Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 02:48:34 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Việt Nam giải phóng quân - Nhớ lại bước khởi đầu  (Đọc 27005 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #50 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 12:55:45 am »


        Từ Tân Trào, đoàn công tác này đã dần bắt mối gây cơ sở sang vùng Sóc Đăng, qua Yên Kiện, Chân Mộng, Đại Lục, Đào Giã, Thái Ninh, Hanh Cù, Chính Công, Thanh Ba, Hạ Hòa, Vũ Ẻn, vượt sông Hồng sang Mộ Xuân (huyện Yên Lập) rồi trở lại Cẩm Khê sát tới Phú Thọ; tạo thành một hành lang với nhiều cơ sở cách mạng. Đi tới đâu, đội Võ trang tuyên truyền Nam tiến đều tổ chức được các đoàn thể cứu quốc, các đội tự vệ; phân công một đồng chí ở lại để huấn luyện chính trị, quân sự cho quần chúng, các đoàn thể cứu quốc, các đội tự vệ và lãnh đạo quần chúng; tiếp tục bổ sung người cho đội.

        Khi đơn vị đến cách Phú Thọ 3 đến 4 ki-lô-mét thì nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa. Phối hợp với lực lượng cách mạng địa phương, đơn vị đã "thanh viện" cho quân khởi nghĩa, quân khởi nghĩa đã thu được 100 súng của bọn Nhật đóng ở đây. Sau ngày 23 tháng 8 năm 1945, đồng chí Hiến Mai lại được lệnh đưa đơn vị sang vùng Bình Xuyên (Vĩnh Yên) cùng phối hợp với đơn vị đồng chí Hoàng Sâm đánh bọn Quốc dân đảng phản động Đỗ Đình Đạo.

        Sau giải phóng Tam Đảo, đồng chí Trung Đình về Đồng Hỷ tham gia củng cố, phát triển phong trào ở đây và cùng các đồng chí ở Phổ Yên, Phú Bình phát triển phong trào ra Thịnh Đán, vùng giáp thị xã Thái Nguyên, chuẩn bị vào thị xã.

        Phía bắc Đại Từ, đồng chí Nhị Quý phụ trách cơ quan đóng ở xóm Đồng Măng, xa Văn Lãng, sát chân đèo qua núi Hồng, điểm án ngữ cửa ngõ vào Tân Trào từ phía Thái Nguyên. Quân Nhật đã ba lần đánh vào Đại Từ và cả ba lần chúng ũều bị Giải phóng quân và du kích chặn đánh, tiêu diệt, số còn lại phải rút chạy. Đó là các trận Vai Cầy, trận Hoàng Nông - La Bằng và trận xóm Đèo ở xã An Lạc. Sau các trận đó, giặc Nhật không dám vào chiến khu nữa.

        Ngày 12 tháng 8 năm 1945, đồng chí Nhị Quý được lệnh chuẩn bị đón đại quân từ Tân Trào sang để giải phóng thị xã Thái Nguyên, do đồng chí Võ Nguyên Giáp tổng chỉ huy.

        Như vậy là trước ngày có lệnh Tổng khởi nghĩa các con đường đưa quân cách mạng tiến vào giải phóng Tuyên Quang, Thái Nguyên đã sẵn sàng. Khu giải phóng ngày càng được mở rộng. Từ đây con đường về xuôi cũng đã được đánh thông. Tất cả chỉ còn chờ lệnh phát ra từ Tân Trào, từ "Đại bản doanh cách mạng". Chân trời phía đông đã ửng hồng. Một kỷ nguyên mới của dân tộc sắp bắt đầu.

        Thời gian ấy, tại Tân Trào đang diễn ra những sự kiện chính trị lớn, quyết định vận mệnh của toàn dân tộc ta. Ngày 13 tháng 8 năm 1945, tôi được triệu tập dự Hội nghị toàn quốc của Đảng, Hội nghị đã làm việc trong không khí hết sức khẩn trương, vì tình hình thế giới đang chuyển biến mau lẹ. Hội nghị quyết định phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Tổng Bí thư Trường Chinh được cử làm Chủ tịch ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Hội nghị cũng bầu bổ sung một số ủy viên Trung ương Đảng. Tôi còn nhớ mãi vẻ mặt ân cần của đồng chí Hoàng Quốc Việt khi đưa cho tôi lá phiếu bầu.

        Hội nghị toàn quốc của Đảng vừa bế mạc thì ngay hôm sau, ngày 16 tháng 8 năm 1945, Đại hội quốc dân khai mạc ở đình Tân Trào. Đại hội quốc dân, tiền thân của Quốc hội ta ngày nay, đã thảo luận và nhất trí thông qua chủ trương của Việt Minh và cử ra ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức Chính phủ lâm thời do cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

        Bác xuất hiện với cái tên Hồ Chí Minh ở Tân Trào từ ngày ấy. Ngày 17 tháng 8 năm 1945, trước đình Tân Trào, đứng trên Hòn Đá Thề, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời thề kiên quyết lãnh đạo nhân dân chiến đấu chống quân thù giành lại độc lập cho Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suốt đời phấn đấu cho dân, cho nước.

        Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là “Anh hùng giải phóng dân tộc” và "Nhà văn hóa kiệt xuất" của Việt Nam mà còn là "hiện thân những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định diện mạo văn hóa của mình và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau” như hội đồng UNESCO đã nhất trí đánh giá...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #51 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 12:56:41 am »


NHỮNG NĂM THÁNG HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG Ở THÁI NGUYÊN (BẮC THÁI)

LÊ TRUNG ĐÌNH (Nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp)       

        Sáng ngày 11 tháng 10 năm 1944, chúng tôi 12 đồng chí ở nhà tù Chợ Chu, Thái Nguyên đã vượt ngục. Trong số 12 đồng chí có các đồng chí Song Hào, Nhị Quý, Trần Thế Môn, Lê Hiến Mai, Lê Trung Đình... Đồng chí Song Hào, bí thư chi bộ nhà tù là người tổ chức và phụ trách việc vượt ngục. Đồng chí Dục Tôn - cán bộ của Xứ ủy và đồng chí Lộc Văn Tư là cán bộ địa phương. Cả hai đồng chí được Xứ ủy giao nhiệm vụ đón chúng tôi ở một địa điểm đã hẹn trước khu rừng Phúc Sinh để đưa chúng tôi về tập kết ở xã Văn Lãng huyện Đại Từ, Thái Nguyên. Địa điểm tập kết cuối cùng là nhà cụ Bảo Loan xã Na Mao để chờ đại diện Xứ ủy đến giao công tác. Trên đường đi, có một số đã được phân công rải ra các vùng lân cận thuộc tỉnh Tuyên Quang. Đoàn chỉ còn lại một số đồng chí như Song Hào, Nhị Quý, Lê Trung Đình... Cán bộ địa phương có các đồng chí Trung Lập, Tân Hưng tổ chức đưa đón và giúp đỡ chúng tôi.

        Tôi và một số được phân công ở ngay Đại Từ. Tôi về thôn La Phát thuộc xã Khôi Kỳ tổng Đội Cấn1 (Mật danh khi đó) (gần thị trấn Hùng Sơn); anh Nhị Quý về xã La bằng gần chân núi Tam Đảo). Cộng tác với chúng tôi có các anh Nhất Quý, Phúc Quyền... ở La Bằng, anh Luyện ở La Phát, Khôi Kỳ, và một số đồng chí khác... là đội viên du kích Tràng Xá, Đình Cả, Vũ Nhai.

        Anh Song Hào là người phụ trách chung; chỉ đạo phân khu B ở tạm nhà cụ Sàng xã Văn Lãng để tiện việc chỉ đạo chung. Tôi đến thôn La Phát ở nhà ông Đắc, một quần chúng người Sán Chỉ được một thời gian... Bọn tổng đoàn, lý trưởng lùng sục rất gắt gao... Tôi trở vào La Bằng ở nhà cụ bà Đại Quyết, có nhiệm vụ xây dựng cơ sở ở vùng này cùng anh Nhị Quý, nhưng cũng không được bao lâu lại về xã Văn Minh nhà cụ Sàng (chỗ anh Song Hào) gần đèo Khế để hoạt động quanh vùng đó và hướng ra Phú Minh củng cố vệt từ Văn lãng qua Hoàng Nông, La Bằng xuống đồn điền Yên Rã, để thông xuống Ký Phú, Cát Nê... (vệt chân núi Tam Đảo).

        Khoảng tháng giêng 1945 tôi được điều sang châu Sơn Dương đến thôn Thượng xã Thanh La và Ao Bục, một bản đồng bào Dao thuộc xã Thanh La gần Kim Quan Hạ, xã Khui Kịch nhà lý Hương (Tân Trào)... Anh Song Hào thời gian đó cũng về Tuyên Quang lấy Khởi Phát làm địa điểm xây dựng cơ quan phân khu B. Cơ quan phân khu B thuộc chiến khu II, lúc đó có cả các đồng chí Trần Thế Môn và Lê Hiến Mai. Tết năm ấy (Ất Dậu) 1945, sau năm cái Tết ở trong tù, tôi về cơ quan phân khu ăn tết (thịt hươu và chuối xanh) với các đồng chí Song Hào, Trần Thế Môn và Lê Hiến Mai, một cái Tết tự do, tình nghĩa. Sáng mùng hai Tết, tôi trở lại Ao Bục cùng với bà con dân bản vui một cái Tết "Tình dân nghĩa Đảng".

        Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, tình hình rất khó khăn, khẩn trương, có chuyển biến lớn... Theo quyết định của ban chỉ đạo phân khu B, một số chúng tôi đang công tác ở gần đó đều tập trung lại, đánh giá tình hình để có hành động kịp thời, trước hết là tước vũ khí bọn lính dõng, phục kích bọn lính lê dương ở Lũng Cò và những vùng chung quanh trại Nhật từ phía Thái Nguyên, Tuyên Quang qua Sơn Dương để ra biên giới. Sau đó tất cả chúng tôi và một số anh em dân quân du kích, tổ chức thành một đơn vị Cứu quốc quân có trang bị đầy đủ vũ khí: tiểu liên, súng trường gióp 5, gióp 3, khai hậu súng kíp và lựu đạn...

        Đại bộ phận tiến thẳng ra giải phóng châu Sơn Dương. Tôi và anh Chu Nhữ được phân công ở lại cùng với một số cán bộ địa phương tích cực công tác như đồng chí Bút Ngọc ở xã Thanh La và đồng chí Đao, cán bộ dân tộc Dao, sau làm Phó chủ tịch huyện Sơn Dương; đồng chí Trần Thủ Đô, nguyên là cán bộ tuyên truyền Cứu quốc quân châu Hồng Thái, sau làm Phó chủ tịch ủy ban hành chính châu Yên Sơn, Tuyên Quang, nay dang nghỉ hưu ở xã Trung Sơn huyện Yên Sơn, Tuyên Quang; đồng chí Lý Văn Quyết ở Tân Trào, Sơn Dương hiện nay ở xã Đông Thọ, hợp tác xã Hạ Sơn. Nhiệm vụ chủ yếu của chúng tôi là xây dựng, củng cố phát triển cơ sở ở khu vực Thanh La, Kim Quang... tiếp tục truy lùng bọn tàn binh Pháp (lính lê dương) còn lẩn trốn ở trong rừng, vận động nhân dân ủng hộ, giúp đỡ bộ đội, lương thực, thực phẩm cho Cứu quốc quân, xây dựng chính quyền xã, ủy ban cách mạng giải phóng trừng trị bọn việt gian thân Nhật; thu huỷ bỏ bằng sắc của chế độ cũ Pháp, Nhật và bọn tay sai...

        Sau khi giải phóng huyện Đăng Châu (Sơn Dương) anh Tạ Xuân Thu, tôi và anh Phương Cương được phân công sang giải phóng Chợ Chu, Định Hóa, Thái Nguyên. Hai anh Tạ Xuân Thu và Phương Cương tranh thủ đi trước, khi đơn vị đến Chợ Chu thì bọn lính bảo an và tên đồn trưởng đã chạy trốn về thị xã Thái Nguyên. Tri phủ Tinh ra hàng... Nhân dân thị trấn Chợ Chu và các xã lân cận như Làng Mò, Phúc Sinh, Đồng Quầng rất phấn khởi vui mừng ra đón Cứu quốc quân "Bộ đội Việt Minh", giúp đỡ ủng hộ lương thực, thực phẩm... đặc biệt, bà con buôn bán ở thị trấn Chợ Chu có quan hệ với nhà tù, trước nhất là một số anh em viên chức có cảm tình với cách mạng với những kỷ niệm như cái Tết Giáp Thân 1944. Một đêm văn nghệ không thể quên do chính anh em tù chính trì Chợ Chu tự biên tự diễn. Sau khi tri phủ Tinh ra hàng, Định Hóa hoàn toàn giải phóng. Thế là sau châu Sơn Dương, Định Hóa đã được giải phóng.

        Anh Tạ Xuân Thu chỉ huy đội Cứu quốc quân tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ mới. Tôi và anh Phương Cương ở lại Định Hóa cùng với anh Vũ Hưng và một số cán bộ địa phương và anh Thượng tổ chức một cuộc mít tinh lớn hàng ngàn người tham dự. Đại diện Việt Minh tuyên bố chính quyền tay sai Nhật - Pháp đã đầu hàng cách mạng, từ nay chính quyền thuộc về nhân dân các dân tộc trong huyện. Đại diện Việt Minh còn giới thiệu chính sách và điều lệ Việt Minh; những nhiệm vụ trước mắt phải làm như. cảnh giác đề phòng bọn Nhật từ thị xã có thể đánh lên Định Hoá; vận động nhân dân tăng gia sản xuất để chống đói, đi học bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ, giúp đỡ bộ đội; xây dựng chính quyền cách mạng ở các xã, tổ chức dân quân tự vệ du kích chiến đấu, tịch thu vũ khí của địch ở các đồn điền. Chính quyền cách mạng chia thóc cho tá điền và nhân dân xã Đồng Quầng, sau đó tiếp tục thi hành chính sách giảm tô giảm tức trong những năm 1945 và năm 1950...

        Lúc đó vấn đề chia ruộng đất cho tá điền tạm gác lại theo tinh thần chính sách của mặt trận; tạm quản chế tri phủ Tỉnh ở gần đèo So, nơi cơ sở quần chúng rất tốt để chờ xin chỉ thị cấp trên. Cùng trong thời gian này, chính quyền nhân dân các dân tộc ở huyện ra mắt quần chúng. Đồng chí Ma Đình Tương làm Chủ tịch ủy ban lâm thời Định Hoá; tiếp đó ở hầu hết các xã đều được thành lập chính quyền, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời, tổ chức dân quân tự vệ. Một số cán bộ cốt cán ở địa phương như đồng chí Vũ Hùng ở Quang Vuông, đồng chí Mộc Văn Tiến, Bí thư xã Minh Thuật và các đồng chí Nguyễn Văn Sạch, Nguyễn Văn Nhậm... đều tham gia công tác Việt Minh rất tích cực trong những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, xây dựng chính quyền và các đoàn thể trong huyện.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #52 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 12:57:03 am »


        Gặp giải phóng quân Nam tiến

        Ngày 1 tháng 5 năm 1945, trên đường đi công tác về phía Chợ Đồn tỉnh Bắc Cạn, tôi gặp bộ đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí Đàm Quang Trung chỉ huy đang từ Cao Bằng xuống Tân Trào, Sơn Dương. Tôi và một tiểu đội cùng đi có dự cuộc mít tinh kỷ niệm ngày 1 tháng 5 do Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tổ chức ở Chợ Đồn... Khi về đến Chợ Chu, đồng chí Võ Nguyên Giáp sang Kim Quang Thượng (Tân Trào) đại bộ phận Giải phóng quân đóng lại Định Hóa, riêng đại đội Vị đóng ở Quán Vuông làm nhiệm vụ bảo vệ. Đồng chí Võ Nguyên Giáp về Tân Trào gặp đồng chí Song Hào; để bàn tìm địa điểm xây dựng căn cứ. Chúng tôi đã chọn vùng Tân Trào để đón Bác Hồ về. Đồng chí Võ Nguyên Giáp viết trong hồi ký của mình: "Tôi trở về Kim Quan Thượng bàn với anh Song Hào; chúng tôi nhận thấy nên chọn vùng Tân Trào là một vùng rừng núi hiểm trở giữa Tuyên Quang và Thái Nguyên, xa đường cái lớn, từ ngày các anh Song Hào, Tạ Xuân Thu, Lê Trung Đình vượt ngục Chợ Chu ra xây dựng cơ sở thành lập chính quyền cách mạng, nhân dân và cơ sở vùng này rất tốt".

        Một hôm tôi cùng đồng chí Vũ Hưng và một số cán bộ chủ chốt ở địa phương được quân du kích ngoài trạm gác về báo cáo bắt một người rất khả nghi khám người không có giấy tờ gì... Người này xin gặp đồng chí Đội Đình (nhân dân Tân Trào, Tuyên Quang và Định Hóa, Thái Nguyên thường gọi tôi là Đội Đình vì khi đi công tác xuống cơ sở tôi thường mang theo một tiểu đội dân quân du kích). Khi tôi ra trạm gác mới biết người bị bắt không phải là việt gian mà là đồng chí Tịu Con, người cùng ở tù với chúng tôi ở Chợ Chu. Tôi cởi trói cho đồng chí ấy và đưa về cơ quan huyện mời ăn một bữa cơm thanh đạm nhưng chứa chan tình cảm bạn tù lâu ngày gặp nhau. Tịu Con suýt nữa chết oan chỉ vì tội không có giấy tờ gì mà dám tự tiện đột nhập vào khu căn cứ địa giải phóng. Sau vài ngày nghỉ ngơi, tôi bàn với anh tổ chức một trung đội dân quân du kích có đủ vũ khí do anh chỉ huy về Phú Lương hoạt động; nhiệm vụ dân quân tự vệ chiến đấu, đơn vị vũ trang của anh hoạt động như tính chất một đơn vị vũ trang tuyên truyền. Lúc này đồn Phấn Mễ ở Phú Lương vẫn có một đơn vị quân Nhật đóng, một trong những điểm chốt ở đường số 3 để bảo vệ mỏ than Phấn Mễ, anh cần tạo điều kiện gấp khi có thời cơ thì diệt đồn Phấn Mễ, giải phóng Phú Lương.

        Còn tôi cũng đưa một tiểu đội ra vùng ki-lô-mét 31 đường số 3. Phố Ngữ, Khuôn Lồng để phát triển cơ sở, xây dựng chính quyền,tổ chức dân quân du kích... bố trí phục kích bọn Nhật trên đường từ Bắc Cạn về Thái Nguyên và ngược lại; phá đường ngả cây, cắt điện thoại để đề phòng việc Nhật thọc vào Chợ Chu, Định Hóa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #53 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 12:57:21 am »


        Về Đại Từ cuối tháng 4 năm 1945

        Trong khi đang làm nhiệm vụ tôi nhận được chỉ thị cấp trên từ Khu giải phóng "phải về ngay Đại Từ (sau Hội nghị quân sự Bắc Kỳ) cùng anh Nhị Quý củng cố và phát triển phong trào quần chúng...”. Ở đây các vùng nông thôn rộng lớn đã được giải phóng. Nhưng ở huyện lỵ Đại Từ, bọn Nhật và tay sai vẫn còn kiểm soát, công việc rất khẩn trương (thời gian tôi phụ trách Định Hóa từ tháng 3 năm 1945 đến cuối tháng 4 năm 1945, lúc đầu có cả anh Phương Cương, anh Thượng, phụ trách quân sự).

        Về các xã phía nam huyện Đại Từ cuối tháng 4 năm 1945

        … "Về phía Ký Phú, Cát Nê, Quân Chu lần đầu tiên tôi đến vào cuối tháng 4 năm 1945 thì ở đó các anh Trường Sơn, Hùng Sơn, Bảo Sơn, Địch Sơn bị Nhật khủng bố phải rút từ Hùng Sơn về Cát Nê hợp lực với đơn vị của các anh Thạch Sơn, Thanh Sơn, Tam Sơn, Ngân Sơn, Kim Sơn, Thái Sơn, Hồng Tâm, Mai Sơn... đang cùng với một số thanh niên người địa phương và thanh niên từ xuôi lên Tam Đảo bị Nhật khủng bố cũng chạy xuống Quân Chu (Lán Than)1 (Lán Than: là nơi có lò đốt than củi, thuộc làng Quân Chu. Đội du kích Quân Chu, Tam Đảo lập căn cứ và trú quân ở đó). Các anh đã tổ chức và hình thành một đơn vị tự vệ chiến đấu và đề nghị đặt tên là đội Cứu quốc quân. Tinh thần chiến đấu của các anh rất cao, chịu đựng gian khổ để đối phó với bọn Nhật từ Đại Từ tiến công vào và từ Tam Đảo xuống Quân Chu. Theo chỉ thị của cấp trên, tôi có nhiệm vụ phải xuống đó giúp các anh tổ chức chỉ đạo phát triển phong trào từ Quân Chu xuống vùng Phúc Thuận, Trung Năng, Đồng Muốn và sang giúp Đồng Hỷ, nhằm bảo ve đường giao thông từ miền xuôi lên khu căn cứ và căn cứ Tân Trào về Trung ương; đồng thời giao nhiệm vụ cho nhóm anh Thạch Sơn nắm tình hình bọn Nhật ở Tam Đảo rồi trở về cơ quan huyện... Sau khi nhận được chỉ thị cấp trên, tôi tổ chức một tiểu đội phát triển qua đường Quảng Nạp, Phú Minh rồi về ngay các xã Văn Minh, Cao Vân, nơi cơ quan lãnh đạo huyện ở đó. Tôi làm việc trao đổi tình hình với anh Nhị Quý. Anh Nhị Quý ở lại trụ sở của huyện chỉ đạo củng cố phong trào chung của huyện. (Trong khi công tác ở cơ quan huyện được tin ta phát hiện một tên tay sai của Cung Đình Vận đang trà trộn ở đây, tôi đề nghị cho xử lý ngay). Ở huyện Đại Từ, vẫn còn một đơn vị Nhật và tri phủ Đường ở đó.

        Sau khi làm việc với anh Nhị Quý, tôi trở lại cơ sở; đến các xã La Bằng, Hoàng Nông, La Phát nơi tôi đã hoạt động, rồi ra bản Ngoại dốc Điệp để gặp tri phủ Đường do y đề nghị gặp lãnh đạo Việt Minh qua cơ sở của ta. Khi gặp tôi thái độ y rất sợ hãi và mong Việt Minh hiểu bọn Nhật còn ở huyện lỵ nên y không thể đi theo Việt Minh được...

        Sau khi giải thích chính sách Việt Minh, tôi còn cảnh cáo và răn đe y không được đưa Nhật vào vùng giải phóng khủng bố, càn quét gây khó khăn cho nhân dân trong huyện. Khi gặp tri phủ Đường có hai quần chúng của ta cùng đi với y là Thừa Hỷ và Ký Tọa (sau giải phóng Thái Nguyên các anh đều trở thành cán bộ tốt của ta. Thừa Hỷ làm thẩm phán tòa án tỉnh Thái Nguyên và sau này là một trong hai bồi thẩm xử án Cung Đình Vận ở thị xã Thái Nguyên). Gặp tri phủ Đường xong, tôi lại xuống thẳng Cát Nê và đi tiếp xuống Quân Chu, Lán Than để gặp đơn vị anh Thạch Sơn... Lần này tôi còn gặp cả anh Chuẩn (tức Vũ Tuân) từ Vĩnh Yên đến làm chính trị viên của đơn vị và chị Châu, cán bộ của Xứ ủy trên đường lên căn cứ Tân Trào nhận nhiệm vụ bị tắc đường cũng tạm dừng ở đây. Sau khi các đồng chí báo cáo tình hình bọn Nhật ở Tam Đảo tình hình quần chúng thị trấn Tam Đảo, các xã lân cận Quân Chu và Đồng Muốn, anh Thạch Sơn đưa tôi lên Tam Đảo quan sát tình hình bọn Nhật ở đó. Tôi và anh Thạch Sơn gặp tên Quản bảo an binh. Theo y, ở Tam Đảo chỉ có một tiểu đội Nhật đóng giữ còn lại là lính bảo an có khoảng một trung đội. Nếu Việt Minh đánh Tam Đảo thì tất cả anh em bảo an binh sẽ theo Việt Minh. Nhân dân ở đây đã theo Việt Minh. Khu vực này còn có một số kiều dân Pháp. Một số dân làm phục vụ cho các gia đình Pháp kiều. Xa hơn nữa là làng "An Nam" ở Tam Đảo.

        Sau khi lên Tam Đảo, tôi xuống Lán Than nơi đội du kích Thạch Sơn đóng. Các anh đề nghị đặt tên chính thức của đội và yêu cầu trên cho đánh Nhật ở Tam Đảo vì tình hình rất khẩn trương, anh em binh lính bảo an và nhân dân yêu cầu Việt Minh sớm giải phóng Tam Đảo. Tôi nhất trí có thể đánh được vì chúng chỉ có ít quân, nhưng phải chờ về báo cáo xin chỉ thị cấp trên, khi đánh phải có kế hoạch đối phó với việc chúng có thể từ Vĩnh Yên đánh lên, cũng cần phải có kế hoạch tổ chức cho dân thị trấn tạm sơ tán vào rừng. Sau đó, tôi giao nhiệm vụ cho các anh: tích cực xây dựng và phát triển cơ sở tuyên truyền chính sách Việt minh, có kế hoạch đề phòng bọn Nhật từ thị trấn Đại Từ đưa quân vào khủng bố quần chúng và phải trừng trị bọn việt gian thân Nhật, bọn Đồng minh giả... bảo vệ, giữ vững dường liên lạc từ xuôi lên và ngược lại. Sau đó tôi trở lên Ký Phú. Khi đến khu đình Ký Phú, tôi nhớ lại trong chuyến đi công tác lần trước, khi tôi đang nói chuyện với anh em dân quân du kích thì có tin bọn thật ở huyện lỵ Đại Từ đang từ phía Lục Ba tiến vào. xười phút sau, có hai tên Võ quan Nhật và một tên việt gian, một quần chúng dẫn chúng đi thẳng đến đình Ký Phú xin gặp đại diện Việt Minh. Tôi trực tiếp gặp và một số đồng chí thuộc đơn vị cùng đi như: Thạch Sơn, Trường Sơn, Ngân Sơn, Bảo Sơn, Địch Sơn và Tam Sơn... Khi gặp chúng tôi, bọn Nhật ba hoa... nào là Việt Nam đã được độc lập cùng với Nhật hợp tác để đánh Pháp, chúng nêu thuyết “Đại Đông Á", da vàng với da vàng không giết nhau...

        Nhưng mục đích chủ yếu của chúng là mượn đường qua đèo Khế (Tuyên Quang). Tôi chỉ thị cho anh em dân quân du kích giữ số này lại khai thác thêm tình hình Nhật ở Thái Nguyên, Đại Từ để báo cáo lên cấp trên quyết định.

        Khi về cơ quan lãnh dạo huyện được tin thị trấn Tam Đảo đã được giải phóng, tôi trao đổi ý kiến với anh Nhị Quý cử anh Mô xuống phía Quân Chu, Cát Nê, Ký Phú. Triệu Phú Nghiêm, lý trưởng và cả xã Quân Chu đều theo Việt minh; ở Cát Nê, Ba Gò có các anh Đông Sơn, Thái Sơn cán bộ cơ sở và nhân dân xã này cũng đều theo Việt minh. Nói chung nhân dân vùng này rất tốt, đã tích cực tham gia và ủng hộ Việt Minh, giúp đơ tự vệ du kích.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #54 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 12:58:45 am »

         
       Về Đồng Hỷ - tháng 7 năm 1945

        Về đến Đại Từ được ít ngày, tôi nhận được chỉ thị của cấp trên phải về gấp Đồng Hỷ đến xã Bình Định thuộc Tân Cương gặp chị Tâm để cùng chị củng cố và phát triển phong trào vì ở đây gần thị xã Thái Nguyên. Tình hình lúc này rất khẩn trương (khoảng tháng 7 năm 1945). Chúng tôi cần vận động nhân dân tích cực chống thuế, hoãn thuế, phá kho thóc ở đồn điền, chia cho tá điền để cứu đói cho nhân dân, liên hệ với Phổ Yên, Phú Lương, Phú Bình và phát triển ra Thịnh Đán; vào thị xã Thái Nguyên để nắm tình hình Nhật, tìm hiểu một số quần chúng tốt để đưa lên phục vụ ở chiến khu liên hệ với phong trào ở Võ Nhai để chuẩn bị thành lập ủy ban tỉnh lâm thời đảm bảo đường giao thông từ xuôi lên khu căn cứ giải phóng và ngược lại.

        Sau khi đến Bình Định tôi gặp chị Tâm ở nhà cụ Thân. Chúng tôi đã bàn bạc trao đổi ý kiến về công tác lớn cần phải làm. Chị Tâm cho đồng chí liên lạc đưa tôi về gấp xã Tiên Phù (Phổ Yên) gặp đồng chí Vũ Thị Ngọc (tức Vũ Thị San, cán bộ của Xứ ủy ở nhà cụ Hải Lóng - cơ sở 2 của Trung ương) và đồng chí Quang Huy, người phụ trách huyện Phổ Yên. Tiếp đó, đồng chí Vũ Thị Ngọc đưa tôi sang Kha Sơn Hạ, Phú Bình, đến một số cơ sở cũ của hai huyện Phổ Yên và Phú Bình. Nơi đây là những cơ sở thuộc phạm vi an toàn khu của Trung ương có những đồng chí cán bộ cốt cán địa phương như đồng chí Hải Long, Nguyễn Thị Dần, Mạnh Hùng... (Phổ Yên) các đồng chí Sứ, Nhật Cao, Sơn, Thăng, Phương... và một số chị em phụ nữ ở Phú Bình. Sau đó tôi lại trở về Bình Định Tân Cương qua Mỏ Chè, Tân Quang, Đinh Năng và Bá Vân...

        Tháng 8 năm 1945, tình hình rất khẩn trương... Không khí những ngày tiền khởi nghĩa tháng Tám 1945 vô cùng khẩn trương, tưởng chừng như một ngày bằng hai mươi năm. Trung ương chỉ thị phải hành động gấp để chuẩn bị khởi nghĩa từng phần ở những nơi có điều kiện. Hầu hết các vùng nông thôn ở Thái Nguyên ta đã kiểm soát, trừ huyện lỵ Phú Bình, thị xã Thái Nguyên, thị trấn Đại Từ, Phấn Mễ - nơi còn Nhật và chính quyền tay sai chiếm đóng. Sau ngày 15 tháng 8 năm 1945, Hội nghị Trung ương toàn quốc họp ở Tân Trào đã cử ra Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc, Trung ương cử đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trần Đăng Ninh đưa bộ đội Việt Nam Giải phóng quân và đại đội Việt-mỹ do đồng chí Đàm Quang Trung chỉ huy về giải phóng thị xã Thái Nguyên, làm điểm để rút kinh nghiệm giải phóng đô thị trong phạm vi toàn quốc. Lúc đó ở Đồng Hỷ, tôi, đồng chí Tâm, một số các đồng chí chủ chốt như Ngọc Lan, Sinh, Hoài và đồng chí Tẩy (liên lạc của Xứ ủy) nhận được chỉ thị phải gấp rút chuẩn bị đầy đủ lượng thực, thực phẩm, rau xanh để đón Giải phóng quân về giải phóng thị xã Thái Nguyên. Các huyện thuộc phía Bắc Thái Nguyên như Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương cũng nhận được chỉ thị trực tiếp từ khu căn cứ giải phóng Tân Trào; các huyện về phía nam như Phổ Yên, Phú Bình và Võ Nhai cũng nhận được chỉ thị phải chuẩn bị gấp đưa một số lực lượng vũ trang địa phương về thị xã phối hợp với Giải phóng quân để giải phóng thị xã. Các địa phương chỉ để lại một số đủ bao vây bọn Nhật ở đó như Phú Bình, Phú Lương, Phấn Mễ, Đại Từ và đồn điền Gia Sàng.

        Tối 19 tháng 8 năm 1945, theo hướng định sẵn, các đơn vị Giải phóng quân đã tập kết ở Thịnh Đán cách thị xã 7 ki-lô-mét. Vào thời điểm này, tình hình càng khẩn trương hơn bao giờ hết. Quân Nhật đã đầu hàng Đồng Minh. Đặc biệt là tình hình thị xã Thái Nguyên, huyện Đồng Hỷ rất sôi động, kể cả các xã phụ cận. Nhân dân rất phấn khởi. Khí thế cách mạng lên rất cao. Hàng trăm thanh niên, đại diện đoàn thể phụ nữ, công nhân viên chức, nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ ở thị xã và hai huyện Đồng Hỷ, Tân Cương ra Thịnh Đán đón Giải phóng quân. Họ báo cáo tình hình Nhật và dân chúng trong thị xã cho BỘ chỉ huy Giải phóng quân, một số tập trung vẽ bản đồ thị xã cung cấp cho các đơn vị, bộ chỉ huy. Một số thanh niên được giao nhiệm vụ hướng dẫn các đơn vị áp sát trại Nhật, dinh tỉnh trưởng và trại bảo an binh.

        Trước 4 giờ sáng ngày 20 tháng 8 năm 1945, Bộ chỉ huy đưa tối hậu thư cho chỉ huy Nhật đóng ở tòa sứ cũ đòi chúng phải đầu hàng vô điều kiện và nộp đủ vũ khí... Anh Quý đen phiên dịch cho Nhật bị bắt dẫn đường cho người của ta đến trại Nhật đưa tối hậu thư cho chúng.

        Trước đó, tối 18 tháng 8 năm 1945, từ Võ Nhai, Đình Cả một đơn vị vũ trang tuyên truyền đột nhập vào Đồng Bẩm, tổ chức biểu tình, tuần hành sang thị xã, rải truyền đơn hô hào nhân dân ủng hộ và tham gia Việt Minh, đánh đổ chính quyền Nhật và tay sai. Hướng này có các đồng chí Hoàng Thế Thiện, Thái và đồng chí Vũ Lập.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #55 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 12:59:09 am »


        Đúng 5 giờ sáng ngày 20 tháng 8 năm 1945, các đơn vị Giải phóng quân đã áp sát trại Nhật ở tòa sứ, trại bảo an binh, trại lính ở Bến Tương, khống chế một số điểm lẻ của chúng còn trong thị xã; nhưng vẫn bảo đảm cho nhân dân đi lại bình thường trong thị xã. Riêng lực lượng bảo an binh, tỉnh trưởng Thái Nguyên và tri huyện Đồng Hỷ đã đầu hàng ngay từ giờ phút ta bắt đầu nổ súng" (Có báo viết một trung đội Giải phóng quân tiến công bắt cả tỉnh trưởng, tên chỉ huy bảo an binh và một thiếu úy Nhật (ban biên soạn) - xem bài: Trận đánh Nhật giải phóng thị xã Thái Nguyên trong Tổng khởi nghĩa). Cơ quan chỉ huy của Bộ tư lệnh Giải phóng quân đóng ở hai địa điểm: bộ phận đóng ở đình thị xã do đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách, bộ phận đóng ở nhà điện do đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách.

        Tôi ở đình thị xã trực tiếp giúp việc cho anh Văn. Anh Quý ở nhà điện trực tiếp giúp việc anh Ninh. Cùng sáng 20 tháng 8 năm 1945, trong khi bộ đội ta bao vây áp sát trại Nhật thì một đơn vị bộ đội địa phương Phú Bnh lên kết hợp với Giải phóng quân đã áp sát vào nhà diện. Chiều 20 tháng 8 năm 1945, trong khi các lực lượng đang bao vây quân Nhật, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ở sân vận động thị xã. Đồng chí VõNguyên Giáp thay mặt Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc tuyên bố giải tán chính quyền cũ do Nhật để lại và thành lập Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Thái Nguyên, Uỷ ban nhân dân tuyên bố bắt đầu thi hành chính sách của Chính phủ lâm thời trong thị xã và trong phạm vi toàn tỉnh, giới thiệu Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Thái Nguyên do đồng chí Lê Trung Đình làm Chủ tịch.

        Trước đó, tối 19 tháng 8, Bộ chỉ huy Giải phóng quân triệu tập cuộc họp chung với cán bộ lãnh đạo địa phương để thống nhất lực lượng cùng "khởi nghĩa giải phóng thị xã Thái Nguyên. Ban Tỉnh ủy lâm thời Thái Nguyên cũng được thành lập gồm có các đồng chí Nhị Quý, Lê Trung Đình, Hoàn Thế Thiện, Thái, Trịnh Thị Tâm.

        Cuộc bao vây quân Nhật ở thị xã đã sang ngày thứ tư. Quân địch vẫn ngoan cố không chịu đầu hàng. Trong khi đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp có chỉ thị Trung ương phải về Hà Nội gấp. Bộ chỉ huy Giải phóng quân để lại một bộ phận cùng với lực lượng vũ trang địa phương làm nhiệm vụ tiếp tục bao vây Nhật ở thị xã, còn đại bộ phận Giải phóng quân phải về Hà Nội. Nhiệm vụ tiếp tục giải quyết bọn Nhật ở thị xã và một số điểm chúng còn chiếm giừ ở một số huyện lỵ và trục đường số 3 giao lại cho địa phương giải quyết. Về sự kiện này, đồng chí Võ Nguyên Giáp có ghi trong hồi ký của mình:

        "Chúng tôi không đợi được đến trận đánh Thái Nguyên kết thúc, trung tâm không còn ở Thái Nguyên nữa, thủ đô đã được giải phóng. Các anh Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Tuân đã từ Tân Trào đến Thái Nguyên bàn với chúng tôi nên về ngay Hà Nội, còn một bộ phận để lại bao vây quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên”.

        Như vậy là nhiệm vụ bao vây Nhật và ép chúng đầu hàng, giải phóng thị xã giao lại cho Ban Tỉnh ủy, chính quyền tỉnh lâm thời lúc đó đảm nhiệm. Cũng trong thời gian này, tôi và trưởng ngân khố tỉnh Thái Nguyên đến báo cáo với đồng chí Phạm Văn Đồng về tình hình ngân khố Thái Nguyên (đồng chí Phạm Văn Đồng chuẩn bị phụ trách Bộ Tài chính).

        Sau này, Bác Hồ từ Tân Trào về Hà Nội có nghỉ lại một đêm ở thị xã Thái Nguyên. Các đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy Thái Nguyên đến thăm sức khoẻ Bác. Bác hỏi han tình hình và căn dặn: "Phải nhanh chóng củng cố chính quyền tỉnh, huyện, xã... Trước mắt phải sẵn sàng đối phó bọn Tàu Tưởng, sắp đến bọn Pháp có thể quay lại Đông Dương..."

        Ngày 24 tháng 8 năm 1945, phái viên của Tổng bộ Việt Minh thông báo cho tỉnh: bọn Nhật ở miền Bắc đã đầu hàng và đã giao lại toàn bộ công việc hành chính cho Chính phủ lâm thời Việt Nam. Riêng Thái Nguyên, chúng yêu cầu Thái Nguyên là một điểm tập kết cho bọn Nhật đóng ở những nơi lẻ như Phú Bình, Đại Từ và bọn Nhật ở Bắc cạn, Hà Giang rút về tập kết ở thị xã rồi về Hà Nội. Chúng yêu cầu chính quyền địa phương tiếp tế lương thực, thực phẩm và thôi không bao vây, cho phép chúng được đi lại tự do trong phạm vi thị xã, cho một số đơn vị lẻ ở Thái nguyên cũng được về thị xã tập kết để chờ ngày về Hà Nội.

        Ngày 26 tháng 8, tên lính Nhật cuối cùng đã rút khỏi thị xã Thái Nguyên.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #56 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 01:00:32 am »


KHU GIẢI PHÓNG VIỆT BẮC TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

NHỊ QUÝ         

        Trong cao trào kháng Nhật, tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, Khu giải phóng có tiếng vang và ảnh hưởng rất lớn đối với cả nước. Nhớ lại việt thành lập Khu giải phóng cách đây 49 năm, những cốt cán và chiến sĩ, đồng bào khu giải phóng rất tự hào.

        Từ khi bị địch giam cầm ở các nhà tù Sơn La, Chợ Chu (1941 - 1944), chúng tôi đã học tập thấm nhuần nhận định của Trung ương và Bác Hồ về mâu thuẫn Nhật - Pháp: "Hai con hổ tranh nhau một miếng mồi thế nào chúng cũng cắn nhau”. Chuẩn bị đón thời cơ khi phát xít Nhật đánh đổ thực dân Pháp ở Đông Dương, chúng tôi đã nghiên cứu những bài học lịch sử của các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở nước ta như cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn..., kinh nghiệm quốc tế như Công xã Pa-ri, Cách mạng tháng Hai và tháng Mười Nga, Công xã Quảng Châu... Chúng tôi còn nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng căn cứ địa Chính phủ của Trung Quốc, nghiên cứu chiến thuật đánh du kích. Hàng ngày khi đi vào rừng lấy củi, lấy gỗ chúng tôi tranh thủ tập quân sự... Cuối năm 1942, đầu nam 1943, chúng tôi bị giam ở nhà tù Sơn La và cuối năm 1943 đầu năm 1944, địch chuyển chúng tôi về nhà tù Chợ Chu (Thái Nguyên).

        Những năm 1942 - 1944, Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ có chủ trương cho cán bộ, đảng viên ở các nhà tù của thực dân Pháp vượt ngục ra hoạt động cho Đảng. Đồng chí Hạ Bá Càng (Hoàng Quốc Việt) thay mặt Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ chỉ thị cho cán bộ nhà tù Chợ Chu chúng tôi lựa chọn đảng viên vượt ngục. Nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị của Đảng, chi ủy tù chính trị ở nhà tù Chợ Chu do đồng chí Song Hào làm bí thư đã tích cực chuẩn bị cho đảng viên vượt ngục bảo đảm thắng lợi. Ngoài việc chuẩn bị của chi ủy và từng đảng viên chuẩn bị rất chu đáo trong chi bộ nhà tù, lực lượng Cứu quốc quân và cơ sở của ta ở bên ngoài cũng lập kế hoạch lo đón, đưa và bảo vệ an toàn cho anh em về tới căn cứ.

        Không bao giờ chúng tôi quên được các đồng chí Dục Tôn, Hồng Hải, Tư Già... là những người đã trực tiếp thực hiện kế hoạch này. Mỗi đảng viên chúng tôi quyết xả thân vì nước, quyết hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, tự mình rèn luyện, học tập, nghiên cứu toàn diện các mặt về lý luận, đường lối cách mạng, công tác mặt trận Việt Minh, công tác vận động xây dựng các đoàn thể cứu quốc, công tác xây dựng Đảng, công tác binh vận, công tác quân sự, cứu thương... Mỗi đảng viên vượt ngục phải có đủ sức khoẻ, tinh thần chiến đấu, ý chí cách mạng, trình độ lý luận, trình độ chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng.

        Chi bộ nhà tù Chợ Chu năm 1943 - 1944 có 15 đảng viên, 12 đảng viên được chọn vượt ngục, 3 đảng viên được ở lại tiếp tục làm nhiệm vụ của chi bộ nhà tù.

        Ngày 20 tháng 8 âm lịch (tức ngày 11 tháng 10 năm 1944), 12 đảng viên chúng tôi vượt ngục hoàn toàn thắng lợi, thậm chí cơ sở đảng trong đồn khố xanh và trạm liên lạc giữa nhà tù Chợ Chu với Xứ ủy cũng bảo đảm bí mật. Điểm chúng tôi tập kết nhận nhiệm vụ là bản Na Mao (gần Văn Lãng). Anh Chu Văn Tấn theo dõi chặt chẽ quá trình thực hiện kế hoạch này, sau đó phân công nhiệm vụ cho các đồng chí vượt ngục. Số đồng chí vượt ngục đã tăng thêm lực lượng cán bộ cho địa phương.

        Chánh sứ Thái Nguyên thông báo truy lùng chúng tôi khắp nơi. Thực dân Pháp huy động lực lượng các tỉnh Thái Nguyên. Tuyên Quang, Bắc Cạn lùng sục, canh gác, đón lõng tất cả các ngả đường nhưng vô hiệu, 12 người chúng tôi về căn cứ xã Yên Lãng an toàn tuyệt đối. Đồng chí Dục Tôn, cán bộ của Xứ ủy và đồng chí Lộc Văn Tư là cán bộ địa phương được Xứ ủy giao nhiệm vụ đón chúng tôi.

        Vùng căn cứ địa rộng lớn của cách mạng đã hình thành từ trước. Đến tháng 8 năm 1944, Xứ ủy Bắc Kỳ họp ở Hiệp Hòa bàn tách vùng căn cứ địa rộng lớn từ Võ Nhai sang Yên Sơn, Tuyên Quang, Định Hóa, Đại Từ... thành Phân khu A và Phân khu B.

        Sau đó ít ngày chúng tôi họp ở xóm Khuôn Nánh xã Yên Lãng sát chân núi Tam Đảo liền với núi Hồng ở huyện Đại Từ. Ở cuộc họp này, chúng tôi được nghe báo cáo tình hình mọi mặt trong chiến khu (lúc đó gọi là chiến khu Nguyễn Huệ và có tên nữa là Phân khu B) bao gồm một vùng rộng lớn từ sông Cầu ở Thái Nguyên qua núi Chúa, núi Tam Đảo, núi Hồng, sang sông Lô, sông Đáy, sông Gậm, Tuyên Quang, Hà Giang một phần Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên. Sau khi bàn một số công tác, chúng tôi được phân công mỗi người phục trách một vùng trong chiến khu, cùng đoàn kết công tác với các cán bộ từ phong trào du kích Võ Nhai, Tràng Xá, Bắc Sơn sang và các cán bộ dân tộc địa phương như Khánh Phương, Dục Tôn, Phương Cương, Hồng Hải, Nhất Quý, Hoàng Thượng... Tại cuộc họp này đồng chí Song Hào được cử làm Bí thư Khu ủy trực tiếp lãnh đạo Phân khu B (Chiến khu Nguyễn Huệ), anh Tân Hồng (Chu Văn Tấn) trực tiếp lãnh đạo Phân khu A từ bên kia sông Cầu sang Đồng Hỷ, Võ Nhai...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #57 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 01:00:52 am »


        Tháng 12 năm 1944, đồng chí Song Hào chọn vùng Tân Trào huyện Sơn Dương làm trung tâm lãnh đạo Phân khu B và dời cơ quan Khu ủy từ nhà đồng chí Lý Thanh ở xã Yên Lãng (Đại Từ) sang Ao Bục huyện Sơn Dương. Từ Tân Trào chỉ đạo các địa phương trong Phân khu B rất thuận tiện. Đồng chí Song Hào đổi tên xâ Kim Long thành xã Tân Trào, đặt tên đình Hồng Thái, đình Tân Trào, từ đó những nơi này thành những địa danh lịch sử.

        Đầu tháng 3 năm 1945, cơ sở và phong trào cách mạng trong chiến khu đã được củng cố và phát triển khá mạnh, quần chúng cơ cực dưới hai ách thống trị của phát xít Nhật và thực dân Pháp sôi sục đòi khởi nghĩa, nhưng lãnh đạo quyết chờ thời cơ.

        Ngày 9 tháng 3 năm 1945, phát xít Nhật đảo chính lật đổ thực dân Pháp, thời cơ nghìn năm có một đã đến.

        Chớp thời cơ, lập tức chúng tôi tổ chức cho lực lượng vũ trang quần chúng cách mạng khởi nghĩa từng phần. Ngày 10 tháng 3 năm 1945 khởi nghĩa bắt đầu từ Tân Trào ta tước vũ khí lính dõng, thu vũ khí của tàn quân Pháp thua Nhật chạy qua đèo Khế, Sơn Dương... thu bằng, triện của hệ thống chính quyền tay sai thực dân Pháp từ xã lên tổng. Vũ khí thu được đến đâu trang bị ngay cho lực lượng tự vệ cứu quốc các xã sẵn sàng tập trung chiến đấu, sẵn sàng gia nhập quân đội cách mạng. Ngày 21 tháng 3 năm 1945 chúng tôi họp cán bộ chiến khu ở xóm Cầu Chầm, huyện Sơn Dương quyết định khởi nghĩa giải phóng các huyện thuộc Tu lên Quang, Thái Nguyên. Đây là quyết định rất kịp thời chính xác. Ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng dưới sự chủ trì của đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư Đảng ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Ngày 14 tháng 3 năm 1945, dưới sự lãnh dạo của các đồng chí Song Hào. Tạ Xuân Thu và một số đồng chí trực tiếp chỉ huy, Giải phóng quân, tự vệ cứu quốc giải phóng huyện Sơn Dương thu toàn bộ vũ khí, tri châu và binh lính bỏ chạy hết.

        Sau Sơn Dương là một loạt các huyện được giải phóng: Định Hóa, Chiêm Hóa, Na Hang, Đại Từ... đến cuối tháng 3 năm 1945 cả một vùng rộng lớn ở Trung tâm chiến khu giải phóng và Giải phóng quân. Chính quyền cách mạng được thành lập từ xã lên huyện đi đôi với hệ thống Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc, tự vệ cứu quốc được củng cố và phát triển rộng khắp. Các dân tộc anh em đều có đại diện trong chính quyền, đoàn kết bình đẳng các dân tộc Cán bộ, chiến si các dân tộc coi nhau như ruột thịt, thắm đượm tình nghĩa đồng bào, đồng chí.

        Ngày 1 tháng 5 năm 1945, chúng tôi mỗi người lãnh đạo một đơn vị giải phóng quân kéo về Chợ Chu (huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên) họp mít tinh kỷ niệm ngày quốc tế lao động và chào mừng Hồng quân Liên Xô tiến vào Béc-lin - sào huyệt cuối cùng của phát xít Hít-le. Cả rừng cờ đỏ sao vàng và các biểu ngừ mọc lên trên sân vận động Chợ Chu. Đồng bào các dân tộc, cán bộ, chiến sĩ vô cùng phấn khởi nghe đồng chí Võ Nguyên Giáp nói về ý nghĩa ngày 1 tháng 5, nói về thắng lợi của Hồng quân Liên Xô, về thất bại của phát xít Đức, ý, Nhật, về triển vọng thắng lợi của cách mạng Việt Nam và tình hình nhiệm vụ mới. Quần chúng hô vang các khẩu hiệu cách mạng và hàng ngũ chỉnh tề, khí thế cách mạng bừng bừng diễu hành quanh sân vận động.

        Hai ngày 3 và 4 tháng 5 năm 1945, chúng tôi tập trung về xã Định Biên, huyện Định Hóa để dự hội nghị cán bộ lần đầu tiên của Khu giải phóng. Đồng chí Võ Nguyên Giáp chủ trì hội nghị. Dự hội nghị này còn có các đồng chí Song Hào Tân Hồng, Đàm Quang Trung, Hoàng Văn Thái... Hội nghị bàn nhiều mặt công tác Khu giải phóng nhằm dẩy mạnh cao trào kháng Nhật, tiến tới Tổng khởi nghĩa giải phóng cả nước, lật đổ chính quyền tay sai phát xít Nhật và chế độ thống trị của phát xít Nhật.

        Sau hội nghị cán bộ Khu giải phóng, đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Song Hào nhất trí chọn Tân Trào làm trung tâm Khu giải phóng để mời Bác Hồ từ Pác Bó (Cao Bàng) về đây chỉ đạo cách mạng cả nước. Vì Tân Trào ở vào vị thế dễ cơ động mọi hướng, thuận lợi về thông tin hên lạc, về hoạt động chỉ huy. Tân Trào là một thung lũng nằm giữa vùng núi trùng điệp, có hai dãy núi lớn là núi Hồng và núi Tam Đảo dài hàng chục ki-lô-mét, có sông Lô, có đường số 2 từ Hà Giang, Tuyên Quang về xuôi, có nhiều dường rất thuận tiện về Hà Nội và lên biên giới Việt - Trung. Địa thế Tân Trào rất lý trưởng về mặt chiến lược để làm trung tâm căn cứ địa cách mạng cả nước, đủ cả ba điều kiện nhân hòa, địa lợi, thiên thời.

        Tháng 5 năm 1945 đồng chí Võ Nguyên Giáp đón Bác Hồ từ Cao Bằng về Tân Trào. Đồng chí Song Hào dược báo trước đã bàn với đồng chí Chu Nhữ và một số đồng chí cốt cán tổ chức chuẩn bị đón Bác ở đình Hồng Thái rồi sang đình Tân Trào. Sau một thời gian ở tạm nhà cụ Tiến Sự, Bác chuyển sang ở lán Nà Lừa. Để giữ bí mật, Bác cho phép gọi Bác là Cụ Z (Dét), lúc đó ít người biết Bác là Cụ Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh. Bác về ở Tân Trào để chỉ đạo cách mạng cả nước. Đây là vinh dự nhất, là niềm phấn khởi vui mừng nhất của đồng bào các dán tộc, cán bộ, chiến sĩ Khu giải phóng chúng tôi, cũng là hạnh phúc cho toàn Đảng, toàn dân ta.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #58 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 01:01:10 am »


        Đồng chí Lý (tức Võ Sĩ Cao - Nguyễn Cao) là một đồng chí trong số 12 đảng viên chúng tôi vượt ngục ra xây dựng chiến khu và Khu giải phóng, được phân công trực tiếp bảo vệ Bác Hồ. Đồng chí Lý sau được Bác đặt tên là Kháng (Hoàng Văn Kháng). Suốt từ khi ở Tân Trào đến năm Bác mất năm 1969, đồng chí Kháng đã tận tụy làm tròn nhiệm vụ vẻ vang bảo vệ Bác. Khi đưa Bác đi thăm đâu, mặc dù bố trì bảo vệ Bác chu đáo rồi, nhưng đồng chí Kháng vẫn thức được suốt ba đêm liền để kiểm tra giám sát việc bảo vệ được an toàn tuyệt đối. Chúng tôi rất tự hào về tinh thần trách nhiệm của đồng chí mình.

        Bác về ở Tân Trào trong cao trào kháng Nhật, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tân Trào trở thành trung tâm căn cứ địa cách mạng cả nước. Vì vậy chúng tôi lo bảo vệ Tân Trào từ xa, vừa củng cố phát triển mở rộng Khu giải phóng, vừa đẩy mạnh cao trào kháng Nhật. Tôi chịu trách nhiệm hướng Đại Từ, vừa lãnh đạo toàn diện cao trào kháng Nhật, vừa tổ chức lực lượng bảo vệ Tân Trào chặn đánh quân Nhật lên từ núi Tam Đảo, núi Hồng. Đồng chí Lê Trung Đình phụ trách hướng Định Hóa, từ ki- lô mét 31 trở vào. Đồng chí Trần Thế Môn phụ trách vùng dọc sông Lô thuộc Sơn Dương, Yên Sơn, Đoan Hùng, Yên Bình... Tất cá các mũi tấn công của quân Nhật vào Tân Trào đều bị quân dân Khu giải phóng bẻ gãy từ xa. Tân Trào được bảo vệ an toàn tuyệt đối. Đơn vị du kích Tam Đảo với tên gọi trung đội Phạm Hồng Thái do đồng chí Thạch Sơn làm đội trưởng, đồng chí Vũ Tuân làm chính trị viên, hình thành do sự hợp nhất đội du kích Cao Sơn do đồng chí Trường Sơn làm đội trưởng và đội Cứu quốc quân do đồng chí Thạch Sơn làm đội trưởng, đã lập công xuất sắc diệt được đồn Nhật ở Tam Đảo, lôi kéo được toàn bộ trung đội bảo an binh, giải phóng được một số tù, cứu được một số người Pháp có cả trẻ em và phụ nữ bị Nhật giam giữ ở Tam Đảo, trong đó có vợ chồng giáo viên Mô-rít Béc-na và vợ là Y-vôn Béc-na (trường An-be Sa-rô ở Hà Nội). Chiến thắng Tam Đảo và các chiến thắng khác của lực lượng vũ trang cùng nhân dân Khu giải phóng đã tác động mạnh mẽ đối với Hà Nội và cả nước, làm nức lòng nhân dân cả nước.

        Lúc này, tình hình chuyển biến nhanh chóng. Ở châu Âu phát xít Đức, Ý đã phải đầu hàng Đồng Minh; ở châu Á, Hồng quân Liên Xô đã đánh tan đội quân Quan Đông mạnh nhất của phát xít Nhật ở Mãn Châu, phát xít Nhật sắp phải đầu hàng. Thời cơ nghìn năm có một cho toàn Đảng, toàn dân ta vùng lên giải phóng cả nước đã đến. Mọi công việc chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa rất khẩn trương.

        Ở Tân Trào ngoài việc gấp rút đào tạo cán bộ, liên tục mở các lớp quân chính kháng Nhật, Bác và Trung ương triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng để bàn về tình hình nhiệm vụ cấp bách, bổ sung một số ủy viên Trung ương Đảng và quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền cả nước. Tiếp theo là Quốc dân Đại hội họp ở đình Tân Trào quyết định Tổng khởi nghĩa và bầu ra Uỷ ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Lệnh tổng khởi nghĩa phát ra từ Tân Trào do Bác kêu gọi. Các quân lệnh số 1, số 2 phát ra từ Tân Trào do đồng chí Võ Nguyên Giáp ký. Cả nước nhiệt liệt hưởng ứng Tổng khởi nghĩa. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Hà Nội tổng khởi nghĩa thắng lợi. Sự kiện này có ý nghĩa quyết định đối với cách mạng cả nước. Chưa đầy một tháng đến cuối tháng 8 năm 1945, Cách mạng tháng Tám đã thắng lợi trong cả nước. Lực lượng vũ trang và nhân dân Tuyên Quang dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Song Hào đã khởi nghĩa giành thắng lợi vào sáng 21 tháng 8.

        Ở Thái Nguyên, đồng chí Võ Nguyên Giáp là thành viên của Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc, trực tiếp chỉ huy Việt Nam Giải phóng quân tiến công quân Nhật ở thị xã từ sáng 20 tháng 8 năm 1945. Chiều ngày 20 tháng 8 năm 1945, đông đảo nhân dân thị xã Thái Nguyên đã dự mít tinh nghe công bố thành lập chính quyền cách mạng trong toàn tỉnh do đồng chí Lê Trung Đình làm Chủ tịch.

        Trên đường về Hà Nội, đồng chí Trần Đăng Ninh bố trí Bác Hồ nghỉ lại thị xã Thái Nguyên một đêm. Đồng chí Nhị Quý, Bi thư Tỉnh ủy và đồng chí Trung Đình - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân lâm thời tỉnh Thái Nguyên trực tiếp đón Bác và được Bác căn dặn nhiệm vụ trước mắt và việc ứng phó với quân Tưởng Giới Thạch sắp từ biên giới Việt - Trung vào qua Thái Nguyên. Đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng trên đường về Hà Nội cũng qua Thái Nguyên.

        Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, đồng bào, chiến sĩ, cán bộ Khu giải phóng chúng tôi đã có nhiều gắn bó với Bác Hồ, những kỷ niệm với Bác không bao giờ quên.

        Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp núp bóng quân đội Anh tiến công đánh chiếm Nam Bộ mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.

        Với lòng mong muốn xây dựng đất nước trong hòa bình, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã tìm mọi phương cách ngăn chặn cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Khi thực dân Pháp mở rộng cuộc chiến tranh ra cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Liền sau đó, Bác, Trung ương và Chính phủ lại trở lại Việt Bắc, trở lại trung tâm Khu giải phóng khi xưa: Sơn Dương, Chiêm Hóa, Đại Từ, Định Hóa, Phú Lương, chợ Đồn nay lại là ATK của Trung ương. Đồng bào các dân tộc anh em đã phát huy truyền thống cách mạng, một lòng một dạ kháng chiến, tuyệt đối tin tưởng Bác, kháng chiến đến thắng lợi.

        Uống nước nhớ nguồn, đồng bào các dân tộc đời đời nhớ ơn Bác. Bác Hồ là tấm gương sáng ngời cho các thế hệ con cháu Việt Nam noi theo. Bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta, trong công việc hàng ngày của chúng ta, trong trái tim các thế hệ Việt Nam ta.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #59 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 01:02:10 am »


TRƯỜNG QUÂN CHÍNH KHÁNG NHẬT (Khóa I)

HỒNG KỲ         

        Sau khi tổ chức vượt ngục ra khỏi nhà tù Tuyên Quang chúng tôi trở về chiến khu Hoàng Hoa Thám (Chiêm Hóa) chiến đấu ở đại đội 10 Cứu quốc quân. Tiếp đó, một tiểu đội bảy người nhận lệnh về Khu giải phóng vào Trường học quân sự. Cầm tờ giấy giới thiệu nhỏ bằng bao diêm: "Đoàn Z đi khu Đ nhờ các địa phương giúp đỡ". Mỗi người vai đeo khẩu giúp 5 với một tút-se 30 viên đạn, không chăn màn, không quần áo dự trữ, không lương thực chỉ có một túi gạo rang làm lương khô theo đồng chí giao thông mà đi. Cơm đủ no, rau xanh đủ ăn, bữa nào cũng có cái gì mằn mặn, có hôm có thịt thú rừng, cá suối. Có bữa qua làng, dân đang lễ hội, chúng tôi được giữ lại ăn một bữa rượu thịt no nê. Tối ngày thứ tư cả tiểu đội vào nghỉ ở làng đồng bào Dao. Ông chủ nhà đem cơm, rượu với thịt nai khô tiếp chúng tôi thân mật lắm. ông nói: ngày mai đến nơi rồi, ở đây đã nhìn thấy núi đấy, thì ra đó là dãy núi Tam Đảo. Hôm sau chúng tôi đi tích cực lắm, mặt trời đến vai thì nghỉ ăn cơm trưa, ăn xong anh giao thông giục lên đường ngay, cố đi, còn hai quăng dao nữa thì tới, thế mà mãi xế chiều mới tới nơi. Hóa ra mỗi quăng dao là một lần đổi vai đeo dao khoảng ba tiếng đồng hồ.

        Huyện lỵ Sơn Dương lúc này là một trung tâm cách mạng. Ở đây có trạm kiểm soát. Chúng tôi nghỉ lại trạm để ngày mai xin giấy vào khu.

        Ngày hôm sau Khu giải phóng điều của đơn vị tôi đồng chí Quyết Tâm, nghe nói sang bộ đội Trần Thế Môn đi lên Yên Bái; còn lại sáu anh em chúng tôi nhận giấy và tiếp tục lên đường.

        Hai hôm sau vào lúc gần trưa, chúng tôi đến một làng nhỏ thì có bảy nóc nhà sàn, kề ngay ven núi. Chúng tôi được dẫn vào một ngôi nhà to nhất, trong đó đã có hơn một chục đồng chí ở Bắc Sơn, Vũ Nhai cùng về học Trường quân sự, cùng là Cứu quốc quân nên thân với nhau ngay. Khi cả nhóm sắp ăn cơm thì có một người đến, khoảng 28, 29 tuổi mặc quần áo, đội mũ kê-pi vải cùng màu ghi bạc, quấn xà cạp trông rất lạ mắt. Đồng chí tự giới thiệu tên là Khang1 (Đại tướng Hoàng Văn Thái sau này) đến tổ chức chúng tôi thành một đơn vị chiến đấu.

        Đồng chí nói:

        - Các đồng chí được đoàn thể gọi về học, song hiện nay quân Nhật đang tấn công vào căn cứ địa, tôi được thượng cấp cử đến tổ chức các đồng chí thành một trung đội "Học sinh quân", do tôi làm trung đội trưởng, chúng ta sẽ đánh Nhật.

        Nghe nói vậy, chúng tôi phấn khởi lắm.

        - Bây giờ các đồng chí ăn cơm thật no, rồi mỗi người nắm lấy hai nắm cơm đủ ăn hai bữa. Người chiến sĩ du kích, một ngày có thể được ăn ba bữa, nhưng cũng có thể ba ngày không được ăn bừa nào, vậy nên khi có cơm thì ăn thật no rồi gói theo.

        - Gói theo nhiều cơm thì xấu hổ lắm á! - Một đồng chí nào đó nói.

        - Không có gì phải xấu hổ, chỉ sợ không có cơm ăn, đói không đánh được giặc mới xấu hổ thôi, các đồng chí đồng ý chứ.

        - Đồng ý, đồng ý, - chúng tôi hét vang.

        - Đồng ý, thì ăn thật nhiều và gói cơm ngay đi. Mọi người hồ hỏi phấn khởi khẩn trưởng triển khai mệnh lệnh của người chỉ huy.

        Từ lúc vào nhà tôi chú ý ngay đến một người dáng đầm đậm, mặc quần áo nâu đã bạc màu. Tên là Việt. Anh có một khẩu súng rất lạ. ăn cơm xong, tôi đến ngồi gần khẩu súng, anh nhìn tôi gườm gườm không mấy thiện cảm. Khi tôi đưa tay sờ vuốt khẩu súng, anh kéo khẩu súng ra xa, tôi lại sán đến sờ nữa và hỏi: Súng gì thế này đồng chí? Anh vẫn nhìn tôi gườm gườm và hỏi: Khố xanh hả? - Đâu có tôi là tù Pô-li-tíc, chính trị phạm, quốc sự phạm ấy mà, tôi trả lời. - Thế sao lại mặc đồ khố xanh? - Bọn tôi vượt ngục, nhặt được bộ quần áo lính, cắt cầu vai đi mà mặc, chẳng lẽ mặc áo tù in số mà lên chiến khu à? - Nghe vậy ánh mắt anh có phần dịu lại. Anh hỏi tôi bị giam ở nhà tù nào. Tôi trả lời bị bắt giam ở Tuyên Quang từ năm 1943. Anh lại hỏi: Thế các cậu phá tù ra à? Có mấy anh em?
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM