        Quê quán: Xã Hưng Hoà, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Đồng chí tham gai cách mạng năm 1929 (đôi phó Tự vệ đỏ xã), nhập ngũ năm 1945, Đại tướng năm 1980, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Đồng chí nhiều lần bị thực dân Pháp bắt giam; năm 1940 bị đưa đi an trí ở Đắc Lay, Đắc Tô, Kon Tum. Năm 1943 vượt ngục, tiếp tục hoạt động cách mạng. Trong Cách mạng tháng Tám, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa ở Quảng Nam, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chính trị viên Chi đội Quảng Nam. Trong kháng chiến chống Pháp.

        Năm 1945 đến 1951 là Chủ tịch Ban quân chính Khu C (gồm 4 tỉnh Trung Bộ), Chính trị viên Mặt trận Đường 9, Tham mưu chủ nhiệm Liên khu 4, Trung đoàn trưởng, Chính uỷ Trung đoàn.

        Năm 1951 đến 1954 là Phó chính uỷ rồi Chính uỷ Đại đoàn 316.

        Trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 đến 1963 là Đoàn trưởng Đoàn 100 (đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào); Chính uỷ; Quân khu 4, Quân khu Tây Bắc; Tổng cố vấn Việt Nam cho Chính phủ liên hiệp Lào của Thủ tướng Xu-va-na Phu-ma.

        Năm 1964 đến 1965 là Chính uỷ Quân khu 5.

        Năm 1965 đến 1967 là Tư lệnh kiêm Chính uỷ Mặt trận Tây Nguyên, chỉ huy các chiến dịch: Plây Me (1965), Sa Thầy (1966).

        Cuối năm 1967 đến 1976 là Tư lệnh, Kiêm Chính uỷ (1975) Quân khu 5; Chính uỷ chiến dịch Đà Nẵng (28-29/3/1975).

        Năm 1977 đến 1986 là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó bí thư Đảng uỷ Quân sự Trung ương; Phó Chủ tịch Hội Đồng Nhà nước (1981-1986).

        Đồng chí là Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá III-V; Uỷ viên Bộ Chính trị khoá IV, V; Đại biểu Quốc hội khoá II, VI, VII. Đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công (hạng nhất, 2 hạng nhì), Huân chương Chiến công (hạng nhất, hạng nhì), Huân chương Chiến thắng hạng nhất...

        Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí Chu Huy Mân đã trực tiếp gắn bó với địa bàn Khu 5-Tây Nguyên, trực tiếp cùng quân dân nơi đây đương đầu với những  khó khăn gian khổ, khắc phục những thiếu thốn đủ bề, xây dựng lực lượng vũ trang mạnh, xây dựng mối đoàn kết quân dân gắn bó, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược của Đảng giao cho. Đặc biệt, công tác đảng, công tác chính trị đã tập trung xây dựng con người, tổ chức vững mạnh, chiến đấu giỏi, dám đánh, biết đánh và quyết thắng. Điều đó thể hiện rõ trong nghiên cứu sâu về đối tượng tác chiến, sáng tạo trong cách đánh, truyền thụ được tư tưởng quân sự của Đảng tới từng người chiến sỹ, được thể hiện qua hành động cụ thể với phương châm : “Nắm lấy thắt lưng địch mà đánh” được phổ biến trên chiến trường.

        Chính vì vậy, vượt qua mọi cam go khổ cực, đồng chí đã cùng quân dân Khu 5 – Tây Nguyên quyết thắng từ trận đầu khi đối mặt với đối tượng tác chiến mới, với phương tiện chiến tranh hiện đại, từng bước đánh tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch từ nhỏ đến lơn, tạo được bước trưởng thành vững chắc trong từng trận chiến đâu, từng chiến dịch, thực hiện thắng lợi tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng.

        Thực tiễn chiến trường đã khẳng định, đồng chí Chu Huy Mân với bí danh Hai Mạnh đã làm tròn nhiệm vụ được Bác Hồ giao là mạnh về chính trị, mạnh về quân sự. Đồng thời qua thực tiễn chiến trường, đồng chí Chu Huy Mân vừa chiến đấu, vừa công tác, vừa tự học tự rèn, luôn sáng suốt, dũng cảm, quyết đoán, hoàn thành tốt nhiệm vụ và trọng trách mà Đảng, Quân đội và nhân dân tin cậy giao phó.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #31 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:55:32 pm »


TRỞ LẠI KHU 5 – TÂY NGUYÊN ĐÁNH MỸ

        Sau hơn một năm làm Chính uỷ, Bí thư Đảng uỷ Quân khu 4, trên quyết định tôi đi học công tác tham mưu ở Liên Xô. Sau mấy chục năm làm cách mạng không có điều kiện học tập thì đây là dịp tốt nhất để tôi nâng cao trình độ.

        Thời gian này, để giải quyết tốt các vấn đề chiến dịch, chiến thuật của Quân đội ta, nắm được phần nào khoa học và nghệ thuật quân sự của Liên Xô, Trung Quốc, Bộ Tổng tham mưu đề nghị cấp trên đặt vấn đề với các nước bạn giúp bồi dưỡng ngắn hạn cho cán bộ lãnh đạo Quân đội ta. Ở Liên Xô, ta đề nghị mở lớp bồi dưỡng riêng cho cán bộ lãnh đạo Quân đội Việt Nam. Tôi đi đợt 2, được phân công làm đoàn trưởng, bí thư chi bộ. Đoàn chúng tôi gồm có anh Lê Trọng Tấn (học nửa năm sau), anh Quang Trung, anh Lê Ngọc Hiền, anh Vũ Xuân Chiêm, anh Nguyễn Văn Bảo, anh Nguyễn Đường, anh Nam Thắng, anh Nguyễn Thanh, anh Phan Hàm, anh Hoàng Kiện, anh Phạm Hoàng.

        Nội dung đại thể phân bố thời gian như sau: Khoảng 2 tháng học binh khí kỹ thuật, đến từng binh chủng, quân chủng nghe giới thiệu và xem các binh khí kỹ thuật. Riêng Hải quân có đến Hạm đội Ban-tích, đi xem các loại tàu tuần dương hạm, tàu ngầm, tàu phóng lôi, tàu đổ bộ, tàu quét lôi, tên lửa bờ biển, pháo bờ biển, máy bay của hải quân, xem biểu diễn thả thuỷ lôi, quét lôi; xuống tàu tuần dương hạm dự cuộc thao diễn của Hải quan Liên Xô...

        Khoảng bốn tháng học về các hình thức tác chiến cấp sư đoàn trong điều kiện tác chiến thông thường và trong điều kiện sử dụng vũ khí hạt nhân. Học viên phải nghiên cứu bài vở thật nghiệm túc, tham dự thảo luận do giáo viên chủ trì, làm bài tập chu đáo, luyện tập vẽ bản đồ, đọc bản đồ, thảo mệnh lệnh và đóng vai sư đoàn trưởng ra mệnh lệnh cho cấp dưới. Bạn cho rằng sư đoàn là đơn vị chiến thuật cơ bản nên các đồng chí chỉ huy chiến dịch và lãnh đạo quân đội đều phải học thật kỹ để có thể sử dụng tốt các sư đoàn. Đối với nhiều đồng chí của ta, nhất là các đồng chí có trình độ văn hoá thấp thì cách học của Liên Xô đòi hỏi phải chuẩn bị bài vở mất nhiều thời gian, phải động não nhiều, nhớ nhiều và phải biết cách ghi các số liệu kỹ thuật để thường xuyên ôn luyện nên trong những ngày đầu anh em học khá vất vả.

        Sáu tháng còn lại học về chiến dịch, chiến lược, học chỉ huy tập đoàn quân chuẩn bị đất nước cho chiến tranh, đề phòng đòn đột kích đầu tiên, chống quân đổ bộ đường biển, đường không... Môn lịch sử chiến tranh là môn học chính khoá, nội dung giới thiệu một cách có hệ thống lịch sử chiến tranh qua các thời đại, ý nghĩa thành công hay thất bại trong các cuộc chiến tranh lớn trên thế giới. Bạn cũng rất chú ý giữ gìn di tích các chiến trường lịch sử.

        Chúng tôi đi thăm thành phố Xe-va-xtô-pôn, được giới thiệu về tổ chức phòng ngự một thành phố bờ biển. Chúng tôi còn được xem chiến trường Bô-rô-đi-nô, nơi diễn ra trận chiến quyết định giữa quân đội Nga do tướng Cu-tu-dốp chỉ huy và quân đội Pháp do Na-pô-lê-ông chỉ huy (1812).

        Kết thúc lớp học, trao đổi các đồng chí lãnh đạo Quân đội ta, Bộ Tổng tham mưu Liên Xô đã cử một tổ giáo viên sang nghiên cứu chiến trường Việt nam để có thể ra tưởng định làm bãi tập trên chiến trường của ta.

        Sau đợt đi nghiên cứu địa hình Việt Nam, tổ giáo viên Liên Xô có phát biểu với lãnh đạo Quân đội ta: Các đồng chí Việt Nam nhất thiết phải xây dựng và huấn luyện bộ đội tác chiến hiệp đồng binh chủng. Chiến trường Việt Nam hoàn toàn có thể sử dụng xe tăng.

        Vào trung tuần tháng 9 năm 1963, đoàn chúng tôi về đến Hà Nội. Ở lại Hà Nội vài ngày, tôi được điều vào làm Tư lệnh, Chính uỷ-Bí thư Quân khu uỷ Quân khu 4.

        Vào đến Quân khu 4, với nhiệm vụ được giao tôi nắm lại tình hình chung rồi xuống đơn vị tìm hiểu thêm và kết hợp thăm lãnh đạo các tỉnh thuộc địa bàn quân khu.

        Tháng 12 năm 1963, Trung ương triệu tập Hội nghị lần thứ 9. Hội nghị đã nhận định tình hình, dự kiến các khả năng, vạch ra phương hướng cho cách mạng miền Nam trong tình hình mới và nhấn mạnh phải kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều đóng vai trò rất cơ bản và quyết định nhưng đấu tranh quân sự giữ vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh tan lực lượng quân sự - chỗ dựa của nền thống trị của địch, làm cho cách mạng thắng lợi. Để thực hiện yêu cầu đó, điều quan trọng nhất, quyết định nhất là trong bất cứ trường hợp nào vẫn phải nỗ lực tăng cường lực lượng ta về mọi mặt, đặc biệt là lực lượng quân sự.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #32 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:55:52 pm »


        Về nhiệm vụ trước mắt, Hội nghị xác định hai nội dung chủ yếu và cũng là hai mục tiêu chủ yếu phải quyết tâm đạt cho bằng được. Thứ nhất, tiêu diệt từng bộ phận quân địch, tạo điều kiện làm tan rã hoàn toàn lực lượng quân sự - chỗ dựa của Mỹ và tay sai ở miền Nam... Thứ hai, làm thất bại kế hoạch gom dân lập “ấp chiến lược” của địch, phá phần lớn các ấp chiến lược, giành nhân tài vật lực cho cách mạng, làm chủ vùng rừng núi và phần lớn đồng bằng.

        Tháng 1 năm 1964, Bộ Tổng tham mưu triệu tập Hội nghị Phòng không nhân dân toàn miền Bắc lần thứ nhất. Các cuộc diễn tập báo động phòng không, cứu thương, cứu hoả, tổ chức việc xây dựng hầm trú ẩn, dự kiến các địa điểm sơ tán, di chuyển, bố trí phân tán kho tàng, bến bãi được thực hiện. Bộ đội phòng không nâng cấp trực chiến, tăng cường huấn luyện. Một mạng lưới bắn máy bay tầm thấp được hình thành trên toàn miền Bắc.

        Ngày 27 tháng 3 năm 1964, tại Hà Nội, Bác Hồ triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Tại Hội nghị, sau khi điểm lại những sự kiện lớn trong 10 năm qua ở nước ta và trên thế giới, Bác Hồ đã tỏ rõ thái độ của nhân dân ta đối với âm mưu xâm phạm miền Bắc của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Bác nói: ‘Tình hình miền Nam hiện nay chứng tỏ một cách rõ rệt sự thất bại không thể tránh khỏi của đế quốc Mỹ trong cuộc “chiến tranh đặc biệt” này. Cuộc “chiến tranh đặc biệt” mà chúng đang thí nghiệm ở miền Nam Việt Nam đã thất bại, thì chúng cũng sẽ thất bại ở bất cứ nơi nào khác. Đó là ý nghĩa quốc tế của cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam ta đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới”.

        Bác kêu gọi toàn dân, toàn quân nâng cao ý chí chiến đấu, sẵn sàng đập tan mọi hành động khiêu khích và phá hoại của đế quốc Mỹ, mỗi người làm việc bằng hai, hết lòng hết sức ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam. Đó là lệnh động viên của Bác trước tình hình mới, là lời cảnh cáo nghiệm khắc đối với những âm mưu mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

        Hôi nghị chính trị đặc biệt do Bác triệu tập đã biểu thị ý chí sắt đá đoàn kết và chiến đấu của nhân dân ta ở miền Bắc, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết cả nước một lòng để bảo vệ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, bảo vệ thành quả cách mạng lao động hoà bình, ra sức chi viện cho đồng bào miền Nam ruột thịt đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.

        Đang triển khai công việc ở Quân khu 4 thì trên gọi tôi ra Hà Nội chuẩn bị đi Nam. Lúc đầu tôi được lệnh đi vào B2 ( R ), tức là vào Nam Bộ làm phó cho anh Nguyễn Chí Thanh. Công tác chuẩn bị theo hướng ấy. Nhưng mấy hôm sau lại đổi hướng tôi đi vào Khu 5. Chiến trường nào cũng thế, miễn là được vào với đồng bào, đồng chí và đồng đội đánh Mỹ-Nguỵ, vì độc lập, tự do và thống nhất nước nhà. Mấy ngày liền, cứ mối buổi sáng tôi lại đeo ba lô trong có 8 viên gạch đi bộ lên Hồ Tây để rèn luyện gân bắp. Buổi chiều lại tìm cách nghe tình hình miền Nam và Khu 5, trong đó chú ý lắng nghe lãnh đạo đánh giá chiến trường.

        Lúc ra đi tôi được chỉ định làm đoàn trưởng Đoàn kiểm tra của Quân uỷ Trung ương vào làm việc với Khu uỷ và Quân khu uỷ Khu 5. Đoàn có các anh Võ Bẩm, Trần Thọ, Đỗ Đức Kiên và một số cán bộ khác.

        Xe vào đến Vinh, hôm sau có đến làng Ho (Quảng Bình) thì bắt đầu đi bộ. Trước lúc ra đi, gạo, muối, lương khô cho từng người được quy định chặt chẽ. Trên đường đi chúng tôi quy định trong ngày hành quân nếu gắp rau rừng, rau tàu bay toàn đoàn dừng lại hái, bỏ túi bổ sung cho bữa ăn tối.

        Qua Mường Nòng - đất bạn Lào – thì đoàn chúng tôi đi theo hướng đông. Anh Lương Khải Địch - Trưởng phòng Đặc công Quân khu 5 ra biên giới đón.

        Chiều tối đoàn vượt đường 14, nơi đây rất gần quân địch ở Đắc Nhé. Khi qua đường mỗi người bước qua miếng ni-lông trải trên mặt đường để giữ bí mật, người cuối cùng đi đi qua thì cuốn miếng ni-lông đem theo. Đến chiều, đoàn đến cơ quan Bộ tư lệnh Quân khu 5. Sáng hôm sau bắt đầu làm việc, trước hết là dự giao ban. Anh Ngưu – cán bộ tham mưu quân khu báo cáo kết quả đánh địch, anh nói: “Bộ đội địa phương đánh “tan rã gọn” mấy trung đội dân vệ”. Mọi người trong cuộc họp đều cười.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #33 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:56:21 pm »


        Sau hai ngày làm việc ở quân khu, ngày thứ ba đoàn chúng tôi sang chào Khu uỷ. Lúc này anh Võ Chí Công vừa về Khu 5 làm Bí thư Khu uỷ. Đoàn chúng tôi đi xuống tây Quảng Ngãi nghiên cứu hai “ấp chiến lược” Phú Khương và Phú Thọ mà quần chúng mới nổi dậy giành quyền làm chủ. Làm việc với mấy đại đội địa phương Quảng Ngãi, khi báo cáo anh em cán bộ đại đội cho rằng họ đã đánh “tám trận công kiên”, diệt 8 trung đội dân vệ trong ấp chiến lược. Tôi nói với anh Đỗ Đức Kiên khoan bình luận. Gặp anh Hường – Chính trị viên Tỉnh đội được biết cán bộ, chiến sỹ ở đây phần đông đã ra Bắc tập kết trở về, tinh thần tốt nhưng cách đánh chưa được bồi dưỡng đúng mức. Trong lúc chúng tôi công tác ở đây thì quân cơ động nguỵ mở cuộc càn quét lớn lên vùng căn cứ khu và quân khu, địch gọi là Độ Xá.

        Địch huy động vào cuộc càn này 12 tiểu đoàn (5.000), 80 máy bay, có cố vấn Mỹ chỉ huy. Chúng đặt tên cuộc càn là “Quyết thắng 202” vào vùng Mang Xin (tây Quảng Ngãi).

        Sau 30 ngày chiến đấu liên tục, quân và dân miền tây Quảng Ngãi có các đơn vị chủ lực tham gia (Tiểu đoàn 40 Trung đoàn 1 và Tiểu đoàn 97 Trung đoàn 2) và lực lượng đặc công của quân khu đã dũng cảm mưu trí phối hợp với các tuyến bố phòng dày đặc của quân dân địa phương, bẻ gãy cuộc càn của địch, diệt 500 tên, bắn rơi 17 máy bay, bắn bị thương nhiều chiếc khác.

        Đoàn Kiểm tra của Quân uỷ Trung ương sau khi nắm tình hình trong khu đều nhất trí với Khu uỷ và Quân khu uỷ về năm vấn đế quan trọng tập trung xây dựng lực lượng vũ trang:

        Một là, Bộ đội chủ lực không thể đánh theo lối phân tán, đánh nhỏ, đánh tiêu hao địch, mà phải tác chiến tập trung với quy mô thích hợp để tiêu diệt từng đơn vị địch, đáp ứng yêu cầu phát triển của chiến tranh.

        Hai là, tăng cường giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng nhằm bồi dưỡng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội nhân dân, nâng cao khí thế cách mạng sôi nổi, phát huy tinh thần dũng cảm ngoan cường trong chiến đấu, bồi dưỡng chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trên cơ sở đó mà quán triệt sâu sắc tư tưởng tiến công địch, thấm nhuần nguyên tắc đánh tiêu diệt.

        Ba là, củng cố và tăng cường ý thức tổ chức kỷ luật của bộ đội trong việc chấp hành mệnh lệnh, chấp hành chính sách và kỷ luật chiến trường. Phải nghiêm khắc với hiện tượng đánh xua, đánh đuổi, không thu được vũ khí, trang bị của địch mà còn để mất vũ khí, đạn dược.

        Bốn là, nâng cao khả năng cơ động chiến đấu của bộ đội chủ lực. Tổ chức gọn nhẹ, từng bước nâng dần thành phần chiến đấu, tăng đơn vị chiến đấu giảm bớt đơn vị phục vụ.

        Năm là, Nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, nhất là các đơn vị chủ lực. Nghiên cứu đánh bại các thủ đoạn chiến thuật của địch, trước mắt đánh bại chiến thuật “thiết xa vận” của Mỹ-Nguỵ.

        Sau khi hoàn thành nhiệm vụ kiểm tra, Bộ Chính trị quyết định tôi ở lại Khu 5 đảm nhiệm chức vụ Phó Bí thu Quân khu uỷ, Chính uỷ Quân khu 5; anh Nguyễn Đôn – Tư lệnh Quân khu. Mấy tuần sau thì Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương gọi anh Nguyễn Đôn ra Bắc để ổn định sức khoẻ. Anh Đoàn Khuê – Phó Chính uỷ, anh Nguyễn Chánh – Phó Tư lệnh lên Tây Nguyên Phụ trách tiền phương của Quân khu.

        Tháng 6 năm 1964, Khu uỷ ra Nghị quyết về nhiệm vụ và những công tác lớn trước mắt của Khu 5. Nghị quyết nhận định tình hình hiện nay trong khu: Về địch, lực lượng ở Khu 5 vẫn còn tương đối đông (60-65 nghìn quân chủ lực, 22-23 nghìn quân bảo an, 6.000-8.000 biệt kích, 14-16 nghìn dân vệ), chúng thành lập năm chiến đoàn ở Quân đoàn 1, chín chiến đoàn ở Quân đoàn 2. Quân số địch tương đối đông, phong trào đấu tranh, diện làm chủ của nhân dân ta chưa mở rộng, đấu tranh chính trị và vũ trang của của ta chưa căng kéo địch trên khắp chiến trường nên địch có điều kiện tập trung quân tương đối lớn để càn quét, điều quân phản ứng ta tương đối nhanh. Xe bọc thép M113 còn phát huy tác dụng. Ngoài các căn cứ lớn, địch có 500 đồn, bốt, ấp chiến lược còn nhiều (gần 2.700 ấp), cả đồng bằng và miền núi, nên địch còn kìm kẹp được đại bộ phận nhân dân đồng bằng.

        Về ta, khó khăn: Lực lượng của địch ở Khu 5 tương đối đông. Phạm vi giành dân của ta, nhất là ở đồng bằng còn quá ít. Kinh tế còn khó khăn lâu dài, cụ thể là lương thực, tài chính, nhân vật lực ho cách mạng. Trong thực hiện phương châm, về tư tưởng và tác phong còn nhiều nhược điểm và khuyết điểm.

        Thuận lợi: Có căn cứ miền núi được giữ vững và củng cố. Phong trào quần chúng nói chung đã chuyển lên một thế mới. Phong trào đồng bằng đã mở ra và giành dân được một mức độ. Lực lượng vũ trang của ta tương đối đông, cán bộ cần cù chịu đựng gian khổ, có trình độ. Công tác chỉ đạo đã có kinh nghiệm hơn trước. Ngoài ra còn có sự chỉ đạo đúng đắn của trên, có sự hỗ trợ chung của phong trào miền Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #34 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:57:06 pm »


        Về nhiệm vụ chung và những công tác lớn trước mắt, nghị quyết chỉ rõ: Căn cứ vào tình hình thực tế trong khu, để thực hiện nghị quyết của Trung ương Cục, nhiệm vụ của khu từ nay đến giữa năm 1965 là động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên chiến trường tranh thủ thời cơ liên tục tiến công tiêu diệt địch, ra sức phá “ấp chiến lược”, phá kìm kẹp, giành lại nông thôn đồng bằng và rừng núi (nhất là nông thôn đồng bằng), ra sức chống càn quét, chống lấn chiếm, xây dựng căn cứ rừng núi và vùng nông thôn - giải phóng, mở rộng diện tích tiêu hao, nâng cao mức tiêu diệt địch, đẩy mạnh phong trào nhân dân du kích chiến tranh, đẩy mạnh đấu tranh chính trị và binh vận, phát triển công tác thành phố, xây dựng thực lực chính trị, vũ trang của ta mạnh mẽ, tăng cường công tác kinh tế tài chính, đưa phong trào trong khu chuyển mạnh lên một bước phát triển mới, tạo điều kiện giành thắng lợi ngày càng to lớn. Sẵn sàng tư tưởng, tổ chức, đánh bại những bước leo thang mới của địch.

        Trong những nhiệm vụ trên, có ba mục tiêu chính mà ta phải giải quyết cho được. Một là, phá ấp chiến lược, phá kìm kẹp, giành và làm chủ phần lớn nông thôn đồng bằng, làm chủ rừng núi, xây dựng căn cứ và vùng giải phóng vững mạnh, đảm bảo giành nguồn nhân lực lớn lao cho cách mạng. Hai là, tiêu diệt sinh lực địch, làm tan rã từng bộ phận quân đội địch, tiến lên thực hiện tốt nhiệm vụ của trên, tiêu diệt lớn sinh lực địch. Ba là, củng cố và phát triển mạnh mẽ lực lượng chính trị, vũ trang, tăng cường thực lực kinh tế của ta.

        Ba nhiệm vụ trên có liên quan chặt chẽ với nhau, đảm bảo thắng lợi và hỗ trợ nhau.

        Tháng 7 năm 1964, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh Quân khu 5 phát động phong trào đẩy mạnh tác chiến tiêu diệt, tiêu hao thật nhiều sinh lực địch, bồi dưỡng ta. Xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh đi đôi với phong trào phá ấp giành dân. Đảng uỷ - Bộ tư lệnh Quân khu chủ trương mở chiến dịch Thu – Đông năm 1964.

        Tôi xin phép Khu uỷ xuống Tam Kỳ tìm hiểu tình hình phong trào quần chúng và các đơn vị bộ đội, Cùng đi với tôi có một số cán bộ tham mưu, chính trị. đến Dốc Bộng thì chúng tôi được biết anh Nguyễn Duy Minh – Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 vừa trúng pháo địch hy sinh trong một một trận phục kích quân địch trên đường Tiên Phước đi Tam Kỳ. Anh Lê Hữu Trữ - Trưởng phòng Tác chiến Quân khu được giao nhiệm vụ làm Trung đoàn trưởng. Đến vùng Dương Yên, tôi gặp anh Mười Chấp - Tỉnh uỷ viên Quảng Nam, Bí thư Huyện uỷ Tam Kỳ, một đồng chí không ra Bắc tập kết ở lại bám trụ kiên cường. Sau khi nắm lại tình hình, tôi bàn với anh Mười Chấp huy động được mấy tấn gạo. Tôi đề nghị với anh Võ Chí Công và anh Nguyễn Đôn cho nốt đại đội đang bảo vệ khu về tiểu đoàn để chuẩn bị cho đợt hoạt động mùa Thu.

        Thực hiện kế hoạch tác chiến Thu – Đông 1964, Tiểu đoàn 90 Trung đoàn 1 được tăng cường, nhận nhiệm vụ đánh địch ở Kỳ Sanh.

        Kỳ Sanh là một xã giải phóng của ta ở tây Tam Kỳ (Quảng Nam). Trong tháng 3 năm 1964, Mỹ - Nguỵ mở chiến dịch lấn chiếm chiếm lại. Sau một thời gian đánh phá, địch đã gom dân vào trong sáu ấp chiến lược. Lực lượng địch ở đây có tiểu đoàn quân cộng hoà bố trí thành 3 cụm ở đối 76 và hai thôn, thôn 7 và thông 8.

        Đánh Kỳ Sanh, bộ đội ta phải vận động trên địa hình trống trải, giữa hệ thống cứ điểm dày đặc, địch có thể phát huy được máy bay, pháo binh, cơ giới.

        Trung đoàn 1 chuẩn bị cho trậnu Kỳ Sanh khá tốt, tinh thần chiến đấu tốt, sức khoẻ bộ đội được cải thiện. Trước khi bộ đội xuất quân, tôi về trung đoàn để động viên anh em:

        - Các đồng chí đánh trận này theo hình thức “đánh điểm, diệt viện”, nhắm kiên quyết tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân cộng hoà cơ động, bắn cháy và bắt sống M113, đánh bại bước đầu chiến thuật “thiết xa vận” của địch, bắn rơi máy bay địch bằng súng trường và trung liên, đánh cả ban đêm và ban ngày, nâng cao trình độ và sức chiến đấu của trung đoàn chủ lực.

        Nói xong tôi hỏi anh em:

        - Các đồng chí có gì khó khăn?

        Anh em giơ tay nói:

        - Báo cáo thủ trưởng, trên 600 người đi vào trận đánh mà chỉ có không đầy hai chục xẻng, cuốc, khó đào công sự xong trong đêm.

        Trước giờ xuất quân, đòi hỏi của anh em rất thực tế. Thời gian chỉ còn mấy tiếng đồng hồ. làm thế nào giải bài toán hóc búa này? Tôi nói với anh Thạch và anh Huyền cho anh em tạm nghỉ, các đồng chí cùng suy nghĩ cách giải quyết.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #35 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:57:34 pm »


        Suy nghĩ một lúc, tôi mượn dao và cùng mấy đồng chí bảo vệ ra rừng tìm một cây gỗ thật cứng, chặt một đoạn vót nhọn.

        Bộ đội được tập hợp trở lại, tôi cầm cây cọc gỗ vót nhọn cắm trước hàng quân và nói:

        - Các đồng chí! Xưa kia Ngô Quyền đã chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng bằng những cây cọc gỗ như thế này, tất nhiên là lớn hơn, dài hơn. Ngày nay, các đồng chí hãy noi gương cha ông, dùng những cọc gỗ để đánh Mỹ - Nguỵ. Gỗ có thể đâm thủng thuyến giặc, thì gỗ cũng có thể để đào công sự chiến đấu.

        Hiểu được ý của tôi, Tiểu đoàn 90 toả vào rừng, mỗi người chặt một đoạn cây vót nhọn để thay cuốc, xẻng. Đêm hôm ấy bộ đội đào công sự cá nhân khá tốt.

        Theo đúng kế hoạch, đếm ngày 9 rạng ngày 10 tháng 8 năm 1964, một bộ phận của Tiểu đoàn 90 tiến công diệt 1 đại đội quân nguỵ ở thôn 8.

        Sáng ngày 10 tháng 8, Chỉ huy tiểu khu Quảng Tín sử dụng 2 đại đội bộ binh có 9 xe bọc thép M113 dẫn đầu từ Hố Giang kéo lên Kỳ Sanh. Để yể trợ cho lực lượng cứu viện, địch cho máy bay và pháo binh bắn phá ác liệt dọn đường. Những công sự đào vội bằng những cọc gỗ vót nhọn chỉ sâu đến thắt lưng, cũng đủ để chiến sỹ ta vững tâm chờ địch.

        9 giờ 35 phút ngày 10 tháng 8, đại bộ phận quân địch đã lọt vào trận địa phục kích của ta. Ngay từ những loạt đạn đầu, các chiến sỹ ta đã bắn cháy 2 xe M113 đi trước. Bảy chiếc đi sau vội vàng dừng lại. Máy bay, pháo binh thi nhau nã đạn vào trận địa Tiểu đoàn 90.

        Bất chấp bom đạn, chiến sỹ ta vừa anh dũng đánh chia cắt bộ binh địch bám theo xe bọc thép, vừa bình tĩnh đón đánh những chiếc xe M113 đang hung hăng ào tới. Sau hơn 30 phút, ta bắn cháy thêm 4 chiếc nữa. Vậy là ta đã diệt 6 trong số 9 chiếc M113. Tấm lá chắn bằng thép đã bị phá vỡ, bộ binh địch hốt hoảng bỏ chạy tán loạn. Quân ta lập tức xông lên truy diệt gần 100 tên địch nữa. ta thương vong 41. Tuy chưa diệt gọn được toàn bộ quân địch nhưng đây là trận đầu tiên Tiểu đoàn bộ binh 90 đã trụ vững ở địa bàn đồng bằng. Chiến thuật “thiết xa vận” - thủ đoạn chủ yếu để thực hiện kế hoạch càn quét gom dân lập ấp chiến lược của địch lần đầu bị đánh bại trên chiến trường Khu 5.

        Giữa năm 1964, trước những thất bại ngày càng nặng nề ở miền Nam Việt Nam, âm mưu của đế quốc Mỹ dùng không quân đánh phá miền Bắc đã trắng trợn hơn, các hoạt động trinh sát trên không, tung biệt kích vào phá hoại nhiều hơn.

        Tháng 3 năm 1964, Giôn-xơn phê chuẩn kế hoạch Đê-sô-tô, dùng tàu khu trục Mỹ tuần tiễu ở vịnh Bắc Bộ để ngăn chặn tiếp tế vào Nam bằng đường biển của ta; đồng thời quấy rối trinh sát vùng ven biển, yểm hộ cho hoạt động của tàu biệt kích nguỵ vây bắt nhân dân ta đánh cá ngoài biển để khai thác tin tức. Trung tuần tháng 4 năm 1964, hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đã vạch kế hoạch ném bom miền Bắc, thông qua danh sách 94 mục tiêu sẽ bị đánh phá.

        Ngày 12 tháng 6, biệt kích nguỵ phá cầu Hang (Thanh Hoá). Ngày 30 tháng 6, chúng lại phá nhà máy nước Đồng Hới. Từ ngày 30 tháng 7, tầu chiến Mỹ đã xâm phạm ven biển của ta, bắn phá các đảo Hòn Ngư (Nghệ An) và Hòn Mê (Thanh Hoá). Ngày 31 tháng 7, tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ vào khu vực phía nam đảo Cồn Cỏ, bắt đầu do thám và uy hiếp dọc bờ biển của ta. Các ngày 31 tháng 7 và 1 tháng 8, máy bay Mỹ bắn phá đồng biên phòng Nậm Cắn.

        Trước tình hình đó, hải quân ta được lệnh đánh trả và trừng trị bọn cướp biển xâm phạm vùng biển và an ninh của nước ta.

        Trưa chủ nhật ngày 02 tháng 8 năm 1964, chính quyền Giôn-xơn lại dựng lên câu chuyện tàu chiến Mỹ bị hải quân ta tiến công ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ thuộc hải phận quốc tế, lấy cớ ném bom miền Bắc trong ngày 5 tháng 8 năm 1964.

        Với sự kiện vịnh Bắc Bộ, đế quốc Mỹ mong gỡ thế bí, thế sa lầy của chúng ở miềm Nam Việt Nam, nhưng thực tiễn những năm sau đã chứng tỏ cuộc phiêu lưu mới đó đã không cứu vãn được những thất bại ngày càng nặng nề của chúng.

        Đêm 5 tháng 8 năm 1964, tôi, anh Mười Chấp và mấy anh em đi cùng, mắc võng giữa vườn chè Kỳ Thạnh nhưng không sao ngủ được, thỉnh thoảng lại hỏi nhau không biết đêm nay Bác Hồ có ngủ được không? Đêm đã khuya, gió biển thổi vào làm cho những tàu lá dừa lay động xào xạc. Có đồng chí mỗi lần nhắc đến Bác thức hay ngủ lại nức nở khóc. Chúng tôi nói với nhau: điều quan trọng nhất là quân dân cả nước một lòng kháng chiến chống Mỹ - Nguỵ, quân dân miềm Nam và Khu 5 đánh thắng địch để Bác vui lòng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #36 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:58:00 pm »


        Ngày 19 tháng 8 năm 1964, báo Quân giải phóng - tờ báo của lực lượng vũ trang Trung Trung Bộ chính thức phát hành phục vụ cán bộ, chiến sỹ và nhân dân. Toà soạn bảo Quân giải phóng được tổ chức do anh Lê Văn Ba là thư ký toà soạn (phụ trách chung), ban biên tập có các nhà văn, nhà thơ, gồm các anh Nguyên Ngọc, Nguyễn Chí Trung, Thu Bồn, Phan Đình Công, Hà Giao... Chỉ sáu đồng chí, vừa làm phóng viên, biên tập, làm ma-két, chữa mo-rát... Trong điều kiện chiến trường đi lại rất khó khăn, để có tin bài kịp thời cổ vũ động viên bộ đội, cán bộ, phóng viên báo Quân giải phóng đã phải thường xuyên bám chiến trường, bám đơn vị. Nhiều phóng viên đã cùng với chiến sỹ chiến đấu trong các trận đánh đồn, phục kích, đánh giao thông, diệt cơ giới, chống càn quét, phá ấp chiến lược.

        Giữa lúc phong trào đang phát triển thì Khu 5 bị một trận lụt khủng khiếp. Tháng 10 năm 1964, những cơn mưa như trút nước liên tục ròng rã nửa tháng trời biến đồng bằng Khu 5 thành biển nước. Hàng nghìn thông ấp bị ngập trong nước. Lũ cuốn trôi nhiều nhà cửa, trâu bò, công cụ sản xuất. Núi sạt lở từng mảng kéo theo một số buôn của đồng bào và một số bệnh xá, cơ quan, đơn vị. Riêng bộ đội đã có 70 cán bộ, chiến sỹ bị đất vùi. Theo các cụ già địa phương cho biết thì đây là trận lụt chưa từng có trong vòng 100 năm ở đây. Trận lụt đã gây ra nạn đói nghiêm trọng, đe doạ khắp vùng ven biển miền Trung, tác động sâu sắc đến nhiều mặt của cuộc kháng chiến.

        Kẻ thù tàn ác, chúng cho rằng trận lụt có giá trị như cuộc phản công của mấy sư đoàn. Giữa lúc nhân dân đang ngập chìm trong nước, hàng vạn người già, trẻ em đang chới với trên những mái nhà tranh, những ngọn cây thì cũng chính là lúc chúng tính kế xúc dân, lập ấp, đánh phá phong trào cách mạng. Từng đàn máy bay địch liên tục ném bom bắn phá các thôn xóm, các gồ đất cao đang chen chúc những người chạy lụt. Xe bọc thép lội nước, xuống máy của chúng lồng lộn rẽ nước chở quân đi càn quét hòng tiêu diệt các đơn vị chủ lực và du kích ta đang bị nước bao vây và xúc dân về các trại tập trung.

        Khó khăn tưởng chừng không khắc phục nổi. Nhưng càng khó khăn gian khổ, Đảng bộ và nhân dân Khu 5 càng bền gan, vững chí, gan góc kiên trì chịu đựng và anh dũng vượt qua. Bộ đội và du kích vừa đánh địch càn quét vừa dùng thuyền, bè chuối lao đi dưới làn bom đạn địch để cứu dân. Bát cơm xẻ nửa, củ sắn chia đôi, mọi người chia nhau từng hạt lúa, củ khoai còn sót lại.

        Trong những ngày khốn khó, Bác Hồ và nhân dân miền Bắc liên tiếp động viên thăm hỏi. Các chiến sỹ Đoàn 559 ngày đêm khẩn trương vận chuyển thuốc chữa bệnh của Bác Hồ và nhân dân Miền Bắc gửi cho đồng bào, chiến sỹ Khu 5. Kẻ thù hy vọng trận lụt sẽ làm giảm sút sức chiến đấu của quân và dân Khu 5 trong một thời gian dài. Nhưng chúng đã lầm. Với truyền thống tự lực, tự cường, quân dân Khu 5 đã nhanh chóng vượt qua mọi khó khăn, đồng thời tạo ra sức mạnh chiến đấu mới.

        Bộ tư lệnh Quân khu chủ trương sử dụng Trung đoàn bộ binh 2, phối hợp với bộ đội địa phương huyện và dân quân, du kích mở đợt tiến công vào chi khu An Lão.

        An Lão là một huyện của Bình Định, cách tỉnh lỵ Bình Định 96 ki-lô-mét về phía tây bắc, là một huyện trung du chạy dài trong một thung lũng rộng 4 ki-lô-mét dài 22 ki-lô-mét. Địch cho đây là vùng an toàn của chúng nên chỉ có lực lượng bảo an, dân vệ bố trí ở quận lỵ, với công sự khá kiên cố, có một điểm cao, hai đồn cùng với 13 trung đội dân vệ trong 18 ấp chiến lược dọc địa bàn của huyện.

        Trong đêm ngày 6 tháng 12, ta diệt gọn địch đóng ở trên điểm cao 193 và hai đồn dân vệ. Nhân dân các ấp nổi dậy bắt ác ôn, phá tan 18 ấp chiến lược, giải tán 13 trung đội dân vệ, nhưng ở quận lỵ ta chỉ tiêu hao được một phần quân địch. Đến sáng ngày 7 tháng 12 ta chuyển sang bao vây sẵn sàng đánh quân tiếp viện.

        Trong hai ngày 7 và 8 tháng 12, ta tiếp tục đánh viện, diệt 6 xe M113 và một số tên địch, giữ vững các nơi đã chiếm được, tuyên truyền chính sách trong nhân dân, gây cơ sở du kích trong vùng giải phóng. Bị thất bại nặng nề, đến ngày 15 tháng 12, địch rút khỏi vùng này.

        Kết quả, ta diệt và bắt 581 tên địch, thu 310 súng các loại (trong đó có 2 khẩu cối 106,7 ly), diệt và phá hỏng 6 xe M113, phá 18 ấp chiến lược, bắn rơi 1 máy bay, thu 12 tấn đạn, giải tán 13 trung đội dân vệ, giải phóng cả một vùng 11.000 dân.

        Qua chiến thắng An Lão, lần đầu tiên ở Khu 5 xuất hiện phương thức tác chiến mới của chủ lực kết hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích dưới hình thức chiến dịch với quy mô trung đoàn. Chiến thắng An Lão đã làm cho quân và dân ta càng thêm phấn khởi và tin tưởng, ra sức khắc phục những khó khăn to lớn do nạn lụt cuối năm 1964 gây ra và tạo nên một khí thế cách mạng mới.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #37 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:58:24 pm »


        Đợt hoạt động Xuân 1965, trên toàn bộ chiến trường Khu 5 được chuẩn bị khá hơn. Trong đợt này toàn khu có ba trọng điểm có chủ lực hỗ trợ cho phong trào diệt kẹp giành dân. Để căng kéo, chia cắt, tạo ra sức uy hiếp lớn, buộc địch phải lúng túng đối phó, ta đã tập trung 4 trong số 5 trung đoàn chủ lực của đồng bằng và Tây Nguyên, phối hợp với lực lượng địa phương ba tỉnh, tiến công địch trên toàn tuyến. Trong đó, chủ lực tập trung vào 4 khu chính: Trung đoàn 2 ở Phù Mỹ (Bình Định); Trung đoàn 10 ở đông tây đèo Măng Giang trên đường 19; Trung đoàn 320 ở Thanh An – Thanh Bình trên đường 19 kéo dài; Trung đoàn 1 ở Quảng Nam. Trong đợt này quân khu còn sử dụng tất cả lực lượng đặc công, pháo cối đánh vào các sân bay. Trước Tết Nguyên đán, cơ quan tham mưu quân khu tính toán và đề nghị nên nổ súng vào đêm 30 Tết. Sau khi cân nhắc, anh Năm Công và tôi đồng ý cho nổ súng đồng loạt vào tối 30 rạng ngày 1 Tết Nguyên đán.

        Theo đúng kế hoạch, đêm 6 rạng ngày 7 tháng 2 năm 1965 (đêm 0 rạng ngày 1 Tết), chủ lực trên hướng trọng điểm cùng một lúc nổ súng tiến công sân bay Cù Hanh, trại Hô-lô-uê ở Plây Cu và cứ điểm Dương Liễu ở Bình định. Sân bay Cù Hanh là sân bay lớn, quan trọng nhất của Mỹ - Nguỵ ở Tây Nguyên. Trị Hô-lô-uê nằm ở quãng giữa sân bay và sở chỉ huy Quân đoàn 2 của Nguỵ. Trong trại có khoảng 1.000 cố vấn Mỹ.

        2 giờ ngày 7 tháng 2, sau khi đã vượt qua tất cả hệ thống bố phòng, các chiến sỹ đặc công Tiểu đoàn 40 đã nằm sẵn dưới cánh máy bay địch. Được lệnh, hầu như cùng một lúc, hàng chục tiếng bộc phá nổ vang rền. Từng cột khói, lửa bốc lên. Cùng lúc đó, các chiến sỹ đại đội súng cối 60 ly Trung đoàn 320 tới tấp dội đạn xuống trại Hô-lô-uê.

        Sau 30 phút chiến đấu, các chiến sỹ ta đã phá huỷ và phá hỏng 42 máy bay các loại, diệt và làm bị thương 350 tên (Trong hồi ký, Giôn-xơn thú nhận 20 máy bay lên thẳng bị phá huỷ và phá hỏng, 8 tên Mỹ chết và hơn 100 tên khác bị thương).

        Cùng lúc với trận tiến công sân bay Cù Hanh và trại Hô-lô-uê, Trung đoàn bộ binh 2 do Trung đoàn trưởng Đỗ Phú Đáp và Chính uỷ Nguyễn Văn Ngật chỉ huy cũng nổ súng tiến công cứ điểm Dương Liễu, diệt gọn 1 đại đội cộng hoà và 3 trung đội dân vệ, cắt đứt đường số 1 từ Phù Mỹ đi Bồng Sơn (Bình Định). Tiểu đoàn đặc công 499 (thiếu) tiêu diệt cứ điểm Gia Hựu (Hoài Nhơn), diệt gọn 1 đại đội cộng hoà và 1 trung đội pháo 105 ly.

        Ngày 8 tháng 2, địch cho 2 tiểu đoàn bộ binh và 1 chi đoàn bọc thép của Sư đoàn 22 Nguỵ theo đường số 1 tiến ra Dương Liễu. Theo kế hoạch đã vạch sẵn, các đơn vị của ta bố trí ở những khu vực địch đã lục soát và bí mật vận động tiếp cận. 13 giờ 30 phút, khi quân địch phát hiện đường dây điện thoại của trận địa chặn đầu cũng là lúc toàn bộ đội hình của chúng đã lọt vào trận địa của ta. Hàng loạt đạn súng cối trùm lên các điểm cao, trên đó có hàng chục tên địch. Các mũi xung kích bất ngờ từ các sườn núi lao ra. Bị đánh mạnh và bị bao vây cả bốn phía, bọn chỉ huy quân Nguỵ liên tiếp kêu cứu. Hàng ngũ địch bắt đầu rối loạn tan rã. Một số tên lái xe bọc thép M113 cũng hốt hoảng bỏ xe chạy thoát thân.

        “Bắt sống xe bọc thép” – Trung đội trưởng Bùi Xuân Bình vừa ra lệnh cho đơn vị vừa nhảy lên chiếc xe bọc thép còn đang nổ máy, quay nòng trọng liên bắn yểm hộ cho đồng đội.

        15 giờ 30 phát, quân ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Trong trận này ta diệt, bắn bị thương và bắt sống 50 tên bắn cháy 8 chiếc và bắt sống 2 xe bọc thép M113.

        Trong lúc đó phía tây bắc thị xã Quảng Tín, Trung đoàn 1 tiêu diệt địch trong cụm cứ điểm Việt An, đồng thời đón đánh diệt quân cơ động Nguỵ. Sau khi Việt an được giải phóng, ngay hôm ấy địch cho 1 tiểu đoàn biệt động lên cứu viện. Tiểu đoàn này đi qua chợ Vinh Huy thì lọt vào trận địa phục kích của ta. Bộ đội đồng loạt xung phong, quân địch bị bất ngờ, nhốn nháo, một đồng chí tiểu đội trưởng hô vang khẩu lệnh: “Bám lấy thắt lưng địch mà đánh”. Cán bộ, chiến sỹ ta xung phong tiêu diệt và bắt sống toàn bộ tiêu đoàn biệt động Nguỵ.

        Ngày 7 tháng 2 năm 1965, lấy cớ đánh trả đũa ta tiến công vào doanh trại quân Mỹ ở Plây Cu, Giôn-xơn ra lệnh cho không quân Mỹ mở chiến dịch “Mũi lao lửa” ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới. Tiếp đó, ngày 8 tháng 2, chúng ném bom bắn phá khu vực Chấp Lễ ở phía bắc Đồng Hới. Ngày 11 tháng 2 năm 1965, lại lấy cớ đánh trả đũa vụ ta tiến công vào khu nhà lính Mỹ ở Quy Nhơn, Mỹ tiếp tục ném bom các doanh trại Quân đội ta ở Chánh Hoà, Chấp Lễ. ngày 13 tháng 2, Giôn-xơn quyết định mở rộng các hoạt động đánh phá miền Bắc thành cuộc chiến tranh phá hoại.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #38 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:58:53 pm »


        Để chống lại cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân miền Bắc đã tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân dựa trên sức mạnh toàn diện của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt. Nhiều đơn vị phòng không được xây dựng gấp. Các loại pháo cao xạ và không quân, tên lửa phòng không hiện đại, các tổ, đội bắn máy bay tầm thấp của dân quân tự vệ triển khai rộng khắp, với quyết tâm địch đến là diệt, đánh thật mưu trí và đánh thắng ngay từ trận đầu.

        Đầu năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt’ của đế quốc Mỹ phát triển đến đỉnh cao nhất với nửa triệu quân nguỵ và hơn 23 nghìn cố vấn Mỹ, được trang bị vũ khí và phương tiện hiện đại, nhưng chiến lược chiến tranh đó đã bị quân và dân ta đánh bại.

        Để cứu chế độ Nguỵ quyền khỏi sụp đổ, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và quân chư hầu vào miền Nam Việt Nam. Ngày 8 tháng 3 năm 1965, hai tiểu đoàn thuộc Lữ 4 Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3 của Mỹ từ Ô-ki-na-oa (Nhật) đổ bộ lên Đà Nẵng. Sau đó chúng lần lượt đưa quân Mỹ và chư hầu với vũ khí, trang bị hiện đại nhất vào miền Nam Việt Nam, chuyển từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” với cuồng vọng là bằng sức mạnh siêu cường tập trung đánh bật lực lượng kháng chiến của nhân dân miền Nam lên núi và về bên kia giới tuyến 17.

        Trước tình hình đó, từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 3 năm 1965, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 11 ra nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Hội nghị nhận định, với những âm mưu và hoạt động mới của đế quốc Mỹ, tình hình một nửa nước có chiến tranh một nửa nước có hoà bình đã biến thành tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền. Trong cuộc chiến tranh cách mạng yêu nước, nhân dân cả nước chống đế quốc Mỹ, miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miến Bắc vẫn là hậu phương lớn, nhưng nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam.

        Nghị quyết xác định: “ Nhiệm vụ cơ bản của ta là tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc “chiến tranh đặc biệt” ở mức độ cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn; đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam nếu địch gây ra, tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong toả bằng không quân và hải quân của địch, chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện nay đến một trình độ ác liệt gấp bội hoặc chuyển nó thành một cuộc chiến tranh cục bộ cả ở miền Nam lẫn miền Bắc, ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam; ra sức giúp đỡ cách mạng Lào, đem toàn lực tiến công địch ở miền Nam, bảo vệ miền Bắc hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc trong cả nước”.

        Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương đảng có những quyết định rất quan trọng: Vừa quyết tâm kiềm chế và thắng địch trong cuộc chiến tranh đặc biệt vừa chuẩn bị cho đất nước bước vào một cuộc chiến tranh quy mô lớn với quân đội viễn chinh Mỹ, vạch ra nhiệm vụ cơ bản và nhiệm vụ cụ thể của cả nước và riêng từng miền, giữ vững thế chủ động cho quân và dân cả nước ta, sẵn sàng đánh và thắng địch khi chúng chuyển cuộc chiến tranh xâm lược thành chiến tranh cục bộ ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại trên miền Bắc.

        Cuối tháng 3 năm 1965, Thường vụ Khu uỷ và Bộ tư lệnh Quân khu 5 mở hội nghị cán bộ trung cao cấp trong toàn quân khu đề ra chủ trương: Tranh thủ thời cơ tiến công tiêu diệt một bộ phận quân chủ lực cơ động nguỵ, tiếp tục diệt kẹp giành dân và làm tan rã đại bộ phận quân nguỵ, dẫn chúng lún sâu hơn nữa vào thế phòng ngự bị động làm cho quân Mỹ lâm vào thế lúng túng, hạn chế khả năng bình định của Mỹ - Nguỵ. Ra sức xây dựng củng cố thế trận chiến tranh nhân dân địa phương, xây dựng “vành đai diệt Mỹ” bao quanh các căn cứ quân sự Mỹ, khẩn trương chuẩn bị tổ chức đánh những trận phủ đầu quân Mỹ. Nhanh chóng xây dựng, phát triển lực lượng ba thứ quân. Phát huy phong trào thi đua thực hiện “ba bám” (bám đât, bám dân, bám địch) quyết đánh, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược trong toàn quân khu.

        Tiếp đến, Quân khu uỷ tổ chức hội nghị “du kích chiến tranh” bàn kế hoạch xây dựng củng cố dân quân du kích, xây dựng làng xã chiến đấu và kế hoạch xây dựng “cành đại diệt Mỹ”, phát động phong trào thi đua giành danh hiệu “Thiện xạ diệt Mỹ” (Tháng 5 năm 1965 đổi tên là “Dũng sỹ diệt Mỹ”).
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #39 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:59:10 pm »


        Sau các hội nghị trên đây, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Quân khu chỉ đạo mở đợt sinh hoạt cính trị trong toàn quân khu nhằm xác định tư tưởng, xây dựng quyết tâm đánh Mỹ, phát động tinh thần yêu nước, chí căm thù giặc Mỹ xâm lược và tay sai bán nước, biến nhận thức tư tưởng thành hành động cách mạng.

        Cơ quan lãnh đạo chỉ đạo của quân khu cử nhiều cán bộ xuống các tỉnh và các huyện chung quanh các vành đai, trước hết là Đà Nẵng giúp các địa phương tổ chức lực lượng xây dựng thế trận vành đai diệt Mỹ. Khu uỷ và Đảng uỷ - Bộ tư lệnh Quân khu khẩn trương củng cố các tổ chức đảng và các tổ chức quần chúng từ khu đến cơ sở ở cả thành thị và nông thôn, đặc biệt là xây dựng các chi bộ trên các vành đai vững mạnh đủ sức lãnh đạo quân, dân vành đai tiến hành các hoạt động tác chiến và đấu tranh chống địch càn quét, bắn phá vào làng xóm, tàn phá ruộng nương. Các chi bộ vành đai, hầu hết đảng viên đều trực tiếp đánh giặc, nhiều đồng chí đã bám trụ ngay từ đầu để vận động quần chúng đánh Mỹ. Ở đây, chi bộ đảng thực sự là bộ tham mưu trực tiếp tổ chức, động viê, chỉ đạo chiến tranh nhân dân ở xã thuộc tuyến vành đai.

        Việc xây dựng thế trận vành đai liên hoàn, vững chắc, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang đánh thắng giặc Mỹ, bảo vệ được nhân dân là nhân tố trực tiếp quyế định sự tồn tại và chiến thắng của vành đai diệt Mỹ. Quân và dân Khu 5 triệt để tận dụng nhân tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” vào việc xây dựng thế trận vành đai diệt Mỹ. Các lực lượng vũ trang và nhâ dân đã đóng góp nhân tài vật lực để xây dựng làng xã, trận địa chiến đấu, hình thành từng tuyến vững chắc. Thế trận xen kẽ, có các căn cứ lõm bên trong, các tuyến chiến đấu ngăn chặn giam chân địch, phía sau có các trận địa hoả lực chi viện cho phía trước. Các căn cứ lõm, các bàn đạp trận địa làng xã chiến đấu đều liên hoàn với nhau bằng mạng lưới đường dây liên lạc từ trong ra ngoài và ngược lại, cả hợp pháp, bất hợp pháp. Hệ thống công sự và địa đạo được xây dựng thành nhiều tuyến nối liền từ thôn này sang thôn khác, xã này sang xã khác, có nơi nối từ huyện này sang huyện khác. Xã chiến đấu Điện Hoà (điện Bàn, Quảng Nam) đã xây dựng được 29 ki-lô-mét rào, 33 ki-lô-mét giao thông hào, 5.200 hầm trú ẩn, trên 2.000 hầm bí mật, hầm cất giấu tài sản, trâu bò, 3.000 cọc chống xe M113, hàng nghìn hầm chông, hố chông, cạm bẫy và 16 ki-lô-met địa đạo... Hệ thống địa đạo trên vành đai diệt Mỹ phía nam Chu Lai của các huyện Bình Sơn và Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) dài 70 ki-lô-mét. Hệ thống công sự hầm bí mật ở vùng ven Đà Nẵng phát triển nhiều và bảo đảm an toàn có thể giấu từ một đại đội đến một tiểu đoàn. Thế trận vành đai như vậy đã hạn chế được ưu thế về vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh hiện đại của quân Mỹ. Quân Mỹ và chư hầu bị vây hãm trong thế trận vành đai - thế trận chiến tranh nhân dân. Hầu hết các cuộc càn nống lấn, thăm dò, các cuộc tiến công để nới rộng phạm vi an toàn của địch đều bị các lực lượng vũ trang trên vành đai đánh bại.

        Mặc dù được chuẩn bị tinh thần, tư tưởng, tổ chức quyết tâm đánh Mỹ sớm, nhưng quân và dân Khu 5 chưa hình dung được cách đánh cụ thể. Khi bàn cách tổ chức đánh phủ đầu quân chiến đấu Mỹ, Khu uỷ - Bộ tư lệnh Quân khu xác định dân quân và du kích là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tại chỗ của phong trào toàn dân đánh giặc trên vành đai, nên lúc đầu đặt tên là”vành đai du kích diệt Mỹ”, lực lượng gồm du kích xã vành đai, bộ đội huyện, bộ đội tỉnh và các đại đội đặc công, pháo cối của quân khu tăng cường. Nhưng chúng tôi cho rằng như thế là hẹp nên đổi thành “vành đai diệt Mỹ”. Bộ đội địa phương tác chiến trên vành đai có quy mô tổ chức biên chế gọn nhẹ, cơ động nhanh, thực hiện phương châm lấy ít đánh nhiều, lấy nhỏ đánh lớn phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của vành đai diệt Mỹ. Bộ đội địa phương và dân quân du kích xây dựng nhiều đơn vị mũi nhọn sẵn sàng cơ động tác chiến trên vành đai và chiến đấu trên khắp địa bàn, khiến quân Mỹ - Nguỵ đi đến đâu cũng sa vào mạng lưới thiên la địa võng của du kích. Những tiên lính Mỹ và chư hầu được huấn luyện cho một cuộc chiến tranh quy ước, hoàn toàn bị bất ngờ, bị động trước cuộc chiến tranh du kích. Riêng du kích trên vành đai diệt Mỹ ở Chu Lai trong hai tháng ( tháng 5 và tháng 6 năm 1965) đã diệt và làm bị thương 685 tên lính thuỷ đánh bộ Mỹ.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM