Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 12:43:31 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tướng lĩnh QĐND Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh  (Đọc 46021 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #100 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2016, 09:52:05 pm »


        Tôi rất tự hào về đội ngũ cán bộ quân đoàn. Mỗi khi quyết tâm chung được xác định, hoặc một mệnh lệnh của tư lệnh phát ra là guồng máy cơ quan đồng cấp, trên dưới ăn ý nhau chuyển động nhịp nhàng.

        Khi có lệnh chuyển hướng tiến công về phía Đà Nẵng là ba cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của quân đoàn hướng ngay công việc vào  phục vụ cho các cánh quân. Mấy hôm trước hậu cần còn vận chuyển gạo, đạn... về phía bắc để giải phóng Huế, thì hôm nay chuyển vào phía nam. Chủ nhiệm hậu cần Nguyễn Ngọc Thực đã điều hành rất tốt cơ quan dưới quyền mình. Khi lực lượng hậu cần từ hậu phương vị tắc nghẽn ở đường 14, đường 10 và 74... hậu cần linh hoạt tập trung vào khai thác triệt để chiến lợi phẩm để kịp thời phục vụ cho nhiệm vụ mới.

        Lữ đoàn công binh 219 khẩn trương sửa đường, bắc lại cầu Truồi để lực lượng cơ giới cơ động.

        Trung đoàn thông tin 463 nhanh chóng xây dựng mạng thông tin vô tuyến kịp thời cho tổ chức thông tin chỉ huy...

        Ở hướng đường số 1, Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325) dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Hồng Lẫm và Quân đoàn phó Hoàng Đan hết sức chủ động linh hoạt. Ngày 3 tiêu diệt Chi khu Phú Lộc xong lập tức phát triển, ngày 24 tháng 3 đã chiếm căn cứ Lữ đoàn 258 lính thuỷ ở đèo Tượng, và ngày 26 trung đoàn tiếp tục diệt cứ điểm Thổ Sơn...

        Thấy nguy cơ Đà Nẵng bị uy hiếp, Bộ chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy vội vã lệnh cho Lữ đoàn 258 lính thuỷ đánh bộ và Liên đoàn 914 bảo an phá cầu Thừa Lưu, rút về đèo Phú Gia, Lăng Cô, Hải Vân xây dựng trận địa lâm thời phòng ngự.

        Ngày 27 tháng 3 Trung đoàn 18 tiến đánh đèo Phú Gia.

        Trung đoàn pháo binh 84 vừa mới xuống núi đã linh hoạt sử dụng ngay pháo của địch ở Phú Lộc, Phước Tượng chi viện cho Trung đoàn 18. Đến lúc này mọi người mới thấy tác dụng của việc huấn luyện cho bộ đội biết sử dụng xe pháo và vũ khí của địch là cực kỳ quan trọng.

        Địch ở Phú Gia chống cự quyết liệt. Máy bay, pháo binh của chúng bắn phá dữ dội để chi viện cho bọn lính thuỷ đánh bộ bảo vệ vòng ngoài của Đà Nẵng, nhưng cuối cùng chúng vẫn phải rút chạy. Thừa thắng quân ta tiến lên giải phóng luôn Sơn Hải, An Hải và Loan Lý. Chiều ngày 28, bộ phận đi đầu của trung đoàn đã tới chân đèo Hải Vân.

        Trận đánh ở khu vực Lăng Cô, chân đèo Hải Vân diễn ra căng thẳng giằng co (nhất là khu vực cầu Lăng Cô) gần hết một ngày, mãi tới 20 giờ ta mới hoàn toàn làm chủ. Và cũng từ giờ phút đó cửa vào Đà Nẵng đã mở xong.

        Trên hướng đường 14, khoảng cách từ điểm xuất phát tới vị trí tập kết khoảng 70 cây số, vừa đi vừa phải gỡ mìn, vừa phải xua bọn địch ở ven đường, nên mãi tới tối 28 Trung đoàn 9 và các đơn vị phối thuộc mới tới khu tập kết. Các đơn vị đang chuẩn bị đánh Đá Đen, chưa kịp đánh địch đã rút chạy.

        Cùng ngày 28 có nhiều sự kiện quan trọng. Theo chỉ thị của Bộ, tôi hạ lệnh cho

        Lữ đoàn pháo 164 cho trận địa pháo tầm xa đặt ở Mũi Trâu, cùng các trận địa pháo của toàn mặt trận bắn vào Quân cảng, Sở chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy và sân bay Đà Nẵng.

        Sau vài giờ pháo binh của ta phát hoả, tôi nhận được nhiều tin. Tình hình thành phố Đà Nẵng trở nên rối loạn. Từng toán binh lính ngụy xông vào nhà dân cướp bóc, hãm hiếp. Sân bay bị tê liệt. Từng đoàn xe, đoàn người chầu trực chuẩn bị di tản, lại rồng rắn trở về thành phố. Khu trung tâm thông tin ở Đà Nẵng bị phá huỷ; liên lạc Đà Nẵng – Sài Gòn bị cắt đứt. Trên các làn sóng vô tuyến luôn chen chúc tiếng kêu cứu, tiếng chửi rủa của bọn lính ngụy...

        7 giờ sáng 25 tháng 3 Quảng Ngãi đã hoàn toàn giải phóng. Chúng tôi thấy thời cơ tổng công kích vào Đà Nẵng đã tới, tôi hạ lệnh cho các đơn vị ở các hướng khẩn cấp tiến lên. Đơn vị nào có điều kiện tiến nhanh hơn thì vào sớm không phải chờ đợi.

        Ở hướng đường số 1, ngay trong đêm 28 anh Hoàng Đan đã điều động Đại đội xe tăng PT85 tăng cường cho Sư đoàn 325. Trung đoàn 84 pháo binh vừa hành quân tới đã nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa pháo 105 và 155 ly của địch ở Lăng Cô và Phú Gia; chuẩn bị ngay phần tử bắn sẵn sàng chi viện cho bộ binh chiếm đèo Hải Vân.

        5 giờ ngày 29, Phó tư lệnh Quân đoàn Hoàng Đan phát lệnh tiến công. Đạn pháo của Trung đoàn 84 đồng loạt nổ liên hồi trong khu vực phòng ngự của Lữ đoàn 258 lính thuỷ đánh bộ. Sư đoàn 325 cùng các đơn vị binh chủng phối thuộc ào ào chuyển động theo đường số 1. Pháo binh vừa chuyển làn, bộ binh, xe tăng của sư đoàn đã có mặt ngay trước trận địa địch. Địch bị bất ngờ, hoảng hốt chạy tan tác vào rừng. Khi ta tới đỉnh đèo, từng toán địch lẻ tẻ ra ngăn chặn. Được pháo binh và xe tăng yểm trợ đắc lực, các đơn vị đi đầu của sư đoàn vẫn giữ nguyên cách đánh trong hành tiến. Đại đội 6 dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Nguyễn Tiến Lai, liên tiếp tiêu diệt các toán địch chốt chặn, mở đường cho sư đoàn tiến quân. Tới 8 giờ, khi quân ta xuống gần chân đèo phía nam, gặp một cánh quân địch hành quân bằng cơ giới có xe tăng đi cùng. Một trận đụng độ quyết liệt diễn ra trong vài chục phút, cánh quân địch hoàn toàn bị tiêu diệt và tan rã.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #101 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2016, 09:56:09 pm »


        9 giờ 30 phút, Sư đoàn 325 cùng các đơn vị binh chủng phối thuộc vào tới cầu Nam Ô. Đồng bào ào ra chào đón, đứng chật hai bên đường.

        10 giờ 30 Sư đoàn 325 đã vào trung tâm thành phố chiếm cảng Đà Nẵng và tiến đánh bán đảo Sơn Trà, cắt đứt hoàn toàn đường rút chạy của địch.

        Trên hướng đường số 14, tối 28 tháng 3 nhận lệnh cấp tốc hành quân tiến công vào Sở chỉ huy Sư đoàn 3 của địch ở Phước Tượng. Đến 2 giờ 30 phút ngày 29 tháng 3 Trung đoàn 9 cùng các đơn vị phối thuộc đã đánh chiếm Phước Tượng, Hoà Khánh, Sở chỉ huy Sư đoàn 3. Tiếp sau đó tiến xuống phối thuộc Trung đoàn 1 (Sư đoàn 325) đánh chiếm Đà Nẵng. Tôi đi theo Tiểu đoàn xe tăng ra chiếm bán đảo Sơn Trà. Tới đây tôi gặp Quân đoàn phó Hoàng Đan, anh đang tổ chức cho pháo bắn theo tàu chiến của địch. Có tin Trung tướng ngụy Ngô Quang Trưởng đã không chờ “Việt cộng bước qua xác” mà đang ở trong một con tàu nào đó chạy ra khơi.

        Trên hướng tây nam, Sư đoàn 304 (trừ Trung đoàn 9) đã đánh tan lực lượng địch ngăn chặn ở Ái Nghĩa và truy theo bọn tàn quân của Lữ đoàn 369 lính thuỷ đánh bộ suốt dọc đường dài hơn 30 ki-lô-mét, rồi cúng các lực lượng của Quân khu 5 đánh chiếm sân bay, khu hành chính thành phố và nhiều mục tiêu quan trọng khác.

        Trải qua 26 ngày đêm, Quân đoàn 2 phối hợp chặt chẽ cùng với Quân khu Trị - Thiên và Quân khu 5 chiến đấu liên tục, đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ Quân đoàn 1, Quân khu 1 và Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ của địch, thu toàn bộ cơ sở vật chất và phương tiện chiến tranh của chúng, giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế và Quảng Nam – Đà Nẵng.

        Trải qua chiến dịch này, chúng tôi rút ra được nhiều bài học quý giá, Quân đoàn đã hiểu đúng tình hình địch, ta và nhiệm vụ được trên giao, qua đó chọn đúng hướng tiến công chủ yếu, chọn đúng đối tượng và mục tiêu chủ yếu. Khi thời cơ xuất hiện đã kịp thời nắm bắt tận dụng thời cơ; kiên quyết liên tục, nâng cao tốc độ tiến công tạo thêm thời cơ mới. Chủ động linh hoạt sử dụng cách đánh thích hợp, từ cách đánh tiến công có chuẩn bị chuyển sang tiến công trong hành tiến đã làm cho quân địch không kịp trở tay...

        Ngay sau khi quân ta quét sạch sự chống đối của địch ở Đà Nẵng, Quân đoàn 2 nhanh chóng bố trí lại đội hình, củng cố tổ chức, thu hồi triệt để chiến lợi phẩm, chuẩn bị nhân nhiệm vụ mới.

        Sư đoàn 324 đứng chân ở Huế. Sư đoàn 325, 304 cùng với Sư đoàn 2 (Quân khu 5) đứng ở Đà Nẵng.

        Chúng tôi chủ trương thay một số xe pháo. Lấy pháo 105, 155 ly của địch thay cho pháo 122 ly và Đ74 của ta, bởi các loại đạn pháo đó ta thu được rất nhiều; lấy GMC thay xe xích ATS của ta, vì GMC bánh lốp có tốc độ cơ động nhanh hơn. Các sư đoàn thu toàn bộ xe tải của địch và xếp lên xe lương thực, đồ hộp, đạn dược... chuẩn bị cơ sở vật chất sẵn sàng cho một tháng chiến đấu liên tục.

        Ngày 4 tháng 4 cả Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 tập trung ở Phước Tượng Sở chỉ huy Sư đoàn 3 ngụy. Các anh Lê Trọng Tấn và Lê Quang Hoà cũng vừa mới tới đây. Chúng tôi nhận được thông báo cuộc họp Bộ Chính trị (31/3 – 1/4/1975) đã hạ quyết tâm: “... nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo bất ngờ, chắc thắng thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4 năm 1975, không thể để chậm”.

        Mệnh lệnh của Bộ ngày 1 tháng 4 năm 1975: Quân đoàn 2 chuẩn bị cho Sư đoàn 325 và Lữ đoàn 203 thiết giáp, một trung đoàn phòng không sẵn sàng cơ động vào Nam Bộ tăng cường cho Quân đoàn 1, làm cho cán bộ chiến sỹ trong quân đoàn xôn xao kém phấn khởi. Ngay trong Bộ tư lệnh chúng tôi cũng có nhiều thắc mắc. Địch củng cố tuyến phòng thủ mạnh từ Phan Rang, Phan Thiết trở vào, Quân đoàn 4 đang gặp khó khăn chưa dứt điểm được Xuân Lộc, Quân đoàn 2 có khả năng cơ động cao, tại sao không đưa toàn bộ Quân đoàn 2 tiến theo đường 1 đánh phá sự phòng thủ của địch ở miền duyên hải “chia lửa” cho Quân đoàn 4 và nếu phá vỡ sự phòng thủ của địch ở phía duyên hải, địch sẽ cơ bản mất khả năng “tử thủ” Sài Gòn”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #102 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2016, 09:58:54 pm »


        Tối hôm ấy tôi và các anh Lê Linh, Công Trang, Hoàng Đan, Lê Khả Phiêu, Bùi Công Ái trao đổi với nhau về vấn đề đó, rồi kéo nhau đến gặp anh Lê Trọng Tấn.

        Anh Tấn đang ngồi trầm tư, tay điếu thuốc cháy dở, mắt đăm đăm nhìn ra cửa. Thấy chúng tôi lục tục kéo đến, anh mỉm cười:

        - Có chuyện gì thế... mời ngồi.

        Tôi thay mặt anh em trong Bộ tư lệnh Quân đoàn phát biểu:

        - Về việc trên điều động Sư đoàn 325, Lữ đoàn 203 xe tăng, trung đoàn phòng không của quân đoàn tôi cho Quân đoàn 1. Nếu chúng tôi đề đạt phương án khác sợ làm đảo lộn ý định của cấp trên. Tôi nghĩ chiến tranh khó tránh khỏi có sự đảo lộn...

        - Cứ mạnh dạn trình bày đi.

        Được anh Tấn khuyến khích, tôi nói một mạch những suy nghĩ chúng tôi đã chuẩn bị và nhấn mạnh vào sức cơ động của quân đoàn, có cơ giới, có tàu thuỷ, đường giao thông thuận lợi, có khả năng chiến đấu trong hành tiến.

        Anh Tấn tươi cười đáp:

        - Ý kiến của các cậu rất đúng. Mình cũng nghĩ thế. Được, tớ sẽ ra Hà Nội báo cáo với anh Văn. Nếu anh Văn đồng ý mình sẽ điện ngay.

        Một mặt chờ điện của anh Tấn, một mặt chúng tôi vẫn tích cực xúc tiến việc chấp hành lệnh tách một số đơn vị tăng cường cho Quân đoàn 1 và tính toán công việc khi ở lại.

        Chiều ngày 5 tháng 4 tôi nhận được một bức điện ngắn:

        “Quân uỷ Trung ương đồng ý.

        Ký tên

        Tấn”

        Bức điện nhanh chóng trở thành luồng gió ấm truyền khắp cơ thể của quân đoàn. Toàn quân đoàn phấn khởi sôi nổi chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng, trận đánh hoàn toàn giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Bộ tham mưu quân đoàn quên ăn quên ngủ nghiên cứu tình hình ta, tình hình địch, địa hình, đường sá, kế hoạch hành quân, phương án tác chiến... Cục Chính trị lo động viên bộ đội, chuẩn bị nội dung hướng dẫn công tác chính trị trong hành quân chiến đấu đường dài, công tác chính trị trong vùng mới giải phóng... Cục Hậu cần lo việc bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật cho quá trình chiến đấu dài ngày.

        Tuy chúng tôi đã ý thức được việc di chuyển đội hình lớn đi xa sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nhưng vẫn chưa lường hết khó khăn cụ thể như thế nào. Tới khi chính thức chuẩn bị lên đường vẫn còn gần nửa số xe, pháo của Sư đoàn phóng không 673 và Tiểu đoàn 2 Lữ đoàn xe tăng 203 bị tắc nghẽn trên các đường số 14, 73, 74. Phần lớn lực lượng của Trung đoàn cao xạ 245 và Tiểu đoàn 3 Lữ đoàn pháo binh 164 còn nằm ở Khe Sanh, Quảng Trị. Các đơn vị pháo vào chi viện cho Sư đoàn 304 chiến đấu ở Thượng Đức, phải hành quân ngược ra phía bắc, để đi theo đường 72 ra Huế. Phải tốn khá nhiều công sức và thời gian mới chuyển được những đơn vị ấy ra tới đường số 1.

        Khi xốc lại số phương tiện vận chuyển, kể cả số xe ô tô của Sư đoàn 511 vừa được tăng cường mới chỉ đủ chở được hơn hai phần ba quân số. Trên đường quân đoàn phải qua 569 cầu, trong đó có 14 cầu bắc qua sông lớn; ta mới biết địch đánh sập các cầu Câu Lâu, Kế Xuyên, Bà Bầu, An Tân, nhưng lực lượng công binh cầu phà của quân đoàn quá nhỏ nhoi, chỉ đủ ghép bốn phà 50 tấn...

        Những khó khăn bề bộn tưởng chừng khó lòng khắc phục nổi đã được toàn quân từ tư lệnh tới người lính cùng ghé vai góp sức tích cực, và được cấp trên quan tâm, được nhân dân giúp đỡ nên đã lần lượt vượt qua.

        Chỉ trong vài ngày Lữ đoàn 203 đã thu hồi của địch bổ sung vào biên chế của mình hàng chục xe M113 và M48. Bộ đội pháo binh thu nhiều xe, pháo, đạn đồng bộ của địch để thay thế trang bị của mình. Tỷ lệ số pháo lên tới hơn một phần ba số pháo biên chế của đơn vị. Trung đoàn 68 pháo binh (Sư đoàn 304), Trung đoàn 48 pháo binh (Sư đoàn 325) đã tổ chức thêm bốn đại đội pháo 105 ly. Lữ đoàn 164 pháo binh tổ chức thêm một tiểu đoàn pháo 155 ly. Các đơn vị còn thu và sử dụng hệ thống thông tin gắn trên xe địch, có công suất lớn rất thuận tiện cho tổ chức chỉ huy.

        Các đơn vị bộ binh cũng chuyển đổi sử dụng nhiều loại vũ khí, kỹ thuật của địch. Hầu hết các đại đội, tiểu đoàn dùng máy vô tuyến PRC25 của Mỹ. Riêng Sư đoàn 325 mỗi tiểu đội được trang bị thêm một hai khẩu phóng lựu M79.

        Thời gian này Cục Hậu cần làm được nhiều việc có ý nghĩa lớn lao trong việc bảo đảm cơ sở vật chất của quân đoàn. Căn cứ vào bản đồ kho tàng của địch để lại, Cục Hậu cần đã tổ chức thu hàng nghìn tấn lương thực, đạn dược, xăng dầu, quân trang quân dụng, kết hợp gấp rút điều động hàng của ta từ Quảng Trị vào bảo đảm cho quân đoàn đủ dùng một tháng; vận động dân cho mượn xe. Cho tới trước ngày xuất quân, dân đã cho mượn hơn 100 ô tô vận tải cùng người lái. Các anh em lái và thợ sửa chữa tích cực thu hồi xe địch, tìm kiếm phụ tùng thay thế và tranh thủ sửa chữa để tăng thêm đầu xe, số xe thu của địch sử dụng được lên tới 487 chiếc. Quân đoàn đã mạnh dạn sử dụng số lính ngụy biết lái xe tăng, xe bọc thép, ô tô và thợ sửa chữa phục vụ cho cuộc hành quân.

        Cục Hậu cần được sự giúp đỡ của Quân khu 5 phái một tổ đi trước tới thị xã Quy Nhơn, Tuy Hoà, Nha Trang và Cam Ranh tìm nguồn xăng, xét nghiệm xăng dầu và thu hồi.

        Tại Đà Nẵng, mỗi xe đã được cấp phát hai cơ số xăng mang theo xe. đối với xe tăng, có 14 xe chở dầu đi theo, bảo đảm đủ cơ số thứ hai. Mỗi đoàn xe còn bố trí một số xe téc đi theo.

        Về phương tiện vận chuyển, trên Bộ đã tăng cường cho quân đoàn và Sư đoàn 571 ô tô vận tải, Trung đoàn 83 công binh cầu phà, và tàu biển của hải quân chở Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) từ Đà Nẵng vào Quy Nhơn.

        Sau khi kiểm tra công tác chuẩn bị của toàn quân đoàn, tôi thở một hơi dài nhẹ nhõm: thế là cơ sở vật chất đã tạm đủ để tiến về Sài Gòn”...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #103 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:48:51 pm »


5. THƯỢNG TƯỚNG HOÀNG CẦM (ĐỖ VĂN CẨM)




        Thượng tướng Hoàng Cầm, sinh năm 1920, quê ở xã Sơn Công huyện Ứng Hoà tỉnh Hà Tây. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đồng chí gia nhập quân đội. Tham gia kháng chiến chống Pháp, đồng chí Hoàng Cầm trưởng thành từ chiến sỹ đến trung đoàn trưởng.

        Từ tháng 9 năm 1953 đến năm 1963, đồng chí làm Tham mưu trưởng , Sư đoàn phó rồi Sư đoàn trưởng Sư đoàn 312.

        Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí được cử vào chiến trường miền Nam công tác. Gắn bó với chiến trường miền Đông “gian lao mà anh dũng”.

        Từ năm 1964 đến năm 1970, đồng chí Hoàng Cầm được giao đảm nhiệm các chức vụ: Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9, Tham mưu phó Quân Giải phóng miền Nam, làm Phó tư lệnh và Tư lệnh một số chiến dịch ở miền Đông Nam Bộ.

        Năm 1970 – 1974 đồng chí làm Tham mưu trưởng Quân Quân Giải phóng miền Nam kiêm Tư lệnh Đoàn 301.

        Năm 1975 là Tư lệnh Quân đoàn 4 nằm trong cánh quân phía Đông tiến vào trung tâm sào huyệt địch ở Sài Gòn, giành toàn thắng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

        Năm 1981, đồng chí Hoàng Cầm là Phó tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Cam-pu- chia.

        Từ tháng 4-1982 đến 1986 là Tư lệnh Quân khu 4; được phong hàm Thượng tướng năm 1984. Năm 1987-1992 là Tổng Thanh tra Quân đội nhân dân Việt Nam.

        Đồng chí Hoàng Cầm là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khoá IV đến khoá VI. Đại biểu Quốc hội khoá VII. Đồng chí được Đảng, Nhà nước trao tặng những phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất, hạng ba, Huân chương Chiến công hạng nhì.

        Những năm đầu ở miền Đông Nam Vộ, đồng chí Hoàng Cầm đã cùng quân dân trên chiến trường này đánh bại các chiến dịch “mùa khô” của đối tượng tác chiến mới trong lúc chúng đang ở thế ra quân “tiêu diệt”. Đây là những lực lượng được đánh giá là tinh nhuệ nhất của các Sư đoàn bộ binh Mỹ. Song quân và dân ta đã xác định quyết tâm, tập trung lực lượng đánh những trận then chốt, những trậ tập kích táo bạo tạo được thế chủ động ngay từ đầu, giành thắng lợi nhanh gọn, giòn giã.

        Đặc biệt, trên chiến trường này, ta đã đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty là cuộc hành quân lớn nhất của quân chiến đấu Mỹ nhằm “tiêu diệt” cơ quan đầu não kháng chiến và Sư đoàn 9 bộ đội chủ lực Miền, trong điều kiện địch có lực lượng gấp ba lần ta, có hoả lực pháo binh hơn hẳn, lại có thiết giáp và không quân yểm trợ. Để phản công đánh trả cuộc hành quân quy mô lớn này, ta đã khéo vận dụng nghệ thuật chiến tranh nhân dân rộng khắp để phân tán căng kéo địch, đồng thời sử dụng chủ lực tác chiến ở vòng ngoài tạo những quả đấm mạnh, tập trung bên sườn và phía sau lưng địch, tiêu diệt và làm thiệt hại nặng cho quân chiến đấu Mỹ. Chiến thắng này là nét đặc sắc về nghệ thuật tổ chức và sử dụng lực lượng chiến dịch phản công của ta, là dấu ấn sâu sắc đối với đồng chí Hoàng Cầm trên chiến trường miền Đông Nam Bộ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #104 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:49:59 pm »


TẦM NHÌN QUA CÁC MÙA KHÔ

        “...Đầu tháng 12 năm 1965 khi chiến dịch Bàu Bàng - Dầu Tiếng kết thúc, Bộ chỉ huy Miền giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 9: Phát huy chiến thắng đợt một, cần gấp rút chuẩn bị củng cố đơn vị theo hướng đánh lớn, buộc địch co lại giảm bớt sục sạo vùng sâu của ta.

        Thay mặt Bộ tư lệnh Sư đoàn, tôi đề nghị Miền xin được chuyển địa bàn để có điều kiện đánh địch góp phần giữ vững vùng sâu, bảo vệ thế trận có lợi cho ta.

        - Ở đâu?- Bộ chỉ huy Miền hỏi.

        - Đông đường 13 – Tôi trả lời.

        - Đồng ý - Bộ chỉ huy Miền chuẩn y và nhấn mạnh - Trước mắt sư đoàn về đứng chân ở khu vực suối Nhung để tranh thủ củng cố đơn vị, sẵn sàng đánh địch trên đường 13, 16 nếu địch nống ra khu vực này.

        Trong khoảnh khắc yên tĩnh ngắn ngủi, gần như chưa có trận đụng độ nào giữa các đơn vị chủ lực Miền với quân viễn chinh Mỹ, nhưng bầu trời và mặt đất Đông Nam Bộ đặc quánh những âm thanh nặng nề của chiến tranh. Thường xuyên chúng tôi được cơ quan tham mưu Miền thông báo máy bay B52, cường kích, pháo bầy đánh phá liên tục, ác liệt các căn cứ Dương Văn Minh, Bời Lời, Long Nguyên, Củ Chi, Chiến khu Đ, Xuyên Môc, Hát Dịch... và những nơi chúng nghi có chủ lực ta trú quân. Tình hình đang thực sự trở nên khẩn trương. Đối mặt với Sư đoàn 5, Sư đoàn 9 chúng tôi là các đơn vị sừng sỏ của Mỹ vừa đặt chân đến chiến trường miền Đông  đang hối hả chuẩn bị cho cuộc hành quân lớn. Cuộc “chiến tranh cục bộ” trên quy mô lớn đã và đang trở thành hiện thực (Sư đoàn bộ binh số 1 mang tên “Anh cả đỏ” thành lập năm 1917, quân số 17.530 tên, biên chế ba lữ đoàn, năm tiểu đoàn pháo binh 105 và 155 ly, một tiểu đoàn và hai đại đội không quân (cơ động đường không) đến Biên Hoà ngày 2 tháng 10 năm 1965. Sư đoàn bộ binh cơ giới số 25 mang “Tia chớp nhiệt đới” thành lập năm 1941, tham gia chiến tranh thế giới lần hai ở chiến trường Châu Á – Thái Bình Dương và chiến tranh Triều Tiên. Đây là sư đoàn được biên chế mạnh, gồm 12 tiểu đoàn bộ binh cơ giới, ba tiểu đoàn thiết giáp, sáu tiểu đoàn pháo 105 và 155 ly, một tiểu đoàn không quân và nhiều đơn vị bảo đảm khác. Quân số 17.666 người. Lữ đoàn 173 không vận (cơ động bằng máy bay lên thẳng) biên chế 4 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo 105 ly, Quân số 4.313 người, đến Biên Hoà ngày 5 tháng 5 năm 1965).

        Ba ngày sau, khi sư đoàn đã tạo dựng được cơ ngơi ăn ở ổn định, bắt tay vào việc chấn chỉnh tổ chức, củng cố đơn vị, tôi được điện của Bộ chỉ huy Miền gọi về báo cáo kết quả chiến dịch Bàu Bàng - Dầu Tiếng và nhận nhiệm vụ mới.

        Cuộc họp có mặt đầy đủ các anh trong Bộ chỉ huy Miền, diễn ra trong không khí phấn khởi vì chiến dịch Bàu Bàng - Dầu Tiếng kết thúc thắng lợi.

        Theo gợi ý các anh trong Bộ chỉ huy Miền, tôi báo cáo ngắn gọn, tổng hợp diễn biến, kết quả và chủ yếu là rút ra những bài học về chỉ đạo chiến dịch, chỉ huy chiến đấu...

        Nghe xong, các anh trong Bộ chỉ huy Miền đều nhất trí với đánh giá thắng lợi của sư đoàn và chỉ thị sư đoàn cần tổng hợp gấp nhưng đầy đủ những kinh nghiệm đánh Mỹ trong chiến dịch này, phối hợp với tác huấn Miền biên soạn thành tài liệu bài bản hoàn chỉnh để phổ biến nhanh xuống các lực lượng vũ trang ba thứ quân trước khi bước vào đợt hoạt động mới.

        Tiếp theo anh Trà thay mặt Bộ chỉ huy Miền phổ biến nhiệm vụ.

        Trên cơ sở quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 11, 12, Nghị quyết Bộ Chính trị, Nghị quyết Quân uỷ Trung ương và kế hoạch  tác chiến của Bộ Tổng tham mưu, được Trung ương Cục, Quân uỷ Miền phê chuẩn, Bộ chỉ huy Miền thông qua kế hoạch hoạt động quân sự đợt II cho toàn chiến trường B2, trọng tâm là chiến trường Đông Nam Bộ, nhàm phát huy thế chủ động, tiếp tục tấn công các cuộc phản công của quân Mỹ trong âm mưu “bẻ gãy xương sống Việt Cộng” của tướng Oét-mo-len trong mùa khô này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #105 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:50:32 pm »


        Để thực hiện yêu cầu trên, Bộ chỉ huy Miền quyết định:

        - Ở hướng bắc, tây bắc sẽ do các đơn vị chủ lực tại chỗ, bộ đội địa phương và dân quân du kích đảm nhiệm, đặc biệt chú ý các trọng điểm Củ Chi, Hố Bò, Bến Cát...

        Ở hướng bắc, đông bắc sẽ do Sư đoàn 9 đảm nhiệm gồm các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Bình Dương, Chiến khu Đ; Sư đoàn 5 làm nhiệm vụ đánh địch từ đông bắc đến đông nam Sài Gòn gồm các tỉnh Long Khánh, Biên Hoà, Bà Rịa. Dồn chủ lực về hướng này vì ở đây có khả năng đánh lớn khi quân Mỹ mở các cuộc hành quân “tìm diệt” chủ lực ta, đánh phá các căn cứ trong đó có các mục tiêu chủ yếu là Chiến khu Đ và mở rộng vùng kiểm soát trên hai trục đường 13 và 15, uy hiếp hành lang Phước Long – nơi đoạn cuối của đường mòn Hồ Chí Minh đã được nối thông, đang phát huy tác dụng; ở đó chúng ta đã tiếp nhận hàng vạn cán bộ, chiến sỹ, hàng nghìn tấn vũ khí đạn dược từ miền Bắc chi viện cho chiến trường Đông Nam Bộ. Với đặc điểm rừng núi ở hướng này hiểm trở, liên hoàn có chiều sâu, một thế tự nhiên thuận tiện để thực hiện buộc địch phải theo cách đánh của ta.

        - Ở hướng Trung và Tây Nam Bộ, theo kế hoạch của Bô chỉ huy Miền, các trung đoàn chủ lực Quân khu 8 và 9 dồn về đứng chân ở U Minh, Đồng Tháp vừa làm nhiệm vụ giữ căn cứ giải phóng, phối hợp với cá lực lượng vũ trang địa phương đánh phá bình định ở đồng bằng, vừa thọc sâu tiến công địch trên đường số 4, buộc địch phải phân tán lực lượng, tạo điều kiện cho Đông Nam Bộ là chiến trường chính chiến đấu có hiệu quả các cuộc phản công mùa khô của địch. Quanh các căn cứ của Mỹ như Bắc Hà (Củ Chi), Lái Thiêu, Bến Cát, chúng ta đang có kế hoạch củng cố các tổ đội du kích bám căn cứ, đánh tiêu hao, quấy rối địch và từng bước hình thành nên những vành đai diệt Mỹ.

        Với cách bố trí trên đây, chúng ta hình thành thế trận đánh địch tại chỗ, đánh chính diện bên sườn và cả sau lưng địch, buộc Mỹ phải bị động, phân tán, không phát huy được thế mạnh quân đông, vũ khí nhiều và hiện đại.

        Với vẻ lạc quan, tự tin, giọng nói sôi nổi quen thuộc mà tôi bắt gặp lần đầu ở chiến dịch Biên giới (Thu Đông 1950), anh Thanh thay mặt Quân uỷ Miền nói tiếp: Mặc dầu vừa bị thua đau ở Đất Cuốc, Bàu Bàng, Căm Se nhưng Mỹ đang còn rất sung sức, chúng đang còn rất chủ quan ngạo mạn về sức mạnh trang bị vũ khí kỹ thuật hiện đại, nhất là mục tiêu “tìm diệt” Sư 9 chưa thực hiện được nên quân Mỹ còn hung hăng. Các trận phản công sắp tới của chúng chắc chắn có quy mô lớn cả về không gian và thời gian, với nhiều thủ đoạn chiến thuật, biện pháp kỹ thuật hiểm hóc, tinh vi. Vì vây, chúng ta phải có tinh thần chiến đấu cao, dũng cảm phi thường, phải có chí khí anh hùng và quyết tâm dời non lấp biển, đạp bằng bất cứ trở lực nào, hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào, đánh bại bất cứ kẻ thù nào (Nghị quyết Trung ương 12).

        Cuối cùng anh chỉ thị: Để thực hiện tốt đợt hoạt động này, ngoài quyết tâm cao, Sư đoàn 9 cần gấp rút xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể, nhưng không nên tham, mà phải tuỳ theo sức mình, “bảo đảm sao cho tiến công địch mạnh và tự vệ mình tốt” (thư Bộ Chính trị). Anh vừa nghiêm túc giao nhiệm vụ vừa thân mật động viên Sư 9 kiên trì ở hướng đó, vừa khẩn trương triển khai lực lượng sẵn sàng đánh địch, vừa chuẩn bị cho đơn vị ăn Tết ở đấy.

        Cuộc họp tuy nhiều nội dung nhưng chỉ làm gọn trong vòng hai giờ.

        Tôi trở lại sư đoàn ngay sau đó, vào lúc mặt trời lặn, chỉ còn hắt lên chân trời phía tây một ráng đỏ đậm rồi tắt nhanh, báo hiệu ngày mai nắng càng gắt, như đổ lửa xuống mảnh đất nơi chúng tôi đang trú quân dã ngoại.

        Các anh trong Bộ tư lệnh Sư đoàn phấp phỏng chờ tin. Vì vậy, khi tôi về đến nơi là cuộc họp được bắt đầu. Tôi báo cáo toàn bộ kế hoạch của Bô chỉ huy Miền về đợt hoạt động quân sự mới, trong đó có nhiệm vụ cụ thể của Sư; nói cả tinh thần thư của Bộ Chính trị đề ngày 6 tháng 4 năm 1965 gửi Trung ương Cục và Khu uỷ 5 mà tôi được phổ biến trong cuộc họp: Khi Mỹ thêm nhiều lực lượng và phương tiện vận chuyển cơ động, chắc chắn chúng sẽ mở nhiều cuộc tiến công vào chiến trường rừng núi, với quân Mỹ là chính, có kèm theo quân ngụy và quân chư hầu để cố giành chủ động, cố đạt một số thắng lợi để gây ảnh hưởng về chính trị, hòng đẩy ta vào thế bị động... Do đó nếu ta không dùng hình thức phản công chiến lược, phản công chiến đấu để tiêu diệt quân Mỹ và quân ngụy , thì ta sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội và có thể lầm vào bị động...

        Chủ động và khẩn trương phải đi liền với nhau, từ nhận thức đó chúng tôi đã thống nhất một số việc cần làm ngay trong đêm: điều đơn vị trinh sát rời suối Nhung đi về phía tây nam đến tả ngạn sông Bé thuộc địa phận huyện Tân Uyên, nơi đang có một số đơn vị Mỹ thuộc Sư 1 nống ra cách đây bốn ngày để nắm ý đồ và hình thái đóng quân của chúng; đồng thời toàn sư đoàn cũng chuẩn bị chuyển dịch đội hình ở hướng này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #106 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:52:05 pm »


        Đúng như nhận định của trên, từ đầu tháng 2 năm 1966, địch chuyển trọng tâm hoạt động sang mũi tên thứ hai - bắc, đông bắc Sài Gòn, thuộc địa bàn đứng chân của Sư đoàn 9.

        Từ đây chúng tôi mới thực sự bước vào thực hiện kế hoạch quân sự của Bộ chỉ huy Miền chống lại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất với mục đích “tìm diệt” mà tướng Oét-mo-len, tư lệnh quân đội viễn chính Mỹ ở Nam Việt Nam cho rằng bây giờ là thời điểm thực hiện ( các biện pháp chiến lược của Mỹ đã thực hiện trong cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam: Biện pháp chiến lược “tìm diệt” áp dụng từ khởi đầu chiến lược “chiến tranh cục bộ” đến hết mùa khô lần thứ nhất, biện pháp chiến lược “hai gọng kìm” được áp dụng từ cuộc phản công chiến lược “quét và giữ” được Abram thay Oét-mo-len đề xướng áp dụng từ Xuân 1968. Các biện pháp chiến lược quân sự của Mỹ nhằm hai mục tiêu cơ bản: tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng và giành dân, chiếm đất).

        Mở đầu mũi tên thứ hai bắn sang hướng bắc, đông bắc là cuộc hành quân mang tên “Đá lăn” vào giữa tháng 2 năm 1966.

        Đây là cuộc hành quân nằm trong kế hoạch chung của cuộc phản công chiến lược, là mũi trọng yếu trong hai mũi tên ở miền Đông Nam Bộ, nhằm mở rộng kiểm soát đường 7, chia cắt Khu Đ, “bình định” khu vực Bông Trang – Nhà Đỏ, Bình Mỹ, giải toả áp lực của ta ở bắc Sài Gòn. Từ mục đích có ý nghĩa chiến dịch này, tướng Oét-mo-len phải điều Lữ 1 (Sư đoàn bộ binh số 1), hai chi đoàn thiết giáp, một tiểu đoàn Úc vào cuộc hành quân. Ngoài ra địch còn đưa một tiểu đoàn công binh đi trước làm đường tỉnh lộ 2 Bình Dương - Phước Vĩnh, nhàm mở rộng vùng kiểm soát, uy hiếp các vùng giải phóng của ta. Ngày 22 tháng 2, địch bắt đầu đổ quân xuống khu vực Bình Cơ, Bà Đá, Ván Hương đánh vào Chiến khu Đ.

        Bộ tư lệnh Sư đoàn 9 không bất ngờ trước hành động của địch. Chúng tôi càng thấy tính nghiêm túc của nhiệm vụ được giao.

        Chiến khu Đ với trung tâm lúc đầu là vùng Đất Cuốc ngày càng được mở rộng bao gồm phần đất ở đông quốc lộ 13, bắc quốc lộ 20 (sau đó được gọi là Khu A), có độ cao trung bình 100 mét. Chiến khu Đ ở vào vị trí lưng dựa vào cuối cùng của tất cả các chiến khu miền Đông và là chiếc cầu nối B2 với đường mòn Hồ Chí Minh, rất thuận lợi cho ta mở hành lang chiến lược, bố trí kho tàng, tập trung cơ động lực lượng. Nơi đây vừa có thể đứng tự nhiêm vững chắc, vừa có thể đánh thẳng vào đầu não địch. “Chiến khu Đ còn, Sài Gòn mất”, đó là điều kẻ thù lo sợ nhưng không sao tránh nổi.

        Phải đánh bại âm mưu địch! Đó là điều khẳng định. Cái khó nêu ra chỉ để suy nghĩ, tìm biện pháp khắc phục. Đó là điều chúng tôi thống nhất trong buổi họp ban đầu, khi cuộc hành quân của địch bắt đầu trở thành hiện thực.

        Kẻ địch đang còn sung sức, kèm theo cả cay cú khi bị thua trong đợt phóng mũi tên thứ nhất vào hướng tây, tây bắc Sài Gòn, nên càng hung hăng. Chúng có đầu óc thực tế, chịu rút kinh nghiệm sau thất bại trận Bàu Bàng, sau cuộc hành quân “Cái bẫy” (Ngày 8 tháng 1 năm 1966, tướng Oét-mo-len huy động trên một vạn quân thuộc Sư đoàn 1 “Anh cả đỏ”, Sư đoàn bộ binh số 25 “Tia chớp nhiệt đới” cùng với 200 máy bay, 600 xe quân sự, 100 khẩu pháo yểm trợ mở cuộc hành quân “Cái bẫy” đánh vào bắc huyện Củ Chi, Hố Bò (Bến Cát) nằm trong khuôn khổ mũi tên thứ hai đánh ra hướng tây, tây bắc Sài Gòn). Lực lượng dồn vào cuộc hành quân “Đá lăn” gồm 13 tiểu đoàn (ít hơn 5 tiểu đoàn so với cuộc hành quân “Cái bẫy) nhưng thủ đoạn thì xảo quyệt hơn nhiều. điều này thấy rõ trong quá trình chuẩn bị, hình thành thế bố trí.

        Ngày 15 tháng 2 lực lượng địch nống ra đóng quân dã ngoại ở sở cao su Nhà Đỏ trong khu tam giác Lai Khê - Phước Vĩnh – Tân Uyên kẹp đầu mút đường 16 nối với tỉnh lộ số 2 (Thủ Dầu Một - Đồng Xoài).

        Địch ra xa căn cứ đóng dã ngoại dễ đánh! Nhưng đánh vào đâu và kế hoạch cụ thể thì chưa có câu trả lời dù chỉ là chung chung, vì địch ngày hoạt động nống ra càn quét, đêm co về không cố định ở đâu.

        Để trả lời câu hỏi trên, sau khi thống nhất công việc trong Bộ tư lệnh Sư đoàn, tôi và anh Thế Bôn đến tận nơi khảo sát, mất hàng tuần vẫn chưa phát hiện được địa điểm cố định đóng quân của địch là đâu. Phải chăng sự kiện Bàu Bàng được lặp lại tại đây. Nhưng ngày ấy – như trên đã trình bày cùng bạn đọc - chỉ qua một đêm là chúng tôi phát hiện ra chúng. Còn ở đây cũng thế, ngày địch càn quét đánh phá khu vực xung quanh như Cống Xanh, Bình Mỹ, đồng thời yểm trợ cho hai tiểu đoàn công binh làm đường, đêm rút về đóng dã ngoại bên dòng suối Bông Trang, cụ thể điểm nào thì chưa rõ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #107 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:52:46 pm »


        Không có phép thuật nào, nhưng quả là địch xảo quyệt. Chúng tôi không nản, bằng nhiều cách tổ chức bám sát theo dõi, cũng phải mất 15 ngày mới tìm được mục tiêu. Đêm địch co cụm vẫn trong khu vực Nhà Đỏ - Bông Trang, nằm ở đầu đường 16 nối với tỉnh lộ số 2. điểm đóng quân dã ngoại của địch được chia thành cụm hình vòng, liên kết với nhau được sự chi viện hoả lực của pháo binh và không quân nếu bị đối phương tiến công. Mỗi cụm lấy cơ giới làm nòng cốt, tuyến ngoài có bộ binh làm nhiệm vụ cảnh giới, tuyến trong là các cụm nhỏ kết hợp với bộ binh và cơ giới. Nếu tuyến bộ binh bên ngoài bị chọc thủng, bộ binh tuyến trong sẽ dựa vào cơ giới và phát huy hoả lực của cơ giới chống lại đối phương. Ban ngày chúng phòng ngự tương đối rộng, đêm đến thu hẹp đội hình để giữ bí mật, bất ngờ, bảo vệ cho nhau khi bị ta tiến công.

        Khác với Bàu Bàng, ở Nhà Đỏ - Bông Trang địch đóng dã ngoại có thời gian chuẩn bị (trên dưới một tuần), địa hình nơi đây bằng phẳng nhưng phức tạp, có nhiều bụi tre gai dày. địch dựa vào đó đặt tăng, thiết giáp, kèm theo rào kẽm gai tạo thành vật cản chống lực lượng xung kích của ta. Tuy không thật kiên cố, vững chắc nhưng không thể coi thường, mà cần phải có biện pháp khắc phục, vì đó chính là thủ đoạn chiến thuật cụm dã ngoại của địch được áp dụng trong điều kiện địa hình cụ thể.

        Ngày hôm sau Bộ tư lệnh Sư đoàn họp thông qua quyết tâm chiến đấu, và trước khi thực hiện phải báo cáo Bộ chỉ huy Miền xin được tiến công.

        - Biện pháp đánh địch đóng quân dã ngoại có chuẩn bị như thế nào? - Bộ chỉ huy Miền hỏi.

        - Đánh phục kích – Tôi trả lời.

        - Tại sao? – Bộ chỉ huy Miền hỏi tiếp.

        - Điều địch ra ngoài công sự để đánh... Tôi trình bày Bộ chỉ huy Miền chuẩn y nhưng nhấn mạnh - Phải khẩn trương, tổ chức tiến công sớm, không cho địch có thời gian chuẩn bị tăng viện cho Lữ 173 ở Phước Vĩnh đánh vào Chiến khu Đ.

        Giống như trận Bàu Bàng, dùng đội hình toàn sư đoàn tiến công, nhưng phương châm có khác. - Tập kích kết hợp với phục kích. Trước hết phải dụ địch ra ngoài công sự theo kế hoạch của bộ phận tác chiến sư đoàn chuẩn bị được chúng tôi nhất trí thông qua. Cử một đồng chí trung đội trưởng trinh sát thâm nhập sát hàng rào kẽm gai, có mang theo sơ đồ dựng sẵn vị trí các cụm quân, vị trí tăng, pháo, các mũi tiến công của ta... khi trở ra bỏ lại túi đựng tài liệu (trong đó có bản đồ) quai bị đứt để địch tin là ta vào trinh sát trận địa chuẩn bị tiến công, sẽ phải thay đổi vị trí đóng quân dã ngoại.

        Song song với việc làm trên, chúng tôi cho di chuyển đội hình sư đoàn nhích gần về hướng địch. Các đơn vị triển khai theo nhiệm vụ cơ bản được phân công: Trung đoàn 1 làm nhiệm vụ chủ yếu từ đông bắc đánh lên; Trung đoàn 2 làm lực lượng dự bị chặn đường Phước Vĩnh, đề phòng Lữ 173 phản kích. Sẽ được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình khi địch buộc phải xê dịch đội hình khi kế hoạch nghi binh – “điệu hổ ly sơn” của ta đạt kết quả tốt.

        Chúng tôi đang hồi hộp theo dõi, thì được tin đồng chí trung đội trưởng trinh sát của ta khi trở ra chẳng may bị vướng mìn hy sinh! Vừa thương tiếc vừa lo lắng. Rất có thể trận đánh không thành, cuộc hành quân “Đá lăn” của địch được thực hiện.

        Trong lúc chúng tôi đã nghĩ tới “thua keo này bày keo khác”, thì được tin: túi đựng bản đồ “sơ đồ trận đánh” vẫn còn. Địch viết thư kèm theo thi thể đồng chí trung đội trưởng được chúng đưa ra đường 16 trao trả ta. Như vậy là thế nào? Chắc chắn kế hoạch nghi binh không bị lộ, nhưng sao địch lại trao trả cho ta. Theo phép “lịch sự” hay có ý gì đây! Dù thế nào ta cũng cần có phương án đối phó với tình thế bất trắc này. Tôi nhắc anh em trong cơ quan sư đoàn phải bình tĩnh. Giưa lúc ấy tin trinh sát báo về: có triệu chứng địch bí mật giãn quân ra phía tây sở cao su Nhà Đỏ, đề phòng tiến công, nhưng lại gần nơi ta lót ổ sẵn, một thuận lợi ngoài dự kiến - Kế hoạch nghi binh “điệu hổ ly sơn” của ta có hiệu quả.

        Các đơn vị khẩn trương điều chỉnh đội hình, kịp đêm 23 rạng 24 tháng 2 năm 1966 đồng loạt tiến công. Mở đầu là đạn cối, ĐKZ 75 bắn dồn dập vào các cụm quân địch, tiếp sau là các mũi bộ binh xung phong. Địch dựa vào hoả lực cơ giới chống trả quyết liệt. Trung đoàn 1 đánh phủ đầu, địch co cụm lại ở các bụi tre gai, ta tiếp tục tiến công dùng hình thức tập kích đêm, vận động truy kích địch ban ngày. Các Trung đoàn 3, Trung đoàn 1 phải tổ chức lại đội hình, tiếp tục tiến công, chia cắt đội hình địch thành từng cụm nhỏ để diệt chúng. đạn ta trúng cả Sở chỉ huy nhẹ Lữ đoàn 1 (Sư đoàn 1), đội hình địch bị rối loạn, lúng túng trước cảnh đánh gần không phân tuyến của ta, sự chi viện phi pháo của địch bị hạn chế.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #108 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:53:38 pm »


        Trận đánh ác liệt kéo dài từ 22 giờ cho đến 5 giờ sáng không dứt điểm được, địch bị thiệt hại nặng. Số còn lại chúng dồn thành hai cụm chống trả quyết liệt khi được phi pháo yểm trợ.

        Thời điểm kết thúc đã đến, chúng tôi lệnh cho các đơn vị nhanh chóng rút ra, về tập kết ở địa điểm đã có kế hoạch trước (bên bờ suối Bông Trang).

        Như vậy là thủ đoạn chiến thuật cụm trú quân “vành đai thép” của Mỹ được hoàn chỉnh sau thất bại ở Bàu Bàng tháng 12 năm 1965 đã chứng tỏ kém hiệu lực.

        Về phía ta, sau những tháng này thấp thỏm chờ đợi, sau thời gian chuẩn bị căng thẳng, công phu và sau nhiều buổi dân chủ bàn bạc sôi nổi mà xây dựng cuối cùng chúng tôi tìm được hướng đi, bằng trận đánh then chốt ở Nhà Đỏ - Bông Trang, Sư đoàn 9 đã góp phần trực tiếp đánh bại cuộc hành quân “Đá lăn” trên hướng phản công mà Oét-mo-len cho là trọng yếu ở hướng bắc Sài Gòn. Âm mưu đánh phá Chiến khu Đ của Mỹ bị một đòn đau phủ đầu quan trọng, ảnh hưởng xấu đến các cuộc hành quân tiếp theo sau trong khuôn khổ mũi tên thứ hai phóng ra phía bắc Sài Gòn.

        Ngày 7 tháng 3 năm 1966, tướng Oét-mo-len – Tư lệnh quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam lại huy động Lữ đoàn 2 thuộc Sư đoàn bộ binh số 1, Tiểu đoàn Úc ném vào cuộc hành quân “Thành phố bạc” tiếp tục âm mưu đánh phá Chiến Khu Đ.

        Cuộc hành quân đầy tham vọng của địch được tiến hành sau khi chúng ta đã thành lập Bộ chỉ huy tiền phương thống nhất (Theo chỉ thị của Trung ương Cục, tháng 2 năm 1966, Bộ chỉ huy tiền phương thống nhất được thành lập: Hoàng Cầm - Chỉ huy trưởng, Lê Văn Tưởng – Chính uỷ, Hoàn Thế Thiện – Phó Chính uỷ, Hồng Lâm (Quân khu 7) - Chỉ huy phó; chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang (Sư đoàn 9, lực lượng vũ trang tập trung và du kích cơ quan Bộ tư lệnh Quân khu miền Đông, Tiểu đoàn Phú Lợi) chiến đấu ở hướng bắc Sài Gòn, bảo vệ Chiến khu Đ), đã có kế hoạch chiến đấu phối hợp cơ bản ba thứ quân bảo vệ Chiến khu Đ nếu địch đánh vào vùng đất thánh này.

        Cuộc hành quân diễn ra đúng như phán đoán của ta, và ta đã có phương án chủ động phối hợp chiến đấu bảo vệ căn cứ. Sư đoàn 9 cơ động đánh địch ở vòng ngoài theo phương án phân công. Nhưng đánh địch vào đâu để diệt được địch, gây rung động chung đến cuộc hành quân, đó là những vấn đề chúng tôi suy nghĩ tìm biện pháp cụ thể. Từ những dự kiến đã có, từ nguồn thực hành trinh sát thực địa, Bộ tư lệnh Sư đoàn quyết định tập kích quân địch ở sở cao su Phú Lương, ở dốc Bà Thức trên đường 16, và ở khu vực Bầu Sắn nơi địch cụm lại ngày 16 tháng 3. Các trận tập kích vào những vị trí trong điểm ở vòng ngoài đã đánh thiệt hại một tiểu đoàn Mỹ, một tiểu đoàn quân Úc, bắn rơi năm máy bay lên thẳng; đồng thời hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương đánh địch từ vòng trong đánh ra, đạt hiệu quả, như tại căn cứ quân y, các lực lượng bảo vệ khu loại khỏi vòng chiến đấu 60 tên Mỹ...

        Cuộc hành quân “Thành phố bạc” của Mỹ không đạt được mục tiêu. Đây là một trong những thử nghiệm lớn đầu tiên về khả năng bảo vệ căn cứ của ta trước cuộc hành quân lớn của quân viễn chính Mỹ.

        Trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, trên chiến trường Đông Nam Bộ, Mỹ phóng ra hai mũi tên “tìm diệt” thực hiện không đồng thời. Sau khi mũi tên một đánh ra tây bắc Sài Gòn bị thất bại, Mỹ dồn lực lượng chuyển sang mũi tên hai đánh ra bắc Sài Gòn, nơi đây có các chiến khu lâu đời của Đông Nam Bộ, nơi có Sư đoàn 9, Sư đoàn 5 đang đứng chân theo ý đồ dàn thế, cài thế của Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền, sẵn sàng đánh địch khi chúng liều lĩnh phản công.

        Quán triệt tư tưởng chỉ đạo có tính toán chiều sâu và có tầm nhìn đi trước của các cấp trên, Sư đoàn 9 đã chuyển quân theo trù tính trước, dừng lại ở những điểm chắc chắn sẽ xảy ra những trận đụng độ lớn, không rải mành mành, không chạy theo các đơn vị của địch, mà tập trung vào những nơi có giá trị chiến lược, chiến dịch, nhằm vào những đơn vị mạnh nhưng lại ở thế yếu, có sơ hở để thực hành tiến công.

        Suốt tháng 1 đến hết tháng 3 năm 1966, chúng tối triển khai đánh năm trận tiến công, trong đó biết tập trung vào đánh thắng trận then chốt Nhà Đỏ - Bông Trang, phá thủ đoạn chiến thuật nham hiểm của địch, cụm trú quân “vành đai thép”, góp phần đánh bại một bước quan trọng cuộc hành quân trên khu vực mà Mỹ gọi là trọng yếu ở hướng bắc Sài Gòn; đồng thời tham gia thử khu vực mà Mỹ gọi là trọng yếu ở hướng bắc Sài Gòn; đồng thời tham gia thử nghiệm có hiệu quả về khả năng bảo vệ căn cứ của ta trước cuộc hành quân “Thành phố bạc” của địch với tham vọng diệt cơ quan đầu não miền Đông (Cơ quan Khu uỷ và Bộ tư lệnh Quân khu 7 đóng ở khu vực Cù Đình thuộc địa bàn Chiến khu Đ), phá nát vùng trung tâm Chiến khu Đ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #109 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:54:08 pm »


        Trước hết do chúng tôi quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền, có những tìm tòi trong vận dụng. Trong chiến đấu đã phát huy được tinh thần dũng cảm và mưu trí, biết phối hợp với các  lực lượng vũ trang địa phương, nhờ đó mà tập trung được lực lượng, thực hiện đánh lớn. Việc Sư đoàn 5 đứng chân ở hướng đông và đông nam Sài Gòn với những hoạt động xuất sắc gây nhiều thiệt hại cho địch, làm phá sản kế hoạch giải toả đường 15, sông Lòng Tàu, hút một số lực lượng quan trọng của địch vào hướng này, tạo điều kiện thuận lợi cho Sư đoàn 9 đứng ở hướng bắc hoàn thành nhiệm vụ, được “Trung ương Cục, quân uỷ Miền  đánh giá cao thành tích đóng góp của công trường 9 (tức Sư đoàn –NG). Cán bộ và chiến sỹ của công trường phải thấy hết giá trị của sự thành công này để quyết tâm, tin tưởng cao hơn trong nhiệm vụ sắp tới” (Đánh giá của Trung ương Cục và Quân uỷ Miền về hoạt động của Sư đoàn 9 trong mùa khô 1965 – 1966- Tài liệu lưu trữ tại Sư đoàn 9).

        Thời tiết và những cuộc hành quân có mối quan hệ mật thiết.

        Trong kháng chiến chín năm (1945 – 1954), các cuộc hành quân càn quét lớn của quân đội thực dân Pháp và những mùa hoạt động quân sự lớn của quân đội ta đều chủ yếu diễn ra trong thời gian từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau; chẳng hạn các binh đoàn chủ lực của ta trên chiến trường Bắc Bộ hồi đó đã liên tục mở các chiến dịch lớn như chiến dịch Thu Đông (1947), chiến dịch Sông Thao, Sông Lô (1949), chiến dịch Biên Giới (1950), chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Hoà Bình Lý Thường Kiệt (1951), chiến dịch Tây Bắc (1952), chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)... Các cụm từ: Hoạt động quân sự Thu Đông, chiến dịch Thu Đông đã trở thành thuật ngữ quân sự quen thuộc để chỉ các chiến dịch quân sự lớn diễn ra vào lúc mùa mưa kết thúc, mùa khô bắt đầu, thời tiết khô hanh, các sông suối nước cạn dần, dễ qua lại.

        Ở chiến trường đông Nam Bộ, vào giai đoạn đánh Mỹ cũng diễn ra như thế. Quân đội viễn chinh Mỹ càng được trang bị phương tiện chiến tranh hiện đại càng rất coi trọng yếu tố thời tiết – cụm từ: “phản công chiến lược mùa khô” xuất hiện cũng bởi lẽ phải tận dụng tối đa yếu tố thiên thời, không có mưa bão, đường sá khô ráo, sông suối cạn kiệt, bầu trời quang mây.

        Với ta cũng thế, tuy trang bị không nhiều, không hiện đại bằng quân độ Mỹ, sức cơ động và phương tiện vận chuyển vẫn chủ yếu dựa vào đôi chân và đôi vai của con người, nhưng vẫn rất cần đến mùa khô, mùa lý tưởng cho các hoạt động quân sự.

        Tháng 5 đã đến, những cơn mưa đầu mùa ập đến, cảnh sắc Đông Nam Bộ thay đổi theo chu kỳ. Không phải con người thấy dễ chịu, mà cả mặt đất, cây cối cũng thay đổi, vụt sống lại, vươn nhanh. Nhưng đối với hoạt động quân sự thì mưa lại là những trở ngại. Mưa làm sập hầm hào, mưa cản kế hoạch vượt sông, gây khó khăn cho vận chuyển, tiếp tế, mưa gây ẩm ướt, phát sinh bệnh tật, sức khoẻ giảm sút, quân số thiếu hụt và biết bao nhiêu khó khăn khác nảy sinh.

        Sau thời gian lui về khu vực suối Bông Trang nghỉ ngơi củng cố, rút kinh nghiệm, sư đoàn được lệnh của Bộ chỉ huy Miền: chuẩn bị nhận kế hoạch hoạt động quân sự mùa mưa! Chúng tôi không ngạc nhiên khi nhận điện của Miền, bởi sư đoàn nhiều lần tự nhủ - Không thể có chiến tranh theo mùa.

        Cũng vào một ngày mưa, chúng tôi đón anh Trần Văn Trà thay mặt Bộ chỉ huy Miền xuống làm việc với sư đoàn.

        Sau ít phút thăm hỏi, anh Trà vào việc ngay. Tất cả chúng tôi đều như hăm hở đón chờ. Còn anh - mở đầu không phải là truyền đạt mệnh lệnh, kế hoạch tác chiến chính thức, mà là ý kiến trao đổi thăm dò, khiến chúng tôi ngỡ ngàng, khó hiểu?

        Anh nói – “Dự kiến của Bộ chỉ huy Miền định tranh thủ thời cơ, tiếp tục mở đợt hoạt động ngắn tiến công vào mục tiêu gọn – Căn cứ Phước Vĩnh...”.

        Mới chỉ đến đây mà mọi người thở phào xua đi cái chờ đợi nhường chỗ cho niềm vui đến nhanh. Vì sự trùng hợp giữa ý định của trên với nguyện vọng của dưới. Bởi Phước Vĩnh là căn cứ nằm trên địa bàn hoạt động của Sư đoàn 9, chính nó đã gây cho chúng tôi nhiều khó khăn, có lúc tưởng như nhiệm vụ phải bỏ dở.

        Như tháng 6 năm 1965, khi căn cứ Đồng Xoài bị Sư đoàn 9 tiến công, thì từ Phước Vĩnh, Lữ đoàn 173 đã mò lên chi viện, nhưng bị ta chặn đánh, chúng phải rút trở lại; như trong trận tiến công cụm dã ngoại quân Mỹ ở Nhà Đỏ - Bông Trang vừa rồi, cũng phải dành lực lượng chặn viện từ căn cứ Phước Vĩnh.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM