Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:43:43 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực  (Đọc 22873 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #50 vào lúc: 14 Tháng Giêng, 2017, 10:03:26 pm »


Ở miền Trung bấy giờ Mai Xuân Thưởng nổi lên khởi nghĩa, Pháp dẹp không nổi nên nhờ bàn tay gian ác của Lộc. Lộc mộ 1.050 lính mã tà, đem về thành Ô Ma (Sài Gòn) tập dượt rồi đến chiến trường thi hành thủ đoạn bắt thân nhân của Mai Xuân Thưởng và của nhũng người theo quân khởi nghĩa. Lộc tỏ ra hách dịch, làm việc lấn quyền các sĩ quan Pháp ở địa phương. Lúc hành quân, Lộc dùng con dấu Thuận Khánh tổng đốc, tức là tổng đốc của hai tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa. Khi xong việc, về Cái Bè vẫn thích dùng con dấu ấy. Lộc lại đề nghị với Pháp tách hai tỉnh này ra khỏi Trung Kỳ, nhập vào Nam Kỳ vì chính quân sĩ Nam Kỳ (tức là của Lộc) đã ra tay dẹp loạn, nhưng đề nghị này khó thi hành!

Về già, Lộc bị ung thư dạ dày nhưng vẫn hăng hái ra tài kinh bang tế thế. Loạn lạc không còn, Lộc ra tay chỉnh trang vùng Cái Bè. Học được phép đo đạc nên đem áp dụng, phóng mấy con lộ ở chợ này. Lộc lại xin bắt dân xâu để đào kinh trong vùng Đồng Tháp, ban đầu đào thử (kinh bề ngang rộng 3 mét), nhưng lại bắt dân xâu đợt hai nới rộng ra 10 mét, nối liền từ Bà Bèo tới Rạch Ruộng (1897) gọi là kinh tổng đốc Lộc (thực dân cho phép đặt tên). Lộc trở thành người điền chủ lớn nhất của tỉnh Mỹ Tho khi mua lại cù lao Năm Thôn và đất ở cù lao Rồng.

Tóm lại, Lộc đóng vai trò tích cực trong việc đàn áp các phong trào khởi nghĩa của Thiên hộ Dương, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân, Mai Xuân Thưởng. Pháp dung túng cho Lộc làm những việc dã man, vô nhân đạo mà chúng không muốn làm, sợ mang tiếng xấu về chúng. Nhưng được chim thì treo ná, thực dân Pháp dần dần tỏ ra lạnh nhạt đối với kẻ đã quá sốt sắng với nhiệm vụ - lỗi thời. Pháp cho người nói xấu công khai rằng chức tổng đốc của Lộc là bất hợp lệ, chỉ dùng ở Trung Kỳ chứ không dùng ở xứ thuộc địa, do đó phải sửa lại là tổng đốc hàm (honoraire). Lại còn chức vụ khâm sai mà Lộc đã tự phong khi in thiệp chúc Tết năm 1888. Lộc cho rằng khâm sai là chức vụ hợp pháp, vì ông ta thừa lệnh quan thống đốc Nam Kỳ ra ngoài Trung Kỳ dẹp giặc, nhưng có người tố cáo rằng Lộc tự xưng khâm sai của triều đình Huế, với dụng ý làm loạn về sau.

Lộc thích đánh giặc với đạo quân riêng, lúc ban đầu gồm hơn 100 người nhưng về già, thực dân chỉ để cho 5 người lính hầu mà thôi.

Một chi tiết đáng chú ý là vào năm 1868, Lộc đã đi bắt quân làm ngụy ở phía Trà Đư đem về Châu Đốc nộp cho quan tham biện. Đây là những người thuộc nhóm Bửu Sơn Kỳ Hương ở Thất Sơn.

Lời phê của các viên quan tham biện Pháp giúp chúng ta hiểu rõ thái độ của thực dân. Đại khái, chúng biết Lộc tàn ác nhưng chúng vẫn sử dụng để nhằm dùng người bản xứ đàn áp người bản xứ: Một viên chức quá kỹ lưỡng, quá tận tâm trong vài trường hợp, không cẩn thận trong việc dùng phương tiện, nhưng lại đạt mục đích chắc chắn. Lộc sinh tật uống rượu, tính tình thay đổi rõ rệt. Ba năm trước khi chết, Lộc được viên tham biện Mỹ Tho phê như sau: "Người ta có thể phàn nàn lão già này về những hành động ác độc lúc trước đã trở thành chuyện huyễn hoặc, khó tin, nhưng tôi cho là trong hàng ngũ viên chức bản xứ hiện nay khó tìm được một người biết kính bề trên, dám tận tụy với chính nghĩa của nước Pháp bằng ông ta".
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #51 vào lúc: 14 Tháng Giêng, 2017, 10:04:09 pm »


Câu hỏi 16: Hãy cho biết một số địa danh có liên quan đến cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực?
Trả lời:


Vàm Nhật Tảo

Là nơi giao hội giữa sông Vàm Cỏ Đông và sông Nhật Tảo, vàm Nhật Tảo là một vùng sông nước phẳng lặng hiền hòa thuộc xã An Nhật Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Nhưng vào ngày 10 tháng 12 năm 1861, vàm Nhật Tảo đã dậy sóng căm hờn nhấn chìm tàu Espérance của quân xâm lược Pháp. Người đã làm nên sự kiện mà nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt ca ngợi là "oanh thiên địa" ấy chính là người anh hùng dân chài Nguyễn Trung Trực.

Theo một nguồn sử liệu dân gian nhiều người biết khi tả về chiến tích Hỏa Nhật Tảo Thuyền của Nguyễn Trung Trực thì làng Nhật Tảo nằm trên một vùng đồng ruộng bao la, mới sáng tinh sương đã nhìn thấy ánh mặt trời nên được gọi là Nhật Tảo, nghĩa là "mặt trời mọc sớm". Giữa thế kỷ thứ XIX, Nhật Tảo là vùng đất mới được ông Hồ Văn Chương đến khai phá lập nghiệp theo chương trình khai hoang của triều Nguyễn. Nhờ quy tụ được đông dân cư lập thành thôn ấp, ông Hồ Văn Chương được triều đình Nguyễn phong cho chức suất đội trưởng, con cháu kế truyền làm "chủ chợ qua việc thu thuế chợ lấy tiền làm ngân sách địa phương". Dòng dõi họ Hồ thống lãnh cả vùng và đều là hương chức địa phương. Lúc bấy giờ, ông Hồ Quang Minh làm cai tổng, tuy hợp tác với chính quyền Pháp ngoài mặt nhưng vẫn căm thù giặc, cảm khái tấm lòng ái quốc của Nguyễn Trung Trực, gia đình ông cai tổng đã mạnh dạn hợp tác với nghĩa quân, lập kế đồ đánh phá lực lượng quân Pháp. Trận "hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa" của Nguyễn Trung Trực đã góp phần to lớn lưu danh vàm sông thanh bình này vào lịch sử dựng nước và giữ nước oai hùng của dân tộc Việt Nam.

Để ghi dấu kỷ niệm "đau thương" này, thực dân Pháp đã cho xây dựng một bia tưởng niệm bên bờ sông Nhật Tảo. Thời gian lặng lẽ trôi, vàm Nhật Tảo vẫn còn đó như gợi lại trong lòng khách vãng lai một niềm hoài cổ. Tàu Espérance sau gần 120 năm nằm yên dưới đáy sông sâu đã được khai quật. Tổng số hiện vật thu được là 89, trong đó có 78 hiện vật gỗ, 8 hiện vật sắt, 2 hiện vật đồng và 1 hiện vật thủy tinh. Qua nghiên cứu các hiện vật gỗ ta còn thấy đầy đủ các bộ phận để hợp thành bộ khung của tàu như cong đà, be, lườn, cột buồm. Tuy đã bị đục để lấy đi phế liệu nhưng tàu Espérance vẫn còn một số mảnh gỗ bọc đồng hiện rõ vết cháy loang lổ. Tất cả những hiện vật nêu trên đã được bảo quản và trưng bày tại Bảo tàng Long An nhằm giới thiệu với khách tham quan trong và ngoài nước những bằng chứng cụ thể về chiến công oanh liệt của người anh hùng dân chài Nguyễn Trung Trực cách nay hơn một thế kỷ.

Ngày nay, nếu xuôi dòng Vàm Cỏ Đông đến địa phận xã An Nhật Tân, du khách sẽ được ngắm nhìn vùng sông nước hữu tình vàm Nhật Tảo. Sông nơi đây khá rộng, dòng nước trong xanh, hai bên bờ là những mái nhà xinh xắn nép mình dưới rặng dừa nước và một số loài cây hoang dại như vẹt, bần, đước, mắm. Nói chung dưới sự tác động của thiên nhiên và con người hơn một thế kỷ qua, di tích vàm Nhật Tảo đã có sự thay đổi nhất định so với thời điểm xảy ra trận đánh ngày 10 tháng 12 năm 1861. Tuy nhiên những gì còn hiện hữu ở vàm Nhật Tảo cũng đã minh chứng tài năng quân sự của Nguyễn Trung Trực - người đầu tiên, duy nhất đánh chìm được một tiểu hạm trong cuộc kháng chiến chống Pháp nửa cuối thế kỷ XIX.

135 năm sau ngày Nguyễn Trung Trực đánh chìm tàu Espérance, vàm Nhật Tảo đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích Quốc gia năm 1996 bởi những giá trị, ý nghĩa sâu sắc chứa đựng trong đó. Một dự án tôn tạo di tích quy mô đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Long An phê duyệt và bước đầu thực hiện. Trong tương lai, đền thờ, tượng đài anh hùng dân chài Nguyễn Trung Trực và những hạng mục công trình khác sẽ được xây dựng bên bờ vàm Nhật Tảo, sẽ làm cho vùng sông nước nên thơ này không những có ý nghĩa lịch sử mà còn có giá trị tham quan du lịch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #52 vào lúc: 14 Tháng Giêng, 2017, 10:04:30 pm »


Sân chim Tà Niên - làng Vĩnh Hòa Đông

Vào thế kỷ XVI - XVII, trên vùng đất Tây Nam Bộ hiện nay đã có người Việt cư trú cùng với tộc người Khơ Me. Trước năm 1708, Mạc Cửu đã tập hợp được 7 tụ điểm dân cư mà Gia Định Thành Thông chí ghi là 7 xã, thôn: Phú Quốc, Lũng Kỳ, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch Giá, Cà Mau, riêng Hà Tiên là thủ phủ của Mạc Cửu. Hiện nay chỉ còn 4 địa danh nằm trên đất nước Việt Nam là Phú Quốc, Rạch Giá, Cà Mau và Hà Tiên. Mùa thu, tháng 8 năm Mậu Tý (1708), Mạc Cửu dâng biểu xưng thần đem vùng đất này chính thực sáp nhập vào Việt Nam. Chúa Nguyễn Phúc Chu tiếp nhận, đặt thành một đơn vị hành chánh cấp Trấn và đặt tên là Trấn Hà Tiên. Mãi cho đến năm 1739, Mạc Thiên Tích (con của Mạc Cửu) thành lập thêm 4 huyện Kiên Giang (Rạch Giá), huyện Long Xuyên (Cà Mau), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (Bạc Liêu) thuộc trấn Hà Tiên. Vua Minh Mạng lên ngôi dần dần thực hiện chế độ trung ương tập quyền. Năm 1825, trấn Hà Tiên còn gồm hai huyện Kiên Giang, Long Xuyên và một số xã thôn trực thuộc thẳng trấn (theo sách Gia Định thành Thông chí của Trịnh Hoài Đức ghi chép - Dẫn theo Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu). Làng Vĩnh Hòa Đông thuộc tổng Kiên Định, huyện Kiên Giang vốn là thôn Vĩnh Hòa Đông xưa (ngày nay làng thuộc xã Vĩnh Hòa Hiệp - huyện Châu Thành - Kiên Giang). Làng được xem là nơi ghi dấu ấn lịch sử bi hùng thế kỷ XIX của vùng đất Kiên Giang. Trước đây vùng này dân cư còn thưa thớt, chưa có người khai phá nhiều. Tà Niên ngày xưa là một sân chim, cách thị xã Rạch Giá vào khoảng 10km về hướng tây nam. Sân chim thường là một vùng đất cao, cây cối rậm rạp, chim kéo nhau về làm tổ, đậu, ngủ, nghỉ quanh năm, suốt tháng, rất hôi thúi, dơ bẩn, đầy rắn, rết. Làng là nơi ghi dấu chứng tích của cuộc chiến cuối cùng của Thự quản cơ Nguyễn Hiền Điều, là căn cứ địa của anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực năm 1868, có mộ của Lâm Quang Ky - phó tướng của Nguyễn Trung Trực. Làng còn nổi tiếng bởi nghề dệt chiếu Tà Niên.

Sau khi Nguyễn Trung Trực chuyển nghĩa quân về hoạt động tại tỉnh Hà Tiên, ông lấy vùng Tà Niên làm căn cứ chuẩn bị cho việc đánh chiếm thành Rạch Giá. Người dân trong vùng tham gia rất đông. Một năm sau ông đánh chiếm đồn Kiên Giang (ngày 16-6-1868). Sau khi Nguyễn Trung Trực bị bắt và xử chém tại Rạch Giá, người dân Tà Niên bí mật thờ ông ở đình. Sau đó thờ thêm phó tướng của ông là Lâm Quang Ky.

Đình làng Vĩnh Hòa Đông còn lưu giữ một bản sắc phong đề "Tự Đức ngũ niên thập nhất nguyệt nhị chi cửu nhật" (ngày 18 tháng 11 năm Tự Đức thứ 5); một bản hương ước của làng Vĩnh Hòa Đông viết vào năm 1853 bằng chữ Hán gồm 3 chương được viết trên vải lụa. Đây được xem như báu vật của làng được truyền giữ rất cẩn thận, chỉ có ngày lễ tế thần mới rước về, đọc cho dân chúng đến dự lễ nghe. Làng Vĩnh Hòa Đông không chỉ nổi tiếng bởi lịch sử bi hùng mà còn nổi tiếng bởi nghề dệt chiếu Tà Niên, nhất là loại chiếu dệt lẫy hoa thì càng sắc sảo. Trước năm 1880, chưa có kinh Ông Hiển từ Rạch Giá đổ ra sông Cái Bé, hai bên rạch là những bãi bùn chạy dài vô tận, mọc đầy rẫy loại lát gon (cói). Rạch Tà Niên nằm bên hữu ngạn con sông Cái Bé nổi tiếng về nghề dệt chiếu.

Làng Vĩnh Hòa Đông vẫn yên bình bên bờ rạch Tà Niên với những phố chợ sầm uất, với nghề dệt chiếu Tà Niên truyền thống truyền từ đời này sang đời khác, để rồi đến ngày rằm tháng Giêng hàng năm, dân trong vùng cùng người tứ phương vùng lục tỉnh xưa náo nức kéo nhau về đình làng tế lễ. Các bô lão lại kể cho con cháu nghe lịch sử bi hùng của làng, kể bằng lòng tự hào của làng quê đang từng ngày đổi mới mà nét văn hóa của làng không bao giờ mất đi.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #53 vào lúc: 14 Tháng Giêng, 2017, 10:04:57 pm »


Ba Trại (Hòn Chông - Phú Quốc)

Sự trùng lặp về tên gọi địa danh trên đất nước ta rất hiếm thấy. Nhưng ở Kiên Giang đã có đến ba địa điểm nay đã thành địa danh Ba Trại. Hiện chưa thấy tư liệu nào ghi chép về địa danh Ba Trại. Tuy nhiên, dựa vào các tài liệu có liên quan về cuộc đời hoạt động của Nguyễn Trung Trực, có thể biết được cụm từ Ba Trại xuất hiện ở Kiên Giang vào thời kỳ ông và đội nghĩa quân của mình về đây lập căn cứ chống Pháp vào năm 1868...

Nguyễn Trung Trực kháng Pháp là hiển nhiên. Nhưng ông hành động trong hoàn cảnh, điều kiện lịch sử nào thì hiện chưa có tài liệu đáng tin cậy. Mặt khác, hiện nav cũng có nhiều tư liệu chưa đồng nhất nhau về vấn đề này. Riêng về địa danh Ba Trại ở Kiên Giang là hoàn toàn chính xác, vì ở những nơi đó hiện còn chứng tích và nhiều nguồn cung cấp dân gian đáng tin cậy.

Về cụm từ Ba Trại, có giả thuyết cho rằng chữ Ba là tính từ chỉ về số lượng. Lại có giả thuyết cho rằng chữ Ba có nghĩa là ba quân như cách nói xưa kia chỉ về quân đội: ba quân tướng sĩ.

Trước khi xem xét hai giả thuyết trên, chúng ta tìm hiểu thêm từ Trại. Theo Hán - Việt từ điển của Đào Duy Anh, chữ Trại có 2 nghĩa. Nghĩa thứ nhất là khoảng đất trống ở giữa đồng hoặc núi mà trồng cây xung quanh để phòng giữ gọi là trại. Nghĩa thứ hai là dinh lũy để quân lính ở. Như vậy, theo 2 giả thuyết trên đây, giả thuyết thứ nhất cho rằng Ba Trại có nghĩa là 3 cái trại, giả thuyết thứ hai cho rằng Ba Trại là trại của quân lính (ba quân).

So với những di tích ở Hòn Chông, là nơi có ấp Ba Trại hiện nay, thì theo cách giải thích của giả thuyết thứ nhất là không ổn. Hiện nay tại ấp Ba Trại ở Hòn Chông có đến hơn chục cái nền xưa kia là nền trại của nghĩa quân. Theo ký ức của người dân ở ấp Ba Trại hiện nay, xưa kia Nguyễn Trung Trực về đây xây dựng đến hơn chục cái trại cho quân lính đồn trú, đó là chưa kể số trại của quân lính làm rẫy ở vùng Rẫy Mới bên kia dãy Hòn Chông. Phú Quốc cũng có các di tích mang tên Ba Trại của nghĩa quân

Nguyễn Trung Trực ở hai bờ của con sông Cửa Cạn. Nói chung, các dấu vềt về Ba Trại ở đây không còn rõ lắm, nhưng ký ức của người dân vùng này còn khá thống nhất nhau về số lượng trại. Người ta cho rằng ngay trên con sông Cửa Cạn, có đến hai nơi mà xưa kia gọi là Ba Trại: Ba Trại trong và Ba Trại ngoài. Ba Trại trong xưa kia có nhiều đồn trại, Ba Trại ngoài thì ít hơn, nhưng cũng đã có trên chục trại. Giữa các cụm trại là Trại quan lớn tướng, Trại bà lớn tướng, Trại súng, Trại năm căn, Trại lâm (đóng thuyền), v.v... Như vậy giả thuyết thứ hai cho rằng Ba Trại là trại của quân lính (ba quân) có sức thuyết phục hơn.

Sau thời gian hoạt động ở vùng Long An, Tiền Giang ngày nay, Nguyễn Trung Trực đưa quân về Kiên Giang, xây dựng một vùng căn cứ kháng chiến từ trong đất liền ra tận các hải đảo, trong đó có căn cứ Hòn Chông, bao gồm Ba Trại ngày nay là vùng đông bắc Hòn Chông. Nơi đây nghĩa quân phá rừng làm rẫy gọi là Rẫy Mới cho đến nay. Hòn Chông trước kia là vùng thiên nhiên hoang dã. Ấp Ba Trại ngày nay vốn là doi đất cuối cùng, nơi giáp biển của xã Bình An bây giờ. Nhìn lên bản đồ Kiên Giang, chúng ta thấy trước mặt Ba Trại có cụm tiền đồn thiên nhiên án ngữ, bao gồm dãy núi Hòn Chông và hàng chục núi non hiểm trở khác nằm chen chúc trong khu rừng sác mọc trên đầm lầy.

Khi vừa đứng chân ở Hòn Chông, Nguyễn Trung Trực đã đưa quân tiến sâu vào đất Rạch Giá. Nơi cách tỉnh lỵ Rạch Giá chừng 15 cây số, ông đã đặt một bộ phận nghĩa quân tại đó, một bộ phận khác tạt qua chiếm toàn bộ bờ tây sông Cái Lớn từ Cái Nước, Hốc Hỏa, xuống nhà Ngang, Ba Đình, Đồng Tranh, nói chung là chiều dài này ôm cả tây sông Cái Lớn mà ven sông lúc này là cánh đồng U Minh bạt ngàn. Tại Đồng Tranh xưa cũng có một địa danh Ba Trại như ở Hòn Chông nhưng ít được nhắc đến vì lúc đó dân cư còn quá ít. Có nhiều tài liệu của Pháp để lại cho thấy dân cư tại chợ Rạch Giá thời đó không quá 60 ngàn người.

Sau khi hạ đồn Kiên Giang, Nguyễn Trung Trực nhận thấy tình hình có phần bất lợi nên rút quân về đảo Phú Quốc. Tại đây, ông cho xây dựng căn cứ bên dòng sông Cửa Cạn. Do vậy đã hình thành các trại như đã nói trên. Hiện nay, trên đảo Phú Quốc các di tích này vẫn còn được bảo tồn, nhiều hiện vật được giữ gìn như: thuyền, súng, bát đĩa của nghĩa quân có liên quan đến giai đoạn lịch sử này.

Giờ đây, mỗi lần nhắc đến địa danh Ba Trại, mỗi người Việt Nam chúng ta không khỏi bồi hồi xúc động, bởi nơi đây vùng đất miền duyên hải này là một chiến tích hùng hồn về tinh thần truyền thống yêu nước - cốt cách con người Việt Nam.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #54 vào lúc: 14 Tháng Giêng, 2017, 10:05:44 pm »


Câu hỏi 17: Hiện nay ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có hàng chục đền thờ Nguyễn Trung Trực nhưng đền thờ chính - nơi hàng năm tổ chức lễ hội tưởng nhớ người anh hùng áo vải là ở đâu? Hãy cho biết về đền thờ và lễ hội này?
Trả lời:


Trong hầu hết 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có hàng chục ngôi đền thờ ghi rõ chính danh: "Đình thần Nguyễn Trung Trực". Ngoài đền thờ chính còn có rất nhiều đền thờ ghép tức là đình làng nào đó thờ phúc thần hay nhân thần rồi thờ thêm hình Nguyễn Trung Trực. Tuy nhiên, đền thờ lớn nhất được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa là nơi hàng năm tổ chức lễ hội tưởng nhớ Nguyễn Trung Trực nằm ở thành phố Rạch Giá, nơi ngày xưa ông đã anh dũng hy sinh.

Đền thờ Nguyễn Trung Trực nằm ở phía tây của trung tâm thành phố Rạch Giá, trên đường Nguyễn Công Trứ. Mặt đền quay ra cửa biển và cách biển khoảng 100m. Năm 1869, đền chỉ là ngôi nhà nhỏ bằng gỗ, mái lợp lá, do người dân chài dựng lên để thờ thần Nam Hải (cá voi). Mỗi năm đến ngày mất của Nguyễn Trung Trực, nhân dân các nơi tụ tập về đây tổ chức lễ hội tưởng niệm ông. Qua nhiều lần sửa chữa và mở rộng vào các năm 1881, 1964, 1970, ngôi đền đã khang trang hơn. Đến năm 1988, Bộ Văn hóa đã ra quyết định công nhận mộ và đền Nguyễn Trung Trực là di tích lịch sử - văn hóa.

Ngôi đền hiện nay được khởi công xây dựng vào ngày 20 tháng 12 năm 1964, khánh thành ngày 24 tháng 2 năm 1970, do kiến trúc sư Nguyễn Văn Lợi thiết kế, toàn bộ kinh phí xây dựng do nhân dân đóng góp. Đền được xây dựng theo kiểu chữ tam, gồm có chính điện, đông lang và tây lang. Cột kèo bằng bê tông, mái lợp ngói, cổng đền ba cửa (dạng cổng tam quan). Trước cửa chính điện có một lư hương bằng đá, trên nóc mái đền được trang trí cảnh "lưỡng long tranh châu", các góc mái đắp hình lá cúc cách điệu và hình rồng. Tất cả các mảng phù điêu trên được làm bằng xi măng gắn những mảnh gốm nhiều màu rất đẹp. Cửa đình có hai cột đắp nổi hình rồng uốn lượn từ dưới lên quấn quanh cột, biểu tượng cho uy quyền và sức mạnh. Trong đền có 10 cây cột bằng bê tông, mỗi cột có chân hình bát giác, phía trên hình bát giác có đắp nổi hai lớp cánh sen.

Trong chính điện có rất nhiều bài vị thờ. Phía ngoài là bài vị Chánh soái, di ảnh Nguyễn Trung Trực, thờ tiền hiền, những nghĩa quân liệt sĩ. Phía trong có ba ngai thờ chính của đền: chính giữa là ngai thờ Nguyễn Trung Trực bên trái là ngai thờ cụ Phó cơ Nguyễn Hiền Điều, Phó lãnh binh Lâm Quang Ky; bên phải là ngai thờ thần Nam Hải đại tướng quân. Trên nóc đền có bức hoành phi ghi 4 chữ "anh khí như hồng", nghĩa là khí tiết của người anh hùng rực rỡ như cầu vồng bảy sắc.

Nằm ở phía tây đền là mộ Nguyễn Trung Trực. Mộ được xây hình chữ nhật, đặt xuôi theo đền. Phía sau mộ là bức tường hình chữ nhật cao khoảng 2m, rộng hơn 1m, trên tấm bia khắc: Anh hùng Nguyễn Trung Trực (1838- 1868). Ở góc phải mộ có một tảng đá nhỏ ghi lại quá trình xây mộ. Ngày đặt viên đá đầu tiên là ngày 18 tháng 10 năm 1986. Xung quanh mộ Nguyễn Trung Trực, các loại cây lá do nhân dân thành kính dâng hiến bốn mùa xanh tốt.

Vào các ngày 27, 28 và 29 tháng 8 âm lịch hằng năm, tại đền thờ Nguyễn Trung Trực đều tổ chức lễ hội kỷ niệm ngày hy sinh của vị anh hùng dân tộc này.

Trước lễ giỗ chính thức từ 5 tới 7 ngày, hàng trăm người từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã kéo về để làm công quả. Họ chung tay sửa sang đền thờ, dựng trại, đắp lò nấu cơm thành tâm như con cháu lo cúng giỗ cho ông bà vậy, nhiều người tiếp tục nấu cơm, rửa bát đũa, dọn dẹp cho đến hết lễ hội mới quay về nhà.

Trong lễ giỗ, đóng góp là tùy tâm. Các bà, các chị buôn bán ở chợ thì thường từ 5 đến 7 người góp gạo, rau cho đủ một xe đạp, xe lôi rồi gọi một xe nào ở gần, nói là gửi cho đền cụ Nguyễn. Chỉ cần nói vậy là đảm bảo số hàng trên được chuyển đến nơi chu đáo. Nhiều người đạp xe lôi còn không lấy tiền chở đồ đến đền cụ Nguyễn.

Trong và sau lễ giỗ 3 đến 5 ngày, nhân dân tự nguyện lo ở một khu riêng trong đền để nấu cơm chay phục vụ miễn phí cho tất cả khách đến dự lễ. Cơm và thức ăn được dọn lên mâm, ai đói cứ việc ăn, ăn xong lại có người dọn dẹp. Nhà bếp phục vụ bà con từ 3 giờ sáng đến 12 giờ đêm hàng ngày. Gạo và thức ăn do người dân dâng cúng, các lễ vật còn dư sau lễ hội thường được ban quản lý đền đem tặng người nghèo.

Lễ hội hàng năm tưởng nhớ Nguyễn Trung Trực thường gồm phần Lễ và phần Hội: phần Lễ có lễ rước sắc thần, lễ tế Nguyễn Trung Trực, lễ dâng hương theo nghi thức cổ truyền của dân tộc diễn ra tại khu di tích và công viên tượng đài Nguyễn Trung Trực.

Phần hội diễn ra với không gian rộng với nhiều hoạt động phong phú, đa dạng, kết hợp nhiều loại hình nghệ thuật dân gian, nghệ thuật truyền thống với các loại hình nghệ thuật hiện đại như: trò diễn lại trận đánh chìm tàu chiến Pháp trên sông Nhật Tảo, bơi thuyền, chơi cờ tướng và nhiều trò vui khác. Đặc biệt, ngoài các hoạt động vốn có, mỗi năm ban tổ chức lại đưa thêm nhiều nội dung mới, không kém phần độc đáo, hấp dẫn, được đánh giá cao. Như chiếc chiếu Tà Niên dài 45m, rộng 1,8m được xác lập kỷ lục chiếc chiếu dài nhất Việt Nam trình diễn trong đêm hội dệt chiếu Tà Niên...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #55 vào lúc: 16 Tháng Giêng, 2017, 02:29:48 pm »


Phần thứ hai
PHỤ LỤC

I. NHỮNG NIÊN ĐẠI CÓ LIÊN QUAN TRONG CUỘC ĐỜI CỦA NGUYỄN TRUNG TRỰC

1838 (?): Năm sinh của Nguyễn Trung Trực (xem phần thân thế).

18-2-1859: Quân Pháp tiến đánh Sài Gòn - Gia Định và mở nhiều cuộc tấn công vào quân triều đình.

4-9-1859: Quân Pháp tấn công vào chùa Chợ Rẫy. Hai bên đánh nhau dữ dội. Quân ta giết được tên đại úy Bắc-bê và nhiều tên khác. Sau vì yếu thế ta phải rút lui.

25-2-1861: Đồn Chí Hòa thất thủ. Nguyễn Trung Trực được giữ chức Quyền sung quản binh đạo, coi giữ vùng Long An.

12-4-1861: Quân Pháp đánh chiếm Mỹ Tho và Gò Công, thiết lập đồn bót. Quân triều đình rút về Vĩnh Long.

14,15-4-1861: Nghĩa quân tấn công vào các đồn bót quân Pháp ở Gò Công.

22-6-1861: Đỗ Đình Thoại khởi nghĩa ở Gò Công. Nguyễn Trung Trực được phân công kiểm soát vùng ba biên: Tây Ninh - Bến Lức - Gò Công.

22-8-1861: Đô đốc Charner ký lệnh giải tán quân đồn điền của Nguyễn Tri Phương.

30-11-1861: Tướng Bonard sang thay thế Charner liền ra lệnh tấn công Biên Hòa, mở rộng vùng kiểm soát khu tứ giác: Tiền Giang - Gò Công - biển Nam Hải và biên giới Việt - Miên, đồng thời ra lệnh cho tàu tuần tra suốt ngày đêm trong sông rạch.

10-12-1861: Nguyễn Trung Trực tổ chức tấn công đốt cháy tàu Espérance tại vàm sông Nhật Tảo, giết được 17 tên giặc Pháp và sau đó liên tục đánh phá đồn bót giặc ở Tân An, Gò Công, Cần Giuộc, Cái Bè, Rạch Gầm...

1-3-1862: Nguyễn Trung Trực phản công, đánh phá nhiều nơi làm cho quân Pháp phải rút bỏ các đồn như: Gò Công, Chợ Gạo, Gia Thạch, Tân An, Cái Bè, Cần Giuộc, Phước Lộc, v.v...

25-3-1862: Bonard ra lệnh cho quân Pháp chiếm lấy Vĩnh Long.

5-5-1862: Bonard đưa quân tái chiếm các vùng đã bị mất. Bonard sai Le Monde đi thuyền máy đến Thuận An để nghị hòa với Trương Đăng Quế thuộc Cơ mật viện của triều đình (phái thủ hòa). Pháp đòi triều đình phải bồi thường 10 vạn quan tiền chiến phí để làm tin.

5-6-1862: Lập Hòa ước Nhâm Tuất. Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đại diện triều đình ký với Pháp trên chiến hạm Dupéré đậu trên sông Sài Gòn. Pháp đòi triều đình thực hiện 3 điều kiện:
1. Nhượng 3 tỉnh miền Đông cho Pháp.
2. Nạp 20 vạn quan tiền chiến phí.
3. Mở cửa Đà Nẵng, Quảng Yên cho tàu Pháp ra vô buôn bán tự do. Nếu buôn bán với các nước khác phải thông qua ý kiến của Pháp.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #56 vào lúc: 16 Tháng Giêng, 2017, 02:30:12 pm »


16, 17-12-1862: Nghĩa quân tổ chức tấn công các tiểu hạm Lorcha, đốt cháy chiếc số 3 và tiến công đánh chiếm đồn Rạch Tra. Trận này phía Pháp có đại úy Thouronde tử trận. Sau đó quân ta tiến đánh sông Tra, Rạch Gầm.

18-12-1862: Đại úy Taboule chỉ huy tấn công Thuộc Nhiêu (Mỹ Tho).

1863: Trong năm này Nguyễn Trung Trực nhận được sắc chỉ của vua Tự Đức phong chức Quản cơ trấn thủ Bình Thuận.

2-1863: Viện binh Pháp trở lại đánh chiếm Gò Công, Nguyễn Trung Trực chuyển quân về Long Thành, Phước Lý và Tân Uyên.

1864: Tên phản bội Huỳnh Công Tấn dẫn Pháp tấn công vào Phước Kiến. Trận này Trương Định tử thương. Thủ khoa Huân bị bắt, Pháp đày ông ra đảo Réunion.

20-6-1867: Quân Pháp chiếm Vĩnh Long.

22-6-1867: Quân Pháp chiếm Châu Đốc.

24-6-1867: Quân Pháp chiếm Hà Tiên (trong tháng 6- 1867 Nguyễn Trung Trực được vua Tự Đức sắc phong chức Thành thủ úy trấn nhậm Hà Tiên. Nhưng khi đến nơi quân Pháp đã chiếm mất rồi. Ông lui về Hòn Chông lập căn cứ chống Pháp).

16-6-1868: Đúng 4 giờ sáng, Nguyễn Trung Trực tấn công đồn Kiên Giang giết được tên chủ tỉnh Chánh Phèn, trung úy Sauterne, thiếu úy Gamard và một số binh lính khác. Riêng cai ngục Duplessix ngủ ngoài đồn nên thoát chết. Tên Chomb, thông ngôn của Pháp bị bắt, sau được ông Nguyễn tha.

18-6-1868: Trung tá hải quân Ansart kéo quân từ Vĩnh Long về tiếp cứu đồn Kiên Giang. Trong đoàn này có hai tên bán nước Trần Bá Lộc và Nguyễn Hữu Phương.

21-6-1868: Quân Pháp chiếm lại đồn Kiên Giang.

19-9-1868: Nguyễn Trung Trực ra Phú Quốc lập căn cứ chống Pháp.

9-1868: Thông báo hạm GeolanáL ghé vào Hà Tiên rước Huỳnh Công Tấn với 125 lính mã tà đi ra Phú Quốc tấn công Nguyễn Trung Trực.

10-1868: Nguyễn Trung Trực bị bắt, Pháp đem về giam ông tại khám lớn Sài Gòn. Chúng dụ dỗ không được liền tuyên án tử hình.

21-10-1868: Pháp xử chém Nguyễn Trung Trực tại Kiên Giang.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #57 vào lúc: 16 Tháng Giêng, 2017, 02:31:55 pm »


II. NHỮNG SỰ KIỆN ĐẶC BIỆT XẢY RA TRƯỚC VÀ SAU CÁI CHẾT CỦA NGUYỄN TRUNG TRỰC

Như chúng ta đã hiểu, Nguyễn Trung Trực là lãnh tụ nghĩa quân kháng Pháp rất quyết liệt. Những thắng lợi của ông làm cho Pháp phải kinh hoàng, vị nể. Chúng rất lo sợ nếu không khuất phục được ông thì công cuộc xâm lăng đất nước này sẽ có nhiều trở ngại. Vì thế đối với ông, chúng áp dụng hai biện pháp. Một là, dùng chức quyền, tiền bạc mua chuộc và khuyên dụ để ông chịu hợp tác với Pháp như bọn Huỳnh Công Tấn, Trần Bá Lộc. Đỗ Hữu Phương... Hai là, nếu dùng biện pháp trên không được thì khẩn cấp loại trừ ông.

Ý đồ của chúng đã thành công. Nguyễn Trung Trực bị bắt và không chịu làm tay sai cho kẻ thù. Ông bị kết án tử hình tại tòa án Sài Gòn, rồi đưa ông về Kiên Giang để thi hành án. Ông hiên ngang chết dưới lưỡi dao bén ngọt của tên đao phủ bòn Tưa (bòn Tưa là tên đao phủ người dân tộc Khơ Me được Pháp mướn. Cứ chặt một cái đầu tử tội thì hắn được hưởng một quan tiền). Cái chết của ông trở thành bất tử. Ông sẽ sống mãi trong lòng dân tộc.

Nhưng ở đây, muốn nói đến những điều đặc biệt đã xảy ra trước và sau cái chết của ông. Cái chết này không đơn giản, bình thường như những cái chết của bao tử tội khác. Dân gian thường nói: "Thắng làm vua, thua làm giặc". Ở đây Nguyễn Trung Trực là kẻ thua thì có thể bị kẻ thắng xử lý bằng mọi hình thức, kể cả việc băm vằm thân thể ra trăm mảnh cho hả cơn tức giận cuồng điên... Nhưng không, kẻ thù (Pháp) đối với ông rất kính trọng và vị nể. Trước giờ hành quyết ông, dân chúng Kiên Giang ùn ùn kéo đến dinh chủ tỉnh xin cho làm lễ tế sống Nguyễn Trung Trực. Chúng liền chấp thuận ngay. Hành vi này cũng có hai mặt: một là do lòng kính trọng đối với ông, con người có nhiều phẩm chất anh hùng cao cả, hai là mong làm giảm bớt lòng căm phẫn của nhân dân. Nếu không đáp ứng, e xảy ra cuộc bạo loạn. Đó cũng là thủ đoạn chính trị của bọn thực dân.

Sau đó, dân chúng liền lập bàn hương án, có đầy đủ hương đăng, hoa quả. Chiếu bông được trải dài từ bục chém cho đến bàn hương án (Có tài liệu nói là trải chiếu dài từ khám lớn cho đến pháp trường). Loại chiếu này ở giữa có in chữ Thọ (chữ Hán), màu sắc đỏ tươi, rực rỡ do dân Tà Niên gấp rút dệt tặng ông. Chữ Thọ này nói lên ý nghĩa rất thâm sâu là dù ông có chết nhưng tên tuổi ông sẽ trường tồn trong lòng mọi người. Kế đến người ta dâng lên ông mâm áo vạt hò (loại áo mà ông thích mặc khi xung trận). Tiếp đến là mâm cơm, bầu rượu, trái dừa tươi... Dân chúng thành khẩn mời ông mặc, ông ăn, ông uống cho được no lòng trước khi đi về cõi thiên thu. Ông vui vẻ mỉm cười hưởng trọn vẹn niềm yêu thương của dân tộc.

Trong những giây phút cuối cùng, ông cũng còn biểu hiện tính khí anh hùng để cho kẻ thù phải khiếp sợ. Đó là khi tên chỉ huy cuộc hành quyết xuống lệnh: "Chém" mà tên đao phủ vẫn chưa chém. Nó đứng chết trân, tay chân run cầm cập. Nó quỳ xuống lạy ông và nói: "Xin ông hãy thông cảm, vì Pháp nó mướn con". Ông nói: Pháp mướn mày chém tao thì mày cứ chém, nhưng chém phải cho ngọt, nếu không tao sẽ vặn cổ mày. Sau đó tên đao phủ mới dám khai đao. Khi lưỡi dao lướt qua làm đầu ông lìa khỏi cổ sắp rơi xuống đất, hai tay ông vội kềm lại, mắt trợn tròng nhìn thẳng xuống hàng ghế của bọn chỉ huy Pháp làm chúng hết hồn ù bỏ chạy tán loạn. Ông nhìn qua tên đao phủ với cặp mắt trừng trừng làm hắn kinh hoàng hét lên một tiếng "á" thật to... Máu từ trong miệng hắn vọt ra và ngã xuống giãy giụa một lúc rồi chết.

Lúc bấy giờ pháp trường vang lên những tiếng thút thít, đó là tiếng khóc của đồng bào đang chứng kiến cảnh xử tử anh hùng Nguyễn Trung Trực. Một cảnh tượng rất đau thương đối với một con người đã hết lòng vì dân vì nước, mà đến khi chết thân thể không còn nguyên vẹn. Người ta nói thêm rằng, sau đó trời đổ cơn mưa dữ dội, sấm sét nổ rền trời, chứng tỏ trời cũng động lòng thương tiếc!... Sau đó chúng vội đem chôn ông sau đồn để tiện bề canh giữ, vì chúng sợ nhân dân sẽ cướp xác ông đi.

Bẵng đi một thời gian, trong một đêm trời khuya thanh tịnh, bỗng dưng nổi lên tiếng binh khí chạm nhau chan chát, tiếng chân chạy tới chạy lui nghe huỳnh huỵch, tiếng la hét râm ran giống như tiếng xung trận của nghĩa quân đánh đồn Kiên Giang lúc trước, làm cho bọn lính trong đồn kinh hồn bạt vía. Nhiều lần như vậy làm cho bọn Pháp mất ngủ, chúng liền lấy dây xích sắt xiềng quanh ngôi mộ và rải vàng mã ở bốn góc đồn, gọi là trừ ma yếm quỷ. Nhưng lạ thay, sáng hôm sau chúng xem lại thì thấy dây xích sắt đều đứt cả. Chúng cho đội lính kèn đứng quanh mộ thổi, vì chúng cho rằng hồn ma rất sợ tiếng kèn. Nhưng không, toán lính kèn thổi vừa xong đều ngã lăn quay xuống đất hộc máu chết. Sau đó chúng trồng một cây đa và lập miếu nhỏ để thờ với lòng thành khẩn vái van xin đừng phá phách nữa.

Tuy thế, dân gian vẫn kể thỉnh thoảng lại thấy Nguyễn Trung Trực và nghĩa quân hiện hồn về phá đồn giặc ở dinh Vĩnh Hòa (chỗ Sở Điện lực hiện nay) hay một mình ông cưỡi ngựa phi trên nóc đồn Kiên Giang và phi ngựa trên biển chạy ra Hòn Tre, giết chết hàng chục tên lính Pháp (Nguyễn Trung Trực - chuyện kể dân gian).

Những sự việc trên đọc qua cảm thấy rất hoang đường, phi lý, dễ bị kích động là dị đoan, mê tín. Nhưng không, đây là truyền thuyết dân gian đậm đà nét dân tộc. Nâng cao sự tôn sùng, kính trọng tuyệt đối của nhân dân đối với nhân vật lịch sử đã làm được những điều kỳ vĩ giúp dân, giúp nước...

Trong Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu có viết: "Sống đánh giặc, chết cũng đánh giặc. Hồn linh theo giúp cơ binh, nguyện trả được thù kia".
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #58 vào lúc: 16 Tháng Giêng, 2017, 02:37:13 pm »


III. LÒNG KÍNH TRỌNG CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI VỊ ANH HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC

Đối với Nguyễn Trung Trực, trong 8 năm chiến đấu chống xâm lược Pháp - thời gian không dài nhưng ông đã tạo được đỉnh cao uy tín và lòng thương mến của nhân dân hơn các quan chức, vua chúa đương thời. Lúc còn sống vua chúa không ban cho ông làm tướng, làm soái. Nhưng nhân dân và nghĩa quân phong cho ông làm tướng, làm soái. Nên người ta thường gọi ông là "ông Tướng, "ông Soái", còn nghĩa quân thì gọi là Chủ tướng hay Chủ soái hoặc là Bình Tây Đại Nguyên soái. Sau khi ông chết, nhân dân phong tặng ông chức Thượng đẳng Đại thần. Thật là xứng đáng!

Trong hầu hết 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long chưa thấy có vua chúa, quan chức hay lãnh tụ nào có công với đất nước mà sau khi chết được xây dựng đền thờ nhiều như Nguyễn Trung Trực. Có hàng chục ngôi đền thờ ghi rõ chính danh: "Đình thần Nguyễn Trung Trực". Ngoài đền thờ chính còn có rất nhiều đền thờ ghép (tức là đình làng nào đó thờ phúc thần hay nhân thần rồi thờ thêm hình Nguyễn Trung Trực, như đền thờ thần ở Bình Thủy (Cần Thơ), v.v... Còn một số nhà treo ảnh thờ riêng như thờ Cửu huyền thất tổ của họ vậy, nhất là các gia đình ở tỉnh Kiên Giang, An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp...

Hàng năm đến ngày 27, 28 và 29 âm lịch, bà con ở các tỉnh đi về Kiên Giang dự lễ giỗ của ông rất đông. Người khá giả, giàu có thì cúng tiền bạc hoặc vật dụng dùng trong ngày lễ như gạo, muối, nước tương, bầu bí, v.v... Người nghèo thì đến làm công quả hằng mươi bữa, nửa tháng, khi nào xong việc mới về. Họ đến với thiện tâm tự nguyện chứ không đòi hỏi quyền lợi gì cả. Vùng miền Tây có câu thơ nhắc nhở là:

      Dù ai buôn bán gần xa
      Ngày giỗ cụ Nguyễn thì ta nhớ về.


Sau đây là danh sách một số đình chính (đình thần Nguyễn Trung Trực) ở trong và ngoài tỉnh Kiên Giang:

1. Tỉnh Kiên Giang:

- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại thị xã Rạch Giá.
- Đình thần Nguyền Trung Trực tại Mong Thọ (Tân Hiệp).
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại Tân Điền.
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại Mỹ Lâm.
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại Sóc Soài.
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại huyện Hòn Đất.
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại Phú Quốc.
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại Gò Quao.
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại Tà Niên (thờ chung với Lâm Quang Ky).

2. Tỉnh An Giang:
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại Long Giang (huyện Chợ Mới).
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại Vĩnh Trạch (thị xã Long Xuyên).

3. Tỉnh Cần Thơ:
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại huyện Long Mỹ.

4. Tỉnh Sóc Trăng:
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại Long Phú (huyện Kế Sách).
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại An Lạc thôn (huyện Kế Sách).
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại Phú Lộc (huyện Thạnh Trị).

5. Tỉnh Bạc Liêu:
- Đình thần Nguyễn Trung Trực tại An Hòa (huyện Giá Rai).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #59 vào lúc: 16 Tháng Giêng, 2017, 05:53:13 pm »


IV.

Trong quyển "Le premièrès années de la Cochinchine colonie Française" Paulin Vial thuật việc tấn công tàu Espérance như sau:

"Lúc giữa trưa ngày 10 tháng 12, Trực lợi dụng viên sĩ quan chỉ huy chiếc tiểu hạm Espérance đuổi theo bọn gian phi cách tàu khoảng 2 dặm. Bốn hoặc năm chiếc ghe lớn có mui thả trôi theo hông tàu, đoàn thủy thủ nghỉ ngơi trên sàn tàu không nghi ngờ gì, viên hạ sĩ quan giữ chức vụ phụ tá, thò mình ra cửa sổ vì tưởng rằng người buôn bán muốn xin thị nhận giấy phép lưu thông. Tên vô phước này đã bị giết bằng một mũi giáo vào ngực và đoàn người đột kích phóng mình từ dưới mui những chiếc ghe cặp sát tàu vừa la hét khủng khiếp vài phút đồng hồ, sàn tàu tràn ngập hơn một trăm năm chục người Việt Nam cầm giáo, gươm và đuốc và một cuộc giáp chiến lực lượng không tương xứng diễn ra. Trong vài phút đồng hồ, lửa bắc qua mái rơm của chiếc tiểu hạm và cháy lan mau chóng. Bị lửa táp, những người giao chiến nhảy bổ xuống sông hay chạy thoát vào trong những chiếc ghe. Năm người trong đoàn thủy thủ: 2 người Pháp và 3 người Tagal không khí giới trốn trên một chiếc ghe chèo thục mạng. Từ xa họ thấy chiếc Espérance nổ tung mà những mảnh vỡ văng ra đến tận hai bờ sông chôn vùi xác chết của 17 người Pháp và Tagal bị giết trong tai biến này.

Thuyền trưởng Parfait, sĩ quan trẻ tuổi, hoạt động và can đảm đã được tuyên dương vì chỉ huy xuất sắc trong nhiều trận chiến, được chiếc ghe thoát hiểm báo tin, ông ta đến xin vài người tiếp viện ở tàu Garonne và trở lại chỗ xảy ra thảm kịch cùng ngày. Ông ta gặp 3 tên Tagal bị địch quân bắt, nhờ lúc tàu nổ mà trốn thoát, những tên bất hạnh này trốn sau những bụi rậm và ở yên trong một cái đầm nước sâu tới miệng chờ cứu viện.



V.

Ông Dương Công Thuyên, người Rạch Giá, làm thầy thuốc Bắc, giỏi Hán tự và y dược, có tư tưởng cách mạng và tinh thần yêu nước, ông có sáng tác thơ văn nhưng có lẽ ông là bạn của Nguyễn Trung Trực nên người nhà sợ liên lụy mà thiêu hủy đi chăng.

Trước khi Nguyễn Trung Trực đến chợ Rạch Giá đã cho thuộc hạ đến dò tìm những người yêu nước. Sau đó ông mới tìm đến và gởi mẹ già ở nhà ông Dương Công Thuyên. Nhà ông ở tại chợ Rạch Giá.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM