Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 06:12:36 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Hương Khê  (Đọc 29003 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #40 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 10:58:45 pm »


Một lát sau, một trong hai thầy đội vào hầu Đinh hồi nãy lại chạy vào trong nhà vòng tay bẩm với Đinh rằng: Lúc trước anh em chúng con vào đây hầu thăm cụ lớn, quan trên chúng con thấy vắng mặt nên sai lính tìm kiếm và hỏi đi đâu, anh em chúng con cũng nói thật là đầy tớ của cụ lớn ngày trước, nay có dịp đi qua nên phải vô hầu thăm, cho phải đạo tôi tớ. Quan trên chúng con nghe tới đại danh cụ lớn, rất lấy làm vui mừng vì xưa nay ngài vẫn nghe tiếng của cụ lớn lừng lẫy xa gần. Bởi vậy, ngài còn e ngại, nên sai con vào bẩm với cụ lớn hay trước, xem ý cụ lớn có chịu tiếp giờ này không? Đinh nghe nói là một vị quan binh Pháp xin vào bái yết mình, còn có gì vinh diện cho bằng nên nói ngay: Được, thầy ra báo tin trước, để tôi ra cổng đón rước quan lớn vào chơi. Nói xong, Đinh thét vang người nhà đầy tớ mau mau dọn dẹp bàn ghế, sắp sẵn ly rượu rồi chỉnh tề khăn áo ra tận ngoài cổng rước khách... Tội nghiệp, Đinh vừa lò mò ra đến ngoài cổng, thấy có bốn người tráng sĩ đưa súng ngang trước mũi và hai người khiêng một cái võng, đồng thanh nói lớn rằng: Chúng ta phụng mạng của Phan nguyên soái xuống bắt Tuần phủ Đinh Nho Quang điệu về đại trại, chứ đây không phải là quân Pháp. Họ vừa nói, vừa xốc ngay Đinh mà đặt lên võng khiêng đi, số lính còn lại thì khống chế thủ hạ của Đinh, không cho ai động đậy. Đinh không ngờ mắc mưu như thế, chỉ nói được một câu: "Giặc nó bắt tao". Rồi võng Đinh đi trước, nghĩa quân đi sau, rầm rộ kéo đi tự nhiên. Thủ hạ của Đinh sợ hãi, đều chạy tan nát, không ai dám thò mặt ra cứu. Nghĩa quân đi vừa thổi kèn, vừa bắn súng liên thanh, nhằm ngay núi Vụ Quang báo hiệu. Trên núi nghe có hiệu súng, cho thêm hai đạo quân 200 người xuống núi tiếp ứng, để phòng bị có lính bảo hộ phá vây giải cứu cho Đinh. Đến tối thì nghĩa quân giải Đinh về tới sơn trại.

Sáng hôm sau, Cao Thắng dẫn Đinh vào nộp cho cụ Phan. Cụ cho Đinh ngồi tử tế rồi cười và nói: Ông cho tôi làm việc nghĩa cử này là tầm bậy hay sao? Các ông chỉ biết lo bảo toàn vợ con, nhà cửa và bổng lộc là sung sướng mà thôi, tưởng vậy đã đủ làm cho người ta kinh sợ. Sao ông ngu thế? Tôi với ông có tình anh em đồng học, đáng lẽ nay ông thấy tôi làm một việc gian nan tiết tháo như vậy, thì nên giúp đỡ cho tôi mới phải. Mà nếu có nhát gan sợ chết thì thôi, nên giấu mặt đi mà nằm một xó nhà, yên thân cho xong, sao lại đành lòng đi nịnh hót và bày mưu lập kế cho người ta để toan làm hại tôi. Đã vậy lại còn viết thư nói xấc xược với anh em cố giao nữa, ông nghĩ rằng mình ông có thể địch nổi được với quân của tôi sao? Thôi, người có đầu óc tâm địa như ông, có nói chuyện nghĩa lý gì nữa cũng là vô ích. Bấy lâu làm quan với người Pháp, ông ỷ thế đè đầu bóp cổ dân mà lấy tiền, nghe nói bây giờ về hưu, giàu có sung sướng lắm. Vậy thì nên mau mau đem giúp cho nghĩa binh lấy sáu bảy ngàn đồng đây, rồi tôi tha cho mà về, tôi chẳng thèm giết ông làm gì, cho dơ dáy cả thanh gươm. Ông tự liệu lấy.   

Đinh hổ thẹn quá, ngồi cúi mặt làm thinh. Cụ Phan truyền lệnh đem Đinh ra ở đồn ngoài, giam lại, giao cho 50 quân lính già yếu canh giữ. Đinh vẫn mong sớm tối thế nào cũng có quân lính bảo hộ lên giải cứu cho mình, nhưng đã bốn tháng không thấy tin tức gì, bởi quân lính bảo hộ cũng không dám tới sào huyệt của nghĩa quân chỉ vì cái tính mạng của một viên tuần phủ trí sĩ. Sau bốn tháng, Đinh phải viết thư cho người nhà đem lên nộp cho nghĩa quân 4 ngàn đồng. Bởi vì chưa đủ số tiền nghĩa quân cho chuộc mạng, thành ra Đinh vẫn bị giam. Mãi tới về sau, quân lính bảo hộ đánh phá được đồn ngoài của nghĩa quân, mới cứu được Đinh sống sót mà về.

Việc nghĩa quân lập kỳ mưu bắt sống Tuần phủ Đinh Nho Quang làm chấn động dư luận Nghệ Tĩnh hồi đó, chính vì thế mà bọn quan lại phải khiếp sợ giữ mình, không dám ho he khích bác văn thân và khinh thường nghĩa binh nữa.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #41 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 11:00:52 pm »


Câu hỏi 19: Trình bày những lí do mà Cao Thắng quyết đem quân đi đánh địch ở tỉnh Nghệ An? Trong trận huyết chiến đó, Cao Thắng và nhiều nghĩa quân đã hy sinh do bị mắc mưu địch ở đồn Nỏ như thế nào?
Trả lời:


Trong lúc nghĩa quân đang có thế mạnh sức lớn, tiếng lan truyền khắp xứ, khiến quân bảo hộ phải rất lo ngại, không biết có dẹp được không và nếu có thì bao giờ mới dẹp được. Trong lúc nghĩa quân đang cần người có trí có dũng để giúp đỡ cụ Phan về việc sai khiến tướng sĩ, liệu lương binh cơ, thì chợt có một cái tang rất đau đớn làm thay đổi cả đại cuộc, rung động cả toàn quân: cái tang Cao Thắng tử trận.

Cao Thắng là một người có tài cao chí lớn, nghĩa quân đang cần có ông, đang phải dựa vào ông làm một bức tường thành, bỗng thiếu mất ông đi, tức là nghĩa quân thiếu mất linh hồn, kém hẳn thực lực.

Trải qua năm năm huấn luyện, chuẩn bị, Cao Thắng thấy nghĩa quân đã có khí giới, có lương thực, tập luyện tương đối khá rồi. Tuy không dư thực lực, nhưng cũng đủ chống cự với quân Pháp trong một thời gian. Bởi vậy ông suy nghĩ nếu mà nghĩa quân cứ chui lủi lẩn khuất ở trong rừng núi mãi, không tiến lên một vài bước thì đến bao giờ mới chiếm cứ được một tấc đất để đồ lấy việc lớn. Đã không tiến được thì làm sao tránh khỏi có ngày sẽ thụt lùi, tan tác. Bây giờ ông muốn nghĩa quân phải kịch liệt dồn sức tấn công một phen xem thế nào, chứ cứ ở mãi rừng núi như thế này, tuy là đất của mình thật, nhưng bốn phía đều có quân Pháp bao bọc, siết cứng lấy mình, thành ra mình không khác chi con chim ở trong lồng, con cá ở trong chậu, vẫy vùng gì được. Suy nghĩ vậy rồi Cao Thắng vào bẩm cụ Phan để bàn về việc tấn công, huyết chiến một phen xem sao.

Khi Cao Thắng trình bày nguyện vọng của mình, Phan Đình Phùng suy nghĩ rồi hỏi Cao Thắng muốn đem quân ra đi thì đánh lấy đất nào trước và tại sao đánh nơi đó trước? Cao Thắng trả lời rằng xin đi đánh tỉnh Nghệ An trước. Và giải thích quân Pháp đối địch với ta, lấy tỉnh Nghệ An làm chính, đóng quân và tích lương ở đó rất nhiều, một là để chống giữ ta ở mặt Hà Tĩnh, Quảng Bình, hai là để chặn đường không cho ta giao thông với ngoài Bắc. Ngày nay nếu ta ngồi đây mà giữ mãi thì lấy gì khích động được lòng người, mứu toan được việc lớn. Bao nhiêu nghĩa đảng trong nước bây giờ đều trông ngóng vào ta mà định bước tiến hay lui; đến có sức khá như ta mà cứ ngồi yên thì họ cũng không dám động, nay nếu ta động thì tức khắc là họ ùa theo, chắc sẽ bùng lên khí thế mạnh mẽ. Vả lại lấy rừng núi làm chỗ trú chân tạm thời thì được, chứ làm chỗ thủ thành thì không xong, vì quân Tây chẳng cần gì đánh ta, cứ bọc vây ở vòng ngoài trong thời gian dài, chẳng cần phải hao phí một tên lính, một viên đạn nào, có thể khiến cho ta ở trong tình thế tuyệt lương, tự nhiên rồi ta tự phải tan, phải chết. Tiểu tướng dám quyết rằng thế nào quân địch cũng dùng tới cái kế không cần đánh mà thắng trận như thế đó. Bởi vậy, nghĩa quân ta phải ra tay trước để mở lấy một sinh lộ mới được.

Nghe Cao Thắng nói, Phan Đình Phùng phân vân rồi nói với Cao Thắng nếu ra đánh tỉnh Nghệ An mà Tây kéo quân ở trong ra, ở ngoài đánh vào, hai mặt đánh đổ dồn lại, thì tướng quân sẽ không chống cự cho nổi. Cao Thắng tiếp tục trình bày kế hoạch tiến công, thể hiện sự quyết tâm của mình rằng: Chỉ cần chống cự với mặt quân ở ngoài Bắc vào, còn mặt trong không sợ. Trong khi tiến binh lên thâu phục tỉnh Nghệ An, tôi sẽ xin chủ soái truyền lệnh cho các quân thứ đều cử binh một lượt, không cần gì đánh nhau, nhưng chỉ làm ra bộ lăm le đánh phá hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh, làm vậy để chia sức quân Tây, chúng không để hết tâm lực đến Nghệ An được. Vả lại, nghĩa binh ta ra đánh bây giờ cần phải liều chết mà đánh cho thật thần tốc, khiến cho quân địch chẳng kịp trở tay, thì sự đánh hạ được thành Nghệ An có lẽ cũng là việc dễ. Hễ hạ được Nghệ An rồi, tức khắc các đạo quân thứ ta thừa cái thắng thế ấy mà trường khu đại tán, lên chiếm hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh nữa. Nghĩa sĩ các tỉnh thấy vậy, họ sẽ nức lòng mà cùng nổi lên, quân Tây có ba đầu sáu tay cũng phải bối rối. Lúc ấy cụ đem đại binh đóng ở Quảng Bình đón đường chống cự với quân ở trong kinh ra, tôi xin ở Nghệ An để giữ vững mặt ngoài, nếu nghĩa quân ta giữ chặt được dải đất như thế làm chỗ nương thân, làm nơi căn cứ, may ra có thể làm nên việc lớn được.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #42 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 11:01:42 pm »


Cụ Phan thấy chưa yên tâm và nói với Cao Thắng rằng quân ta hiện nay còn yếu thế lắm, sợ đi thì có điều bất lợi. Cụ Phan nói như vậy là ý không muốn cho Cao Thắng đi, nhưng Cao Thắng vẫn nói lớn rằng: Đại trượng phu đến chết là cùng, chứ có điều chi mà sợ.

Rồi Cao Thắng năn nỉ một mực xin đi, cuối cùng cụ Phan cũng phải chiều theo Cao Thắng. Vả lại, hồi bấy giờ ở quân thứ phủ Anh Sơn tỉnh Nghệ An, Nguyễn Mậu trù liệu việc quân lương có hơi chậm trễ, nên cụ cũng bằng lòng cho Cao Thắng đi để thu xếp việc đó luôn thể.

Cao Thắng bèn chọn lấy một ngàn quân cường kiện, luyện tập lại cho thật giỏi, theo như binh pháp của người Tây. Duy có quân phục thì ông cho mặc toàn sắc đỏ, vì ông lấy nghĩa rằng: phương Nam ta thuộc về hỏa, còn phương Tây thuộc về kim, nay lấy hỏa khắc kim nghĩa là lấy lửa nung vàng cho chảy ra, cho nên lấy sắc đỏ làm quân phục là để tượng về hỏa vậy. Đối với quân sĩ, ông chỉ có một quân lệnh rằng: "Hễ ai ra trận mà lùi lại thì chém đầu". Chính ông ra trận cũng không bao giờ chịu đi sau, bao giờ cũng xông pha lửa đạn mà lên trước, khiến cho quân lính đều cảm phục. Những trận đánh mà ông thường thắng là nhờ có cái can đảm ấy. Quân lính xưa nay không những phục ông là người đại tài mà lại quý mến ông là người có độ lượng, vì đối với quân lính, ông lấy tình như anh em khiến họ rất quý trọng, cho nên lần này ông ra binh, ai cũng vui lòng theo, không ngần ngại một chút nào.

Cao Thắng chia quân ra làm hai đội: Cao Thắng và Nguyễn Niên đi tiên phong, còn em ruột ông là Cao Nữu dẫn một nửa đi làm hậu đội, rầm rộ theo đường thượng đạo mà kéo đi, nhằm thẳng tỉnh Nghệ An tiến tới. Con đường từ đó về tỉnh Nghệ An có rất nhiều đồn trại của lính bảo hộ đóng để phòng cự văn thân. Đi đường gặp đồn nào là Cao Thắng đánh phá đồn ấy, đánh nhau lâu là nửa ngày, mau là một giờ hay vài giờ đồng hồ là ông phá được. Ông đã phá được mấy đồn như thế. Cao Thắng vốn là người có tiếng anh hùng, lính tập bảo hộ đều biết và có ý kiêng sợ, cho nên mỗi khi họ tuần tiễu mà gặp quân ông, họ không ham đánh lắm, đều gọi ông là "hổ tướng".

Sau khi đánh phá được mấy đồn rồi, Cao Thắng kéo quân ngang qua một đồn, gọi là đồn Nỏ. Trong đồn chỉ có một trăm lính tập mà thôi. Viên quan chỉ huy đội lính này là một người mình, trước làm chánh quản, sau được thăng chức làm quan một lon, gọi là quan một Phiến. Phiến nguyên trước cũng ở trong nghĩa đảng, nhiều mưu mẹo lắm, sau ra đầu hàng bảo hộ rồi đem thân vào hàng ngũ, lập nhiều chiến công, thành ra được làm tới quan một. Người Pháp tin dùng Phiến mới cho Phiến đóng ở đồn Nỏ là một chỗ hiểm yếu nằm ngay giữa đường, đối phương có phá được đồn này thì mới có lối đi tới.

Phiến nghe tin báo rằng ông Cao Thắng sắp kéo quân đi qua, liền dự bị cách nghênh địch. Và tự biết rằng quân mình ít, nếu ra đương trường mà đánh nhau với quân Cao Thắng thì chắc là thua, bèn nghĩ đến cách "hư hư thực thực" để đánh ông.

Phiến chia quân ra làm hai cánh, một cánh ở trong đồn, nếu quân Cao Thắng đến đánh thì cứ bình tĩnh như thường, không được náo động hay cự chiến gì hết, mặc kệ cho nghĩa quân cứ việc phá đồn, để chờ cho đến tối sẽ hay; còn một cánh thì ra mai phục ở ngoài đồn, cách độ hai ba cây số, hễ lúc nào thấy trong đồn có tín hiệu riêng là một ngọn đèn sáng ở trên cột cờ, đó là lúc trong đồn ra báo hiệu cho ngoài biết rằng trong đồn bắn ra, thì quân phục binh ở ngoài mới được bắn vào sau lưng nghĩa quân Cao Thắng. Bố trí đâu đó rồi Phiến chờ sẵn nghĩa quân của Cao Thắng đến.

Cao Thắng thừa thế thắng ở mấy đồn kia kéo quân tiến thẳng đồn Nỏ. Nghĩa quân đến nơi thì cũng đã vào lúc xế chiều. Cao Thắng chẳng thấy động tĩnh gì hết, ban đầu tưởng là quân trong đồn đã sợ mà bỏ đi rồi, sau ông suy nghĩ cũng còn sợ kế mai phục gì chăng nên không dám cho quân lính tràn tới, đành phải đóng binh lại để chờ tình hình xem sao.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #43 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 11:02:20 pm »


Một lát sau, trong đồn có người chiếu ống nhòm ra ngoài. Cao Thắng lanh mắt nhìn thấy, biết rằng lính đồn cố sức giữ, bấy giờ ông mới hô quân đánh đồn. Mấy trăm khẩu súng chỉ thẳng vào đồn bắn như mưa rào, mà trong đồn cứ im phăng phắc, không có một tiếng súng nào bắn ra. Nghĩa quân hai ba lần muốn xông pha hãm thành nhưng rồi lại thôi. Mãi đến khi trời tối được một lúc, thấy trong đồn kéo lên một ngọn đèn cao, rồi ở trong bắn ra, Cao Thắng liền hô quân nằm rạp xuống đất mà ứng chiến. Quân trong đồn đều núp chỗ kín, ngó ra thấy ngọn lửa của nghĩa quân lập loè ở chỗ nào là nhằm theo chỗ ấy mà bắn; còn nghĩa quân ở ngoài chỉ bắn phòng vào phía đồn, chứ không biết là có trúng hay không. Lính tập mai phục ở ngoài đồn, thấy tín hiệu đèn sáng, bắt đầu chĩa súng ngay sau lưng nghĩa quân mà bắn. Nghĩa quân đang đánh đồn, chợt thấy đằng sau cũng có tiếng súng nổ liên thanh, nghĩ rằng có quân Tây ở đâu đến cứu viện, hơn nữa trời tối đen như mực, chẳng biết là viện binh ấy nhiều ít thế nào, chỉ biết là trước sau đều bị đánh cả, khiến cho lòng quân đã hơi hoảng loạn. Cao Thắng thấy sự thế như vậy, sợ quân sĩ nếu không quyết tử chiến thì không xong, ông liền nhảy lên mà hét lớn: "Lúc này chúng ta không đánh là chết, còn đợi đến bao giờ". Tức thời, ông chia quân ra làm hai đội, một đội thì tiếp tục đánh đồn, còn một đội quân thì cự với quân địch mai phục gọi là quân viện binh ở đằng sau. Mỗi đội gồm độ 150 người. Nói là ông đem 1.000 binh, nhưng do hai ông Nguyễn Niên và Cao Nữu quản xuất nhiều hơn và tấn công ở hướng khác, chưa hợp lực cùng nhau. Chính ông Cao Thắng thúc giục quân lính xông tới hãm đồn và tự ông xông pha lên trước, bất ngờ bị một viên đạn ở trong đồn bắn ra, trúng ngay bên bụng. Quân sĩ thấy ông chủ tướng bị đạn rồi, không ai ham đánh nữa, mau mau rút đi, báo với đạo quân sau vừa đánh vừa lui. Quân trong đồn và quân mai phục ở ngoài biết nghĩa quân chạy lui, tuy họ trông ra không thấy gì hết, nhưng cứ bắn phóng theo, làm cho nghĩa quân trúng đạn chết nhiều. Có điều là lính tập trong đồn, ngoài đồn tuyệt nhiên không biết là Cao Thắng bị đạn mà nghĩa quân tháo lui.

Nghĩa quân cõng Cao Thắng chạy mãi đến mấy chục dặm, mới tạm đóng binh ở trong một làng gần bên núi để lo cứu chữa thương tích cho ông. Lúc bấy giờ ông hãy còn sống, nhưng bị đạn trúng vào mạng mỡ, đau lắm, đến nỗi mê man không nói được câu gì nữa. Quân sĩ dùng hết mấy món thuốc cứu thương đem theo, đồng thời hái lá này lá kia để rịt chỗ thương tích, nhưng cũng vô công hiệu. Cao Thắng nằm mê man thiêm thiếp sau mấy giờ đồng hồ, bỗng dưng ông mở mắt nhìn các nghĩa binh, nước mắt tràn xuống hai bên gò má, thở dài mấy tiếng rồi mất. Ngày ấy chính là ngày tháng 10 năm Quý Tỵ (1893), ông mới 29 tuổi.

Tin dữ báo gấp đến Ngàn Trươi, cụ Phan khóc lóc kêu gào thảm thiết. Tức thời cụ truyền lệnh phải đem di hài Cao Thắng lên Ngàn Trươi để làm lễ an táng. Cụ dự bị việc tang rất trọng thể.

Ba ngày sau, quan tài Cao Thắng chở về đến đại doanh, cụ Phan mặc áo trắng ra đón tận cửa ngoài, hai tay vỗ vào quan tài mà gào khóc, gần muốn đứt hơi té xỉu. Tướng sĩ cũng khóc như mưa, không ai không thương tiếc Cao Thắng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #44 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 11:03:46 pm »


Quan tài đặt giữa Nghị sự đường, chư tướng cắt phiên nhau ngày đêm tay cầm gươm trần đứng hai bên. Chính tay cụ Phan viết hai câu ai liễn để thờ.

Câu thứ nhất:

      Vị tiệp tiên tử, thiên ý vị hà,
      Hữu chí phất thành, anh dĩ hĩ.


Câu thứ hai:

      Công cầu tất thành, kích tiếp thệ tảo thanh quốc tặc,
      Sự nan dự liệu, cứ yên tích dĩ thiểu tư nhân.


Hai câu liễn đều có tình tứ lâm ly thống thiết. Đại ý cụ than khóc rằng ông Cao Thắng theo cụ ra khởi nghĩa binh từ lúc đầu, có chủ tâm quyết thắng để khôi phục cái quyền độc lập của nước mình, nay không ngờ chí lớn của ông chưa thoả, sự nghiệp định làm chưa thành, mà trời đã vội cướp người anh hùng đi, không biết rằng ý trời nghĩ ra sao? Cụ lại có ý than tiếc ông Cao Thắng là chân tay của cụ, cụ dựa nương trông cậy ông được nhiều công việc, nay không dè đâu ông đã sớm chết, làm cho dưới trướng của cụ thiếu mất một người có tướng tài, thật là đau đớn.

Cụ Phan sai ông Võ Phát (tục gọi là Bang Nhu, đóng quân ở hạt Kỳ Anh, sau này thất trận bị bắt rồi bị chém tại Kinh) soạn một bài văn tế bằng quốc âm.

Chính ngày đại táng, cụ Phan thắp nhang thân tế ông Cao Thắng ba tuần, rồi đứng đó bưng mặt lại khóc hu hu, làm cho tướng sĩ ba quân cảm động quá cũng phải khóc theo vang động một góc núi non. Nhất là những người lính đi đánh trận với ông may sống sót trở về, càng xót thương gào khóc lớn. Họ nói ông Cao chết oan, chết uổng, chết thay thế cho họ, vì nếu ông đừng xông pha ra trước sĩ tốt thì viên đạn ác nghiệt kia sẽ không làm ông chết.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #45 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 11:08:16 pm »


Bài văn tế cụ Phan thân tế Cao Thắng như sau:

Than rằng:
Thanh bửu kiếm mười năm sẵn có, đáng anh hùng dùi mài mãi chưa thôi.
Áng nhung trường một phúc như không, con tạo hóa ghét ghen chi lắm thế!
Nghĩa đồng ưu tưởng lại luống đau lòng,
Tình vãng điếu nghĩ càng thêm rơi lệ.

Nhớ Tôn linh:
Hào kiệt ấy tài,
Kinh luân là chí;
Vén mây nửa gánh giang san.
Vỗ cánh bốn phương hò thỉ,
Gặp quốc bộ đang cơn binh cách, nghĩa giúp vua chung nỗi ân ưu,
Bỏ gia đình theo việc nhung đao, lòng đánh giặc riêng phần lao tụy;
Địa bộ muốn theo dòng Nhạc mục1, thét nhung bào từng ghê trận oai linh,
Thiên tài toan hoạc chước Võ hầu2, chế súng đạn biết bao chừng cơ trí;
Ơn quân tướng Đổng Nhung vâng mạng, cầm ấn quan phòng,
Tước triều đình Chưởng vệ gia phong, kéo cờ tân chế;
Những chắc rằng: ba sinh có phước, hăm hở mài gươm chuốt đá, chí khuông phò phông phụ với quân vương,
Nào ngờ đâu! Một sớm không chừng, mơ màng đạn lạc tên bay, trường chiến đấu biết đâu là số hệ;
Trong ba kỷ3 xuân thu tuy chửa mấy, trên yên ngựa đòi phen roi thét, trọng cương thường quyết mở mặt nam nhi.
Ngoài mươi sương, sự nghiệp biết chừng nào, trước cửa viên bỗng chốc sao sa, thu linh phách vội cướp công tráng sĩ.
Non thiên nhận phất phơ hơi gió thổi, thương người tiết nghĩa ngậm ngùi thay,
Nước tam thoa thấp thoáng bóng trăng soi, nhớ kẻ trung trinh ngao ngán nhẻ.
Thà chết nữa song tay địch khái4 theo về tổ phụ ấy cùng vinh.
Kìa sống như mấy kể hàng di, ở với tinh chiên càng thêm bậy.

Nay nhân:
Chung thất tới tuần,
Thúc sô dâng lễ.
Chén rượu thoảng bay mùi chánh khí, trước dinh đều đủ mặt quan liêu.
Nén hương nghi ngút khói bạch vân, dưới an đua chen hàng cơ vệ.
Chua xót thay, hai già tuổi tác5 ngọt bùi cậy tay em thay đỡ, khối thâm tình chưa thoát cõi hoàng tuyền.
Cám cảnh thay đàn trẻ thơ ngây, ân cần nhờ công vợ dạy nuôi, may di phúc6 lại nẩy ngành đan quế;
Tinh hồn ví dầu thanh sảng, hộ phen này cho tướng mạnh quân bền.
Linh hồn nếu có khôn thiêng, rồi ngày khác lại sắc phòng điện tế.

Thôi! Thôi!
Cửa tía lầu vàng đành kẻ khuất, đem thân bách chiến, để tiếng thơm cho tỏ mặt anh hùng.
Súng đồng gươm bạc mặc người còn, truyền lệnh ba quân, thét hơi mạnh để xây nền bình trị.
Thương ôi là thương,
Kể sao xiết kể.


Mãi đến mười mấy ngày sau, quan quân bảo hộ mới biết tin Cao Thắng chết. Bảo hộ cũng biết Cao Thắng chết là thực lực của cụ Phan sẽ giảm đi nên càng ra sức tuần tiễu hơn trước.
______________________________________
1. Nhạc mục: Nhạc Võ Mục Hầu, tức là Nhạc Phi đời nhà Tống.
2. Võ hầu: Gia Cát Khổng Minh đời nhà Hán, phong Võ hương hầu.
3. Mỗi kỷ là mười năm, ý nói là ông chưa tới 30 tuổi.
4. Câu này nói ý cũng là cái chết, nhưng nếu ra cương trường đại chiến với người Tây mà tử trận, thì vong linh ông được thỏa hơn là chết vào tay một ngưòi đồng bào làm cách gà chuồng bôi mặt đá nhau.
5. Ý nói ông vẫn còn cha mẹ.
6. Khi ông tử trận, thì bà vợ đang có thai.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #46 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2016, 09:20:38 pm »


Câu hỏi 20: Để kháng cự, đàn áp phong trào văn thân, bọn tùy thế lập công đã thực hiện những thủ đoạn gì? Khi Hoàng Cao Khải viết thư khuyên nhủ Phan Đình Phùng ra hàng, ông đã có những hành động và viết thư trả lời như thế nào làm cho bọn chúng khiếp sợ?
Trả lời:


Lịch sử thiên hạ xưa nay, không hề có một cuộc chinh phục nào mà người ta không chiêu nạp lợi dụng ngay những kẻ sinh trưởng ở đó làm quân sĩ, làm mưu thần, làm sai nhân, làm hướng đạo. Tước lộc vàng bạc chỗ này đổi lấy mưu mô công sức chỗ kia. Thời cuộc bảo hộ mới định ban đầu ở nước ta cũng vậy.

Công bằng mà nói, trong những người bổn thổ trước đây tùy thế lập công và bày mưu hiến kế cho bảo hộ về công việc bình định đảng nghịch, tiễu trừ văn thân, có người biết sự cưỡng lại cũng vô ích, cho nên đành phục theo thời thế mà mưu lợi cho nước cho dân; có người không biết lẽ đó, chỉ dựa lấy thời thế oai quyền, trở lại nhiễu hại nhân dân, sinh làm họa phước.

Hạng người này, đối với việc phá hoại cụ Phan, không còn tâm lực gì không đem ra, không còn thiếu mưu kế nào không sử dụng. Họ thừa biết phong trào văn thân do cụ Phan làm chủ, còn như cây đinh trước mắt, như bụi gai trên đường của bảo hộ, nếu họ bày mưu nghĩ cách gì phá tán đi được, tức là cơ hội cho họ nên công danh to, được phú quý lớn.

Để làm được điều đó, trước hết chúng tìm kiếm tảo trừ vây cánh văn thân.

Cuộc vận động văn thân Nghệ Tĩnh lúc bấy giờ mà cụ Phan Đình Phùng chủ trì, sở dĩ có cơ sở, có thanh thế, lan tràn rộng rãi và phát triển được như vậy là nhờ có lòng dân quy phục, sức dân giúp đỡ rất nhiều. Ngoài ra những người là bậc kiện nhi tráng sĩ không từ sống chết, bỏ hết gia hương, đi theo văn thân một cách phân minh, còn những người vẫn an cư lạc nghiệp ở nhà, hình như vô tâm vô sự, nhưng kỳ thật là ngấm ngầm hưởng ứng ủng hộ văn thân bằng tinh thần, bằng tiền bạc lúa gạo, bằng sự hô hào, đó là vây cánh gián tiếp của văn thân, có lẽ không một làng xóm nào là không có, chỉ ít hoặc nhiều mà thôi.

"Muốn trừ văn thân, ta hãy lo chặt vây cánh của văn thân trước" - chủ trương mà bọn tùy thế lập công suy nghĩ như thế. Chúng bèn ra tay trấn áp ở trong dân, hoặc là bắt bớ hành hạ những ông già, bà cả nào mà có thân nhân tử đệ đi theo văn thân, để cho thân nhân tử đệ xót tình máu mủ sẽ phải thò mặt ra hàng phục. Hoặc là giam cầm trừng phạt những nhà đang nghi là có bí mật quan hệ với đảng văn thân. Lúc đó dân gian Nghệ Tĩnh ở giữa cái không khí nhũng nhiễu kinh hoàng bao phủ đến nghẹt thở. Chúng đàn áp trừng trị những kẻ có con em đi theo văn thân, hay là thiệt có giúp ngầm văn thân, thì chẳng nói làm gì, vì lẽ mạnh được yếu thua, tội ai làm nấy chịu, là lẽ tự nhiên ở đời; nhưng đằng này bọn tuỳ thế lập công làm oai làm dữ lung tung, muốn bắt ai thì bắt, muốn chém ai thì chém. Giữa lúc thiên hạ loạn ly, mạng người rẻ như cỏ rác, nhất là người có máu mặt, người có tiền dư và người có hiềm oán chút xíu gì với quan Tiễu phủ sứ và bộ hạ các ngài là dễ bay đầu, mất mạng như chơi. Chính vì vậy mà chẳng thiếu gì người bị bắn, bị tù, bị đày, bị chết một cách oan uổng, chỉ vì lẽ có sự hiềm thù, chứ thật sự người ta không tội gì, cũng không dính líu xa gần chi với văn thân. Sự hình phạt lung tung oan uổng nhân dân như thế phần nhiều chẳng phải là quan Pháp, lính Pháp, mà chính là người Nam, lính Nam, gọi chung là bọn tùy thế lập công.

Họ ra tay chặt vây cánh văn thân đến thế, mà sao phong trào văn thân vẫn sôi nổi. Binh lính bảo hộ vẫn phải đi đánh dẹp rất vất vả cũng không xong. Hóa ra mưu kế của bọn tuỳ thế lập công chỉ làm cho dân gian tao nhiễu bất bình, chứ không thu được nhiều ít hiệu quả gì theo họ dự tính.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #47 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2016, 09:21:36 pm »


Chặt vây cánh của cụ Phan mà cụ Phan không khuất phục, họ bèn tính cách đánh ngay vào bản thân cụ Phan, nhưng cách đó không phải dễ dàng thực hành, họ nghĩ ra cái thủ đoạn lạ lùng, muốn gián tiếp đánh ngã được cụ là hành hạ nắm xương của tổ tiên cụ ở dưới đất. Chúng đã nói với Tây thế này: Phong tục ở xứ chúng tôi, mồ mả đất đai ông bà rất có quan hệ đến sự sinh tử họa phước của con cháu đang sống. Cứ khai quật mồ mả ông cha nhà nào lên, tự nhiên con cháu nhà ấy đang giàu hóa nghèo, đang lành phải đau, đang an phải nguy, Phan Đình Phùng có lòng son gan sắt, mạnh khỏe cố chấp đến đâu cũng phải lo nghĩ đến phần mộ tổ tiên nhà mình, nay cứ đào lên, sẽ bị nao núng động hệ tới bản thân, không ra đầu hàng thì cũng bệnh tật suy vi mà chết.

Trong ý họ tin chắc rằng cứ khai quật phần mộ rồi sai người chiêu hàng, bề nào họ Phan cũng phải vì đạo hiếu, vì việc nhà mà quăng gươm cởi giáp quy hàng, cho nên họ mới đành tâm hiến tới mưu kế như thế.

Ai cũng phải cho đó là một mưu kế quá nhẫn tâm, vì nếu việc làm của Phan có phải là trái thời và đắc tội chăng nữa thì cũng chỉ một mình cụ đắc tội mà thôi, chứ nắm xương khô của tổ tiên cụ dưới đất có tội gì đâu, mà họ nỡ bày sự khai quật lên cho đành. Thật họ có lòng muốn cho phong trào văn thân yên đi, để xứ sở bình an, đồng bào khỏi khổ, chẳng lẽ họ không có tài cao, diệu kế gì để giúp đỡ bảo hộ và mưu lợi cho dân khác hơn hay sao, lại tính đến việc làm quái lạ thế ấy?

Hồi đó là khoảng tháng 9 năm Giáp Ngọ (1894), một viên Tiễu phủ sứ (tất nhiên đó là người Việt Nam) dẫn một toán lính bổn bộ và quan huyện sở tại về làng Đông Thái, kêu lý trưởng và kỳ mục ra chỉ dẫn phần mộ tiên tổ họ Phan ở chỗ nào, để họ đào lên, đem về để tại tỉnh thành Hà Tĩnh. Và còn bắt giam nhiều người thân tộc của cụ Phan nữa.

Cụ Phan ở sơn trại nghe tin, cụ rất căm giận, bởi lẽ lễ giáo phong tục nước nhà thuở xưa vẫn cho mồ mả là nơi thần thánh bất khả xâm phạm. Mặc dù vậy, bề ngoài cụ vẫn trấn tĩnh tự nhiên, để cho vững lòng tướng sĩ. Khi tướng sĩ tiếp được tin, bẩm cho cụ nghe, cụ chỉ cười lạt mà nói: Ta đã tiên liệu tới sự ấy rồi, không có gì lạ.

Người ta đinh ninh chờ đợi tin tức xin hàng của họ Phan sai người đem đến, nhưng chờ đợi lâu không thấy động tĩnh gì, nên mới có bức thư trịnh trọng mang lên núi Vụ Quang khuyên cụ ra hàng.

Người hạ bút viết bức thư khuyên nhủ Phan ra hàng chính là người đồng hương, đồng thời với cụ, lại có tình thông gia với nhau nữa: ông Hoàng Cao Khải.

Thời gian đó là cuối tháng 10 năm Giáp Ngọ, ông Hoàng Cao Khải viết thư rồi sai chính người nội đệ (em vợ) mình và là ông anh con nhà bác của cụ Phan tên là Phan Văn Mân ban đêm lên núi Vụ Quang. Sẽ không ai khác ngoài ông này mà dám đem mạng đi sứ, nhất là đi sứ dụ chiêu hàng, vì nếu là người khác chắc là nghĩa binh làm thịt.

Mặc lòng, cho dù là thân quyến, Phan Văn Mân phải trải nhiều lớp gian nan nguy hiểm mới vô đến đại doanh. Vì cụ Phan đã được báo trước nên khi thấy Phan Văn Mân thò mặt vào, cụ Phan cười và nói: Anh đi làm thuyết khách cho Hoàng Cao Khải có vất vả lắm không? Sau đó cụ xem thư rồi thở dài: Không dè người khuyên nhủ tôi ra hàng là cố nhân Hoàng Cao. Tôi thề quyết làm việc tôi làm đây tới cùng, dầu sấm sét búa rìu cũng không làm sao cho tôi thay lòng đổi chí được, anh về nói giùm cho Hoàng Cao biết như thế. Nếu tôi không làm xong được công việc vua ủy thác, dân trông mong và không rửa hận cho khô cốt của tổ tiên ở dưới đất, thì chỉ có một cách là chết theo hoài bão tâm trí mình mà thôi.

Rồi tức thời cụ cầm bút viết thư trả lời, trao cho ông Phan Văn Mân đem về. Lúc anh em từ biệt, cụ ân cần dặn với: Cũng may phước cho người đem thư chiêu hàng chính là anh, nếu là ai khác thì bộ hạ của tôi chắc làm tương mắm để gửi biếu Hoàng Cao nếm thử. Lần sau y có sai đi, anh đừng có làm theo nữa.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #48 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2016, 09:26:12 pm »


Nếu đọc cả hai bức thư dịch ra dưới đây, mới thấy không khác hai bức tranh phóng đại tâm tính chí khí của hai ông cùng một làng với nhau, cùng một thời thế với nhau, mà hai đằng xa cách nhau, không thể nào gặp nhau được.

Nội dung bức thư của Hoàng Cao Khải như sau:

Đồng Ấp Phan Đình Nguyên đại nhân túc hạ. Tôi với ngài xa cách nhau, xuân thu đắp đổi trải đã mười bảy năm nay rồi. Dâu bể cuộc đời, bắc nam đường bụi, tuy là mỗi người đi một ngả khác nhau, nhưng mà trong giấc mộng hồn vẫn thường thấy nhau không phải xa xôi gì. Ngồi nghĩ lại ngày trước chúng ta còn ở chốn quê hương giao du với nhau, cái tình ấy đằm thắm biết là dường nào?

Từ lúc ngài khởi nghĩa đến giờ, nghĩa khí trung can, đều rõ rệt ở tai mắt người ta. Tôi thường nghe các quý quan1 nói chuyện đến ngài, ông nào cũng phải thở than khen ngợi và tỏ ý kính trọng ngài lắm. Xem như thế thì tấm lòng huyết khí tôn nhân, tuy là người khác nước cũng chung một tâm tình ấy thôi, không phải là người cùng thanh khí với nhau có vậy.

Ngày kinh thành thất thủ, xa giá nhà vua bôn ba, mà ngài mạnh mẽ đứng ra ứng nghĩa, kể sự thế lúc bấy giờ ngài làm vậy là phải lắm, không ai không nói như thế. Song bởi lẽ, sự thế gần đây đã xoay đổi ra thế nào, thử hỏi việc đời có thể làm được nữa không, dầu kẻ ít học thức, kém trí khôn cũng đều trả lời không được. Huống chi như ngài lại là bậc người tuấn kiệt, chẳng lẽ không nghĩ tới đó hay sao? Tôi trộm xét chủ ý của ngài, chắc cũng cho rằng: ta cứ làm theo việc phải ta biết, cứ đem hết tài năng ta có, một việc nên làm mà làm là ở nơi người, còn nên được hay không nên là ở nơi trời, ta chỉ biết đem thân này hứa cho nước, đến chết mới thôi. Bởi thế, cho nên ngài cứ việc làm tới cùng, không ai có thể làm biến đổi cái chí ấy đi được.

Có điều tôi thấy tình trạng ở quê hương chúng ta gần đây lấy làm đau lòng hết sức. Nhân đây, tôi muốn đem ý kiến hẹp hòi, để ngỏ cùng lượng cao minh soi xét; nhưng mấy lần mở giấy ra rồi, mài mực xong rồi, đã toan đặt bút xuống viết rồi lại gác bút thở dài, không sao viết được. Vì sao? Vì tôi liệu biết can tràng của ngài cứng như sắt đá, không thể lấy lời nói mà chuyển động nổi. Đã vậy, lại còn khác tình, khác cảnh, xa mặt xa lòng, vậy thì lời nói của tôi, chắc gì thấu tới được nơi ngài, mà dầu cho có thấu tới nơi ngài chăng nữa, đã chắc gì lọt vào tai ngài chịu nghe giùm cho, chẳng qua chỉ để cho cố nhân cười mình là thằng ngu thì có.

Nay nhân quan Toàn quyền2 trở lại, đem việc ở tỉnh ta ra bàn bạc với tôi, có khuyên tôi sai người đến ngỏ ý cùng ngài biết rằng: ngài là bậc người hiểu biết nghĩa lớn, dầu không bận lòng tưởng nghĩ gì đến thân mình, nhà mình đi nữa, thì cũng nên tưởng nghĩ cứu vớt lấy dân ở trong một địa phương mới phải. Lời nói đó, quan Toàn quyền không nói với ai, mà nói với tôi, là vì cho rằng: tôi với ngài có cái tình xóm làng cô cựu với nhau, chắc hẳn tôi nói ngài nghe được, vậy có lẽ nào tôi làm thinh không nói?

Ngài thử nghĩ xem: quan Toàn quyền là người khác nước, muôn dặm tới đây, mà còn có lòng băn khoăn lo nghĩ tới dân mình như vậy thay, huống chi chúng ta sinh đẻ lớn khôn ở đất này, là đất của cha mẹ tôn tộc ở đó, có lý đâu mình làm lơ đành đoạn, thì trăm năm về sau, người ta sẽ bảo mình ra làm sao? Ôi! Làm người trên phải có lòng thương yêu dân làm cốt, chưa từng có ai không biết thương dân mà bảo là trung với vua bao giờ. Việc của ngài làm từ bấy lâu nay, bảo rằng trung thì thiệt là trung, song dân ta có tội gì mà vướng phải nông nỗi lầm than thế này, là lỗi tại ai? Nếu bảo là đã vì thiên hạ thì không thiết chi tới nhà nữa cũng phải, nhưng một nhà của mình đã vậy, chứ còn bao nhiêu nhà ở trong một vùng cũng bỏ đi cả, sao cho đang tâm? Tôi nghĩ nếu như ngài cứ khăng khăng làm tràn tới mãi, thì e rằng khắp cả sông Lam núi Hồng đều biến thành hồ cá hết thẩy, chứ không phải chỉ riêng lo ngại cho cây cỏ một làng Đông Thái chúng ta mà thôi đâu. Đến nỗi để cho quê hương điêu đứng xiêu tàn tưởng chắc bậc người nhân nhân quân tử không lấy gì làm vui mà làm thì phải.

Tôi suy nghĩ đắn đo mãi và lấy làm mừng rỡ mà nói riêng với mình: Được rồi, lời nói đó tôi có thể đem ra nói cho ngài nghe lọt tai, để xin ngài chỉ bảo cho biết như vậy có phải hay không?

Tuy nhiên, sự thế của ngài như cỡi trên lưng cọp đã lỡ rồi, bây giờ muốn bước xuống, nghĩ lại khó khăn biết bao!

Nếu như không có chỗ tự tin chắc chắn nơi mình, thì quyết không khi nào dám mở lời nói liều lĩnh để mang lụy cho cố nhân về sau. Nhưng may là tôi với quan Toàn quyền, vốn có tình quen biết nhau lâu, lại với quan Khâm sứ ở Kinh và quan Công sứ Nghệ Tĩnh, cùng tôi quen thân hiệp ý nhau lắm, cho nên trước kia Trần Phiên sứ
(tên là Khánh Tiến, làm Tuần phủ, nên gọi là Phiên sứ) và Phan Thị lang (tên là Huy Nhuận), cũng là chỗ thân trong tỉnh, trong làng, hoặc bị tội nặng, hoặc bị xử đày rồi, thế mà tôi bảo toàn cho hai ông ấy đều được yên ổn vô sự. Lại như mới rồi, ông Phan Trọng Mưu ra thú, tôi dẫn đến yết kiến các đại hiến quý quan, thì các ngài cũng tiếp đãi trân trọng như đãi khách quý và tức thời điện về tỉnh nhà, bắt trả lại mồ mả, và tha cả ba con về, như thế tỏ ra nhà nước bảo hộ khoan dung biết chừng nào! Cứ xem vậy đủ biết lẽ ấy, lòng ấy, dầu là người ngàn dặm xa nhau, vẫn là giống nhau vậy.

Bây giờ, nếu ngài không cho lời tôi nói là dông dài, thì xin ngài đừng ngần ngại một điều gì khác hết, tôi không khi nào dám để cho cố nhân mang tiếng là người bất trí đâu.


Hoàng Cao Khải
Đốn thư".
___________________________________
1. Là các quan Tây.
2. Bấy giờ là đời ông Toàn quyền De Lanessan.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #49 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2016, 09:27:29 pm »


Nội dung bức thư cụ Phan trả lời:

"Hoàng quý đài các hạ,

Gần đây tôi vì việc quân ở mãi trong chôn rừng rú, lại thêm lúc này tiết trời mùa đông, khí hậu rét quá, nông nỗi thiệt là buồn tênh. Chợt có người báo có thư của cố nhân gửi lại. Nghe tin ấy, không ngờ bao nhiêu nỗi buồn rầu lạnh lẽo tan đi đâu mất cả. Tiếp thư liền mở ra đọc. Trong thư cố nhân chỉ bảo cho điều họa phước, bày tỏ hết chỗ lợi hại, đủ biết tấm lòng của cố nhân, chẳng những muốn mưu sự an toàn cho tôi thôi, chính là muốn mưu sự yên ổn cho toàn hạt ta nữa. Những lời nói gan ruột của cố nhân, tôi đã hiểu hết, cách nhau muôn dặm tuy xa, nhưng chẳng khác gì chúng ta được ngồi cùng nhà nói chuyện với nhau vậy.

Song lẽ tâm sự và cảnh ngộ của tôi có nhiều chỗ muôn vàn khó nói hết sức. Xem sự thế thiên hạ như thế kia, mà tài lực tôi như thế này, y như lời cổ nhân đã nói "thân con bọ ngựa là bao mà dám giơ cánh tay lên muốn cản trở cỗ xe" sao nổi không biết; việc tôi làm ngày nay, sánh lại còn quá hơn nữa, chẳng phải như chuyện con bọ ngựa đưa tay ra cản xe mà thôi.

Nhưng tôi ngẫm nghĩ lại, nước mình mấy ngàn năm nay, chỉ lấy văn hiến truyền nối nhau hết đời này qua đời kia, đất nước chẳng rộng, quân lính chẳng mạnh, tiền của chẳng giàu, duy có chỗ ỷ thị dựa nương để dựng nước được là nhờ có cái gốc vua tôi cha con theo năm đạo thường mà thôi. Xưa kia nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh bên Tàu, bao nhiêu phen lăm le muốn chiếm lấy đất ta làm quận huyện của họ mà vẫn chiếm không được. Ôi! Nước Tàu với nước ta, bờ cõi liền nhau, sức mạnh hơn ta vạn bội, thế mà trước sau họ không thể ỷ mạnh mà nuốt trôi nước ta được, nào có vì lẽ gì khác đâu, chẳng qua non sông nước Nam tự trời định phận riêng hẳn ra rồi, và cái ơn huệ thi thư lễ nghĩa vốn có chỗ đủ cho mình tự có thể trông cậy dựa nương lắm vậy. Đến nay người Pháp với mình, cách xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể lại đây, đi tới đâu như là gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà cùng bị đắm chìm hết thảy, có phải là riêng một châu nào hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu.

Năm Ất Dậu, xa giá thiên tử ngự đến Sơn phòng Hà Tĩnh, giữa lúc đó, tôi đang còn tang bà mẹ, chỉ biết đóng cửa cư tang cho trọn đạo, trong lòng há dám mơ tưởng đến sự gì khác hơn. Song, vì mình là con nhà thế thần, cho nên đôi ba lần đức Hoàng Thượng giáng chiếu vời ra, không lẽ nào có thể từ chối, thành ra tôi phải gắng gổ đứng ra vâng chiếu, không sao dừng được. Gần đây, Hoàng Thượng lại đoái tưởng lựa chọn tôi mà giao phó cho việc lớn, ủy thác cho quyền to; ấy, mạng vua ủy thác như thế đó, nếu cố nhân đặt mình vào trong cảnh như tôi, liệu chừng cố nhân có đành chối từ trốn tránh đi được hay không?

Từ lúc tôi khởi nghĩa đến nay, đã trải mười năm trời, những người đem thân theo việc nghĩa, hoặc đã bị trách phạt, hoặc đã bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng hề lấy thế làm chán nản ngã lòng bao giờ; trái lại, họ vẫn ra tài, ra sức giúp đỡ tôi, và lại số người mạnh bạo ra theo tôi càng ngày càng nhiều thêm mãi. Nào có phải người ta lấy điều tai vạ hiểm nguy làm sự sung sướng thèm thuồng mà bỏ nhà dấn thân ra theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi, cho nên hâm dở vậy đó thôi. Ấy, lòng người như thế đó, nếu như cố nhân đặt mình vào cảnh của tôi liệu chừng cố nhân có nỡ lòng nào bỏ mà đi cho đành hay không?

Thưa cố nhân, chỉ vì nhân tâm đối với tôi như thế, cho nên cảnh nhà tôi đến nỗi hương khói vắng tanh, bà con xiêu dạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. Nghĩ xem, kẻ thân với mình mà mình còn không đoái hoài, huống chi là kẻ sơ; người gần với mình mà mình còn không bao bọc nổi, huống chi người xa. Vả chăng hạt ta đến đỗi điêu đứng lầm than quá, không phải riêng vì tai họa binh đao làm nên nông nỗi thế đâu. Phải biết quan Pháp đi tới, có lũ tiểu nhân mình túa ra bày kế lập công, thù vơ oán chạ; những người không có tội gì chúng cũng đâm thọc buộc ràng cho người ta là có tội, rồi thì bữa nay trách thế nọ, ngày mai phạt thế kia; phàm có cách gì đục khoét được của cải của dân, chúng nó cũng dùng tới nơi hết thảy. Bởi đó mà thói hư mối tệ tuôn ra cả trăm cả ngàn, quan Pháp làm sao biết thấu cho cùng những tật khổ của dân trong chốn làng xóm quê mùa, như thế thì bảo dân không phải tan lìa trôi dạt đi sao được?

Cố nhân với tôi, đều là người sinh đẻ tại châu Hoan, mà ở cách xa ngoài muôn ngàn dặm, cố nhân còn có lòng đoái tưởng quê hương thay, huống chi là tôi đây đã từng lấy thân chịu đựng và lấy mắt trông thấy thì sao? Khốn nỗi cảnh ngộ bó buộc, và lại sức mình chẳng làm được theo lòng mình muốn, thành ra phải đành, chứ không biết làm sao cho được. Cố nhân đã biết đoái hoài thương xót dân này, thì cố nhân nên lấy tâm sự tôi và cảnh ngộ tôi thử đặt mình vào mà suy nghĩ xem, tự nhiên thấy rõ ràng, có cần gì đến tôi phải nói dông dài nữa ư?


Phan Đình Phùng
Phúc thư".

Bức thư cụ Phan trả lời viết thật nhẹ nhàng mà đau đớn, tử tế mà cương quyết, tỏ ra mình chết thì thôi, không chịu bãi binh quy hàng. Cụ lại khéo đem quân mạng và dân tâm ra làm nòng cốt để hỏi cố nhân họ Hoàng nếu gặp cảnh ngộ ấy thì làm thế nào? Hình như cụ Phan có ý chặn đường rào ngõ không để họ Hoàng viết cho mình tới bức thư thứ hai nữa.

Thật vậy, lúc ông Phan Văn Mân đem bức thư phúc đáp ra Hà Nội, họ Hoàng xem rồi biến sắc. Họ Hoàng sai dịch bức thư ra chữ Tây, đưa trình Toàn quyền De Lanessan, luôn với tờ báo cáo của mình, ở trong có câu đại ý: "Bổn chức đã lấy hết sự thế lợi hại để tỏ bày khuyên nhủ Phan Đình Phùng ra hàng thú, nhưng y vẫn tỏ ý "hôn mê bất ngộ" (mê mẩn tối tăm không tỉnh), giờ xin chính phủ bảo hộ vì dân mà dùng binh lực tiễu trừ cho hết văn thân loạn phỉ, v.v...".

Ấy là lẽ cố nhiên. Đào mả không núng; khuyên hàng không nghe; văn chương không cảm; thôi thì chỉ còn võ lực. Giờ, quan văn trở vào buồng để cho tướng võ lại ra sân khấu.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM