Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:34:28 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Hương Khê  (Đọc 28801 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #30 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2016, 09:43:36 pm »


Câu hỏi 13: Tại sao Phan Đình Phùng lại chọn núi Vụ Quang làm nơi đóng đại đồn? Ông đã giao nhiệm vụ và chia địa bàn đóng quân cho các thủ lĩnh như thế nào?
Trả lời:


Cách xa Trùng Khê, Trí Khê mấy chục dặm, có dãy núi là núi Vụ Quang. Tục gọi là Ngàn Trươi, địa thế hiểm yếu cụ Phan chọn làm nơi đóng đại đồn.

Ngàn Trươi, một khu rừng núi thật hiểm hóc quanh co và có địa thế thuận tiện cho việc dụng binh bởi vì nhờ có ba con đường độc đạo: mặt trước nhìn ra đồng bằng, có thể thấy được thành Hà Tĩnh, đằng sau toàn là rừng rậm, có đường lối bí mật đi qua đất Lào mà sang Xiêm, còn một con đường nhỏ nữa thì thông suốt qua tới núi Đại Hàm - núi này cũng là một chặng núi hiểm hóc: sơn mạch liên tiếp nhau và đột ngột, khuất khúc, cứ mỗi trái núi có một khe suối, hai bên bờ khe nào cũng có lau sậy mọc lên cao quá đầu người. Đường lối đi vào rất là gay go, nếu ai không thuộc thì không tìm được đường vào và nếu vào được rồi mà không thuộc địa thế cũng không biết đường mà ra.

Quân lính bảo hộ sẽ rất khó khăn khi tấn công đến căn cứ này bởi vì đường lên Ngàn Trươi phải trải qua nhiều rừng núi hiểm trở, dễ phục binh đánh úp. Hơn nữa, có lắm khu rừng nếu muốn băng qua phải có đủ sức chịu đựng vì đất sình lầy lội phải ngập cả chân, có chỗ ngập tới ngang lưng, sợ nhất là phải chống chọi với đỉa, với rắn, với muỗi mòng... nó bu lại hút máu một lát, người mạnh đến đâu cũng phải chết xỉu.

Từ Vụ Quang đến Trùng Khê, Trí Khê dài đến gần một trăm dặm đều có đồn trại liên tiếp của nghĩa binh dựng lên. Đồn trại dựng toàn bằng cây bền chắc, lấy ngay ở trong rừng, dựa theo thế núi, thế nước mà đóng để cho tiện việc chống giữ, việc ăn uống và cả việc chuyên chở binh gia lương thực đi lại. Bốn tỉnh: Thanh Hóa, Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh đều là miền thượng du sơn cước rải rác có đồn trại nghĩa binh. Đồn lớn thì một đề đốc đóng, còn đồn nhỏ thì một lãnh binh.

Phan Đình Phùng chia ra mỗi thủ lĩnh làm chủ một địa phương, gọi là một quân thứ (nghĩa là chỗ quân đóng). Mỗi một quân thứ ở hạt nào đều lấy ngay tên của hạt ấy mà gọi cho tiện việc tiếp ứng, liên lạc. Mỗi quân thứ đóng ở một tỉnh, hoặc một huyện, hoặc một tổng, hoặc một làng tùy theo chỗ đóng binh có quan hệ đến việc vận lương và quân bị thế nào.

Phan Đình Phùng chia nghĩa quân ra 15 quân thứ như sau:

Khê thứ (huyện Hương Khê): do Nguyễn Thoại chỉ huy.
Can thứ (huyện Can Lộc): do Nguyễn Trạch, Nguyễn Chanh chỉ huy.
Lai thứ (tổng Lai Thạch): do Phan Đình Nghinh (cháu cụ) chỉ huy.
Bình thứ (tỉnh Quảng Bình): do Nguyễn Thụ chỉ huy.
Hương thứ (huyện Hương Sơn): do Nguyễn Huy Giao chỉ huy.
Diễn thứ (phủ Diễn Châu): do Lê Trọng Vinh chỉ huy.
Anh thứ (phủ Anh Sơn): do Nguyễn Mậu chỉ huy.
Nghi thứ (huyện Nghi Xuân): do Ngô Quảng chỉ huy.
Lễ thứ (làng Trung Lễ thuộc phủ Đức Thọ): do Nguyễn Cấp chỉ huy.
Cẩm thứ (huyện Cẩm Xuyên): do Huỳnh Bá Xuyên chỉ huy.
Thạch thứ (huyện Thạch Hà): do Nguyễn Huy Thuận chỉ huy.
Kỳ thứ (huyện Kỳ Anh): do Võ Phát chỉ huy.
Lệ thứ (huyện Lệ Thủy): do Nguyễn Bí chỉ huy.
Thanh thứ (tỉnh Thanh Hóa): do Cầm Bá Thước chỉ huy.
Diệm thứ (làng Tình Diệm, núi Đại Hàm thuộc về quân thứ này): do Cao Đạt chỉ huy.

Mỗi quân thứ như thế, tùy theo địa thế mà đóng quân nhiều hay ít. Quân ấy tuy dưới sự chỉ huy của các thủ lĩnh kể tên trên, nhưng tất cả đều dưới quyền cụ Phan điều khiển chỉ huy chung. Cụ hạ lệnh nhất thiết phải mặc một sắc binh phục, huấn luyện, trang bị như nhau. Mỗi quân thứ phải chọn trong quân mình ra hai hoặc ba chục lính xuất sắc về đóng ở đại đồn núi Vụ Quang, gọi là quân túc trực, phòng khi có việc quân, truyền báo hiệu lệnh ra cho quân thứ nào, thì sẵn có binh lính của quân thứ ấy mà sai khiến, vì họ đã thuộc đường lối đi lại sẽ mau lẹ dễ dàng. Kỷ luật trong quân được cụ duy trì rất chặt chẽ, chính tay cụ Phan thảo ra rất nghiêm minh và thi hành đều trong các quân thứ.

Lúc này quân thứ nào cũng có hoặc từ 100 cho đến 500 quân, còn ở đại đồn Vụ Quang thì lúc nào cũng có 500 quân, đều là tay súng kiểu mới, huấn luyện rất kỹ và bắn rất giỏi. Có 20 thân binh luôn ở bên cụ, là đại nguyên soái để hộ vệ và truyền phát hiệu lệnh đi các đại đồn. Một viên kiện tướng của cụ là Nguyễn Mục làm thống tướng đội quân tử sĩ ấy, cụ Phan đi đâu cũng đi theo từng bước.

Tổ chức quân thứ là một sáng tạo lớn của Phan Đình Phùng mà các cuộc chống Pháp đương thời không có. Quân hình thành trên cơ sở các cuộc khởi nghĩa địa phương đã được thử thách, do đó các thủ lĩnh có thể tự động tác chiến theo một kế hoạch chung hoặc tấn công tiêu diệt sinh lực địch, hoặc chống càn bảo vệ căn cứ địa, hoặc táo bạo đột kích vào trung tâm đầu não của địch. Từ đồng bằng đến miền núi, miền biển đều có quân thứ, do đó những hoạt động của địch đều có thể bị ta phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Đó là sự hợp lý trong bố trí thế trận quân sự.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #31 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2016, 09:44:27 pm »


Câu hỏi 14: Khi đã chọn được nơi đóng đại đồn và chia địa bàn đóng quân cho các tùy tướng, Phan Đình Phùng đã chỉ đạo cách sản xuất, dự trữ lương thực cũng như chế tạo vũ khí như thế nào? Trình bày khái quát những nội dung trên?
Trả lời:


Vấn đề lương thực được Phan Đình Phùng xác định là vấn đề cốt lõi, là mạch máu của nghĩa quân, được cụ sắp đặt dự bị cẩn thận, chu đáo. Dân ở mấy tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình thời gian này đã thuộc hẳn dưới quyền chính phủ bảo hộ, phải đóng thuế thân, ruộng đã phải đóng thuế điền, sự gánh vác nhiều hơn lúc trước; nhưng cụ Phan lấy nghĩa lý mà dụ cho dân, đại ý nói rằng: Nghĩa quân bây giờ cần phải có dân giúp cho về chỗ lương ăn, thì mới có thể yên ổn bề trong, mà có yên ổn bề trong, thì bề ngoài mới có thể chống giữ với quân Pháp. Cụ không cần lấy của dân nhiều, mỗi mẫu ruộng hàng năm chỉ cần dân đóng góp cho nghĩa binh một đồng bạc mà thôi. Nhân dân hạt nào cũng vui lòng đóng góp, không lấy sự phải đóng góp hai nơi làm nặng nề và không ai oán hận gì cả. Ngoài sự đóng thuế ra, dân làng còn đem sản vật và lúa gạo lên cung cấp cho nghĩa binh làm lương thực nữa. Thế mới biết lòng dân thương yêu cụ như thế nào. Có nhiều người vì việc cụ làm mà đến khuynh gia bại sản cũng cam tâm. Thậm chí mấy kẻ giàu có, ngày thường không dám thò ra đồng xu bát gạo nào giúp ai, thế mà bây giờ cũng phải theo gương phần đông và sợ oai thế của văn thân, rồi tự đem gạo tiền đóng góp.

Theo luật định, tới kỳ thuế thì dân ở địa phương nào đem tới chỗ có quân thứ ở địa phương ấy mà nộp. Mỗi quân thứ thu được bao nhiêu thì phải vào sổ sách cụ thể phân minh, trừ ra các khoản chi tiêu cho quân thứ mình rồi, còn thì phải đem nộp lên đại đồn. Cụ ra nghiêm lệnh cho các quân thứ không được cưỡng đoạt tài sản của dân, không được dung túng cho thủ hạ làm một việc gì trái phép.

Ở trong đại đồn, cách thức trữ lương thực bằng cách đào những hầm hố to lớn ở đất cao ráo trên núi, chu vi mỗi hầm ước độ 30 trượng, trước hết dùng cây khô và cỏ khô chất đầy, đốt lửa cháy lên cốt làm cho đất chỗ ấy cứng lại như đá, rồi sau mới đổ thóc gạo xuống đó. Trên mặt hầm đậy bằng những ván cây, lại lấy lau sậy và lá khô che phủ kín mít, khiến cho không ai biết là chỗ để lương. Dẫu địch có muốn cướp lương của nghĩa quân cũng không biết chỗ nào mà cướp. Từ núi Vụ Quang đến núi Trùng Khê, Trí Khê, cứ cách 3 dặm hoặc 5 dặm lại có một chỗ trữ lương như thế. Chỗ nào có hầm trữ lúa thóc thì cũng có trữ luôn cả những khí cụ xay lúa giã gạo. Làm vậy để lúc nào quân lính cần dùng gạo ăn sẵn sàng có đồ xay giã. Việc xay lúa giã gạo có riêng một đội quân trông coi gồm những người già yếu, không thể ra trận được; chức vụ của họ phải lo ứng biện gạo củi và đồ ăn cho các trại luôn đầy đủ.

Trên núi Vụ Quang, Phan Đình Phùng bố trí một trường chế tạo súng đạn đêm ngày. Cách thức chế tạo cũng theo như cách thức hồi trước Cao Thắng đã làm, nghĩa là chế tạo súng kiểu Tây, còn nguyên liệu để dùng chế tạo cũng mua của dân làng. Chính cụ đốc thúc cho thợ làm ngày đêm không nghỉ, hễ chế tạo ra được bao nhiêu thì phân phát đi cho mỗi quân thứ một ít. Song vì vật liệu mỗi ngày một hiếm hoi thiếu thốn, dân làng không lấy đâu được nhiều sắt hư, đồng cũ để cung ứng cho nghĩa quân nữa, thành ra việc đúc súng Tây cũng bị hạn chế và không chế tạo ra được bao nhiêu. Đã vậy mà lực lượng nghĩa quân hồi này ngày một đông thêm, cho nên không có súng để dùng, phải dùng cả gươm giáo là đồ khí giới cũ. Về thuốc đạn, thì cụ Phan cho người từ núi Vụ Quang đi đường tắt trong núi rừng qua Lào rồi sang Xiêm mua về, nhưng cũng vì đường xa hiểm trở, mỗi lần đi lại như thế rất lâu thành ra đúc đạn, bốn phần là thuốc của ta chế ra, chỉ pha trộn vào có một phần thuốc mua bên Xiêm.

Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng khi đã cơ bản khắc phục, tạm ổn định về lương thực và vũ khí thì nghĩa quân lúc bấy giờ cũng đã có thanh thế tương đối mạnh, có tổ chức chặt chẽ, khiến cho tướng sĩ Pháp cũng phải thầm khen cái tài dùng binh của cụ Phan. Cụ sắp đặt quân lính có hàng ngũ, luyện tập tướng sĩ có kỷ luật, hơn nữa mọi việc quân lương quân giới nhất thiết đều dự bị có khuôn phép chặt chẽ...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #32 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 10:50:59 pm »


Câu hỏi 15: Tấm lòng sắt đá của Phan Đình Phùng được thể hiện bằng khẩu khí thơ văn đã chứng tỏ khí phách tâm trí của Phan Đình Phùng rất quyết tâm, không có gì có thể ngăn cản. Cho biết những chi tiết có liên quan đến nội dung trên?
Trả lời:


Giữa năm Kỷ Sửu (1889), Tôn Thất Thuyết ở bên Tàu đã viết thư, sau đó sai người đem về đưa cụ Phan.

Lúc này, Tôn Thất Thuyết ở Quảng Tây, chỉ vì nghe tin vua Hàm Nghi đã bị bắt, thành ra ông ta ở luôn bên Tàu không về nữa. Cũng vào thời gian đó, có người trốn sang Tàu đem hết việc tổ chức nghĩa quân của cụ Phan nói rõ cho Thuyết nghe, Thuyết mừng lắm, liền sai tên gia nhân trung tín là Trần Thế đem một bức thư về nước lần mò tới đại đồn Vụ Quang để diện trình cụ Phan. Trong thư, Thuyết khen tài trí của cụ và phong cụ là Bình Trung tướng quân. Cái cử chỉ ấy tỏ ra Thuyết coi mình như còn làm tể tướng, vẫn có quyền hành vậy. Thuyết lại nói: Hiện nay trong nước như không có triều đình, không có vua chúa, vậy thì nơi tướng quân khởi nghĩa có thể coi như nơi trung khu của nhà nước, tướng quân cứ tùy tiện làm việc, chọn người mà dùng, cốt giữ vững lấy đức liêm chánh công bình mà lo toan việc lớn, v.v...

Nhân có bức thư và mấy lời của Thuyết ân cần như thế, nên cụ Phan viết câu liễn sau dán ở đại đồn, giữa Nghị sự đường:

      Liêm bình khâm tướng huấn
      Ưu nhục lầm thần tâm.


Câu trên có ý tỏ mình vâng lời quan tướng Tôn Thất Thuyết khuyên răn liêm chánh công bình. Còn câu dưới có ý rằng: vua lo tôi nhục, vua nhục tôi chết, nay vua Hàm Nghi đã bị mất nước tan nhà, ủy thác việc lớn cho cụ, thì cụ xin sắt đá một lòng, không bao giờ dám trái, quyết làm cho kỳ thành công hay là đến chết mới thôi.

Mặc dù hồi này Phan Đình Phùng rất lo cho việc khởi nghĩa, nhưng cụ vẫn không quên cái khí vị nhà nho và không quên cái thú ung dung ngâm vịnh. Quả đúng cụ là một vị nho tướng, ở giữa lúc máu sắt ngổn ngang, ngồi giữa chỗ gươm đao lạnh lùng, thế mà mỗi khi có chuyện gì sinh tình, sinh cảm, nên vịnh nên ngâm, thì vị nho tướng ta cũng cứ ngâm vịnh một cách ung dung nhàn hạ. Bởi vậy mà thời gian này chính tay cụ đã viết những thư từ giao thiệp và soạn ra thơ ca cũng tương đối nhiều, nhưng sau thất lạc hết.

Cũng vào thời điểm ấy, ông Tuần phủ tỉnh Hà Tĩnh là Võ Khoa, với cụ vốn có tình quen biết, lại có lòng kính trọng chí khí cụ, nhưng ông nhắm thời thế khó có thể xoay chuyển, cứu vớt gì nữa nên ông có ý khuyên cụ bãi binh quy ẩn là hơn. Có điều ông không dám nói thẳng ra, mà chỉ ngụ ý kín đáo bằng mấy câu thơ gửi bí mật cho cụ như sau:

      Ký vô hạ vũ tô binh hỏa,
      An sử xuân phong biến hỗ hàn.
      Kỳ vị ngô châu di nhất ái,
      Thử hồi ninh phụ thử giang san.


Dịch ra lục bát là:
      Mùa hè khôn rưới lửa nồng,
      Gió xuân chi để lạnh lùng khắp nơi.
      Châu ta còn có một người,
      Lúc này sao nỡ phụ lời non sông.

Chắc cụ hiểu ý ông bạn nay đã làm quan với bảo hộ mà lại trấn giữ tỉnh Hà Tĩnh, chính là quê hương và chính là địa phương cụ đang dụng võ nên cụ đáp ý để tỏ ý chí quyết liệt, sắt đá của mình:

      Bách niên tôn xã dư hoài nhiệt,
      Nhất phiến cô trung tặc đởm hàn.
      Kỳ ngữ đồng nhân tri dã phủ,
      Sở vương thế lực bạt hà sơn?


Dịch là:
      Chí ta cứu nước đang nồng,
      Lòng ta trung dõng lạnh lùng địch quân.
      Ai về nhắn hỏi đồng nhân,
      Sở vương sức mạnh bạt sơn bao giờ?

Phan Đình Phùng có câu họa vần dưới chót đó là bởi vì ông Võ Khoa có nhắn miệng người tâm phúc đem thư, nói cho cụ Phan biết binh lực của bảo hộ hùng cường ra thế nào, cốt để khuyên cụ đừng chống lại làm gì vô ích. Những ý thơ của cụ Phan đã chứng tỏ khí phách tâm trí lúc nào cũng kiên cường quyết liệt, luôn giữ vững quyết tâm đã làm thì quyết làm, có thua cũng mặc, đến chết mới thôi, không có ai và không sức nào làm cho lui sợ mà bỏ cái quyết tâm ấy được. Hơn nữa bây giờ cụ đang đứng chân ở núi Vụ Quang - một địa hình thuận lợi và có trong tay binh lực ít nhiều, thì dẫu thua cũng phải thời gian dài.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #33 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 10:51:48 pm »


Câu hỏi 16: Cho biết chi tiết bất ngờ, thú vị khi Lãnh binh Nguyễn Mục tham mưu, Phan Đình Phùng đã chỉ huy quân lấy ít địch nhiều và giành thắng lợi như thế nào?
Trả lời:


Một hôm trên núi Vụ Quang các tướng đem binh ra ngoài có việc hết cả, trong đại đồn chỉ còn 20 lính thân binh mà trong số 20 lính ấy chỉ có 14 khẩu súng. Bất ngờ đồn ngoài báo vào đồn trong cho cụ Phan biết có khoảng hơn 100 quân bảo hộ, gồm có mấy viên cai đội Pháp, còn toàn là lính tập, do hai viên quan võ quản xuất, đi tuần tiễu sắp tới nơi.

Cụ Phan nghe báo vậy rất lo, chắc quân địch đã do thám thế nào mới biết được tướng sĩ của cụ hôm nay ra ngoài cả, nên quân bảo hộ mới dám đưa mình đến chỗ chết như thế. Bây giờ tướng sĩ không có, khí giới không có, thì lấy gì chống cự cho lại, nên cụ đã định tháo đi ngõ sau núi Vụ Quang mà trốn tránh. Nhưng có ông Lãnh binh Nguyễn Mục, là đầu quân thân binh tử sĩ bẩm với cụ rằng: không nên trốn tránh. Tuy quân địch nhiều mà quân ta ít, nhưng quân ta đang chiếm được địa thế. Quân địch nhiều mà chơ vơ, quân ta ở trên cao, quân địch ở dưới, ta ở trên đánh xuống sẽ rất mạnh. Vậy xin quyết chống, không nên lui ra phía sau, sẽ vào khu đất bí, rồi lại mất đại đồn, đại đồn mà không còn thì nghĩa quân sẽ tan mất… Cụ nghe theo, bèn truyền lệnh cho 20 quân ấy vào lúc gà gáy một lần thì dậy nấu cơm ăn, ai cũng phải nắm thêm một nắm cơm để phòng buổi trưa ăn. Mỗi người đem theo 300 viên đạn, chia nhau ra, hoặc 3 người một tốp, hoặc 5 người một tốp, phục ở các chỗ hiểm yếu, để chờ quân Pháp. Khi nào nghe tiếng pháo nổ làm hiệu, thì bắn ra một lượt. Còn ở trên đỉnh núi, cụ sai cắm cờ cho nhiều và đốt lửa để khói lên nghi ngút, đồng thời cử mấy người trực sẵn ở đó, tảng sáng là nổi chiêng trống vang động núi non để làm nghi binh. Cụ Phan còn sai người tức tốc đi ra Khê thứ lấy quân tiếp ứng.

Quả nhiên, toán quân bảo hộ gồm có khoảng 150 tên lính tập đi tuần tiễu đến núi Vụ Quang, nhưng vì tới nơi trời tối nên chỉ hạ trại đóng binh lại ở dưới xa, chứ không dám động. Gần sáng chúng mới kéo nhau lên, thấy trên đỉnh núi có lửa lập loè và nghe có tiếng người thầm thì, tưởng nghĩa quân không hay biết gì mà đề phòng, thành ra mấy viên quan binh cứ đốc thúc lính tập chen cây rẽ lá mà leo lên mãi, định bất ngờ đánh phá đại đồn nghĩa quân và bắt sống họ Phan. Không ngờ vừa leo tới giữa núi, bỗng nghe một tiếng pháo nổ rồi thì trống trận, người reo. Từ nhiều phía có tiếng súng bắn, đạn bay rào rào đều nhằm vào họ. Một viên trung úy trúng đạn bị thương nặng, thành ra quân bảo hộ rối loạn, không biết đối phương ở phía nào mà bắn trả. Phục binh càng bắn dữ, viên thiếu úy phải hô quân lui, vì chỉ nghe hình như ba bề bốn phía đều reo, tứ tung vang động, chớ không biết nghĩa binh nhiều hay ít, chỉ biết là nghĩa binh có phòng bị rồi, nếu tấn lên nữa thì nguy, thành ra lệnh thoái binh vừa truyền, mạnh ai nấy chạy thoát thân xuống núi. Nghĩa binh ở trên cao đánh xuống thấp, cho nên ít người mà thắng thế.

Lính bảo hộ chạy xuống vừa tới chân núi thì gặp toán nghĩa binh tiếp ứng ở Khê thứ đến nơi. Cao Thắng dẫn 200 quân ở ngoài về, cũng vừa tới đó, cả hai đội liền hiệp nhau lại mà đánh rất quyết liệt. Lính bảo hộ bị đánh dồn một lúc cả trước mặt và sau lưng, ngã nằm ngổn ngang, số còn lại phải tìm đường đào tẩu, bỏ lại súng đạn và lương thực rất nhiều.

Cụ Phan ở trên đỉnh núi, gõ chiêng phất cờ làm hiệu lệnh để rút binh về, mặc cho lính tập kia chạy, không muốn đuổi theo. Ngay hôm ấy cụ tổ chức tiệc khao thưởng cho tướng sĩ. Cụ cho rằng thắng lợi này là do mưu của Nguyễn Mục nên Nguyễn Mục được kể làm đầu công.

Cao Thắng kể rằng: tối hôm trước ông đóng quân ở Diệm thứ (tức là núi Đại Hàm, do người em ruột là Cao Nữu làm chủ), cuối canh một đi ngủ, vừa mới chợp mắt thì mộng thấy đại đồn Vụ Quang phát hỏa lớn lắm. Ông giật mình tỉnh dậy, thấy sao ruột gan nóng bức như thiêu, trong trí rất lấy làm lo ngại, liền đánh thức Cao Nữu dậy, anh em bàn nhau, đoán rằng đại đồn tất có việc nguy cấp, rồi tức thời ông hô binh đi nửa đêm. Đến núi Vụ Quang chưa sáng thì vừa gặp toán lính bảo hộ ở trên núi chạy xuống, ông chặn đường mà đánh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #34 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 10:54:07 pm »


Cho rằng quân bảo hộ không trở lại nữa, chiều hôm đó cụ Phan xuống chân núi xem xét chỗ chiến trường vừa diễn ra và sai nghĩa binh lượm xác của những lính tập và hai viên cai Tây đem chôn tử tế. Trong lúc đắc chí và cảm hứng cụ làm mấy bài thơ để kỷ niệm một trận mình thắng rất may như sau:

                  I
      Tài phái binh hành hốt phỉ lai,
      Dư tâm vị định chính bồi hồi.
      Trướng tiền thỉnh chiến hà nhân giả,
      Quả bế thời gian báo tiệp hồi.


Dịch nghĩa:
      Vừa phái quân đi giặc đến nơi,
      Lòng ta lui tới luống bồi hồi.
      Người xin quyết đánh là ai đó?
      Chớp mắt mà ta đã thắng rồi!



                  II

      Sơn cái cao hề, thủy cái thanh!
      Mối ư mặc tướng hiển anh linh.
      Bất nhiên chúng quả tương huyền thậm,
      Hồ đáo khê tiền dĩ thất kinh.


Dịch nghĩa:
      Chót vót non cao, nước một mầu,
      Quỷ thần âu cũng giúp ngầm nhau.
      Không dưng bên ít bên nhiều thế,
      Mà đến đầu khe đã chạy mau?

Hôm sau, cụ lại xuống núi, lúc đi tới một con suối thấy còn sót tử thi một người lính tập nằm ở bờ suối, đầu gục dưới nước, chân vắt trên bờ, bất giác cụ mủi lòng nhỏ lệ trách vấn những người hôm qua sao đi lượm xác chôn cất mà còn bỏ sót xác chết này. Cụ liền làm một bài thơ cảm khái:

      Nhĩ tâm nguyện vị lợi danh mi,
      Khước hướng khê biên tác tử thi.
      Giám triệt thùy nhân ưng tảo ngộ,
      Đáo thân tử hậu hối hoàn trì.


Dịch nghĩa:
      Chẳng qua danh lợi buộc thân mày!
      Đến nỗi bên khe chết bỏ thây.
      Trông đó ai ơi! Nên sớm liệu,
      Chết rồi có hối cũng ra chầy.

Thế mới biết tâm hồn thơ phú của cụ Phan được thể hiện ở mọi lúc, mọi nơi, nhất là khi nghĩa quân thắng trận.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #35 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 10:55:13 pm »


Câu hỏi 17: Trong quá trình khởi nghĩa, có một người phụ nữ thông minh, dũng cảm làm cho Cao Thắng và Phan Đình Phùng rất tin tưởng, người phụ nữ ấy là ai, đã lập được những chiến công gì sau khi được Phan Đình Phùng giao nhiệm vụ?
Trả lời:


Vào khoảng những năm 1887-1888, trên dòng sông Lam, người ta thấy một chiếc thuyền con của một người đàn bà và một đứa con trai nhỏ, từ đâu không biết, chở than lên bán vào những ngày có phiên chợ Tràng (là chợ ở giữa tỉnh Nghệ An).

Người đàn bà nhỏ thấp, da ngăm đen, vẫn giữ được vẻ đẹp của một thời thiếu nữ xuân sắc... Người đàn bà ấy trạc độ 27, 28 tuổi, nét mặt nghiêm nghị, thoáng chút buồn rầu, thỉnh thoảng lại như đang lo nghĩ điều gì... Còn đứa trẻ khoảng 7 tuổi, rất ngộ nghĩnh, lanh lẹ. Người phụ nữ ấy tên là Hoàng Thị Tám. Và câu chuyện về cô được kể lại như sau:

Đêm ngày 22 rạng ngày 23 tháng 5 năm Ất Hợi (tức ngày 5 tháng 7 năm 1885) xảy ra sự biến ở kinh đô Huế: kinh thành thất thủ, Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi xuất bôn, cứu nước. Ngày 2 tháng 6 tới Sơn phòng Quảng Trị, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương. Sĩ phu yêu nước nổi dậy hưởng ứng khắp nơi. Tại Quảng Bình có những nhân vật chủ chốt như Nguyễn Phạm Tuân, Hoàng Văn Phúc, Đoàn Đức Mậu, Cao Thượng Chí... Nguyễn Phạm Tuân lập căn cứ ở vùng Tuyên Hoá, miền tây Quảng Bình. Hoàng Văn Phúc lập căn cứ ở vùng Lệ Thuỷ, nam Quảng Bình. Đó là hai lực lượng mạnh nhất, đáng chú ý nhất. Sau khi lên ngôi vua, Đồng Khánh đi kinh lý Quảng Bình để tìm cách dập tắt phong trào. Đồng Khánh ra lời kêu gọi nghĩa quân Cần Vương ra đầu thú và đặt giải thưởng cho ai bắt sống hoặc giết được các thủ lĩnh Nguyễn Phạm Tuân, Hoàng Văn Phúc. Miếng mồi nhử rất hấp dẫn: nếu bắt sống sẽ được bổ dụng làm quan hàm tam phẩm và được thưởng hai trăm lạng bạc. Nếu giết chết sẽ được bổ dụng làm quan hàm tứ phẩm và được thưởng một trăm lạng bạc (quan tam phẩm là ngang hàng với tả hữu thị lang trong triều, người mới đỗ đạt chỉ được bổ dụng làm quan với hàm ngũ, lục phẩm). Thế nhưng, chẳng ai hưởng ứng lời phủ dụ của Đồng Khánh.

Không may cho Hoàng Văn Phúc, trong một trận tấn công vào một đồn quân Pháp ở cửa Việt (Quảng Trị), ông trúng đạn và hi sinh. Trước khi hi sinh, ông có trăng trối lại với con gái là Hoàng Thị Tám muốn báo thù cho cha thì hãy tìm đến căn cứ của nghĩa quân Phan Đình Phùng. Lúc bấy giờ là tháng 9 năm 1886. Hoàng Thị Tám đã làm theo lời di huấn của cha tìm ra Nghệ Tĩnh. Để che mắt địch, cô sắm một con đò nhỏ làm nghề bán than vừa để kiếm tiền, vừa để dò la tin tức. Cô chọn chợ Tràng, bởi đây là nơi đông người qua lại thể nào cũng gặp nghĩa quân của Phan Đình Phùng trà trộn trong dân để nắm tình hình.

Cô Tám bán than tính rất điềm đạm, ít nói ít cười, không quan hệ nhiều với những người xung quanh. Chỉ khi lúc nào có khách đến hỏi mua than thì người ta mới thấy được khuôn mặt cô, suốt ngày cô ngồi cúi mặt như đang nghĩ ngợi điều gì. Ai từng tiếp xúc với cô đều nhận thấy cô là một người hết sức từ tốn, mềm mỏng, tiếng nói dễ nghe.

Một người đàn bà như cô Tám thật lạ lùng khó hiểu. Cô ít giao tiếp với mọi người xung quanh nhưng lại rất niềm nở thân mật với bọn lính tập. Nhiều lần, phiên chợ tan rồi, người ta bắt gặp cô Tám mua rượu, nem, quà bánh đem xuống ghe và dẫn mấy chú lính tập ăn uống say sưa...

Kẻ cười người chê, bàn tán ra sao, cô Tám biết hết. Nhưng cô vẫn tự nhiên, điềm tĩnh như không, hình như không để ý đến sự dị nghị của thiên hạ. Sau một thời gian mọi người không hề dám khinh cô Tám nữa, bởi vì khi gần lính tập, kể cả đãi trà rượu, nhưng tuyệt nhiên không thấy cô ta có vẻ lả lơi một chút nào.

Cô Tám nhỏ nhắn, mềm mại nhưng lại chứa một sức mạnh không ai ngờ. Nhiều thằng du côn vô loạn, thấy cô hay nói chuyện với lính tập ở trong chợ như thế, dở thói trăng hoa đàng điếm, nói chơi nói ghẹo. Ban đầu cô làm thinh không thèm nói gì, chúng thấy vậy càng làm tới, khiến cho cô không nhịn nhục được, phải dùng đến võ lực, đánh cho mấy đứa phải bỏ chạy. Sau chúng kéo nhau đến mấy chục đứa tới trả thù, làm đổ gánh than và định đánh cô một trận tơi bời để rửa thể diện anh chị. Người ta thấy cô Tám múa chân múa tay, đông xung tây đột, đánh võ với cả bọn du côn dữ tợn. Cuối cùng, có thằng thì bị cô đánh cho vỡ đầu, thằng thì chạy trốn, hoặc ngã nhào, riêng cô không bị một vết tích gì, mà sau khi bãi trận, thần sắc coi tự nhiên như không. Người trong chợ kéo nhau đến xem, họ reo cười khen ngợi cô Tám không ngớt.

Phiên chợ nào cũng thế, trong hai năm trời, hễ sáng sớm phiên chợ là thấy cô Tám chèo thuyền đến, chiều hôm tan chợ cô lại chèo thuyền về, chẳng có một phiên chợ nào cô Tám vắng mặt. Nhưng đến đầu năm Kỷ Sửu (1889) trở đi, ở chợ Tràng người ta không thấy cô Tám bán than đến họp chợ nữa.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #36 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 10:56:36 pm »


Giữa năm Canh Dần (1890), Phan Đình Phùng đã chiếm căn cứ ở trên Ngàn Trươi xưng hùng, có tiếng là "Sơn trung Tể tướng" được ba bốn năm. Lúc này, muốn cho phong trào thêm lớn, thực lực thêm to, cụ Phan thảo một tờ hịch truyền đi các nơi, để khích động nhân tâm, chiêu tập hào kiệt.

Tờ hịch truyền ra, sĩ phu Trung Kỳ càng lấy làm cổ vũ, thi nhau góp sức, hiến mưu lược, góp quân lương, dò xét tình hình quân Pháp giúp cụ Phan Đình Phùng. Thanh thế của cụ Phan tới lúc này đã lớn mạnh nhiều. Vấn đề súng đạn trở thành nỗi lo của cụ Phan Đình Phùng. Thuốc đạn phải mua ở bên Xiêm, đường sá qua Lào đi lại khó khăn nên không mua được nhiều. Lại bị quân bảo hộ chặn đường, nên súng đạn của nghĩa quân vận tải về thường bị mất luôn.

Một ngày, Cao Thắng đang cùng chư tướng bàn bạc việc quân, có một người đàn bà dẫn theo một đứa con trai nhỏ xin vào yết kiến. Người đàn bà đứng vái dài một vái rồi nói: Tôi là con gái ông Hoàng Văn Phúc1. Sau khi cha tôi mất, nhà tôi tan, thân tôi phải lưu lạc giang hồ, tìm cách để phục thù cho cha tôi. Tuy tôi là liễu bồ phận gái, nhưng cũng có hồ thỉ chí trai, tấm thân không kể bao nhiêu nông nỗi đắng cay, miễn là cầu vọng cho thỏa được tấm lòng mình ao ước. Đứa con nhỏ này đây (vừa nói vừa chỉ vào đứa trẻ nhỏ) không phải là con tôi, nó là con riêng một người bạn tôi, cũng một nhà chí sĩ, tên là Lê Doãn, trước theo cha tôi đã lập được nhiều công trận. Cha tôi thương yêu, mà tôi cũng thương yêu, nên cho tôi với Lê Doãn ước hẹn với nhau rằng một mai đại sự thành công thì thế nào chúng tôi cũng thành duyên cáng lệ với nhau. Anh ta đã góa vợ, chỉ có một đứa con trai mới 3 tuổi, chính là thằng bé này. Nhưng vì quốc sự gian nan, làm cho việc nhân duyên của chúng tôi giữa đường lỡ dở chia phôi. Anh đánh trận bị thương nặng, trước khi mất cậy nhờ giao phó tôi trông nom giùm đứa con. Không mấy lúc sau, cha tôi cũng mất, thân thế của tôi thành ra lênh đênh. Tôi phải đem đứa con nhỏ này cùng đi trốn. Đi trốn mà không biết ở vào đâu cho thuận tiện được cả mọi bề, cho nên tôi phải mua một chiếc thuyền mà ở lênh đênh trên mặt nước, nay ở chỗ này, mai dời chỗ kia, không biết đâu là định sở. Trong lưng tôi còn được mấy nén bạc, mới bỏ ra buôn than để chi độ qua ngày. Tôi cốt buôn than đem lên chợ Tràng bán, là có chủ tâm gần gũi giao thiệp với bọn lính tập đóng ở Nghệ An. Tôi giả đò quyến luyến với họ, để xui họ thừa cơ khởi nghĩa, hưởng ứng với nghĩa binh. Nếu vạn nhất mà việc đó thành công thì chẳng những nghĩa binh ở hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình thêm được vây cánh, khí giới, mà lại có thể mở ra được đường lối đi lại với nghĩa đảng ngoài Bắc, để trong ngoài ứng tiếp, chị té em nâng, may ra mới nên được việc lớn... Việc mưu tính đã gần thành rồi mà lại hư hỏng bởi nhà đương cuộc bảo hộ thấy động liền sinh nghi, vội vàng thay đổi toán lính tập tôi đang cám dỗ đi nơi khác, tôi đau đớn vô cùng. Rồi nghĩ nếu mình cứ quanh quẩn ở đó mãi, nhắm chừng cũng chẳng nên được việc gì, cho nên tôi phải bỏ đi để tìm kế khác, vẫn biết cụ Phan và tướng quân dấy nghĩa lâu nay, tôi rất lấy làm hâm mộ, đáng lẽ trước hết tôi phải lập được một chút công trạng gì thì mới dám đến xin tướng quân thâu dụng. Nhưng nay điều sở ước của tôi đã hỏng mất rồi không thể tự mình tìm được việc gì khác mà làm nữa, vậy tôi đến đây tức là đem thân mọn tài hèn, để tướng quân sai khiến...

Người đàn bà ấy chính là Hoàng Thị Tám - cô bán than ở chợ Tràng. Cao Thắng nghe chuyện lấy làm cảm động bùi ngùi, nhưng ông không khỏi sinh nghi cô là kẻ do thám do bảo hộ sai đến, liền gọi người lôi cô ra chém. Cô Tám chẳng có sắc mặt gì tỏ ra sợ hãi, cô chỉ cười và nói: Những thứ người mưu hại đồng bào như thế ở đời cũng có thiệt, nhưng người đó không phải là tôi. Tướng quân có muốn giết thì cứ giết đi, tôi rất vui lòng, lòng dạ tôi thế nào, đã có thần minh trên cao soi xét và có người ở dưới suối vàng biết giùm tôi, tôi không cần biện bạch làm gì. Miễn là xin tướng quân thương xót đứa con mồ côi này mà chăm nom dạy dỗ, tôi dầu có chết cũng được yên lòng nhắm mắt.

Cao Thắng tỏ ý rất kính phục liền dẫn cô Tám vô đại đồn yết kiến cụ Phan, trình bày sự thể. Cụ Phan còn đang ngần ngại, chưa biết dùng tài một người đàn bà vô chỗ nào. Cô Tám xung phong đi bắt một toán lính tập 30 người do một viên quản cơ làm đầu. Cụ Phan cho đi. Cô đi vô một làng xóm gần đó, mua một cây đòn gánh thật chắc, một đôi thúng, chất đầy rượu thịt, quà bánh, lại sửa sang mặt mày và trang điểm cho ra vẻ con người xinh đẹp mà hơi lẳng lơ, rồi quẩy gánh thũng thẵng đi tới chỗ lính tập đang đóng để bán hàng. Cô Tám khéo làm bộ tình tứ, nụ cười tiếng nói có duyên; cả toán lính xúm lại bu quanh cái gánh của cô, mua rượu, mua bánh tíu tít. Cậu nào thả giọng chàng màng, ve vãn, cô cũng niềm nở chiều đãi. Ai có sẵn tiền thì trả, ai khô xu cạn túi cô cũng bán chịu thả cửa.
_________________________________
1. Hoàng Văn Phúc cũng là một nhà cách mạng ở Quảng Bình.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #37 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 10:57:00 pm »


Ngày hôm sau, cô Tám lại gánh rượu thịt tới, bọn lính hết sức vui mừng, xúm lại mua rượu vừa đánh chén, vừa nói chơi, men sắc và men rượu nhập lại, làm cho các cậu say mèm. Cô hàng lại càng chịu khó hầu hạ chiều chuộng, thêm vẻ thân mật hơn ngày hôm trước. Chúng ngồi lết trên bãi cỏ, cứ năm bảy người làm một tốp, cô Tám dọn một mâm thịt dê, một chai rượu bố. Muốn ngồi đánh chén cho khoan khoái thong thả, từ ông quản cho đến các thầy quyền đều tháo hết dây nịt, túi đạn, bay-don-nết và gác súng đạn lại một nơi ở trên thềm miếu thổ thần. Trong rượu có pha thuốc mê, dầu uống nhiều ít gì cũng mau say lắm. Chốc lát, cả đám lính đều say nhừ tử. Cô Tám biết thời cơ đã đến nơi rồi, càng ra sức hầu hạ, nào quạt, nào rót nước, nào nâng đỡ, cô không ngần ngại một chút nào.

Giữa lúc đó ở trước cửa miếu xôn xao đông người tụ lại. Hai chục tráng sĩ ở Ngàn Trươi xuống giả làm lái buôn và dân cày cũng trà trộn vào trong dân làng. Họ chỉ đợi chờ có ám hiệu là xông vào ra tay. Toán lính đang say mèm, không chú ý gì đến sự người ta xôn xao đông đảo, lần hồi các cậu nằm lăn ra trên cỏ mà ngủ.

Cô Tám lén móc được khẩu súng lục của viên quản, rồi chạy ra đứng ngay chỗ chất súng đạn kia, đưa mắt ra hiệu cho phục binh ra tay. Tức thời, 20 tráng sĩ xen lẫn trong đám dân làng và trẻ con, rút đoản đao nhảy ùa vào. Bọn lính đang mơ màng giật mình, hốt hoảng vùng dậy, nhưng dậy không nổi, anh nào đứng dậy được thì cũng không còn sức chống cự gì được.

Tráng sĩ Ngàn Trươi trói cả mấy chục cậu lính. Cô Tám truyền lệnh cho anh em tráng sĩ chia nhau khiêng vác hết thảy súng đạn và khí cụ của toán lính đem lên sơn trại. Còn bọn lính cô tha cho sống sót để về với vợ con.

Nghe chuyện, cụ Phan khen ngợi và mời cô Tám lên nghị sự đường để bàn tính một việc binh cơ quan trọng: qua Xiêm mua thuốc đạn. Cô Tám nghe xong liền nói: "Cụ muốn bảo tôi chết, tôi cũng dám chết ngay được liền bây giờ, sự khó nhọc vất vả có sá kể chi, thưa cụ”.

Từ đó nghĩa quân không thiếu thuốc đạn, trước kia chế đạn bằng bốn phần thuốc ta, một phần thuốc tây, bây giờ có thể dùng quá phần nửa là thuốc ngoài đem về. Ấy là nhờ có người bên Xiêm trù biện giúp cho. Và nhờ có người đàn bà là cô Tám giả làm khách buôn bán, mạo hiểm chuyên chở về được đến nơi đến chốn.

Khi cô Tám sang Xiêm lần đầu, cô dắt cả đứa con của Lê Doãn đi theo, nhưng cô để nó ở lại bên Xiêm, gửi người ta nuôi giùm cho khỏi bận rộn trở ngăn công việc. Cô đi đi về về, chuyên chở thuốc đạn được bốn năm chuyến; mỗi chuyến được năm bảy ngàn cân, chứ không phải ít. Vì cô khéo sắp đặt thuê mướn mấy chục thổ nhân, gánh vác lần hồi từng chặng, giả như là chuyên chở hàng hóa theo cách đi đường rừng vậy.

Cô đi lại chuyên chở thuốc đạn giúp nghĩa binh được mấy chuyến như thế rồi sau đó chẳng ai biết tông tích cô Tám. Có người đoán rằng vì nỗi đi đường khó nhọc quá mà cảm nhiễm phong sương, cô Tám sinh bệnh rồi chết ở giữa rừng, giữa núi nào đó. Hoặc cho là cô thấy nghĩa binh thất bại cho nên ở luôn bên Xiêm không về nữa. Nhưng thực ra cô Tám không chết ở rừng, cũng không ở bên Xiêm, mà cô bị địch bắt rồi hy sinh. Lần đó không rõ là chuyến đi thứ năm hay thứ sáu, cô Tám bị địch bắt ở Thái Lan. Chúng bắt cô lên tàu thủy đưa về Sài Gòn để giao cho nhà cầm quyền Pháp. Cô Tám đã nhảy xuống biển tự vẫn, hy sinh thân mình để bảo toàn bí mật cho sự nghiệp của nghĩa quân. Hồi ấy, vì đường sá xa xôi, thông tin liên lạc rất khó khăn mà nghĩa quân Phan Đình Phùng không biết được tấm gương hy sinh cao cả vì nghĩa lớn của cô Tám.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #38 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 10:57:55 pm »


Câu hỏi 18: Cho biết một sự kiện làm chấn động dư luận Nghệ Tĩnh hồi đó, là việc nghĩa quân bắt sống Tuần phủ Đinh Nho Quang dưới sự chỉ huy mưu mẹo của Cao Thắng?
Trả lời:


Khi chánh thể bảo hộ mới lập, thủ đoạn của chúng là thường dùng đám quan lại và sĩ phu quy thuận đứng làm trung gian để trực tiếp thể hiện sự lợi hại với dân và thâu phục lòng dân cho dễ.

Trong đám quan lại sĩ phu đó, có những người chịu khuất phục thời thế, song vẫn giữ tư cách cao thượng, lương tâm trong sạch, họ biết nhân thời thế giúp bảo hộ mà chở che, thương xót, giúp đỡ cho dân. Trái lại, cũng có những người thấp hèn, tàn nhẫn, nhân cơ hội này mà lợi dụng thế thần áp bức dân chúng, cho được phú quý bản thân, thỏa mãn tư dục của họ mà thôi, còn thì sống chết mặc ai, nước non thây kệ... Hạng người đó làm khổ dân không biết bao nhiêu. Bởi vậy, việc cách mạng của cụ Phan có hai nghĩa: Một là chống với người Pháp, toan bề khôi phục nước nhà; hai là trừ đám sĩ phu quan lại người Nam mình hay dựa thời thế để làm hại dân.

Từ khi cụ khởi binh, đã nhiều lần đánh phá bọn này, có ý để cho những kẻ khác trông lấy gương đó mà chừa thói ỷ thế hại dân. Trong nhiều lần ấy, cụ lấy làm thống khoái nhất là việc bắt Tuần phủ Đinh Nho Quang.

Đinh Nho Quang là người huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, có tiếng là một tay danh sĩ, nguyên trước làm Tuần phủ tỉnh Hà Tĩnh. Sau về hưu rồi, bảo hộ cho sung vào công việc đi tiễu phủ các đảng văn thân. Đinh vốn là bạn thân với cụ Phan, nếu không tán thành việc cụ làm thì cũng nên trung lập hay là đứng bàng quan mới phải, nhưng nay đã ra phò bảo hộ mà đánh văn thân rồi lại còn ra ý khinh rẻ cụ Phan, và ỷ thế đi tiễu giặc mà ra tay hành hạ dân gian.

Đinh có viết một bức thư, khuyên dỗ cụ Phan ra hàng, lời lẽ rất ngạo mạn, trong đó có một câu như sau:

"Ông chỉ nằm bẹp ở trong núi, không chịu ra hàng, để ban đêm thì làm hùm làm beo, còn ban ngày thì làm chồn làm cáo, không phải là kế vững bền được đâu".

Thế nghĩa là Đinh có ý khinh rẻ cụ Phan, coi như giặc cướp, chỉ ban đêm mới dám ló đầu ra, cướp bóc đốt phá của dân, hung hăng như hùm như cọp, còn ban ngày thì sợ hãi, chui lủi trong bụi, trong rừng, như loài chồn cáo, không dám thò mặt ra. Trái lại, văn thân và nghĩa binh cụ Phan lúc ấy có hèn nhát như thế đâu, nhiều khi ban ngày cũng đối chiến với quân lính bảo hộ là sự thường thấy. Còn sự cướp phá của dân thì không hề, mà chỉ cướp phá của bọn quyền quý tham ô nịnh hót... Bởi vậy cụ Phan cả giận, liền gọi các tướng và hỏi trong các tướng, có ai đi bắt sống thằng Đinh Nho Quang đem về đây thì sẽ có trọng thưởng. Người nhận làm việc đó ngay chính là Cao Thắng.

Năm ấy là giữa năm Nhâm Thìn (1892), Tuần phủ Đinh Nho Quang sau khi về hưu vẫn giữ chức làm Tiễu phủ Quân vụ ở hạt Hương Sơn, hiệp với Lê Kinh Hạp làm Tham biện Quân vụ và một tên Ban biện là Đạt trông nom việc tuần phòng trong huyện.

Khắp trong huyện, chúng lập ra đến hai mươi đồn, đồn nào cũng có 30 tên lính tập đóng rất nghiêm mật. Còn ở nhà riêng của Đinh Nho Quang và nhà riêng Lê Kinh Hạp đều có ba mươi tên lính tập ngày đêm vác súng canh phòng hộ vệ. Ban biện Đạt thì quản xuất một đạo binh 50 người đi lại tuần phòng trong hàng huyện, hết đồn nọ đến đồn kia, suốt cả đêm ngày hết sức cẩn thận. Chính vì thế mà nghĩa quân có muốn đánh tràn xuống để bắt Đinh Nho Quang sẽ mất nhiều công sức, mà chưa dễ gì phá được bao nhiêu đồn lính đóng liên tiếp nhau. Vả lại, nghĩa binh có đánh được đến nơi, thì Đinh Nho Quang cũng đủ thời gian tìm đường trốn mất rồi, bắt sống thế nào được. Tình thế như vậy bắt buộc Cao Thắng phải dùng kế.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #39 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2016, 10:58:27 pm »


Hồi ấy là tháng mười. Nhân có một viên thiếu úy Pháp dẫn một toán lính tập chừng 80 tên ở tỉnh Nghệ An đi về tuần tiễu các khu rừng núi thuộc về hạt Hương Sơn, chừng khoảng năm ngày nữa thì trở về tỉnh Nghệ An, Cao Thắng sai người đi dò la, biết chắc như thế, mừng lắm và thầm nghĩ rằng đã có kế bắt sống được Đinh Nho Quang.

Bảy giờ sáng sớm hôm ấy, Cao Thắng lựa chọn năm người lính lanh lẹ, cho mang sắc phục giống y lính tập bảo hộ, đeo súng Tây, vác một lá cờ tam sắc, lén xuống núi, giả làm binh tây. Sau đó cho những người này đi khắp các đồn truyền báo rằng ngày mai có một ông quan hai dẫn lính đi tuần tiễu ngang qua, lính đóng các đồn phải ra ngoài cửa đồn bồng súng đứng sắp hàng để chào và để kiểm duyệt, nếu sai lệnh thì bị phạt. Các đồn tưởng thật, đều vâng lệnh răm rắp.

Thấy Cao Thắng cho nghĩa quân mặc giả y phục lính tập và cầm cờ tam sắc, mọi người lấy làm lạ, vì ông làm gì có những đồ ấy? Sau mới biết trong trại nghĩa quân Cao Thắng thường có sẵn y phục của lính tập là do những trận đánh nhau đã lấy được của lính bảo hộ.

Hơn sáu giờ sáng hôm sau, quả nhiên có một toán 100 lính tập kéo đi ngang các đồn. Đi đầu là một ông quan binh người Pháp, thân hình vạm vỡ và râu ria y như người Pháp, ngồi trên một con ngựa trắng; trước mặt có toán lính âm nhạc, vừa thổi kèn đánh trống rất oai vệ. Đi qua đồn nào là thấy lính ở đồn ấy đã bồng súng ra đứng chào ở ngoài cửa, đợi quân kéo đi rồi mới trở vào... Toán quân ấy kéo ngay tới trước cửa nhà Tuần phủ Đinh Nho Quang. Ngoài cửa nhà Đinh có lập một cái quán nghỉ chân. Toán quân kia kéo vào đó nghỉ. Viên quan võ Pháp sai lấy rượu và bánh ra ăn, còn lính cũng ăn bánh uống nước một cách tự nhiên như thường nên không có ai ngờ vực gì hết. Tốp lính canh gác ở nhà của Đinh, thấy cùng là đồng bọn cả, nên chẳng đề phòng gì lại còn thấy vui mừng nữa.

Khi ăn uống xong rồi, có hai người là thầy đội lảng vảng đến trước cổng nhà Đinh, lân la làm quen với mấy tên thủ hạ Đinh và làm bộ hỏi rằng: Nhà của ông lớn nào đây mà có anh em ta canh gác? Khi thủ hạ Đinh nói đây là nhà cụ lớn Tuần phủ Đinh Nho Quang, hai thầy đội ra vẻ ngạc nhiên như bây giờ mới biết. Sau đó nói với mấy cậu thủ hạ của cụ lớn là: Chúng tôi trước đóng ở Hà Tĩnh, giữa lúc cụ lớn ở đây đang làm Tuần phủ tại đó, thành ra chúng tôi đã được cơ hội ra vào hầu hạ cụ lớn. Về sau anh em tôi đổi đi chỗ khác đã ba năm nay, không biết tin tức cụ lớn ta thăng chức thế nào, nay vì việc quan, may mắn sao đi qua nhà cụ lớn, vậy anh em làm ơn vào bẩm cụ lớn, cho chúng tôi vào hầu thăm cụ giây lát...

Một tên thủ hạ chạy vào trong nhà bẩm rõ sự thể. Đinh đồng ý. Hai thầy đội rón rén bước vào vái chào một cách hết sức cung kính sợ hãi, rồi vòng tay đứng nói tình nghĩa thầy trò cũ. Thực tình Đinh đâu có nhớ được là hai thầy đội này trước có đóng ở Hà Tĩnh không và đã có dịp đi lại hầu hạ mình chưa, chỉ biết là họ có lòng kính trọng mình mà nhìn nhận là thầy trò cũ thì cho họ vào nhà thôi. Kẻ ưa nịnh hót, khi được người ta nịnh hót lấy làm oai phong sung sướng. Trong lúc nói chuyện, Đinh lên mặt thầy khuyên nhủ họ nên hết sức giúp nhà nước đại Pháp mà đánh giặc lập công, v.v...

"Thầy trò" đang đàm đạo, thì có một tên lính tập ở ngoài chạy vào sân mời hai thầy đội ra ngoài gặp quan có việc cần. Khi hai thầy đội bái từ Đinh đi ra, thì lúc đó, tất cả toán lính đi tuần, nửa ở ngoài, còn nửa đã lọt vào trong vườn của Đinh, tốp năm tốp ba, vai vẫn mang súng, miệng hút thuốc lá phì phèo, đi bộ trong vườn ra vẻ xem hoa, ngắm cảnh. Thủ hạ của Đinh thấy là lính nhà nước, thành ra chẳng ngăn trở và đề phòng gì.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM