Giangtvx
Thượng tá
Bài viết: 25560
|
|
« Trả lời #302 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2017, 01:08:12 am » |
|
Để thực hiện quyết tâm chung của Miền và Nghị quyết tháng 12 năm 1971 của Khu uỷ, Thường vụ Khu uỷ và Đảng uỷ Quân khu chủ trương mở chiến dịch tổng hợp. Yêu cầu của chiến dịch là: Đánh pháp bình định ở trong điểm Bình Thuận, tiêu hao và làm tan rã lực lượng bảo an cơ động, dân vệ, cảnh sát, phá lỏng, phá bộ máy kìm kẹp, bung dân về khôi phục vùng giải phóng cũ, mở thêm những lõm giải phòng mới, nâng thế làm chủ nhiều mức trên đại bộ phận nông thôn còn lại, phát triển cơ sở và đưa phong trào thị xã, thị trấn lên một bước mới, cắt giao... góp phần chia lửa với các chiến trường trong toàn Miền.
Trong hai tháng 6 và 7 năm 1972, ta liên tiếp có những trận tập kích vào Camp Êsépíc, vào thị xã Phan Thiết, căn cứ Sông Mao và các chi khu Hải Ninh, Hoà Đa, Thiện Giáo, tiến công phá rã một số ấp chiến lược, đưa 32.000 dân lên làm chủ, phá lỏng rã kìm 65.000 dân, vận động rã ngũ 560 bảo an, dân vệ, 350 phòng vệ dân sự. Ở Tuyên Đức, Tiểu đoàn 810 và Đại đội 816 tiến công địch ở các ấp Phú Sơn, Gia Thanh, Đa Huynh; mở rộng đường hành lang từ căn cứ tỉnh Lâm Đồng qua đường 21 kéo dài đến Nam Ban, vùng bàn đạp tây nam thị xã Đà Lạt; trong thành phố, biệt động và tự vệ mật diệt được một số ác ôn.
Trên toàn miền Nam, địch bị thua đau trong cuộc tiến công chiến lược và bị thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, nên từ mùa thu năm 1972, đế quốc Mỹ đã buộc phải chuẩn bị để ký kết Hiệp định Pa-ri về Việt Nam.
Ở chiến trường Khu 6, từ giữa tháng 7 năm 1972, địch đã điều một số lực lượng cơ động, tăng cường cho lực lượng tại chỗ và bắt đầu phản kích. Lực lượng Quân khu tuy được Bộ tư lệnh Miền tăng cường cho hai tiểu đoàn bộ binh (15,17) và trung đoàn bộ nhẹ ghép thành Trung đoàn 211 (thiếu), nhưng quân số và vũ khí trang bị đều rất thiếu.
Tháng 10 năm 1972, được hướng dẫn của trên, Quân khu đã động viên các lực lượng đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, mở rộng vùng giải phóng nông thôn; đồng thời khẩn trương xây dựng các mặt chuẩn bị cho kế hoạch thời cơ khi có giải pháp chính trị.
Sau thời gian này, trọng điểm hoạt động của ta chuyển về phía nam (từ khu vực Tam Giác của Bình Thận qua Tánh Linh – Hoài Đức của Bình Tuy và lên đường 20 phía nam đèo Blao của Lâm Đồng), nhằm mở rộng vùng giải phóng toàn tuyến hành lang từ Miền về Quân khu. Ta còn điều Tiểu đoàn 840 từ bắc Bình Thuận vào địa bàn đường số 8 Tam Giác, Tiểu đoàn 186 vào Tánh Linh – Hoài Đức, Tiểu đoàn 200c từ Bình Thuận lên khu vực Đa Oai (Lâm Đồng), Trung đoàn 211 (thiếu) đứng chân hoạt động ở đoạn nam đèo Blao trên đường 20 của Lâm Đồng.
Đêm 14 tháng 10 năm 1972, Tiểu đoàn 200c đặc công (thiếu) tập kích tiêu diệt chi khu Đa Oai, một cứ điểm khá kiên cố từ lâu khống chế đoạn đường 20 và bảo vệ cầu Đa Oai. Ta đã đánh sập cầu Đa Oai. Sáng 15 tháng 10, Trung đoàn 211 (thiếu) đánh địch tiếp viện từ tiểu khu Lâm Đồng vào. Trận đánh diệt viện diễn ra ngay tại chân đèo Blao. Ta đã tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an, làm chủ đoạn đường 20 từ nam đèo Blao đến nam cầu Đa Oai trong nhiều ngày. Ta thực hiện đúng ý đồ “đánh điểm diệt viện”.
Trước ngày ngừng bắn, địch cũng liên tục phản kích quyết liệt. Chúng bắt dân sơn cờ ba sọc của ngụy lên bờ tường, nóc nhà hòng xác định chủ quyền. Ta chủ trương đánh đến đâu treo cờ tới đó. Lực lượng chủ lực Khu 6 đánh vào Bình Tuy để diệt địch ở Hoài Đức, Tánh Linh. Một số bộ phận của cơ quan Khu bộ và các đơn vị nhỏ, rút một số cán bộ chiến sỹ trong các cơ quan ra hình thành tổ chức đơn vị mới để tham gia chiến đấu. Lực lượng tăng gia sản xuất cũng được khẩn trương điều về chiến đấu giành đất, giành dân, cắm cờ giữ đất. Ta chiếm được nhiều xóm, ấp trên đường số 8 như các ấp Bình Lâm, Bình An, Lệ Hoà, Đại Thiện, thị trấn Mường Mán. Cho đến khi ký hiệp định, ta không những vẫn giữ được vùng giải phóng mà còn mở rộng thêm. Ta và địch tranh chấp nhau từng tấc đất. Máu chiến sỹ ta vẫn đổ khi mà hoà bình dường như đang ở trong tầm tay. Có đoạn ta cắm cờ ngay giữa cánh đồng, anh em ta đào hầm hố trụ lại để bảo vệ cờ. Bọn địch điên cuồng tung quân lấn chiếm nhưng lấn đến đâu đều bị đánh đến đó. Không những chúng không lấn thêm được mà lại bị mất thêm khá nhiều đất.
Cuối tháng 12 năm 1972, hòng ép ta phải ký Hiệp định Pa-ri theo những điều khoản do phía Mỹ quy định, đế quốc Mỹ ồ ạt tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B52 tập trung đánh phá huỷ diệt Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng. Nhưng ta đã thắng, địch đã thua. Đế quốc Mỹ đã phải xuống thang ngồi vào bàn đàm phán ký kết Hiệp định Pa-ri, rút hết quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam...”
Trích: Thương tướng Nguyễn Trọng Xuyên, Nhớ về chiến trường Khu 6, (Hồi ức – Vũ Hải Đăng, thể hiện), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội – 2004, tr. 150-240.
|