Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:02:07 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Từ một quyết tử quân  (Đọc 20409 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:33:10 pm »


        - Tên sách: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
        - Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
        - Năm xuất bản: 2005
        - Số hoá: ptlinh, phonglan

VŨ LĂNG
(1921 - 1988)

        Chính tên là Đỗ  Đức Liêm, sinh ngày 4 tháng 8 năm 1921 trong một gia đình lao động tại xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.

        Từ năm mười sáu tuổi đã phải đi làm thợ kiếm sống, sau làm y tá tại bệnh viện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (nay là Nam Hà).

        Cách mạng tháng Tám thành công (1945), được cử đi học ở Trường Quân chính Việt Nam. Tháng 11 năm 1945, tham gia đoàn quân Nam tiến khi giặc Pháp gây hấn ở sài Gòn, rồi lần lượt mở rộng chiến tranh ra toàn miền Nam và Nam Trung Bộ. Đơn vị do ông chỉ huy đã chiến đấu tại chiến trường Khu 6, thuộc tỉnh Thuận Hải ngày nay. Trong chiến đấu, ông đã có nhiều thành tích, và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 2 năm 1947.

        Sau đó, được điều động ra Bắc, ông lần lượt đảm nhiệm nhiều chức vụ chỉ huy và công tác đảng quan trọng, như Trung đoàn phó Trung đoàn Thủ đô, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98, Đảng ủy viên Trung đoàn. Trước khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, tháng 5 năm 1954, ông là Tham mưu trưởng Sư đoàn 316.

        Hòa bình lập lại, năm 1956, ông được cử sang Liên Xô học ở Học viện Bộ Tổng Tham mưu mang tên Vô-rô-xi-lốp. Đến kháng chiến chống Mỹ, ông được Đảng và Chính phủ lần lượt giao cho nhiều nhiệm vụ quan trọng và đã góp phần to lớn vào các công tác chỉ huy chiến đấu trên nhiều mặt trận, tổ chức nghiên cứu khoa học phục vụ chiến đấu, đào tạo cán bộ quân sự. Trên cơ sở những đóng góp to lớn đó, ông đã được Quốc hội và Chính phủ lần lượt phong quân hàm Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1980), Thượng tướng (1986), và được tặng thưởng nhiều huân chương cao quý.

        (Trích " Danh nhân lịch sứ Việt Nam " tập III, Nhà xuất bản Giáo dục)



LỜI PHÁT BIỂU CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP VỀ THƯỢNG TƯỚNG VŨ LĂNG

        Hai cuộc trường kỳ kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã sản sinh ra những vị tướng vừa có phẩm chất vừa có tài năng trưởng thành từ cơ sở. Vũ Lăng từng đảm nhiệm cấp tiểu đoàn ngay từ những ngày Thủ đô Hà Nội đứng lên kháng chiến. Tiếp theo đó đã từng qua cấp trung đoàn rồi sư đoàn – trung đoàn ở Điện Biên Phủ sau là sư đoàn, tiếp đến là Phó Tư lệnh Quân khu 4, Tư lệnh B3 (Tây Nguyên), Phó Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, rồi Quân đoàn trưởng, cuối cùng là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy là Quân đoàn trưởng Quân đoàn 3 - quân đoàn trong chiến dịch Hồ Chí Minh đã dành chiếm bộ tổng tham mưu ngụy.

        Vũ Lăng không những là một vị tướng quân sự giỏi mà còn là một nhà nghiên cứu khoa học quân sự đã từng đảm nhận trách nhiệm Phó Cục trưởng Cục Khoa học quân sự, Phó Viện trưởng Viện Khoa học quân sự, và đã có thời gian là Cục trưởng Cục Tác chiến - cục quan trọng nhất trong Bộ Tổng Tham mưu và cuối cùng là Giám đốc Học viện Lục quân Đà Lạt trong một thời gian dài.

        Như vậy là đã lập được chiến công trên mặt trận trong hầu hết các chiến dịch từ Biên Giới đến Điện Biên Phủ, cho đến chiến dịch Hồ Chí Minh và trong nghiên cứu khoa học quân sự; làm tác chiến đã có những đề xuất, những ý kiến sắc sảo, tỏ ra có trí tuệ sáng tạo tốt.

        Vũ Lăng lúc làm việc có quyết tâm cao, bất cứ trong hoàn canh nào, thuận lợi hay khó khăn đều hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cho nên được các bạn đồng đội các bạn chỉ huy rất là mến phục, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân rất tốt.

        Tôi nhớ mãi những năm tháng làm việc với Vũ Lăng, tôi làm việc gần như thường xuyên. Vũ Lăng là một trong những cán bộ mà khi giao việc thì tin là nhiệm vụ được hoàn thành. Vũ Lăng là con người như thế.

        Vũ Lăng mất đi nhưng đã để lại một tấm gương sáng cho cán bộ trong toàn quân ta, cán bộ lực lượng vũ trang.

        Chị và các cháu tự hào về chồng về cha của mình, càng phải sống cho thật là xứng đáng.

        Riêng tôi, tôi cứ nhớ mãi: Vũ Lăng trên cương vị là Trung đoàn trưởng đánh đồi C1 ở Điên Biên Phủ. Đương nhiên trước đó Vũ Lăng đã có kinh nghiệm lúc là Trung đoàn phó Trung đoàn Thủ đô chiến đấu ở  Liên khu 1. Vũ Lăng, Vũ Yên tất cả tôi còn nhớ, nhớ cả lúc tác chiến  ở Tây Nguyên. Lúc đầu Tư lệnh là ông Thảo, Vũ Lăng phó, lập Quân đoàn 3, Vũ Lăng là Quân đoàn trưởng Quân đoàn 3 thì Quân đoàn này nhất định là sẽ  thắng Trong lúc Lê Trọng Tấn là cánh quân phía Đông đánh vào chỗ Dương Văn Minh thì cánh quân này đánh vào bộ tổng tham mưu ngụy. Hôm gặp Vũ Lăng ở Liên Xô, có cả chị nữa (xúc động khóc), tôi cho rằng có lẽ bệnh chữa như thế là tốt, tôi mừng, tôi nói:

        - Cậu chữa bệnh rồi về làm việc.

        Không ngờ sau đó bệnh lại rồi mất. Tôi rất thương Vũ Lăng, rất quý và rất thương.

Hà Nội, ngày 26 tháng 5 năm 2001       
Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP             

        (Trả lời phỏng vấn của Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, khi xây dựng phim "Thượng tướng Vũ Lăng ")
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Hai, 2021, 10:56:49 am gửi bởi ptlinh » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #1 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:39:27 pm »


THƯỢNG TƯỚNG VŨ LĂNG
MỘT CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRUNG KIÊN GƯƠNG MẪU

Đại tướng CHU HUY MÂN       

        Theo yêu cầu xây dựng và chiến đấu, mùa Xuân năm 1952, đồng chí Vũ Lăng được cấp trên điều động về nhận nhiệm vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98 thuộc Đại đoàn 316. Trên hai năm chiến đấu gần gũi nhau và nhiều năm sau đó. Chúng tôi thường gặp nhau trên các chiến trường và trong các hội nghị, Vũ Lăng để lại trong tôi những nét đẹp đẽ và khó quên về tình đồng chí và tình bạn chiến đấu.

        Chiến dịch Hòa Bình kết thúc, quân viễn chinh Pháp bị thất bại nặng phải rút về đồng bằng. Sau trận đánh chống càn quét ở chiến trường Bắc Ninh, Trung đoàn 98 được lệnh rút về hậu phương gấp rút, chuẩn bị mọi mặt để tiến lên chiến trường Tây Bắc. Vũ Lăng về nhận nhiệm vụ trong điều kiện khẩn trương, khó khăn thiếu thốn. Buổi tiếp xúc ban đầu là làm công việc củng cố tổ chức, biên chế huấn luyện chiến kỹ thuật, bồi dưỡng cán bộ, củng cố tổ chức cơ sở Đảng, nhằm nâng cao sức chiến đấu của đơn vị, sẵn sàng hành quân nhận nhiệm vụ ở chiến trường xa.

        Thời gian tiếp xúc ngần ngủi, tôi thấy ở Vũ Lăng một cán bộ đáng tin cậy.

        Sau thời gian chuẩn bị theo ý định trên, Đại đoàn 316 hành quân lên chiến trường Tây Bắc, bắt đầu từ chiến trường Tây Bắc qua Thượng Lào rồi đến Điện Biên Phủ.

        Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Đại đoàn 316 nhận nhiệm vụ hướng đông của tập đoàn cứ điểm của quân viễn chinh Pháp. Trung đoàn 98 được phân công đánh cứ điểm C1. Sau trận mở màn chiến dịch, đơn vị bạn tiêu diệt quân địch trên đồi Him Lam thắng lợi, đến lượt Trung đoàn 98 tiến công tiêu diệt địch trong cứ điểm C1. Quân địch bị uy hiếp từ trung tâm mạnh, từ phía đông tiến ra phản kích liên tiếp, cuộc chiến dấu giành giật từng tấc đất giữa ta và địch trở lên quyết liệt. Trong thử thách gay go này, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98 đã tỏ rõ ý chí chiến thắng, tinh thần dũng cảm mưu trí. Bộ Tư lệnh Đại đoàn chúng tôi biết được tâm lý Vũ Lăng lúc khó khăn không đòi hỏi gì hơn là những lời động viên kết hợp với những nhắc nhở ngắn gọn. Qua chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, chúng tôi và cả đội ngũ cán bộ quân đội trong chiến dịch này may mắn được thử thách, trưởng thành một bước khá vững chắc.

        Trong chiến đấu và xây dựng, Vũ Lăng thường đòi hỏi nghiêm túc cán bộ cấp dưới và từ cán bộ đến mọi chiến sĩ tỏa ra trong đơn vị phải ra sức rèn luyện, trở thành một người có bản lĩnh chính trị, kỹ năng chiến đấu. Cán bộ các cấp phải quan tâm đơn vị, đoàn kết chặt chẽ .

        Khi mới về Trung đoàn 98, có lần bất chợt tôi bắt gặp Trung đoàn trưởng đang nói chuyện cho cấp dưới về tinh thần trách nhiệm, về tác phong của người chỉ huy, quản lý đơn vị. Trong giờ lên lớp và huấn luyện, thái độ rất nghiêm túc, có lúc nóng nảy. Nhưng trong giờ nghỉ, sinh hoạt bình thường thì chuyện trò vui vẻ, có lúc xưng hô bình đẳng " tớ, cậu ".  Cán bộ cấp dưới vừa phải nghiêm túc giữ kỷ luật, vừa phải thoải mái và tin yêu.

        Một cán bộ chỉ huy nhưng rất chăm lo đến công tác đảng, công tác chính trị. Trung đoàn trưởng thường không hài lòng với các cán bộ đảng viên thiếu gương mẫu trước quần chúng. Mỗi lần nói chuyện với cán bộ, đảng viên về chính trị, tư tưởng, Vũ Lăng thường nhắc nhở nhấn mạnh: vật chất, trang bị kỹ thuật rất quan trọng và cần thiết nhưng quyết định chiến thắng phải là con người có lý tưởng, dũng cảm và sáng tạo mới biến thành hiệu quả công tác và hiệu suất chiến đấu.

        Vấn đề đoàn kết quân dân và kỷ luật nghiêm chỉnh trong quan hệ với quần chúng, thường xuyên được Vũ Lăng chăm lo. Những lúc trú quân ở nhà dân, bộ đội đi vào vùng dân tộc thiểu số, được giáo dục nghiêm túc, đòi hỏi mọi cán bộ phải thật gương mẫu chấp hành chính sách của Đảng và Nhà nước, những quy định của địa phương, của Tổng cục Chính trị, nhất là những vùng nhạy cảm về chính trị. Công tác vận động quần chúng là một nội dung cơ bản trong sinh hoạt chính trị của đơn vị.

        Trong sinh hoạt định kỳ hay bất thường của cấp ủy, trong những cuộc họp tổng kết chiến dịch, chiến đấu, Vũ Lăng bao giờ cũng có chính kiến của mình, tranh luận sôi nổi, chất hùng biện pha lẫn chất nóng nảy để phân biệt đúng sai, có lúc người ngoài cuộc hoặc chưa quen với phương pháp phê bình có thể hiểu lầm động cơ không chính xác. Nhưng qua tập thể dân chủ thảo luận, đúng sai rõ ràng, và những khi có kết luận của người chủ trì hoặc của cấp trên thì con người đấu tranh thẳng thắn không khoan nhượng ấy lại nhanh chóng nắm bắt chân lý đưa vào thực tiễn cuộc sống chiến đấu.

        Qua sinh hoạt và chiến đấu, cuộc đời binh nghiệp của Thượng tướng Vũ Lăng đúng là sáng đẹp cả đức độ và tài năng, đáng để cho con cháu và thế hệ sau kế thừa trân trọng.

Hà Nội, ngày 15 tháng 3 năm 2000       
C.H.M                           
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #2 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:45:29 pm »

             
MỘT CON NGƯỜI TÌNH CẢM

Thượng tướng, Giáo sư, Nhà giáo nhân dân HOÀNG MINH THẢO        

        Tôi đã sống và công tác với anh Vũ Lăng ở Học viện Quân sự Trung cao cấp ở Hà Nội đầu năm 1960.

        Anh có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ kinh nghiệm chiến đấu dó, lại có trình độ lý luận, anh đã giúp cho học viện biên tập tài liệu giảng dạy tốt, hướng dẫn giáo viên giảng dạy có chất lượng. Năm 1975, anh đã cùng tôi tham gia chỉ huy trận đánh Buôn Ma Thuột. Anh đã hướng dẫn cơ quan tham mưu soạn thảo phương án, kế hoạch tác chiến và trận đánh đã giành được thắng lợi giòn giã.

        Do có trình độ lý luận quân sự, năm 1986, anh là một trong số các đồng chí được phong hàm Giáo sư khoa học quân sự lần đầu tiên của quân đội ta, và sau đó anh có tham gia biên soạn cuốn: " Lịch sừ nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong 30 năm chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, từ năm 1945 đến năm 1975 " với cương vị Phó chủ tịch Hội đồng chỉ đạo.

        Phụ trách Viện trưởng Học viện Lục quân, anh là một trong những người đầu tiên đề xuất để bồi dưỡng, đào tạo nghiên cứu sinh khoa học quân sự để nghiên cứu, phát triển nền khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam. Tôi ở với anh không nhiều, nhưng rất mến anh, hai anh em đoàn kết công tác với nhau tốt, anh tính thẳng thắn, cương trực, có lúc có thái độ hơi nóng nảy đối với những ý kiến không đúng, nhưng lại là con người có tình cảm với anh em. Do đó trong quan hệ công tác anh em vẫn quý mến anh.

Hà Nội, ngày 26 tháng 12 năm 1999                                
Thượng tướng, Giáo sư Nhà giáo nhân dân HOÀNG MINH THẢO


ANH VŨ LĂNG TRONG MÙA XUÂN NĂM 1975

Thượng tướng ĐẶNG VŨ HIỆP        

        Trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975:

        Khối chủ lực Mặt trận Tây Nguyên do anh Vũ Lăng làm Tư lệnh đã làm xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Tây Nguyên.

        Quân đoàn 3 mà anh Vũ Lăng làm Tư lệnh đầu tiên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn1.

        Trong chiến dịch Tây Nguyên, anh Vũ Lăng là Phó Tư lệnh chiến dịch đã giúp đồng chí Tư lệnh (Hoàng Minh Thảo) trong công việc chỉ huy chung và trực tiếp đi tăng cường chỉ huy cho Sư đoàn 10 trong trận đánh tiêu diệt sư đoàn 23 ngụy đến phản kích trên đường 21 (trong vòng năm ngày từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 3, bằng bốn trận đánh trên đoạn đường dài năm mươi cây số ) - một chiến thắng thúc đẩy kẻ địch buộc phải rút lui nhanh chóng khỏi Tây Nguyên.

        Ngoài những công việc trên, trong đóng góp của anh Vũ Lăng vào chiến thắng lịch sử của chiến dịch Tây Nguyên - chiến dịch mở đột phá khẩu chiến lược, phải kể đến công lao của anh trong công tác chuẩn bị chiến dịch này. Đầu năm 1974, anh được trên bổ nhiệm làm Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên thay anh Hoàng Minh Thảo. Trước khi vào chiến trường, anh Vũ Lăng được lãnh đạo Bộ Tổng Tham mưu gợi ý sơ bộ về hướng nhiệm vụ tác chiến năm 1975. Ý đồ chiến lược và nhiệm vụ của khối chủ lực Tây Nguyên được sáng tỏ dần. Anh Vũ Lăng đã tập trung sức chỉ đạo:

        - Tập huấn, bồi dưỡng cán bộ, huấn luyện bộ đội.

        - Kiện toàn biên chế tổ chức lực lượng.

        - Chuẩn bị hậu cần, kỹ thuật.

        - Thiết bị chiến trường (làm đường cơ động cho xe cơ giới trên các hướng...) nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.

        Ngoài ra còn một công việc quan trọng cần phải nói tới là chuẩn bị kế hoạch tác chiến chiến dịch.

        Do tình hình phát triển rất mau lẹ nên trong vòng năm tháng, Bộ đã ba lần thay đổi nhiệm vụ đối với Mặt trận Tây Nguyên:

        Tháng 9 năm 1974, mở chiến dịch Nam Tây Nguyên khu vực tác chiến chủ yếu là Đức Lập.

        Tháng 11 năm 1974 điều chỉnh bổ sung nhiệm vụ:

        - Diệt làm bị thương bốn đến năm vạn địch ( có từ ba đến bốn trung đoàn bộ binh thiết giáp).

        - Mở rộng hành lang chiến lược từ đường 14 qua Gia Nghĩa xuống đường 20 nối với miền Đông Nam Bộ và từ Tây Nguyên xuống Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa.

        Cuối tháng 1 năm 1975 ( sau chiến thắng Phước Long ), giao nhiệm vụ mới:

        - Diệt bốn đến năm trung đoàn bộ binh, một đến hai trung đoàn thiết giáp, đánh quỵ hoặc diệt sư đoàn địch. Đánh thiệt hại nặng quân đoàn 2 ngụy.

        - Giải phóng phần lớn hoặc hoàn toàn ba tỉnh: Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức, mở rộng hành lang chiến lược xuống Đông Nam Bộ và các tỉnh nam Khu 5.

        Phạm vi chiến dịch gồm ba tỉnh trên, trọng điểm là Đắc Lắc, mục tiêu chủ yếu là Buôn Ma Thuột. Mỗi lần thay đổi nhiệm vụ lại gần như phải làm lại từ đầu: từ xây dựng phương án, kế hoạch tác chiến chiến dịch, đến thiết bị chiến trường, tổ chức mạng lưới bảo đảm hậu cần... với khối lượng công việc rất lớn và thời gian không nhiều.

        Anh em chúng tôi, mà nòng cốt là anh Vũ Lăng, đã làm tốt công việc đó. Quyết tâm và kế hoạch chiến dịch được đồng chí Văn Tiến Dũng - đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng phê chuẩn vào giữa tháng 2 năm 1975.

        Diễn biến về thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên đã rõ, xin không nói lại.

        Trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn:

        Sau chiến thắng Tây Nguyên, khối chủ lực Mặt trận Tây Nguyên được tổ chức lại thành binh đoàn cơ động mang danh hiệu Quân đoàn 3 ( anh Vũ Lăng được giao nhiệm vụ Tư lệnh quân đoàn ). Quân đoàn được lệnh tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn và đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu nhất từ tây bắc vào Sài Gòn với nhiệm vụ:

        - Tiêu diệt căn cứ Đồng Dù, thực hiện chia cắt địch, bao vây tiêu diệt sư đoàn 25 ngụy không cho sư đoàn này co về Sài Gòn.

        - Tổ chức lực lượng binh chủng hợp thành ( cấp sư đoàn ) đột kích đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, hiệp đồng với đơn vị bạn đánh chiếm bộ tổng tham mưu ngụy và Dinh Độc Lập; đánh chiếm và làm chủ quận 3, ổn định trật tự an ninh thành phố.

        Khắc phục những khó khăn vì thời gian chuẩn bị quá ngắn, địa hình mới lạ và phức tạp, cán bộ chiến sĩ Quân đoàn 3 quán triệt sâu sắc quyết tâm chiến lược, đánh giá trúng tình hình địch ta, thống nhất hoàn toàn với cách đánh của chiến dịch, chấp hành nghiêm túc kế hoạch và mệnh lệnh chiến đấu của quân đoàn, đã phát huy ý chí quyết thắng, sáng tạo có cách đánh phù hợp va hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao... Trên cơ sở đó đã góp phần tích cực vào thắng lợi có tính chất lịch sử của chiến dịch Hồ Chí Minh.

        Trong chiến công to lớn đó của quân đoàn, anh Vũ Lăng đã có phần đóng góp xứng đáng quan trọng trên cương vị Tư lệnh.

        Tóm lại, trong thời gian chuẩn bị bộ đội, chuẩn bị chiến trường cho mùa Xuân đại thắng và trong các chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh, anh Vũ Lăng đã tỏ rõ những bản chất tốt đẹp: có quyết tâm cao và vững chắc, khắc phục mọi khó khăn, chấp hành nghiêm túc mệnh lệnh của trên, có kiến thức sâu rộng về khoa học nghệ thuật quân sự, có năng lực tổ chức chỉ huy tốt, có phong cách dân chủ, sâu sát, tỷ mỷ, cụ thể, có tinh thần đoàn kết tốt, để lại trong lòng các đồng chí đã sát cánh chiến đấu với anh những ấn tượng đẹp đẽ khó quên.

Đ.V.H        

-----------------------
       1.Chiến dịch này được Bộ Chính trị đồng ý với đề nghị của Bộ chỉ huy chiến dịch lấy tên là "Chiến dịch Hồ Chí Minh"
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #3 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:55:18 pm »


" CẬU ĐOÁN MÒ KHÁ LẮM "

Thượng tướng NGUYỄN HỮU AN1       

        …Đã vào tháng " nắng lửa mưa dầm ", anh em lao động, chiến đấu rất mệt mỏi, các cán bộ từ trung đoàn đến đại đội ngày đi đôn đốc kiểm tra bộ đội, đêm đi trinh sát hoặc họp hành để chuẩn bị việc cho hôm sau. Nhiều đêm chúng tôi phải thức trắng, ăn uống cực kỳ thiếu thốn, thức ăn chỉ có cá khô và muối, mỗi bữa mỗi người đượm chia một con cá khô bằng hai ngón tay. Về nước ăn, quả là cực hình. Hàng nghìn con người trông vào một khe suối nhỏ nông choèn, lúc nào cũng đục ngầu, người phía trên tắm rửa, người phía dưới múc nước ăn. Khát tới cháy cổ mới đành nhắm mắt uống thứ nước luôn đục lờ lờ đó .

        Trong lúc đơn vị làm đường, đào hào, ban chỉ huy trung đoàn xây dựng lại phương án tác chiến.

        Nhiệm vụ chiến đấu của trung đoàn như cũ: đánh chiếm A1.  A1 là cứ điểm quan trọng nhất trong cụm điểm cao phía đông, do một tiểu đoàn âu Phi phòng ngự, nằm cách trung tâm chỉ huy tướng Đờ - Cát  khoảng năm trăm mét. Đội hình của trung đoàn tiến công trên hai hướng: hướng chủ yếu từ đồi F phía đông nam lên cây khô, hướng kiềm chế nghi binh tiến từ phía đông sang. Trước khi chiếm lĩnh trận địa, chúng tôi sử dụng vài phân đội nhỏ quét bọn địch mới nống ra đồi Cháy và đồi F để thu hẹp phạm vi phòng ngự của địch và giành lại địa thế có lợi để đặt sở chỉ huy, đặt trận địa hỏa lực và tuyến xuất phát tiến công, xung phong.

        Kế hoạch tác chiến lần này được chuẩn bị rất kỹ, không còn phải phàn nàn gì về thời gian. Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp triệu tập các trung đoàn trưởng lên thông qua kế hoạch của từng trung đoàn. Phần đông chúng tôi đang ở độ tuổi hai lăm đến ba mươi còn đang sức trẻ, gặp nhau là chuyện trò nở bung như ngô rang. Gần tới sở chỉ huy, tôi gặp Vũ Lăng. Chúng tôi vốn rất thân nhau. Nhìn thấy Vũ Lăng râu ria phủ gần kín mặt, tôi cười nói:

        - Cậu để diện mạo thế kia, Đại tướng không tiếp đâu.

        Vũ Lăng trả lời:

        - Làm việc không còn lúc nào mở mắt, thì giờ đâu mà cạo râu, tao định để xong chiến dịch cắt luôn thể.

        Đại tướng thấy tôi với Vũ  Lăng sánh vai đi tới, ông nói luôn:

        - Vũ Lăng đi cắt tóc, cạo râu đã rồi hãy vào họp - ông Giáp thân mật nói tiếp có ý căn dặn cả những người khác có mặt ở đó - Người chỉ huy dù ở hoàn cảnh nào tư thế cũng phải đàng hoàng.

        Tôi kéo tay anh Vũ Lăng chỉ cái cây để gần đó và nói đùa:

        - Ngồi xuống, tôi đi gọi thợ cạo làm lông cho. Tôi đã nói rồi: đây là bài học nhớ đời nhé!

        Vũ Lăng đưa tay vuốt chòm râu xồm, vừa ngửa mặt lên trời cười to:

        - Cậu đoán mò khá lắm.

        Xong việc, chúng tôi vào cuộc họp. Nhìn mọi người, từ Đại tướng trở xuống, người nào cũng gầy guộc xanh xao, nhưng mọi người đều vui vẻ, lạc quan, tự tin.

        Tôi được chỉ định báo cáo đầu tiên. Bản kế hoạch tác chiến của trung đoàn đã vào trí nhớ của tôi tới mọi chi tiết điểm nào cần nhấn mạnh, điểm nào cần lướt qua, tôi báo cáo khá mạch lạc trơn tru. Tổng tư lệnh không bổ sung điều gì, ông chỉ đặt một số câu hỏi có tính chất kiểm tra, đại loại: " Đi trinh sát mấy đêm? Có chui vào đến hàng rào thứ nhất chưa? Nếu hướng chủ yếu vừa vượt qua cửa mở bị địch phản kích đánh bật ra? Nếu đánh đêm chưa giải quyết xong, ban ngày địch đưa lực lượng có xe tăng tới phản kích vào sau lưng?...".

        Tôi giải đáp hết các tình huống vừa đặt ra xong, Đại tướng hỏi câu cuối cùng: .

        - Anh còn đề nghị gì nữa không?

        Tôi nói:

        - A1 là cứ điểm rất cứng mà trên chi viện có một trăm viên đạn pháo 105, như vậy ít quá.

        Đại tướng nói:

        - Được. Tôi cho anh thêm năm viên nữa.

        Bây giờ, mỗi lần nhớ lại chiến dịch Điện Biên phủ, với hoàn cảnh nghèo, vị Tổng tư lệnh phải chia từng viên đạn pháo cho các trung đoàn, càng thấm thía cái thắng lợi vĩ đại mà quân và dân mình đã giành được.

        Vì thiếu đạn pháo trong quá trình chiến dịch, địch thả dù tiếp tế, tôi cho anh em đi thu nhặt dù. Khi kiếm được đạn pháo 105, có anh đã " ăn gian " không báo cáo lên cấp trên và đem đi " ngoặc " với đơn vị pháo chi viện, nhờ họ bắn chi viện cho đơn vị mình.

        Đào công sự xây dựng trận địa là một quá trình cực kỳ gian khổ quyết liệt dai dẳng cho tới kết thúc chiến dịch, nhất là khi đối kháng cách địch mươi mười lăm mét, hầu như không ngày nào không có thương vong. Thỉnh thoảng có trận mưa rào đổ xuống, báo hiệu mùa mưa bắt đầu. Nước mưa tràn từ trên sườn đồi xuống chứa đầy giao thông hào, chiến hào; mỗi chiến hào trở thành một con mương nhỏ đầy ắp nước, bùn và rác rưởi. Ngày đêm, chúng tôi phải lội, có khi phải bơi qua lại cái lối đi kinh khủng đó. Khổ nhất là anh em cấp dưỡng, phải dùng ni lông đùm cơm rồi bơi dưới giao thông hào...

        Các đơn vị bạn đã xung trận và giành thắng lợi mở màn chiến dịch khá vang dội. Từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 3 năm 1954, Đại đoàn 312 đã tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam.

        Trung đoàn 88 Đại đoàn 308 và Trung đoàn 165 Đại đoàn 312 dưới sự chỉ huy của Bộ chỉ huy Đại đoàn 308 đã đánh chiếm cụm cứ điểm Độc Lập. Trong vòng hai ngày, quân ta đã tiêu diệt gọn hai trung tâm đề kháng rất mạnh ở phía bắc và đông bắc tập đoàn cứ điểm, phá vỡ thế trận ngoại vi, tiêu diệt hai tiểu đoàn tinh nhuệ của địch; mở thông hai trục hướng chính tiến vào khu trung tâm Điện Biên Phủ, đẩy cụm Bản Kéo vào thế cô lập. Đạn pháo 105 của ta chuyển làn vào Bản Kéo làm cho binh linh địch ở đây càng hoảng sợ. Hơn ba trăm lính Thái đã mang vũ khí ra đầu hàng...

N.H.A                           
Bài viết năm 1994                   
Trích sách " Ba lần tiến công đồi A1 "       
-----------------------
        1. Thượng tướng Nguyễn Hữu An:  Nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #4 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2016, 12:41:45 am »


TUỔI THƠ TỦI CỰC VÀ CHÍ LÀM TRAI

HOÀNG VIỆT HOA       

        Khi yêu anh Lăng, tôi còn quá trẻ. Anh hơn tôi mười  hai tuổi. Anh coi tôi như người em gái nhỏ bé và thường thủ thỉ trò chuyện cùng tôi. Tên thật anh là Đỗ Đức Liêm, quê ở xã Ngũ Hiệp huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Thì ra anh là người cùng quê Thanh Trì, làng tôi chỉ cách làng anh dăm cây số đường chim bay, nhưng tôi cũng như anh ít khi sống ở quê vì ông nội tôi là tuần phủ. Ba tôi là tham tá canh nông, từng làm Phó giám đốc Sở Canh nông Liên khu 3, rồi Chủ tịch ủy ban kháng chiến huyện Nam Trực, Nam Định. Năm 1951, ba tôi được điều lên công tác ở Bộ canh nông một thời gian rồi về nhà  ở Bờ Đậu, Thái Nguyên mở đồn điền có ba mươi mẫu trồng chè, vài mẫu trồng lúa.

        Tuyệt đại đa số trong dòng họ và gia đình tôi, các anh chị em đều ngả theo cách mạng, tích cực tham gia kháng chiến, nhiều người trở thành đảng viên. Bản thân tôi tham gia kháng chiến chống Pháp từ năm mười bốn tuổi thoát ly gia đình từ năm 1947, sau đó được kết nạp vào Đảng.

        Anh Lăng được kết nạp vào Đảng rất sớm, từ tháng 2 năm 1947, giữa những ngày:

                                 " Hà Nội cháy khói lửa ngập trời
                                 Hà Nội hồng ầm ầm rung
                                  Hà Nội vùng đứng lên..."

        ( Nhạc Nguyễn Đình Thi )

        Anh Lăng là chỉ huy giữ Bắc Bộ Phủ, là quyết tử quân của Trung đoàn Thủ đô. Là người tổ chức Lễ quyết tử, anh lại tuyên bố là Lễ sẵn sàng chết vì Tổ quốc. Chính anh là người xông vào khó khăn nguy hiểm, chỉ huy tổ chức mở đường đưa ba ngàn đồng bào và cán bộ chiến sĩ vượt qua gầm cầu Long Biên ra với kháng chiến.

        Anh Lăng thường kể với tôi rằng anh có một tuổi thơ tủi cực và đau buồn. Cũng có niềm vui, nhưng vui ít buồn nhiều. Mới bảy tuổi đã mồ côi mẹ. Trong ký ức của anh còn in đậm bóng một người phụ nữ miền Trung, dịu dàng khéo léo, không bao giờ to tiếng với chồng, thường dạy con  phải ngoan ngoãn và có hiếu với cha mẹ. Mẹ rất khéo tay hay làm, giỏi thêu thùa, biết thêu ren, biết tết chân chỉ vào diềm màn, y môn, biết chăn tằm dệt vải. Nhà chỉ có ba anh em: anh Thanh, anh Lăng và cô Trinh, nên mẹ rất thương yêu chiều chuộng. ông thân sinh ra anh Lăng là thợ vẽ mẫu thêu giỏi, thường vẽ mẫu thêu cho các cửa hiệu ở Bắc Ninh, Hà Nội nên cũng kiếm được nhiều tiền. Anh còn nhớ có thời gian lúc bé cũng được mặc quần áo lụa, được đeo khánh bạc, khánh vàng; nhưng rồi bố anh do có tiền sinh tật, ăn chơi tiêu sài phung phí đến nỗi sa sút phá sản, khi hết tiền về nhà đánh vợ chửi con. Mẹ quá uất ức buồn rầu ốm đau mà chết. Do đó từ nhỏ anh Lăng đã rất thương mẹ và ghét những thói hư tật xấu của bố.

        Mồ côi mẹ, anh Lăng và cô Trinh ở với bác ruột, còn anh Thanh phải đi kiếm sống, bác nuôi chung với thợ thuyền trong nhà. Cha thỉnh thoảng mới gửi tiền về nên bữa no, bữa đói. Bà nội cũng cho người lên đưa về quê ở với bà vài tháng. Nói chung nay đây mai đó, lúc ở họ nội, lúc  ở họ ngoại. Nghỉ hè anh Lăng thường về nhà cậu ruột1  ở Ô Chợ Dừa, Thái Hà ấp. Cậu sớm giác ngộ cách mạng, dạy anh Lăng học những bài thơ của Nguyễn Trái, Phi Khanh. Cậu còn giao cho anh Lăng canh gác dể cậu họp bí mật. Sau cậu bị bắt đày đi Côn Đảo, đến năm 1936 Mặt trận bình dân Pháp lên cầm quyền, cậu mới được tha về. Anh Lăng bị đuổi học luôn. Cửa hàng của bác bị vỡ nợ nên bác cũng chẳng cưu mang đèo bòng được gì. Anh Lăng phải bỏ nhà đi lang thang mấy năm trời. Có lúc làm phụ chữa dây thép từ Bắc Ninh ra Bí Chợ. Có lúc lên Bắc Giang giúp việc cho bác. Vài ba tháng lại ra Hà Nội dạy học tư cho con nhà giàu, nhưng cũng không ở được lâu nhà nào vì anh thẳng thắn và khái tính. Cuộc sống chật vật lay lắt khiến anh lúc đó rất chán đời cứ nằm nhà đọc sách, nhiều nhất là sách "Tự lực văn đoàn". Anh oán xã hội, oán gia đình, nhất là oán người cha không tròn trách nhiệm với vợ con và anh cũng thấm thía cảnh người dân mất nước. Do ảnh hưởng sách báo tiểu thuyết lãng mạn phù phiếm giang hồ, nên anh cũng muốn trở thành nhà văn, nhà báo được sống tự do, không phải quỳ lạy ai. Người anh họ con bác gái, nhà giàu, mở xưởng nên thường rủ rê anh Lăng đến những nơi sang trọng của giới thượng lưu Hà Nội như khách sạn Métropole, Taverne Royale v.v...

----------------------
        1.Cậu ruột: Mai Lập Đôn - Đảng viên Cộng sản những năm 30.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #5 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2016, 12:43:16 am »


        Thời kỳ đó anh Lăng hay đọc báo " Ngày nay ", thấy báo chí thường chế giễu Anh, Pháp nên cũng khinh thường hai nước này. Điều ảnh hưởng tư tưởng anh nhiều nhất là lệnh tổng động binh của Pháp. Anh chỉ sợ bị đi lính vì lúc đó anh mười tám tuổi. Anh rất ghét và có thành kiến với lính khố xanh, khố đỏ của Pháp vì khi đọc dã sử Đề Thám thấy chúng theo Tây đánh người mình nên rất ghét.

        Năm 1940, anh trai anh Lăng, lúc đó là Thư ký tòa sứ Phủ Lý lên Hà Nội gặp và gọi anh về Phủ Lý. Chán cuộc sống bấp bênh  ở Hà Nội, anh Lăng về Phủ Lý. Tự ái với chị dâu, không muốn dựa vào anh mình, anh Lăng đã đi dạy học cho mấy đứa con bác sĩ giám đốc bệnh viện tỉnh. Viên bác sĩ khuyên nên đến tập sự  ở bệnh viện tỉnh, sau này sẽ trở thành công chức nhà nước.  Ông anh cũng khuyên nên làm bàn giấy văn phòng đánh máy... Làm  ở bệnh viện ít lâu, được tiếp xúc với y tá, bác sĩ, hộ sinh  thấy cũng hay hay, lại là công việc cứu nhân độ thế, nên anh đã học thêm nghề y tá hộ sinh, từ đó trở thành công chức của bệnh viện, ăn lương công nhật, tính ra mỗi tháng được 25 đồng, cộng với tiền người anh cho ăn thêm nên cũng đủ sống.

        Từ năm 1940 đến năm 1945, anh sống đứng đắn, lịch sự không rượu chè, trai gái; chỉ ham chơi thể thao, đá bóng và quần vợt; đánh quần vợt cũng khá nên thường ra chơi  ở câu lạc bộ quần vợt của Tây. Viên công sứ thường rủ anh cùng đánh. Lúc đó do giữ ý vì mất tự nhiên hay do anh em cứ chế là " kìa mau ra hầu tổ tôm cụ lớn " nên anh cũng bực mình, không thích. Anh có giao thiệp và hay chơi quần vợt với tên xếp đoàn là Pi-nét, vì tên này xuề xòa, không trịch thượng. Hắn lại còn cho mượn truyện " Những người khốn khổ " của Vich-to Huy-gô. Sau tên này cãi nhau với công sứ, bị đổi di nơi khác.

        Thời gian này làm được tiền nên chủ nhật nào anh cũng lên Hà Nội đi chơi với người anh họ, xem chiếu bóng, đi dạ hội và ăn uống. Gặp lại bạn bè cũ thuộc giới nhà văn, nhà báo nhưng anh cũng không thấy ai nổi tiếng, cuộc sống của họ cũng chật vật nên có người cũng xoay ra nghề dạy học hay công chức.  Ông cậu thấy anh giao du với anh họ, sợ đua đòi ăn chơi nên thường gọi đến khuyên răn. Chị họ cũng thường bảo đến nhà ăn cơm và nhẹ nhàng khuyên nhủ đừng lỡ bước sa đà.

        Khi Pa-ri thất thủ, Pháp đầu hàng, chúng đóng cửa khóc rưng rức, anh thấy hả dạ, lúc đó Nhật đã ngấp nghé coi Đông Dương như một miếng mồi ngon.

        Anh Lăng nhớ lại phong trào 1930 - 1936 - 1939, thỉnh thoảng lên thăm cậu hỏi tình hình, cậu chỉ úp mở nói: Tình hình Đông Dương sẽ thay đổi lớn.

        Thế rồi Đức bất ngờ tiến công Liên Xô, mặc dù đã ký hiệp ước bất khả xâm phạm. Báo chí lúc đó hết lời ca ngợi Đức đánh chớp nhoáng mạnh như vũ bão. Anh Lăng lúc đó chưa hiểu biết nhiều về Liên Xô. Anh có đọc cuốn " Ba năm tôi  ở Liên Xô " của một tác giả phản động nào đó lại chỉ nêu Liên Xô có thất nghiệp, có mại dâm và độc tài. Bà chị họ hiểu biết khuyên anh không nên đọc loại sách đó. Do phục chị họ và cậu nên anh có cảm tình với Liên Xô. Trong một bừa cơm, xảy ra cuộc tranh luận giữa cậu với anh họ về việc Liên Xô hay Đức sẽ thắng thì anh Lăng xen vào: Na-pô-lê-ông vào đến cửa ngõ Mát-xcơ-va mà cũng thua nữa là . . . Anh Lăng cho biết thời kỳ đó anh ghét Nhật tàn sát nhân dân  ở Trung Quốc và rất khâm phục Mã Chiếm Sơn1.

        Có lẽ anh cũng được đọc bài thơ về Mã Chiếm Sơn của nhà thơ Tố Hữu.

        Thời gian khoảng năm 1943 - 1944, anh Lăng ngẫu nhiên được gặp đồng chí Trần Tử Bình. Đồng chí Trần Tử Bình lúc đó ở trạm phát thuốc Bình Lục, Phủ Lý, bị thực dân Pháp bắt, do sức khỏe yếu nên Pháp đưa về giam và chạy chữa ở  bệnh viện Phủ Lý. Đúng phiên anh Lăng trực nhật thay hộ người bạn y tá, nhưng anh Lăng lại bờ ra câu lạc bộ đánh quần vợt. Đồng chí Trần Tử Bình bẩy song sắt để trốn. Anh Lăng sợ sẽ bị Pháp bắt bỏ tù, nhưng rồi chúng đuổi bắt lại được đồng chí Trần Tử Bình. Anh Lăng đem chuyện đó kể với người cậu. Cậu bảo: " Anh còn sợ bị bỏ tù thì khó làm được cách mạng… "

        Cuối năm 1944, anh Lăng được bầu làm thư ký câu lạc bộ Hà Châu, được giữ máy ra-đi-ô nên thường nghe lén tin tức qua đài phát thanh của Mỹ phát đi từ Niu Đê-li Ấn Độ. Thấy Đức thua ở Liên Xô, Bắc Phi, Nhật thua ở Thái Bình Dương, anh rất tin tưởng thông Minh sẽ thắng.

        Ngoài ra lại mong manh nghe tin Việt Minh hoạt động ở Võ Nhai, Đình Cả, Thái Nguyên - mà thực dân Pháp lúc đó gọi là phiến loạn - anh hỏi dò ông cậu thì ông cậu nói:

        - Đó là cách mạng, cái thá anh rồi cũng lại chơi bời giống bố anh, chẳng làm lên trò trống gì đâu!

        Thấy cậu đánh giá mình như vậy, trong lòng buồn bực vì cậu khinh thường mình, nên từ đó anh cũng hạn chế việc đi chơi với người anh họ. Nhưng cũng từ đó trong lòng anh Lăng nhen lên ngọn lửa yêu nước và chí khí làm trai.

---------------------
        1. Mã Chiếm Sơn: Một chỉ huy quân đội Trung Quốc chống quân xâm lược Nhật.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #6 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2016, 12:50:14 am »


        Đầu năm 1945, anh Lăng chơi thân với mấy giáo viên và anh Hoàng Quý, trưởng đoàn hướng đạo. Anh Hoàng Quý gợi chuyện rồi hỏi anh Lăng về Việt Minh ở  Đình Cả, La Hiên. Anh Hoàng Quý nói rõ hơn những điều anh biết về Việt Minh.

        Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, anh Lăng không muốn đi làm nửa. Thấy Ở Hà Nội, Việt Minh hoạt động mạnh nên anh muốn ra Hà Nội để bắt liên lạc. Anh Hoàng Quý giữ lại và cho biết anh có chân trong Đảng Dân chủ của Mặt trận Việt Minh. Anh Quý còn đưa điều lệ của Đảng Dân chủ cho anh Vũ Lăng xem.

        Lúc đó phi cơ Mỹ bắt đầu hoạt động nhiều. Tin tức đài phát thanh lại nói Nhật sẽ thất bại, do đó anh Lăng đã đồng ý gia nhập Đảng Dân chủ.

        Anh Hoàng Quý giao nhiệm vụ cho anh Lăng tuyên truyền phát triển Đảng Dân chủ trong tầng lớp công chức trẻ tuổi. Chập chững công tác ở bệnh viện, suýt bị lộ, anh chỉ tuyên truyền phát động được anh bạn Trần Văn Khôi là huấn luyện viên thể dục, đồng thời gây cảm tình được với anh ruột và mấy người bạn khác.

        Thời kỳ đó luật sư Phan Anh đã đứng ra tổ chức Thanh niên tiền tuyến.

        Anh Hoàng Quý phân công cho anh Vũ Lăng, anh Khôi và anh Hoàng Phấn gia nhập tổ chức thanh niên chống đế quốc để lợi dựng tổ chức đó. Cả ba người đều được cử làm toán trưởng ra Ngô Khê, Bình Lục hoạt động cho Đảng Dân chủ, được ba ngày thì Việt Minh đến tước mấy khẩu súng trường của lớp huấn luyện do mấy lính khố xanh mang theo cho mượn. Hai bên hợp thành đoàn tuần hành thị uy vào nhà chánh tổng Ngô Khê và các tên phản động, tịch thu lúa mà chúng cân cho Nhật, rồi đem phát cho người nghèo. Đó là ngày 17 tháng 8 năm 1945, trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám hai ngày. Theo lệnh của anh Hoàng Quý, anh Lăng và các bạn trở về Phủ Lý ngày 21 tháng 8 năm 1945.

        Anh Lăng làm thư ký cho thành bộ Đảng Dân chủ được một tháng thấy có mâu thuẫn cá nhân, đâm ra chán nản1.

        Ngày 23 tháng 9, Pháp khởi hấn ở Nam Bộ. Anh Lăng nghe ra-đi-ô trong lòng vô cùng uất hận, anh nói với anh Khôi và anh Phấn sẽ ra Hà Nội để đầu quân Nam tiến. Mấy hôm sau, gặp đoàn quân Nam tiến khí thế hiên ngang, trong lòng càng bồn chồn háo hức. Cả ba người cùng quyết tâm gia nhập Vệ Quốc đoàn. Trại Vệ Quốc đoàn tỉnh không nhận vì không có đủ giấy tờ giới thiệu. Sau cả ba rủ nhau lên Hà Nội xin vào Trường Quân chính Việt Nam, có đầy đủ giấy giới thiệu của Phủ Lý, cả ba đều được học và được cử đi Nam tiến.

        Cuối tháng 11 năm 1945, anh Lăng được tuyển đi Nam Bộ do đồng chí Huỳnh Tấn Phát làm Trưởng đoàn phụ trách với bảy mươi cán bộ.

        Trên đường đi Nam tiến, anh Lăng được nhà trường phân công làm chỉ đạo viên2 trung đội 2.

        Một bộ phận anh Huỳnh Tấn Phát đi trước vào Buôn Ma Thuột. Anh Lăng phụ trách bộ phận đi sau ở lại Ninh Hòa, bị giặt Pháp tập kích, ta hy sinh chín đồng chí, trong đó có anh Khôi là bạn thân của anh Lăng. Đơn vị anh tan rã, mỗi người mỗi ngả, sau lại tập hợp được đầy đủ. Lần đầu thất trận có phần hoang mang, nhưng trong lòng mọi người đều nung nấu căm thù. Trên phân công đi tuyên truyền tổng tuyển cử thì trong lòng hết sức buồn chán, chỉ muốn ra ngay mặt trận sống chết với quân thù. Đơn vị phân tán, người trở ra Bắc, người đi chiến đấu. Anh Lăng nhập phân đội Bình Thành làm đội viên nửa tháng, lên Nhân đội phó, phân đội trưởng rồi trung đội trưởng, Phó ban huấn luyện Khu 6, Phó ủy viên quân sự Mặt trận Ninh Hòa.

        Tháng 2 năm 1946, mặt trận Buôn Ma Thuột, Nha Trang vỡ. Anh Lăng với cương vị đại đội phó lãnh đạo bộ đội định rút về Tuy Hòa, sau anh lại được lệnh trở lại Ninh Hòa phụ trách huấn luyện tiểu đoàn Quốc Trụ. Rồi Khu lại gọi về theo các đồng chí Trần Công Khanh và Cao Văn Khánh, vào tới Buôn Mạch thì anh Lăng bắt đầu đau gan nặng do muỗi rừng sốt rét lâu ngày, phải ra Huế điều trị rồi dẫn một đoàn thương bệnh binh trở ra Hà Nội.

        Năm 1946, ra đến Hà Nội, trở lại Thủ đô nằm viện ít lâu đỡ bệnh đưa về nhà. Thấy mọi người đối xử có vẻ kém nhiệt tình lại muốn trở vào chiến trường miền Nam. Vui mừng gặp lại đồng chí Trần Tử Bình. Đồng chí gửi vào Trường Võ bị khóa 1. Trường phân công làm chính trị viên trung đội, không thích, thích quân sự hơn. Bệnh gan tái phát, lại về Hà Nội điều trị. Ra viện được cử về làm đại đội phó bảo vệ Bắc Bộ Phủ - nơi Bác Hồ làm việc, anh rất sung sướng thấy được trên tin cẩn. Nhưng có lúc buồn thấy đảng viên đi họp chi bộ, còn mình vẫn cô đơn ở ngoài.Thời đó, do sĩ diện tự ái tri thức tiểu tư sản nên anh đã có tư tưởng thôi bộ đội về đi viết báo, viết truyện. Cũng đã viết truyện chiến đấu gửi cho báo Sao Vàng được nhuận bút. Nhưng sau đó lại nghĩ tới trọng trách trên có tin tưởng mới giao cho. Lúc đó trong lòng anh Lăng chỉ phục các lãnh tụ, còn đối với đồng đội thì lòng tự bảo lòng: cứ ra mặt trận đánh nhau sẽ biết ai hơn ai.

        Thế là từ khi vào bộ đội, anh Lăng mất liên lạc với Đảng Dân chủ. Sau lần ở Nam Trung Bộ ra có gặp thành bộ Đảng Dân chủ Phủ Lý và dự một buổi nói chuyện. Thời kỳ đó, anh Hoàng Quý cũng đã chuyển lên Hà Nội, anh hẹn sẽ giới thiệu với thành bộ Đảng Dân chủ Hà Nội. Rồi đồng chí Triệu ở Bắc Bộ Phủ lại nói: ai đã vào bộ đội thì không được hoạt động cho tổ chức nào nữa, từ đó thôi, cắt đứt hẳn với Đảng Dân chủ. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, cuộc trường kỳ kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Anh Lăng và đồng đội đã chiến đấu quyết liệt để bảo vệ Bắc Bộ Phủ.

        Cuộc kháng chiến anh dũng của quân dân Thủ đô kéo dài. Anh Lăng được phân công nhiệm vụ mới: ủy viên tác chiến phân khu Đông Kinh Nghĩa Thục. Anh cùng đồng đội và đồng bào Thủ đô đã tỏ rõ khí phách anh hùng của người Hà Nội cầm súng chống quân thù. Anh Lăng cũng như bao chiến sĩ quyết tử của Thủ đô lúc đó trong vòng vây của giặc, chỉ nghĩ đến hy sinh cho Tổ quốc. Là người tổ chức lễ quyết tử, anh tuyên bố: " Hôm nay tôi làm lễ khai tử các đồng chí. Chúng ta quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".

        Sau khi tổ chức cho ba ngàn đồng bào chui qua cầu Long Biên vượt sông Hồng ra với kháng chiến, anh Lăng cùng với một số đồng đội xin ở lại ra sau, cùng nhau quay trở lại Thủ đô đặt kế hoạch treo cờ ở Tháp Rùa và Bắc Bộ Phủ. Khi thành lập Trung đoàn Thủ đô , anh Lăng được đề bạt tiểu đoàn trưởng, cũng tự thấy mình xứng đáng với chức vụ đó. Ngọn lửa cách mạng đã biến anh Lăng từ một viên chức tiểu tư sản trở thành anh lính Cụ Hồ, rồi một cán bộ chỉ huy của Quân đội nhân dân Việt Nam.

        Chính giữa lúc Pháp thắt chặt vòng vây ở Hà Nội, còn các chiến sĩ quyết tử chỉ nghĩ đến hy sinh cho độc lập tự do cho Tổ quốc thì đồng chí Lê Thản đi sát gợi ý anh gia nhập Đảng Cộng sản. Anh Lăng lúc đó đang nghĩ đến cái chết vinh quang cho Tổ quốc, nhất là sau khi nghe thư Hồ Chủ tịch: " Các em quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh ", nên anh Lăng không do dự gì, còn rất mãn nguyện được gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

H.V.H.       
------------------------
        1. Đây là sự hiểu nhầm trong một phạm vi nhỏ.

        2. Chỉ đạo viên tức là chính trị viên.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #7 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2016, 04:16:31 pm »


KHÔNG NGỜ NÓ LẠI ĐÁNH GIẶC GIỎI THẾ

VŨ MAI       

        Tôi với anh Vũ Lăng là hai anh em con em con cậu ruột. Mẹ anh Vũ Lăng là bác Mai Thị Thịnh, chị ruột của bố tôi1, bác Thịnh đã qua đời năm 1926, để lại cho chồng ba người con: Anh Đỗ Đức Thanh khi ấy mới chín tuổi, anh Vũ Lăng - lúc nhỏ gia đình thường kêu tên là Tẩm - mới lên năm tuổi, chị Đỗ Lệ Trinh - em gái út duy nhất của anh Vũ Lăng mới hơn một tuổi. Bố tôi là cậu ruột anh Vũ Lăng và dì Mai Ngọc Thuyết2, đã sang Bắc Ninh đón anh Vũ Lăng và chị Đỗ Lệ Trinh về Hà Nội chăm nuôi; anh Thanh lớn hơn thì để  ở với bố. Lúc đủ tuổi đi học, anh Vũ Lăng đã theo học tại một trường tư thục ở phố Hàng Bột, trường do ông Ba Xuyên, người làng Thịnh Hào mở. Năm 1929, thực hiện chủ trương đi "vô sản hóa'' của Đảng cộng sản Đông Dương, bố tôi và dì Mai Ngọc Thuyết đã rời Hà Nội xuống Nam Định, không còn điều kiện chăm nuôi anh Vũ Lăng và chị Trinh; anh Vũ Lăng về Hà Nam - Phủ Lý ở với bố và anh Thanh; chị Đỗ Lệ Trinh thì về ở với các bác bên nội.

        Năm 1930, bố tôi bị đày ra Côn Đảo, tôi và mẹ tôi tha phương vào Nam. Năm 1936, bố tôi  được xóa án ra khỏi nhà từ Côn Đảo, quản thúc ở Hà Nội. Tôi và mẹ tôi từ trong Nam ra, năm ấy tôi chín tuổi, tôi mới được gặp anh Lăng. Lúc này anh đã là một chàng trai chững chạc, tôi là một cô bé con, tóc kẹp ngang lưng. Mỗi năm vài lần, anh từ Phủ Lý lên Hà Nội, thường là ngày giỗ chạp ông bà nội tôi tức ông bà ngoại của anh Vũ Lăng. Anh rất gắn bó với các cô cậu và dì bên ngoại, rất thân thiết với anh Tích là con bác ruột của anh...

        Sau ngày Cách mạng tháng 8 năm 1945, giặc Pháp trở lại đánh chiếm Nam Bộ. Anh Vũ Lăng đã đến ấp Thái Hà - Hà Nội, chào bố mẹ tôi để vào Nam chiến đấu. Năm ấy bố tôi rất yếu do bệnh tật những năm bị tra tấn, tù đày. Tính bố tôi rất nghiêm, do đó ít chuyện trò cởi mở với các cháu mỗi khi gặp gỡ. Nhưng lần này, gặp anh Vũ Lăng, bố tôi nói chuyện với anh rất lâu. Tôi thấy mắt anh rớm lệ. Nhìn bố tôi gầy yếu, chắc anh nghĩ đây là lần cuối cùng hai cậu cháu gặp nhau! Và đúng là tháng 2 năm 1946, bố tôi qua đời sau mẹ tôi mất có ba mươi hai ngày!

        Ngày toàn quốc kháng chiến, tôi rời Hà Nội lên Việt Bắc, làm công tác phụ nữ ở tỉnh Vĩnh Phúc. Tôi không gặp lại anh Vũ Lăng và không biết anh chiến đấu ở chiến trường nào.

        Thu đông năm 1947, có tin bộ đội ta đã đánh tan binh đoàn Bô-phrê của Pháp ở Việt Bắc - chúng định thọc vào ATK của ta để tiêu diệt bộ não của cuộc kháng chiến; tham dự trận đánh này có tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng... Tôi vội viết thư cho anh, báo tin tôi đang công tác ở Vĩnh Phúc. Anh viết thư trả lời và gửi cho tôi tấm ảnh bán thân, đội mũ lưỡi  trai trông rất  oách, mặt sau tấm ảnh, anh viết: '' Gửi em Vũ Mai, nhớ cậu cùng cố gắng" - Ký tên Vũ Lăng. Tấm ảnh này tôi vẫn còn lưu giữ. Năm 1951 tôi gặp anh ở Nhã Nam - Bắc Giang. Anh tranh thủ về thăm chị Đỗ Lệ Trinh, em gái của anh ở ấp rừng quanh đó. Tôi thấy anh rất buồn và băn khoăn vì thấy em gái ốm yếu, lại quá nghèo và đông con mà anh không có điều kiện chăm sóc giúp đỡ.

        Sau ngày giải phóng Thủ đô, anh đưa chị Hoa và các cháu về Thịnh Hào, tạm trú ở nhà cô ruột và vợ chồng anh Tích. Thịnh Hào là nơi anh có những kỷ niệm ấu thơ với các cô cậu và dì bên mẹ; anh Tích lại là người mà anh ý hợp tâm đầu từ thời còn trai trẻ...

        Được tin tôi cũng đã về Hà Nội, công tác ở Tòa soạn Báo Nhân Dân và vừa phải phẫu thuật, anh đến Tòa soạn thăm tôi, cho tôi mấy hộp thuốc bổ và khuyên tôi đừng quá buồn... Năm 1966, mặc dù công tác rất bận, anh đã bảo chị Hoa gọi tôi đi chụp ảnh với anh chị và các cháu. Anh biết tôi buồn vì không có con, chồng lại công tác ở hải đảo. Có lúc anh nói đùa với tôi: Gửi cho nó vài cái hòm! (cái hôn).

        Năm chị Đỗ Lệ Trinh, em gái của anh bị ốm nặng, anh về tận Bắc Giang đón và đưa vào Bệnh viện 103 để nhờ chữa trị. Biết bệnh tình của em khó qua khỏi, mỗi lần vào thăm, anh rất xót xa và biết mình sẽ phải làm gì với những đứa cháu nhỏ, con của em! Anh đã bàn với chị Hoa về trách nhiệm với các cháu. Và sau khi chị Trinh qua đời, anh chị đã đón hai cháu Công và Ngọc về ở Lý Nam Đế, cho các cháu đi học và anh chị đã nuôi dạy hai cháu đến lúc trưởng thành. Ngày ấy, với căn phòng, kể cả hai hành lang, rộng được khoảng năm chục mét vuông, vừa là nơi ăn ở và tiếp khách, nhà gồm hai anh chị, bốn đứa con cộng với hai cháu Công và Ngọc, thời bao cấp có được bao nhiêu? Nhưng nhờ chị Hoa khéo lo toan thu xếp, đã giúp anh Lăng an tâm về gia đình, tập trung khả năng trí tuệ vào nhiệm vụ mà Đảng và Quân đội trao cho trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Tôi cho rằng những năm kháng chiến khốc liệt đã làm anh bị trọng bệnh.

        Thời gian anh về điều trị ở Bệnh viện 108, tôi đến thăm anh mấy lần, trước khi anh sang Liên Xô điều trị. Tôi không ngờ đấy lại là những ngày cuối cùng tôi được gặp anh. Và anh đã ra đi vĩnh viễn!

        Kỳ bốn mươi chín ngày của anh, tôi vào Thành phố Hồ Chí Minh, đến nghĩa trang thành phố, đứng bên bia mộ anh, nhìn ảnh anh, tâm trí tôi hiện lên cảnh anh đến chào bố tôi - cậu ruột của anh để Nam tiến. Tính nết của anh, tôi thấy có nhiều điểm giống bố tôi: Sự cẩn thận, chu đáo, thái độ nghiêm khắc, kiên định và hết lòng vì cách mạng, dù phải gian khổ, hy sinh... Không biết có phải do lúc bé, có thời gian anh đã được ở với bố tôi và dì tôi hay không? Sau này dì tôi là Phó chủ tịch tỉnh Bắc Giang, luôn theo dõi từng bước đường đi của anh Vũ Lăng đã nói đùa với tôi: Không ngờ " thằng Tẩm ghẻ " ngày xưa mình vẫn tắm cho nó mà lại đánh giặc giỏi thế3.

V.M       

--------------------------
        1. Ông Mai Lập Đôn - Đảng viên Cộng sản những năm 30.

        2. Bà Mai Ngọc Thuyết - Đảng viên Cộng sản những năm 30.

        3. Lúc bé anh Vũ Lăng hay bị ghẻ nên ở nhà cứ gọi trêu là "Tẩm ghẻ".

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #8 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2016, 04:26:04 pm »

     
VŨ LĂNG TRONG NHỮNG NGÀY CHIẾN ĐẤU Ở LIÊN KHU 1 HÀ NỘI
(THÁNG 12 NĂM 1946)

Đại tá TRỌNG HÀM        

        Thượng tướng Vũ Lăng đã vĩnh biệt chúng ta ở tuổi sáu mươi bảy (8/1921 – 10/1988). Ông sống chưa tới tuổi bảy mươi cổ lai hy. Nhưng cuộc đời binh nghiệp với bốn mươi ba năm tuổi quân ( 1945 – 1988 ), ông đã để lại những chiến công trong chiến đấu chống giặc Pháp và giặc Mỹ, có thể nói là những võ công oanh liệt. Một vị tướng trưởng thành từ lò lửa chiến tranh, cứu nước, kinh qua nhiều cương vị khác nhau đều hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ thực sự là một trong các vị tướng tài xưa nay hiếm.

        Tôi đã sống chiến dấu cùng ông trong những ngay đầu kháng chiến ở Liên khu 1 Hà Nội ( tôi ở khu Đông Thành, ông ở Đông Kinh Nghĩa Thục), sau đó là chiến trường Việt Bắc với các chiến dịch Sông Thao, Tây Bắc, Biên Giới...

        Như chúng ta đã biết, từ ngày 19 tháng 12 năm 1946 đến ngày 17 tháng 2 năm 1947, với hai tuần trăng (sáu mươi ngày đêm), quân và dân Hà Nội đã đối mặt với đội quân đông mạnh gấp nhiều lần lực lượng quân ta. Đội quân tinh nhuệ bậc nhất của nước Pháp lúc bấy giờ, đã khoe đánh tan quân phát xít Hít-le, giải phóng Pa-ri với truyền thống bộ binh, pháo binh giỏi ở châu âu từ thời Na-pô-lê-ông để lại kinh nghiệm.

        Sự thật là khi đã quần nhau với giặc từng bờ tường, góc phố, với dao găm, mã tấu, súng trường, súng kíp, chai xăng ngâm chếp, chúng ta đã gây tổn thất lớn lao cho quân địch. Trung đoàn Thủ đô đã tổ chức cuộc rút lui thần kỳ vượt vòng vây dày đặc của địch qua sông Hồng gồm một ngàn hai trăm chiến sĩ có cả thương bệnh binh, phụ nữ và em nhỏ đã về tới Thủ đô kháng chiến Việt Bắc an toàn, quân không mất một người, vũ khí không mất một khẩu. 60 ngày đêm máu lửa đã thành con số ý nghĩa của lịch sử chiến đấu và chiến thắng.

        Ý nghĩa đó nói lên sự chiến đấu anh hùng của quân dân ta ở Thủ đô ngày đầu kháng chiến1.

        Đồng chí Vũ Lăng là đại đội phó đơn vị Vệ Quốc đoàn bấy giờ có nhiệm vụ bảo vệ Bắc Bộ Phủ và một số nơi thuộc khu vực Hoàn Kiếm. Ngày 20 tháng 12 năm 1946, giặc Pháp đã đưa số quân mạnh để tiến công Bắc Bộ Phủ, Nhà hát lớn... Ở Bắc Bộ Phủ: chúng mở sáu đợt xung phong trong suốt hai mươi giờ hến, có xe tăng, cơ giới yểm trợ, bắn đổ đạn trước mỗi đợt tiến công...

        Sau năm đợt chiến đấu ác liệt, xe tăng, cơ giới địch đã bốc cháy vì bom ba càng, chiến sĩ ta được lệnh rút về phía sau vì đạn gần hết; chỉ để lại bộ phận nhỏ với hai quả bom cài sẵn kíp nổ có dây giật. Quả bom thứ hai giật không nổ, lập tức chính trị viên Lê Gia Định ( người quê ở xã Trút Lâm, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, sống từ nhỏ ở Hà Nội ) đã xông lên dùng búa đập kíp nổ. Chưa kịp đập bom, anh bị trúng đạn hy sinh. Với tiếng thét và dáng điệu cầm búa xông lên của anh, địch hoảng hốt tháo chạy bắn loạn xạ về phía sau.

        Chiếm được Bắc Bộ Phủ, địch chết một trăm hai mươi hai tên lê dương, bốn xe tăng, thiết giáp, ba xe vận tải và một xe díp bốc cháy. Ta hy sinh bốn mươi lăm đồng chí. Trận đánh của đơn vị bảo vệ Bắc Bộ Phủ đã trở thành trận đánh phòng ngự mở đầu nổi tiếng về tinh thần quyết tứ và mưu trí dũng cảm diệt địch.

        Sau hơn ba tuần lễ chiến đấu quyết liệt, ngày 14 tháng 1 năm 1947, tại rạp hát Tố Như số 72 Hàng Bạc đã tổ chức buổi lễ động viên tinh thần quyết tử.

        Cán bộ, chiến sĩ đại biểu cho các tiểu đoàn 101, 102 và 103 đều nghiêm nghị chăm chú nhìn về phía trước là bàn thờ Tổ quốc. Chiếc đỉnh đồng lớn đạn bóng tỏa khói hơng trầm, khói lan tỏa như mây bay, như rồng uốn khúc. Những ngọn nến lung linh rực sáng soi lá quốc kỳ cờ đỏ sao vàng. Tấm vải nỉ đỏ treo trên tường làm nền nổi bật đường viền lụa vàng óng ánh.

        Lớp đứng, lớp ngồi, sắp hàng trước mặt những khẩu súng máy hoặc đeo trên vai khẩu súng trường với tư thế có thể sẵn sàng chiến đấu, vì quanh đó vẫn có tiếng súng nổ.

        Mỗi cán bộ chiến sĩ đều quàng cổ chiếc khăn quàng đỏ thắm. Đó là màu lá cờ đỏ sao vàng nhỏ, họ tự may sắm để sẵn sàng đổ máu nhuộm thêm màu cờ Tổ quốc.

        Trong khung cảnh đó, một cán bộ mảnh khảnh, râu rậm chưa kịp cạo, bước tới phía lễ đài. Người đó là tiểu đoàn phó tiểu đoàn 103: Vũ Lăng. Với giọng nói to, dứt khoát từng câu, từng tiếng của cán bộ quân sự, giọng có ngân vang tiếng chuông, ông nói:

        '' Kẻ thù đánh chớp nhoáng, đánh úp chiếm Thủ đô chúng ta trong vài ngày. Chúng ta đã trả lời chúng bằng những chiến công trên từng ngả đường từng góc phố. Gần một tháng trôi qua. Chúng ta vẫn trụ vững tại Liên khu 1 này. Trước mũi súng xe tăng, đại bác, trong vòng vây lưới lửa bom đạn, chúng ta đã tập hợp nhau thành Trung đoàn Liên khu 1 tiếp tục đánh địch. Cả nước hướng về Hà Nội, cả nước tự hào vì có chúng ta đang chiến đấu, cả nước đang dõi theo chúng ta...''

        Rồi như hé nở nụ cười, với đôi mắt rực sáng, ông nói:

        '' Chúng ta thề quyết tử! Chúng ta thề tự khai tử cho chính chúng ta quyết tâm bảo vệ Thủ đô ''.

        Vô cùng xúc động, vô cùng tự hào.

        Những người có mặt tại buổi lễ hướng về dòng chữ khẩu hiệu lớn: " Thà hy sinh tật cả, không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ ".

        Chúng tôi nghĩ đến ngày 6 tháng 1 năm 1947 đã diễn ra buổi lễ ở Liên khu 1, ở nhà 51 Hàng Bồ, hợp nhất các tổ chức Trung đoàn Thủ đô thống nhất.

        Trung đoàn trưởng là Hoàng Siêu Hải, người dân tộc ở Hòa An, Cao Bằng thuộc đơn vị Quân giải phóng. Tại buổi lễ hợp nhất này, đại đội phó Vũ Lăng giữ chức tiểu đoàn phó tiểu đoàn 103 - Tại buổi lễ đó đã nhất loạt đeo sao tròn thay cho sao vuông. Chúng tôi đã nhận lá cờ thêu dòng chữ vàng " TỔ QUỐC NHỚ ƠN " của Hội phụ nữ cứu quốc tỉnh Hải Dương và đặc biệt có là cờ của ủy ban kháng chiến Nam Bộ tặng thêu hai chữ QUYẾT TỬ.

------------------------
        1. Nhà báo Hoàng Phong, trong buổi sinh hoạt sử học tưởng niệm Thượng tướng, Giáo sư Vũ Lăng kể rằng: " Tháng 12 năm 1946, là cán bộ biên tập báo Cứu quốc, tôi được lệnh rút ra ngoài. Đồng chí Vũ Lăng đã tổ chức và chỉ huy đưa chúng tôi từ đình Phất Lộc ra cột Đồng Hồ, ra gầm cầu Long Biên..." (BT).
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #9 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2016, 04:27:10 pm »


        Giờ đây, lễ quyết tử lại diễn ra tại rạp hát Tố Như - nơi đã diễn ra những vở diễn nêu cao tinh thần " diệt giặc, chống ngoại xâm '',  tinh thần yêu nước TRUNG, HIẾU, TIẾT, NGHĨA bất khuất.

        Nhiều đồng chí, sau này đã nói về cảm tường của mình là đã được xem vở kịch thơ diễn ở Nhà hát lớn. Đoạn cuối của vở kịch là cảnh Thái tử Đan nước Yên tiễn Kinh Kha qua sông Dịch Thủy sang Tần để hành thích bạo chúa Tần Thủy Hoàng. Vua và các quân thần mặc tang lễ màu trắng để tiễn đưa.

        Còn chúng tôi đang làm lễ thề quyết tử cho chính mình giữa khói lửa chiến đấu với chiếc khăn quàng đỏ rực màu cờ.

        Sau ngày 27 tháng 1 năm 1947, Hồ Chủ tịch đã gửi thư động viên giao nhiệm vụ cho chúng tôi, trong đó có câu vô - cùng xúc động:

        " Các em là đội quyết tử, các em quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh... ".

        Địch mở những đợt tiến công quyết liệt hòng tiêu diệt Trung đoàn Thủ đô ở Liên khu 1, trên đỉa bàn ngày càng bị thu hẹp, chỉ còn khoảng vài cây số vuông. Đã có những trận đánh quyết liệt. Chúng chiếm dãy nhà bên số chẵn, ta kiên quyết giữ từng nhà ở dãy số lẻ đối diện với địch. Quân ta đánh nhau giáp lá cà với chúng ở Hàng Thiếc, khu Đông Thành. Rồi ở Trường Ke và nhà Sô-va, khu Đông Kinh Nghĩa Thục và Đồng Xuân, ta chờ địch đến gần, tiêu diệt chúng bằng lựu đạn, súng trường và cả bằng lưỡi lê, mã tấu, dao găm.

        Khi tiến đánh nhà Sô-va ở phía bờ sông, chúng dùng pháo bắn thẳng phá tường để vào nhà. Tại nhà Sô-va, ta chỉ có lực lượng nhỏ .

        Chúng quét một loạt súng như đổ đạn chiếm được tầng dưới. Chúng ta rút lên tầng hai dùng chai xăng chếp đốt cháy cầu thang gỗ không cho chúng đánh lên và kiên quyết cố thủ. Lực lượng quá ít, chiến sĩ trinh sát Nguyễn Xuân Nho và các đồng chí khác đã đánh đu vào cành cây si men theo phía bắc phía nhà Sô-va để rút.

        Được tin, tiểu đoàn phó Vũ Lăng trực tiếp chỉ huy trung đội dự bị nhanh chóng luồn ngách phố vào thẳng nhà Sô-va. Trận đánh quyết liệt, có thêm lực lượng bạn hỗ trợ, trung đội dự bị này đã nhanh chóng chiếm được vị trí có lợi để đánh địch. Lựu đạn quân ta ồ ạt ném vào nơi có địch trong nhà, chúng hoảng hốt tháo chạy. Hơn bốn mươi tên địch chết và bị thương, một xe tăng, một thiết giáp bị đốt cháy.

        Ngay tối ngày 6 tháng 2 năm 1947, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã gửi điện, khen ngợi tinh thần dũng cảm mưu trí chiến đấu của các chiến sĩ đã chiếm lại nhà Sô-va - Một vị trí cửa ngõ quan trọng giữ vững liên lạc tiếp tế với hậu phương.

        Hôm sau ngày 7 tháng 2 năm 1947, đồng thời với việc đánh Trường Ke ở phía bắc cột Đồng Hồ, chúng ném bom đánh phá các khu vực Hàng Nón, Hàng Thiếc, Hàng Mành, Hàng Hòm, Bát Đàn, Hàng Quạt... làm sụp đổ nhiều nhà. Địch dùng vòi phun xăng để đốt cháy dãy phố. Ta dùng chậu hứng xăng để tối đốt cháy vị trí địch.

        Còn ở Trường Ke (tức trường Trần Nhật Duật hiện nay phía bờ sông), dù địch đã quyết tâm đánh chiếm - vị trí này cùng với Sô-va đều là các chốt giữ cửa ngõ đảm bảo liên lạc tiếp tế với hậu phương - nhưng chúng vẫn bị thất bại. Địch cho xe tăng bịt tất cả các ngả ta có thể rút hoặc tăng viện.Tám lần dịch dội đạn và hò hét "a-la-xô"1 đều bị đánh lui ta vẫn giữ vị trí Trường Ke.

        Thắng lợi của những trận phản kích đánh địch ở nhà Sô-va và Trường Ke là chiến công chói lọi và tinh thần dũng cảm chiến đấu, đồng thời có ý nghĩa về nghệ thuật chiến đấu phòng ngự ở thành phố với cách đánh sáng tạo, dùng lực lượng ít vẫn thắng quân địch đông hỏa lực mạnh. Ta đã chặn địch không đánh được sở chỉ huy tiểu đoàn 103 đóng ở ngõ Phất Lộc, giữ vững con đường tiếp tế với hậu phương - nơi sau này, đêm ngày 17 tháng 2 năm 1947 cả một trung đoàn hơn một ngàn người đã rút qua gầm cầu Long Biên để rồi vượt sông Hồng về hậu phương lớn chiến khu Việt Bắc.

        Quá trình diễn biến chiến đấu quyết liệt như ở nhà Sô-va - Trường Ke, tiểu đoàn phó Vũ Lăng đích thân chỉ huy đã chiến thắng oanh liệt2.

        Ông là vị tướng trưởng thành từ lò chiến đấu Thủ đô và là vị tướng nhiều tài năng của quân đội cách mạng thời đại Hồ Chí Minh.

        Nhưng ông còn là một người rất " con người ", sống hòa mình với chiến sĩ, thắm thiết tình đồng đội, trực tính nhưng vẫn được cấp trên, cấp dưới quý mến.

        Ông là người trung với nước, hiểu với dân và là người rất chung thủy. Mối tình đầu của ông gắn bó với quyết tử quân Nguyễn Thị Liên. Chị là học sinh đệ tứ bậc trung học, con một gia đình công chức gia phong nền nếp, nhà ở phố Mã Mây. Đoàn quân sau khi rút khỏi Thủ đô đã tới làng Cần Kiệm, Thạch Thất, Sơn Tây để có cuộc tổ chức biên chế lại. Kẻ ở lại vùng đồng bằng, người lên chiến khu Việt Bắc. Chị Liên, cô gái mười chín tuổi đẹp người đẹp nết đã tặng Vũ Lăng một quyển nhật ký dày gần hai trăm trang. Vũ Lăng tặng lại khẩu súng ngắn chiến lợi phẩm để chị tiếp tục chiến đấu bảo vệ mình. Nhưng rồi chính khẩu súng ngắn đó, vì quá nghe tin đồn Vũ Lăng tử trận trong chiến đấu với binh đoàn Bô-phrê, chị đã "cùng đi theo anh" giữa lúc canh khuya ngay tại Ân Thi, Hưng Yên. Chị Hoa - bạn đời của Vũ Lăng rất trân trọng mối tình đầu của chồng mình đã cất giữ tấm ảnh của chị Liên, tuy đã bạc màu nhiều chỗ .

        Đồng chí Lê Thọ là chính trị viên tiểu đoàn 54, đã từng có mặt trong các trận đánh ở Đại Từ - Phú Minh - Hạ Bằng, Đại Bục..., lại vốn giàu mình cảm và rất hợp với Vũ Lăng, vẫn thường cưỡi ngựa sóng đôi, người đứng đầu hàng quân, người đứng cuối hàng quân hồi còn ở  Việt Bắc. Đầu năm 2000, ông đã cùng cán bộ bạn bè Vũ Lăng tổ chức viếng thăm mộ chị Liên tại Ân Thi. Chúng tôi đặt những bông hoa trắng trên mộ chị. Một cán bộ cũ của Trung đoàn Thủ đô đã viết bài thơ " Hoa Sen Trắng" tặng hương hồn anh Lăng và chị Liên.

T.H       

-------------------------
        1. Tiếng Pháp " À I' assant" - xung phong !

        2. Sau đó Vũ Lăng đã được giao nhiệm vụ tiểu đoàn trưởng.
Logged

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM