Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 01:37:17 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Sửa lại cho đúng, bàn thêm cho rõ  (Đọc 47313 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #150 vào lúc: 15 Tháng Mười Hai, 2016, 04:40:48 am »


YẾU TỐ BẤT NGỜ TRONG TIẾN CÔNG TẾT MẬU THÂN1

LÊ KIM       

        Cho tới nay, đã có rất nhiều bài báo, thậm chí nhiều cuốn sách, viết về cuộc tiến công chiến lược Tết Mậu Thân 1968, một cuộc tiến công táo bạo đã ghi thêm vào pho sử kháng chiến của nhân dân ta một trang rất đẹp. Nhiều báo xuất bản ở nước ta khi viết về cuộc tiến công này đều nhận xét là ta đã “giữ được bí mật tuyệt đối" hoặc "bí mật triệt để từ đầu đến cuối" do đó làm cho địch "hoàn toàn bất ngờ không kịp đối phó". Gần đây nhất, báo Quân đội nhân dân số Xuân Quý Dậu 1993 trong bài "25 năm Tết Mậu Thân..." cũng viết: "Sự bất ngờ, kinh ngạc kéo dài đối với cả bộ tham mưu độ sộ sử dụng máy tính điện tử tại Lầu Năm Góc phương Đông, tại ngay Nhà Trắng Hoa Kỳ, từ ngày đầu tiên đến ngày kết thúc Tết Mậu Thân". Đúng là cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã làm chấn động cả Lầu Năm Góc lẫn Nhà Trắng và có tiếng vang rộng khắp trên thế giới. Cuối năm 1967, giới quân sự Mỹ đã có những nhận định, đánh giá rất khả quan về thực tế ở chiến trường miền Nam Việt Nam. Với một đội quân viên chinh hơn 50 vạn cùng với quân đội ngụy Sài Gòn đang ở thời điểm sung sức, họ tin rằng thế cờ chiến lược có lợi cho họ khó mà đảo ngược được. Bởi vậy khi cuộc tiến công và nổi dậy với quy mô lớn nổ ra cùng lúc ở khắp miền Nam làm thay đổi cục diện chiến trường thì Nhà Trắng đã hoàn toàn bất ngờ trước những toan tính chiến lược, trước kết cục của cuộc chiến Mậu Thân. Nhưng như vậy không có nghĩa là Nhà Trắng hoàn toàn không biết gì về cuộc tiến công của đối phương vào dịp Tết. Về yếu tố "bất ngờ" trong cuộc tiến công chiến lược này còn có nhiều điểm cần nghiên cứu thêm. Chúng ta hãy đứng từ phía đối phương để nhìn lại cuộc tiến công này.

        Đôn Ô-bơ-đô-phơ là một trong nhiều nhà báo nước ngoài có mặt tại miền Nam Việt Nam trong vùng kiểm soát của Mỹ, ngụy hồi đó, không những có hoàn cảnh để chứng kiến mà còn có điều kiện thu thập nhiều tư liệu xung quanh cuộc tiến công chiến lược Tết Mậu Thân 1968. Năm 1971, nhà báo này đã cho xuất bản một cuốn sách nhan đề chỉ có vẻn vẹn một chữ "Tết" in to trên nền đen, được dư luận đánh giá cao. Trong phần đầu trang 118 của cuốn sách, Đôn Ô-bơ-đô-phơ ghi một dòng chữ đậm nét như một phụ đề: "Tư liệu thu được (của đối phương) chỉ rõ giai đoạn cuối cùng của cuộc cách mạng đã nằm trong tầm tay". Liền theo đó, Đôn Ô-bơ-đô-phơ công bố thêm nhiều dẫn chứng cho biết, trước khi bùng nổ cuộc tiến công Tết Mậu Thân, phía Mỹ đã bắt được tù binh, thu được một số văn bản tài liệu về cuộc tiến công và nổi dậy dự định bùng nổ trong dịp Tết âm lịch 1968.

        Năm năm sau, tướng Oét-mo-len, nguyên Tư lệnh các lực lượng Mỹ và Đồng minh tại Việt Nam, sau khi bị "đá hất về Lầu Năm Góc" rồi nghỉ hưu, cũng cho xuất bản một cuốn sách nhan đề "Một người lính báo cáo" (Westmoreland - A Soldier reports, Garden city, New York, 1976) công bố thêm nhiều chi tiết cụ thể, kèm theo một số mệnh lệnh chỉ thị của Lầu Năm Góc phương Đông, tức tổng hành dinh của Oét-mo-len tại Sài Gòn, gửi các cấp dưới quyền trong thời gian trước ngày bùng nổ cuộc tiến công chiến lược Tết Mậu Thân 1968. Oét mo-len cho biết:

        - Khoảng trung tuần tháng 12 năm 1967, Oét-mo-len đã được một viên tướng ngụy là Trần Ngọc Tâm cho biết về “những dấu hiệu đáng nghi" về hoạt động quân sự sắp xảy ra của đối phương. Căn cứ vào những tin tức tình báo thu lượm được ngày 20 tháng 12 năm 1967, Oét-mo-len đã gửi chỉ thị cho các cấp dưới quyền, vạch rõ: "Quân địch đã sẵn sàng có một quyết định dứt khoát về cách thức tiến hành chiến tranh, nhằm tập trung các lực lượng tiến hành một cố gắng cao độ trên tất cả các mặt trận, cả chính trị lẫn quân sự để giành thắng lợi trong một khoảng thời gian ngắn".

        Căn cứ vào chỉ thị này, quân Mỹ trong Vùng chiến thuật III đã tiến hành càn quét vùng Tây Bắc Phước Long nhằm ngăn chặn, cản phá cuộc tiến công của đối phương, dự kiến xuất phát từ Chiến khu C và Chiến khu D. Quân Mỹ đóng ở 4 tỉnh phía Bắc miền Nam Việt Nam cũng tiến hành cuộc hành binh mang tên Y-oóc càn quét những khu vực căn cứ của Việt cộng ở giáp biên giới Lào (Westmoreland - A Soldier reports, Sđd, các trang 315, 316, 317, 320).

---------------------
        1. (Tạp Chí LSQS số 1-1993)
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #151 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2016, 09:03:24 pm »


        Ngày 5 tháng 1 năm 1968, người phát ngôn của Mỹ là Ba-ri Gio-thi-an tổ chức họp báo, cho biết: Sư đoàn 101 đổ bộ đường không của Mỹ, trong một cuộc hành quân càn quét, đã tịch thu được một tài liệu của Bắc Việt về hoạt động sắp tới. Tài liệu này ghi rõ: "Dùng lực lượng quân sự mở cuộc tiến công mạnh kết hợp với cuộc nổi dậy của nhân dân địa phương nhằm vào các đô thị. Các đơn vị quân đội cần tràn tới những vùng đồng bằng. Phải giải phóng Sài Gòn giành chính quyền về tay nhân dân và vận động binh lính ngụy đứng về phía cách mạng" (Westrnoreland - A Soldier reports, Sđd , các tr. 315, 316, 317, 320).

        Chiều 20 tháng 1, khai thác một tù binh Bắc Việt được biết: Ngày 5 tháng 1 năm 1968, Sư đoàn 4 bộ binh Mỹ trong một cuộc hành quân càn quét, thu được một mệnh lệnh khẩn số 1, vạch kế hoạch tỉ mỉ về cuộc tiến công chiếm thị xã Plei Ku trong dịp Tết. Thiếu tướng Tôn - Tư lệnh quân Mỹ ở khu vực này, lập tức báo động cho toàn đơn vị và điều động đại đội xe tăng dự bị vào trung tâm thị xã để tăng cường bảo vệ cho Plei Ku. Đồng thời, phía Mỹ cũng báo cho tướng Vĩnh Lộc chỉ huy Vùng chiến thuật II để cùng chuẩn bị đề phòng.

        Ngày 20 tháng 1, Bộ tư lệnh Mỹ nhận định: địch có thể tiến công nhiều nơi vào thời điểm trong hoặc sau Tết". Ngày 22 tháng 1, tướng Uy-lơ nhận được điện cho biết "địch có thể mở cuộc tiến công bằng nhiều tiểu đoàn đánh vào Huế và cả Quảng Trị trong dịp Tết" (Westrnoreland - A Soldier reports, Sđd , các tr. 315, 316, 317, 320). Cũng trong ngày 22 tháng 1, tướng Đa-vit-sơn - Cục trưởng Cục Quân báo, gửi điện cho vợ ở Ha-oai, báo tin "không thể nghỉ phép đi gặp vợ được" vì còn bận theo dõi, thu thập tin tức tình báo về hoạt động của đối phương.

        Ngày 28 tháng 1, tức chỉ còn hai ngày nữa là đến Tết âm lịch, quân ngụy sục vào một nhà dân ở bờ biển Quy Nhơn, bắt được 11 "Việt cộng" đang họp, tịch thu được một máy ghi âm và hai băng cát-xét. Khai thác những tù binh vừa bị bắt, những người này cho biết vào dịp Tết sẽ tiến đánh Quy Nhơn và nhiều thành phố khác, trong đó có kế hoạch đánh chiếm Đài phát thanh, phát đi lời kêu gọi đã ghi sẵn trong băng cát xét, kêu gọi nhân dân nổi dậy lật đổ chế độ phát-xít Thiệu - Kỳ...

        Đến đây, đã có thể kết luận được rằng, trước khi bùng nổ cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, phía Mỹ đã thu lượm được nhiều tin tức tình báo phong phú, nhiều dạng, từ văn bản tài liệu vật chứng đến lời khai của tù binh và cả những tiết lộ của những tên phản bội đầu hàng địch. Biết trước như vậy, tại sao Mỹ không cản phá được cuộc tiến công?

        Theo nhà báo Đôn Ô-bơ-đô-phơ (và sau đó chính Oét-mo-len cũng thừa nhận), ngày 15 tháng 1, Oét-mo-len đã triệu tập cuộc họp các sĩ quan tham mưu và quân báo tại tổng hành dinh để phân tích và nhận định về những tài liệu thu thập được chung quanh cuộc tiến công Tết Mậu Thân. Vấn đề nêu lên là: Cuộc tiến công này sẽ bùng nổ trước Tết hay sau Tết? Oét mo-len nhận định: Cuộc tiến công có khả năng xảy ra trước Tết là 60% và sau Tết là 40%. Tướng Quân báo Đa-vit-sơn cũng nhận định: Cuộc tiến công sẽ xảy ra sau Tết là 40% và trước Tết là 60% (Don Oberdopher - Tet. Garden city, New York, 1971. tr. 121). Như vậy, cả Oét-mo-len và đa-vit-sơn đều thống nhất nhận định, có nhiều khả năng cuộc tiến công này sẽ xảy ra vào thời gian trước Tết. Nhưng đến những ngày trước Tết, khi thấy tình hình vẫn im ắng thì phía Mỹ lại tăng thêm chủ quan, lơ là cảnh giác. Cả Oét-mo-len lẫn Đa-vit-sơn đều không ai phán đoán là cuộc tiến công này sẽ xảy ra đúng vào dịp Tết.

        Theo nhà báo Đôn Ô-bơ-đô-phơ, không khí chủ quan lan tràn cả trong giới báo chí, là những người đã được Lầu Năm Góc phương Đông báo trước về cuộc tiến công này. Tâm trạng lúc được phổ biến tài liệu là "rất ít quan chức và các nhà báo Mỹ quan tâm đến những tài liệu vừa được công bố". Mọi người cho rằng: "Quân Cộng sản không có khả năng đánh lớn, không có khả năng đánh chiếm và giữ được các đô thị", "Nếu cuộc tiến công lớn xảy ra, quân Cộng sản sẽ bị thiệt hại nặng nếu không nói là thất bại". Về phía chính quyền ngụy, tâm trạng chủ quan càng lớn hơn. Dẫn chứng cụ thể là, dù được thông báo trước về cuộc tiến công này, Thiệu vẫn bỏ Sài Gòn về Mỹ Tho ăn Tết và vẫn cho các sĩ quan "nghỉ Tết thoải mái", không kịp thời hạ lệnh báo động hoặc cấm trại vào đêm 30 Tết.

        Tình hình thực tế là như vậy. Về phía ta rõ ràng có sơ hở trong việc giữ bí mật cũng như giáo dục chiến sĩ, thậm chí còn có những vụ đầu hàng, phản bội, trước khi xảy ra trận đánh cực kỳ quan trọng. Mặc dù vậy, do tinh thần dũng cảm, quyết tâm, ta vẫn gây cho địch nhiều thiệt hại, lúng túng, vẫn tiến hành được một cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt rất oanh liệt. Viết rõ về sự thật này để rút kinh nghiệm và nêu lên những bài học bổ ích cho đời sau. Việc không giữ được yếu tố bí mật hoàn toàn và triệt để trong cuộc tiến công chiến lược Tết Mậu Thân 1968 không làm giảm nhẹ ý nghĩa chiến thắng mà càng tô đậm thêm chiến thắng đó. Mong các nhà viết sử, các nhà văn... suy nghĩ và nghiên cứu thêm.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #152 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2016, 09:12:14 pm »


VỀ CÁC ĐỢT TỔNG TIẾN CÔNG NĂM MẬU THÂN1

NGUYỄN VĂN MINH       

        Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã đi qua cách đây 24 năm, nhưng nó vẫn còn làm sôi dộng lòng người như những sự kiện vừa mới xảy ra. Vì thắng lợi to lớn, toàn diện của cuộc Tổng tiến công đã vượt khỏi biên giới Việt Nam đến với các dân tộc trên thế giới và các nhà quân sự Mỹ như một câu chuyện thần kỳ "không thể tưởng tượng nổi". Chính vì vậy, suốt 24 năm qua, những nhà nghiên cứu, những nhà chính trị, quân sự ở trong nước và ngoài nước luôn tìm cách tiếp cận đến chân lý lịch sử "Sự kiện Tết Mậu Thân". Càng đi sâu nghiên cứu người ta càng đi đến thống nhất đánh giá ý nghĩa lớn lao của "Sự kiện Tết Mậu Thân". Riêng các nhà quân sự Mỹ thì cho rằng Tết Mậu Thân đã đánh hỏng một chiến lược của Mỹ, đã buộc Mỹ xuống thang chiến tranh"...

        Do tầm vóc thắng lợi của đợt Tổng tiến công Tết Mậu Thân mà cho đến nay nhiều người nghiên cứu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy 1968 dường như bỏ qua các đợt tổng tiến công tháng 5 và tháng 8; hoặc có nhắc đến thì nặng về phê phán, cho đó là sai lầm, duy ý chí trong chỉ đạo chiến lược của Bộ Thống soái Việt Nam, chẳng những nó không mang lại ý nghĩa thắng lợi mà còn bị thất bại nặng, làm cho địch có cơ hội giành thế chủ động bình định nông thôn, đẩy lực lượng cách mạng miền Nam vào thế khó khăn hơn bao giờ hết...

        Đúng là các đợt Tổng tiến công sau Tết Mậu Thân có nhiều khuyết điểm, thậm chí sai lầm trong chỉ đạo chiến lược và thực hiện, làm cho ta tổn thất về lực lượng, mất đất mất dân. Lịch sử đã diễn ra rồi, ta không đặt chữ "nếu”, nhưng thử hỏi: không có các đợt Tổng tiến công sau Tết Mậu Thân (tháng 5, 8 ) liệu Mỹ có xuống thang chiến tranh thật sự không, có đến Hội nghị Pa-ri nghiêm chỉnh không và dẫn đến kết cục quân Mỹ khi chưa hoàn thành "sứ mệnh" đi chinh phục có "cút" khỏi Việt Nam thật không? Đó là vấn đề cần phải tiếp tục làm sáng tỏ. Trong bài này, người viết xin nêu một suy nghĩ: Giá trị của các đợt Tổng tiến công sau Tết Mậu Thân có thể ví như một "chất xúc tác" trong quá trình phản ứng hoá học. Mặc dù ta bị thiệt hại, nhưng cũng chính nhờ các đợt tiến công tiếp sau Mậu Thân đã buộc Mỹ đến Hội nghị Pa-ri với thái độ nghiêm chỉnh hơn, xuống thang chiến tranh nhanh hơn. Đó là ý nghĩa thắng lợi đích thực và đó cũng là thành công của ta trong các cuộc Tổng tiến công sau Mậu Thân.

        Đợt Tổng tiến công và nổi dậy dịp Tết "long trời lở đất" chấm dứt, ngày 31 tháng 3 năm 1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn chính thức thông báo ngừng mọi hành động không quân, hải quân chống miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, đồng ý với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đàm phán tại Pa-ri, bỏ chiến lược "tìm diệt" thay bằng chiến lược "quét và giữ". Đây là một tình thế bắt buộc Mỹ phải làm, vì thua ở chiến trường, vì bị sức ép đòi chấm dứt chiến tranh ở ngay nước Mỹ. Nhưng thực chất Giôn-xơn và tập đoàn hiếu chiến cầm quyền Nhà Trắng và Lầu Năm Góc "xuống thang" là "xì hơi" cho "quả bóng" đỡ căng, dư luận dịu xuống và hy vọng sẽ buộc ta đàm phán theo điều kiện của Mỹ bằng việc tập trung ném bom ồ ạt xuống phía Nam Vĩ tuyến 20. Tao-xen Hốp-xơ, nguyên Thứ trưởng không quân Mỹ viết trong cuốn Những giới hạn của sự can thiệp có nhận xét rằng: "Giôn-xơn hiểu rằng thực tế không cho phép ông ta tái diễn leo thang ném bom miền Bắc hoặc tăng bộ binh với số lượng đáng kể tại Việt Nam, nhưng ông ta vẫn nuôi hy vọng rằng đối phương có thể bị hao mòn, mệt mỏi nếu Mỹ duy trì áp lực quân sự này chỉ nằm trong giới hạn mới". Rõ ràng "xuống thang" nhưng trên thực tế sau Mậu Thân, Mỹ vẫn tiếp tục "leo thang" ngày càng ác liệt. Theo tướng Mỹ Crao, giám đốc Ngân sách không quân thú nhận thì, tổng số bom trút xuống Việt Nam trong tháng 1 là 67.000 tấn, đã tăng lên 91.000 tấn trong tháng 3. Và ở vùng "cán xoong Lào” trung bình mỗi ngày Mỹ sử dụng 160 vụ oanh kích, riêng ngày 9 tháng 4 có tới 500 máy bay oanh tạc, chưa kể máy bay B-52. Vừa tăng cường ném bom, Mỹ vừa đưa ra công thức đàm phán "có đi có lại” và quả quyết rằng "phía bên kia (ta) phải theo"; Mỹ nhất định "không khuất phục trước việc 40.000 quân Bắc Việt ào vào Khe Sanh, cũng như không khuất phục các điều kiện thương lượng của Hà Nội" (AFP ngày 9 tháng 2). Với công thức thương lượng "có đi có lại", Ngoại trưởng Mỹ Đin Rát-xcơ đòi "Bắc Việt Nam ngừng thâm nhập" là điều kiện để Mỹ ngừng ném bom; Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Cơ-líp-phớt thì yêu cầu “Bắc Việt Nam đừng thâm nhập trong khi cuộc thương lượng kéo dài". Còn chính quyền Sài Gòn buộc phải đồng ý để Mỹ chấm dứt ném bom, nói chuyện với Hà Nội, nhưng tuyên bố không công nhận Mặt trận dân tộc Giải phóng. Lúc này ở Pa-ri, ta và Mỹ chỉ bàn quanh việc ngồi theo bàn tròn hay bàn vuông mà không đi vào nội dung cuộc thương lượng.

----------------------
        1. (Tạp chí LSQS số 1-1993)
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #153 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2016, 09:12:55 pm »


        Giữa tháng 3 và tháng 4 có thể nói là thời gian tạm yên tĩnh ở chiến trường. Lợi dụng tình hình này, Oét-mo-len, Nguyễn Văn Thiệu và cả Tổng thống Giôn-xơn cùng với bộ máy tuyên truyền Mỹ và Sài Gòn đều tuyên bố, phát tin: Việt cộng và quân Bắc Việt Nam đã bị đánh tan; quân đồng minh đang lập lại quyền kiểm soát trên khắp lãnh thổ Nam Việt Nam, quân Việt cộng và Bắc Việt Nam đang bị truy kích ráo riết... Những cuộc biểu tình phản đối chiến tranh ở Mỹ đang nổi lên, bỗng ngưng lại, không còn rầm rộ như sau cuộc tiến công Tết. Nhân dân Mỹ và cả những nghị sĩ Quốc hội Mỹ đâm ra hoài nghi, có lẽ phía chính quyền của họ nói thật? Tâm trạng bi quan, sợ hãi của những người dân Mỹ được vợi đi một phần. Nhân dân Mỹ và thế giới đang trong tâm trạng nửa tin nửa ngờ, thì cuộc tổng tiến công tháng 5 của ta vào Sài Gòn và các thành phố lớn ở miền Nam nổ ra. 0 giờ 30 phút ngày 5 tháng 5, bộ binh, pháo binh, đặc công, biệt động quân giải phóng đồng loạt đánh vào 30 thành phố, thị xã, 58 thị trấn, quận ly, 12 chi khu quân sự, 10 bộ tư lệnh quân đoàn, sư đoàn, 11 sở chỉ huy lữ đoàn, trung đoàn Mỹ, ngụy, 30 sân bay, 20 căn cứ hành quân và trung tâm huấn luyện - Sài Gòn là trọng điểm tấn công nổi bật. Đợt tăng tiến công tháng 5, ở nhiều nơi không thực hiện được ý định của lãnh đạo và nhiều nơi chỉ có pháo kích, nhưng quy mô của cuộc tiến công rất rộng lớn, như "một cơn chớp giật chói loà giữa Lầu Năm Góc tối mịt, làm lộ những bộ mặt hoài nghi hoặc chống đối trước đây vẫn còn giấu mình" (Những giới hạn của sự can thiệp, Tao-xen Hốp-xơ). Phong trào nhân dân Mỹ phản đối chiến tranh của chính quyền lại bùng lên thạnh mẽ, lan sâu vào các nghị sĩ Quốc hội Mỹ. Họ phẫn nộ vì chính quyền Mỹ đã lừa dối họ. Giôn-xơn, Oét-mo-len, Nguyễn Văn Thiệu "nói láo" rằng Việt cộng đang bị truy kích, nhưng kết quả ngược lại "Việt cộng dang tiến công", “chiến tranh vẫn tiếp diễn trong thành phố". Những cuộc biểu tình phản kháng, những cuộc bạo động của người dân Mỹ chống chiến tranh xâm lược Việt Nam, kết hợp và hoà lẫn với các cuộc nổi dậy của người Mỹ da đen, tạo thành sự chia rẽ chính trị nghiêm trọng nhất ở nước Mỹ từ một thế kỷ nay. Những thượng nghị sĩ Mỹ J.W. Phun-brai, R. Ken-nơ-di, G.M. Ga-vơn... chất vấn tổng thống là không thua tại sao luôn luôn đòi tăng quân, chỉ biết đòi tăng quân mà không có con mắt nhìn toàn cục... Giôn-xơn bị sức ép chính trị hết sức nặng nề từ nhiều phía: nhân dân Mỹ, Quốc hội và chiến trường, Tổng thống Mỹ đã yêu cầu Uy-lơ, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân nói với Oét-mo-len: "Quyết định động viên nhiều lực lượng dự bị để đối phó với việc địch mở rộng chiến tranh về mặt địa lý là điều không thể làm được về mặt chính trị. Ông cảm thấy không có sự lựa chọn nào trong vòng ít tháng, ngoài việc cố gắng trấn an những người phản đối vì họ sẽ làm bùng nổ một phong trào đòi rút quân Mỹ rất hèn hạ" (Oétmolen - Một quân nhân tường trình, Chương 19. tr; 43, 47 (bản đánh máy)).

        Đến lúc này, tháng 5 năm 1968, Oét-mo-len, một tên tướng hiếu chiến đã từng giải thích sau Tết Mậu Thân "quân đồng minh đã bắt đầu truy kích Việt cộng", đã phải thú nhận thất bại chua chát: "Họ đã đạt được mục tiêu là làm cho phía Mỹ phải đơn phương xuống thang, ngừng ném bom, đình chỉ việc tăng quân và làm hỏng một chiến lược đánh mạnh; làm cho người Mỹ phải đến bàn hội nghị trong khi đó nhiều người Mỹ cứ tưởng là Chính phủ Mỹ đã bắt buộc địch đến hội nghị" (Oétmolen - Một quân nhân tường trình, Chương 19. tr; 43, 47 (bản đánh máy)). Giờ đây "cuộc chiến tranh Việt Nam trở thành một tấn thảm kịch lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ kể từ thời nội chiến" (Mc. Na-ma-ra, dẫn theo Tao-xen Hốp-xơ). Sự kiện tổng tiến công tháng 5 khiến Mỹ, ngụy kiệt quệ về nhân lực, phương tiện. Hậu quả nghiêm trọng của nó là Chính phủ Mỹ không còn sức lực và thì giờ để lo giải quyết tình hình nội bộ nước Mỹ đang rối như tơ vò và những "điểm nóng" khác trên thế giới. Nhà Trắng, Lầu Năm Góc lại luẩn quẩn trong cái vòng tăng quân, tăng phương tiện, leo thang ném bom miền Bắc để mong tìm lối thoát. Nhưng, tăng cường ném bom, thì đợt tiến công tháng 5 của ta đã minh chứng rõ ràng là chiến dịch ngăn chặn của Mỹ bị thất bại. Bộ Quốc phòng Mỹ ước tính trong tháng 5, số quân miền Bắc Việt Nam vào Nam là 29.000 so với 4.000 người trung bình mỗi tháng hồi năm 1966, 7.000 hồi 1967. Tăng quân ngụy, thì quân ngụy đang rêu rã, tinh thần bạc nhược, không làm được nhiệm vụ "giữ nhà".  Tăng quân Mỹ, thì càng không ổn, vì như vậy phải động viên quân trù bị, điều mà Giôn-xơn trong những năm cầm quyền cố tránh. Nhà Trắng và Lầu Năm Góc quyết định trang bị vũ khí hiện đại cho quân ngụy để "Mỹ dần dần giảm bớt số quân Mỹ ở Việt Nam vào lúc thích hợp... chuyển phần lớn việc chiến đấu cho quân Nam Việt Nam" (Tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Cơ-líp-phớt, theo UPI ngày 22-5). Mỹ cấp tốc chuyển súng M16, xe tăng sang miền Nam, đến tháng 7-1968, toàn bộ quân ngụy có súng mới.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #154 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2016, 09:13:12 pm »


        Tuy nhiên, Giôn-xơn thấy biện pháp tăng cường quân ngụy là việc làm có tính chất "lấp lỗ trống" chắp vá, khó có thể giữ miền Nam Việt Nam. Cuối cùng, Giôn-xơn nghĩ đến giải pháp phải chấm dứt ném bom trên toàn miền Bắc và đồng ý họp Hội nghị Pa-ri để đổi lấy việc rút quân Mỹ về nước. Để trấn an tinh thần cho ngụy quyền Sài Gòn, Giôn-xơn với Nguyễn Văn Thiệu sang Hô-nô-lu-lu họp tìm cách đối phó. Nhưng tại Hô-nô-lu-lu, Giôn-xơn lại cam kết "quyết tâm ngăn chặn xâm lược", "không bỏ miền Nam Việt Nam", "Mỹ rút quân thì Bắc Việt Nam rút quân", "không ủng hộ việc đặt một chính phủ liên hiệp ở Sài Gòn" (Thông cáo chung Hô-nô-lu-lu ngày 20-7-1968). Từ Hô-nô-lu-lu, Giôn-xơn bay về Tếch-dát, còn Nguyễn Văn Thiệu về Sài Gòn với tâm trạng buồn lo lẫn lộn. Giữa lúc đó, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố "đồng thời với việc Mỹ không ngừng chồng chất tội ác mới trên cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam, việc Giôn-xơn và tay sai của y công khai cam kết với nhau đẩy mạnh bắt lính, đưa thêm vũ khí và phương tiện chiến tranh vào miền Nam càng bóc trần sự thật xấu xa về cái gọi là "thiện chí hoà bình" của Mỹ tuyên bố ngày 29-7).

        Đồng thời với tuyên bố của Mặt trận, đợt tiến công tháng 8 nổ ra và kéo dài đến hết tháng 9 năm 1968. Những người dân Mỹ chưa một lần đặt chân tới Việt Nam, họ không cần biết đến “Việt cộng" đánh như thế nào, đánh lớn hay đánh nhỏ, mà qua hệ thống thông tin tiên tiến của Mỹ, họ biết đích xác "Việt cộng" lại tiến công vào các thành phố lớn ở miền Nam thật. Những lời tuyên truyền trấn an dân chúng của chính quyền Giôn-xơn về đợt tiến công tháng 5 của "Việt cộng" và Hà Nội như ngọn đèn dầu dồn sức phụt sáng lần cuối cùng trước khi tắt hẳn, giờ đây đồi với người dân Mỹ nó trở thành sự lừa dối lố bịch. Dù Giôn-xơn và bộ máy tuyên truyền Mỹ và Sài Gòn có giải thích, có gào thét gì cũng chẳng ai tin. Sức ép chính trị ở Mỹ đòi tổng thống chấm dứt chiến tranh Việt Nam càng tăng lên nặng nề hơn bao giờ hết. Tại Hội nghị Hô-nô-lu-lu, cam kết với Nguyễn Văn Thiệu cứng rắn bao nhiêu, thì giờ đây Giôn-xơn mệt mỏi gần như kiệt sức. Ngày bầu cử Tổng thống Mỹ đến gần. Mặc dù Giôn-xơn từ bỏ cuộc tranh cử, nhưng tiếng nói và hành động phản chiến càng mạnh, gây nên một tâm trạng "buồn chán lan tràn trong các giới chính thức ở Oa-sinh-tơn, một sự phản ánh những ngày vô định mà báo chí và vô tuyến truyền hình đã nói" (Oét-mo-len - Một quân nhân tường trình). Khuynh hướng "chiến" thụt lùi; khuynh hướng "hoà" tiến bước. Cơ-líp-phớt vừa thay Mc.Na-ma-ra làm Bộ trưởng Quốc phòng, nổi tiếng "diều hâu”, lần này cũng nhận ra không thể thắng được. Sức ép càng dữ dội đòi Giôn-xơn phải tiến thêm bước nữa trên con đường "xuống thang", vì kỳ vọng hoà bình, độc lập, tự do, thống nhất của dân tộc Việt Nam không thể lay chuyển. Trong khi đó thì Oét-mo-len đưa ra một so sánh lý thú làm cho mọi người kinh ngạc: Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất cần phải có 6 triệu quân đồng minh để giữ mặt trận phía Tây; trong Chiến tranh thế giới thứ hai cần có 4, 5 triệu quân đồng minh để giữ mặt trận phía Tây dài 570 dặm. Ở Triều Tiên cần có 1 triệu quân của Liên hợp quốc để giữ một mặt trận dài 123 dặm chạy qua vùng thắt lưng của bán đảo Triều Tiên. Để bảo vệ đường biên giới trên đất liền dài 900 dặm ở Việt Nam với mật độ tương tự sẽ đòi hỏi nhiều triệu quân, cộng với số quân đông khác để chống nổi loạn. Một con số thật là phi lý không thể nào có được? Cho nên, dù Mỹ có ném bom miền Bắc, có tăng quân hoặc làm phép gì đi nữa cũng không ngăn cản được cuộc tiến công. Tổng thống Mỹ Giôn-xơn không có cách nào cưỡng lại. Thế là ngày 31 tháng 10 năm 1968, Giôn-xơn trịnh trọng đọc bài diễn văn, tuyên bố hoàn toàn chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện và nhận họp hội nghị 4 bên ở Pa-ri.

        Như vậy, đến đây Tổng thống Mỹ Giôn-xơn mới chính thức công nhận sự thất bại của cuộc chiến tranh Việt Nam sau những năm dài cố gắng giành thắng lợi bằng sức mạnh quân sự của một siêu cường.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #155 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2016, 09:23:22 pm »


CÓ THẬT MỸ KHÔNG THUA VỀ QUÂN SỰ TRONG TẾT MẬU THÂN HAY KHÔNG?1

HỒ KHANG       

        Tết Mậu Thân cùng những hậu quả của nó, cho đến hôm nay, vẫn còn là một nghịch lý trong tâm trí của giới quân sự, chính trị và một số tác giả Mỹ. Bởi theo họ, điều trớ trêu của Tết là ở chỗ: "Cộng sản đã thua trên chiến trường nhưng lại thắng về chính trị ngay trên nước Mỹ". Không chỉ khi còn là Tư lệnh chiến trường tại miền Nam Việt Nam mà lúc đã bị triệu hồi về nước và nhiều năm sau đó, tướng W Oét-mo-len vẫn luôn khẳng định rằng, trong dịp Tết Mậu Thân, quân đội Mỹ sắp giành được thắng lợi quyết định thì lại bị các nhà dân sự trong Chính phủ Mỹ cùng các nghị sĩ Quốc hội Mỹ buộc phải bỏ cuộc. Theo ông ta, Tết là một khúc ngoặt của cuộc chiến tranh; có điều, khúc ngoặt đó lẽ ra dẫn đến thắng lợi của Mỹ và đồng minh Nam Việt Nam thì ngược lại, nó dẫn tới thất bại của Mỹ? Kỷ niệm tròn 30 năm sự kiện Tết Mậu Thân, bài viết nhỏ này mong góp phần lý giải câu hỏi: Mỹ có thua về quân sự trong Tết Mậu Thân không? Và nếu thua thì thua như thế nào ngay trên chiến trường Việt Nam thuở đó?

        Từ ngày đầu "Chiến tranh Cục bộ", mục tiêu của Mỹ là dùng lực lượng quân sự Mỹ lục quân, không quân, hải quân để tiêu diệt lực lượng vũ trang và cơ sở chính trị của cách mạng miền Nam, uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta, củng cố chế độ Sài Gòn làm cơ sở cho sự thống trị thiền Nam bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới.

        Để đạt mục tiêu chiến lược đó, Mỹ sử dụng quân Mỹ mở các cuộc hành quân "tìm diệt" chủ lực Quân giải phóng và cơ quan chỉ đạo cách mạng miền Nam, dùng quân đội Sài Gòn yểm trợ chương trình "bình định" nông thôn, dùng không quân và hải quân leo thang đánh phá miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam. Thế nhưng, trải qua hai mùa phản công chiến lược, những biện pháp trên đây không mang lại hiệu quả như Mỹ trông đợi Ngược lại, qua hơn hai năm đương đầu với quân Mỹ, lực lượng, thế trận chiến tranh nhân dân của ta ngày càng phát triển; ý chí, quyết tâm đánh Mỹ được tăng cường trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Lực lượng, thế trận, ý chí, quyết tâm đó cho phép quân dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

        Trong gần hai tháng, Tết Mậu Thân như những đợt sóng tới tấp đánh vào 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ. Tại nhiều đô thị, lực lượng vũ trang ta chiếm giữ nhiều nơi trong nhiều ngày, nhiều giờ. Hầu hết các cơ quan đầu não từ trung ương tới địa phương của Mỹ, ngụy bị tiến công. Bộ binh, pháo binh, đặc công, biệt động Quân giải phóng đã đánh mạnh, đánh trúng 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trong số 11 bộ tư lệnh sư đoàn quân Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, các tiểu khu, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự, kho tàng, sân bay, bến cảng. Nhiều tuyến giao thông thủy, bộ bị chặn cắt, nhiều cơ sở thông tin bị tiến công khiến hoạt động vận chuyển, liên lạc tại nhiều vùng do Mỹ, ngụy kiểm soát bị ngừng trệ. Như vậy đây là lần đầu tiên sau nhiều năm lao vào chiến tranh Việt Nam, toàn bộ hệ thống phòng thủ đô thị của Mỹ, ngụy bị tiến công, bị phá vỡ, hậu phương, hậu cứ chiến tranh của địch trở thành chiến trường - nơi đọ sức, đọ lực, đọ ý chí giữa hai bên trong nhiều tuần, nhiều tháng.

        Trong cuộc đọ sức đó, bằng lối đánh táo bạo và dũng mãnh, lực lượng vũ trang Quân giải phóng đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch; phá hủy, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh; làm rối loạn hậu phương, hậu cứ an toàn của chúng. Mặc dù trong cuộc đọ sức quyết liệt Tết Mậu Thân ngày đó, cả hai bên tham chiến đều bị hao tổn nặng nề về lực lượng, phương tiện chiến tranh, nhưng điều quan trọng khiến cho phía Mỹ và dư luận thế giới kinh ngạc là ở chỗ: Quân giải phóng có thể tiến công đồng loạt, rộng khắp vào hàng trăm đô thị trên toàn Miền và gây cho phía Mỹ nhiều thương vong trong khi chỉ sử dụng một bộ phận lực lượng không nhiều.

-------------------
         1. (Tạp chí LSQS số 1- 1998)
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #156 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2016, 09:23:41 pm »


        Theo nhận định của Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn lúc đó và được nhiều tác giả Mỹ sau này trích dẫn thì "Bộ chỉ huy Cộng sản đã tung vào một lực lượng ước chừng 67.000 quân trong tổng số 240.000 ở miền Nam Việt Nam... Dàn ra để chống lại họ là 1.100.000 tay súng, 492.000 quân chiến đấu Mỹ, 61.000 quân Nam Triều Tiên, Thái Lan và các nước trong "thế giới tự do" khác, 342.000 quân thường trực của Chính phủ Việt Nam cộng hoà và 284.000 quân địa phương, phòng vệ dân sự. Ngoài ra, Mỹ còn huy động 2.600 máy bay, 3.000 trực thăng và 3.500 xe thiết giáp" (Dẫn theo Đôn Ô-bơ-đô-phơ - Tết, Nxb An Giang, 1988, tr. 78) mong chống đỡ lại cuộc tiến công. Cho dù sự chênh lệch về quân số, hoả lực là hết sức lớn - nghiêng hẳn về phía Mỹ, nhưng Quân giải phóng không những đã phá vỡ tuyến phòng thủ kiên cố của địch, gây cho chúng những tổn thất nặng nề về sinh lực, phương tiện chiến tranh mà còn ghìm chân được một đội quân đông hơn một triệu tên được trang bị hiện đại vào mặt trận đô thị. Mười bảy năm sau Tết Mậu Thân, G. Côn-cô trong cuốn Giải phẫu một cuộc chiến tranh, đã xem đây là "một trong những bài học cay đắng nhất trong chiến đấu của Mỹ". Trong khi cuộc tiến công Tết đang lên tới đỉnh cao, Uy-lơ, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ đã báo về Oa-sinh-tơn ngày 17 tháng 2 năm 1968 rằng, cuộc tiến công ban đầu của đối phương đã "gần thành công" ở hàng chục địa điểm. Để tránh bị thất bại, Mỹ chỉ có thể có những biện pháp "phản ứng kịp thời". Sự "phản ứng kịp thời" đó đã buộc Mỹ phải sử dụng ồ ạt hoả lực trọng pháo, máy bay, thiết giáp để san bằng nhiều thành phố, giết hại nhiều dân thường ngay ở giữa hậu cứ, hậu phương chiến tranh của chúng. Tại Cố đô Huế, "hoả lực Mỹ đã biến 80% thành phố thành gạch vụn" (G. Côn-cô. Giải phẫu một cuộc chiến tranh, tập 1, Nxb QĐND, Hà Nội, 1980, tr. 287). Trọng pháo và máy bay Mỹ còn san bằng một nửa tỉnh lỵ Mỹ Tho - thị xã có 80.000 người dân sinh sống. Thị xã Bến Tre cũng chịu chung số phận.

        "Cần phải hủy diệt thành phố này để cứu nó". Đó là lời một sĩ quan Mỹ nói trong lúc quân Mỹ đang tàn phá thị xã Bến Tre. Lời nói điển hình đó ngay lập tức được phổ biến rộng rãi trên báo chí Mỹ và nhiều nước trên thế giới. Bởi lẽ, nó như một định đề vạch rõ sự trớ trêu đầy mâu thuẫn giữa lục đích và biện pháp của cuộc chiến tranh mà Mỹ đề ra từ ban đầu hy vọng sẽ chinh phục được "khối óc và trái tim" của người dân miền Nam; hy vọng có thể làm cho ai nấy tin rằng sự có mặt của quân Mỹ vì là sự phồn vinh và nền "độc lập" của một miền Nam không Cộng sản? Như vậy, dù cho sau đó với quan điểm thuần tuý quân sự "kiểu Mỹ" và phương Tây, Mỹ có đẩy được Quân giải phóng ra khỏi đô thị và xem đấy đích thị là một thắng lợi của mình đi chăng nữa thì Tết Mậu Thân và hành động thực tế của quân Mỹ, về thực chất, vẫn là một thất bại nặng nề của Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam.

        Trong khi đó, tại nông thôn đồng bằng và rừng núi, đòn Tổng tiến công đã làm cho bộ máy kìm kẹp của chế độ Sài Gòn và hơn 50.000 "cán bộ bình định" thuộc 555 đội chẳng được ai ngó ngàng tới, làm mục rã một trong những "gọng kìm" của Mỹ. Bởi vì, một khi phần lớn lực lượng đích bị ghìm chặt vào mặt trận đô thị thì ngay lập tức lực lượng vũ trang tại chỗ của ta đã hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm, giải tán dân vệ, giành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng, giáng đòn nặng vào hệ thống chính quyền cơ sở địch ở nông thôn.

        Tình hình trên đây đã được chính Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ thú nhận trong báo cáo gửi Giôn-xơn ngày 17 tháng 2 năm 1968 rằng: "Trên một số phạm vi rộng lớn, Việt cộng đã nắm quyền kiểm soát nông thôn". Chương trình "bình định" mà lúc đó Mỹ gọi là "chương trình phát triển cách mạng" đã bị "thụt lùi nghiêm trọng" (Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ. tập Z, Thông tấn xã Việt Nam dịch, Hà Nội. 1971, tr. 263, 249). Vào thời gian này, tại Oa-sinh-tơn, Văn phòng Hệ thống phân tích tình hình Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ đưa ra nhận xét: "Cuộc tiến công Tết hình như đã vĩnh viễn giết chết chương trình bình định" (Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ. tập Z, Thông tấn xã Việt Nam dịch, Hà Nội. 1971, tr. 263, 249). Sau này, một số tác giả Mỹ trong các công trình nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam cũng gặp nhau ở nhận định về thất bại này của Mỹ. Ấy là khi họ đều nhận xét rằng, thật khó mà minh họa được tình hình kiểm soát của mỗi bên ở nông thôn. Theo G. Côn-cô, chính vào dịp Tết Mậu Thân, ở cả Oa-sinh-tơn lẫn Sài Gòn, giới lãnh đạo chỉ huy Mỹ đều đã phải thừa nhận rằng: "Mặc dù Mặt trận dân tộc giải phóng không thành công ở các đô thị, nhưng họ đã thu được những thành tựu ở nông thôn" (Dẫn theo G. Côn cô, Gái phẫu một cuộc chiến tranh, Sđd, tr. 289 và 303). Lời thú nhận này từ phía Mỹ, ngụy ở thời điểm Tết Mậu Thân trên đây đã chứng minh rõ ràng rằng: Tết Mậu Thân không chỉ đưa chiến tranh vào tận dinh luỹ của Mỹ, ngụy mà còn là đòn nặng giáng vào chương trình "bình định" trên phạm vi toàn Miền.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #157 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2016, 09:25:27 pm »


        Tình hình đó làm cho nhiều người Mỹ làm việc trong chương trình "bình định" hoang mang, kinh hãi. Họ không lý giải nối tại sao "Việt cộng đã vào được tất cả các thành thị để tiến công mà không có một người Việt Nam nào báo cho Chính phủ Nam Việt Nam biết" (Dẫn theo Trần Văn Giàu. Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 5, Nxb KHXH, Hà Nội, 1970, tr. 55) "tình hình đó rõ ràng đã là mối đe doạ trực tiếp tới sự tồn tại của chính quyền Sài Gòn - một cơ cấu chính trị mà Mỹ từ lâu dày công xây dựng và dựa vào để tiến hành chiến tranh xâm lược kiểu thực dân mới. Vì thế, cuối tháng 2 năm 1968, ủy ban Clác Clíp-phớt được thành lập theo chỉ định của Giôn-xơn nhằm cứu xét yêu cầu xin được tăng quân của tướng Oét-mo-len để ứng phó với Tết Mậu Thân - đã nhận thấy rằng: "Sự đáp ứng chính trị không có hiệu quả của Chính phủ Việt Nam cộng hoà có thể còn giúp cho Việt cộng cải thiện sự nghiệp của họ trong các đô thị cũng như ở nông thôn" (Dẫn theo G. Côn cô, Gái phẫu một cuộc chiến tranh, Sđd, tr. 289 và 303). "Sự đáp ứng" chính trị mà Mỹ nói ở đây không ngoài điều gì khác mà chính là Mỹ đã giật dây cho Thiệu - Kỳ - Hương bắt giam các nhân vật đối lập, thanh lọc các cơ quan hành chính, ban hành lệnh tổng động viên để bắt lính đôn quân, đẩy việc "tổ chức phòng vệ dân sự" lên thành "quốc sách", cấm tụ họp quá ba người, cấm dân chúng ra vào thành phố, phát "thư tố cáo cho mọi gia đình"...

        Song, hậu quả của những "đáp ứng" chính trị đó, trên thực tế, mang lại những kết quả trái với mong muốn ban đầu của Mỹ: nó càng làm tăng thêm sự thù địch của nhân dân, thu hẹp hơn cơ sở xã hội của chế độ Sài Gòn và làm suy yếu thêm lực lượng ngụy quân - một lực lượng vốn đã bại trận trước khi Mỹ buộc phải đổ quân vào miền Nam và ngày càng thêm phụ thuộc vào sự có mặt của quân đội Mỹ và ngay cả trong nhiệm vụ "bình định" nông thôn, nó cũng đã tỏ ra thụ động, bất lực. Vì thế, vào lúc Tết Mậu Thân nổ ra, tỷ lệ đào ngũ trong quân ngụy lên tới đỉnh cao hơn bao giờ hết; các tiểu đoàn chiến đấu của nó, trong hai tuần đầu của Tết, chỉ còn một nửa số quân. Sau Tết, tình trạng đó tiếp tục gia tăng. Cũng từ đây, hiện tượng phản chiến ngày càng trở nên phổ biến, không chỉ trong hàng ngũ binh lính mà cả trong hàng ngũ sĩ quan, không chỉ có ở quân đội Sài Gòn mà ở cả quân đội Mỹ - một đội quân mà từ sau tuyên bố ngày 31 tháng 1 năm 1968 của vị Tổng thống - Tổng tư lệnh Giôn-xơn, đã bước vào thời kỳ thoái chí.

        Như thế, Tết đã phơi bày toàn bộ những yếu kém, thụ động và bất lực của chính quyền cũng như của quân đội Sài Gòn. Không ai ở Sài Gòn và ở Oa-sinh-tơn có thể tin chắc rằng, mai này quân Mỹ rút, chế độ Sài Gòn lại có thể tự tồn tại được Đó là lý do vì sao dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã bước vào Tết Mậu Thân với một niềm tin cháy bỏng, với một quyết tâm to lớn đến nhường ấy. Bởi đây là đòn tiến công đồng loạt bất ngờ, mãnh liệt, trên quy mô toàn Miền, nhằm vào chỗ yếu kém nhất của Mỹ ở miền Nam và chính quyền Sài Gòn để làm nản lòng giới lãnh đạo Oa-sinh-tơn đặng đè bẹp ý chí xâm lược của Mỹ. Đè bẹp ý chí xâm lược của Mỹ là mục tiêu quán xuyến của chúng ta. Ngay từ trong ý đồ ban đầu khi hoạch định Tết Mậu Thân, cơ quan chỉ đạo chiến lược Việt Nam không hề ảo tưởng thắng Mỹ trên thế mạnh đơn thuần về quân sự bằng cách tiêu diệt chiến lược hoặc đánh bật gần 50 vạn quân chiến đấu Mỹ khỏi Việt Nam mà đã chủ trương đánh vào ý chí của Mỹ bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh cách mạng miền Nam, bằng việc kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao...

        Để phát huy cao độ sức mạnh đó, trong Tết Mậu Thân, Đảng ta chủ trương, một mặt, đánh mạnh đồng loạt vào cơ quan đầu não của Mỹ, ngụy bằng lực lượng tại chỗ để gây cú sức mạnh, tác động nhanh tới ý chí xâm lược của Mỹ, mặt khác, rất chú trọng tới lực lượng nổi dậy đồng loạt của quần chúng ở nông thôn và đô thị.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #158 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2016, 09:25:43 pm »


        Việc mở hướng tiến công vào đô thị trên quy mô toàn Miền đã buộc toàn bộ lực lượng Mỹ đang từ thế phản công "tìm diệt" đối phương phải dồn về mặt trận đô thị, lâm vào thế bị động chống đỡ. Quân Mỹ đã như vậy, nên quân ngụy Sài Gòn cũng co cụm quanh các thành phố, thị xã và thị trấn; khiến cho Uy-lơ, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ phải thúc ép chính phủ Sài Gòn đưa quân đội đánh thốc ra vùng ven và vòng ngoài để mong giải toả áp lực cho Sài Gòn và các đô thị khác đang bị đối phương vây hãm. Thế nhưng, quân đội Việt Nam cộng hoà - theo chính lời họ nói, đang ở trong tình thế khó xừ, bởi họ không thể nào đối phó được với bất kỳ cuộc tiến công nào của "địch" vào các thành phố. Trong tình huống như thế, bộ chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải dốc hết lực lượng hiện có trong tay để giải quyết vấn đề hòng làm giảm áp lực của đối phương xung quanh các đô thị. Cùng khi đó, Mỹ lại phải huy động 50% quân số ra mặt trận phía Bắc để ứng phó với mọi nguy cơ có thể xảy ra ở đây. Và việc này lại đặt Mỹ trước một tình thế khó khăn mới nảy sinh là lực lượng dự bị của Mỹ trên chiến trường đã bị tước đi quá mỏng. Điều đó sẽ rất nguy hiểm nếu Khe Sanh, Huế, Quảng Trị, Tây Nguyên, Sài Gòn... lại bị đồng loạt tiến công. Vì những lẽ đó, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ phải xin tăng gấp 206.000 quân Mỹ sang miền Nam Việt Nam. Đề nghị đó, thêm một lần nữa, lại đã làm bàng hoàng nước Mỹ. Một số thành viên trong Chính phủ Mỹ khi đó đã thẳng thừng nói rằng: ông Oét-mo-len không được sợ thua nếu yêu cầu tăng viện của ông ta không được Oa-sinh-tơn chấp thuận. Sau nhiều ngày họp bàn, thảo luận, đến giữa tháng 3 năm 1968, đề nghị tăng quân đó đã bị bác bỏ. Điều đó có nghĩa là Mỹ không còn ý chí để theo đuổi chiến lược “tìm và diệt" như trước đây. Chính vì vậy mà từ sau Tết Mậu Thân, quân chiến đấu Mỹ trên chiến trường chuyển sang làm nhiệm vụ chiếm đóng, phòng thủ, thực hiện chiến lược quân sự "quét và giữ".

        Thế là, sau 3 năm không sao "tìm diệt" được chủ lực đối phương, quân Mỹ phải quay sang làm nhiệm vụ "lính giữ nhà" của quân ngụy trước kia để tránh bị thương vong cao, đẩy dần quân ngụy ra trận trực tiếp đương đầu với chủ lực Quân giải phóng, khởi đầu một quá trình đi xuống về mặt chiến lược của Mỹ và quá trình đó là không thể đảo ngược được.

        Như vậy, với Tết Mậu Thân, quân và dân ta trên chiến trường miền Nam đã giành được những kết quả to lớn: tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch; phá hủy, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh; phá rã chính quyền địch ở nhiều vùng nông thôn; phá vỡ hệ thống phòng thủ đô thị kiên cố của Mỹ, ngụy trên quy mô toàn Miền; làm đảo lộn thế bố trì chiến lược của chúng ở miền Nam; làm lộ rõ những mâu thuẫn mà Mỹ, ngụy đã không sao khắc phục được trung đường lối và cách thức điều hành chiến tranh; phơi bày toàn bộ sự thất bại về quân sự, chính trị của Mỹ suốt những năm "Chiến tranh Cục bộ". Không phải đợi đến sau này mà ngay trong Tết Mậu Thân, Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA) cũng buộc phải thừa nhận rằng: "Những người Cộng sản đã đạt được các mục tiêu quân sự, chính trị và tâm lý lớn. Họ đã kiểm soát được nhiều vùng nông thôn rộng lớn, đập tan hệ thống chính trị, kinh tế và quân sự Việt Nam cộng hoà". Thành công đó của Tết Mậu Thân đã là căn nguyên, là động lực chính tạo nên sức chấn động dừ dội, làm lung lay nền móng sâu xa của đời sống chính trị, quân sự, kinh tế - xã hội Mỹ; buộc giới cầm quyền Mỹ dù không muốn nhưng vẫn phải công khai tuyên bố đơn phương "xuống thang", thay đổi chiến lược rút dần quân Mỹ ra khỏi cuộc chiến tranh trên bộ ở miền Nam sau 3 năm lao sâu vào và chưa một mục tiêu nào của cuộc chiến tranh này được thực hiện. Đó là sự thất bại to lớn của Mỹ. Đó cũng là lý do tại sao ngót 30 năm qua, Tết vẫn còn là một ám ảnh khôn nguôi trong ký ức của giới quân sự chính trị nước Mỹ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #159 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2016, 09:31:49 pm »


MỘT SỐ ĐIỂM CHƯA CHÍNH XÁC KHI VIẾT VỀ BIỆT ĐỘNG1

HỒ SĨ THÀNH       

        Lực lượng biệt động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược đã lập được những chiến công xuất sắc, thần kỳ. Với lòng quả cảm và nghệ thuật chiến đấu mang tính đặc thù, mưu trí, sáng tạo, biến hoá, lực lượng biệt động đã giáng cho kẻ thù những đòn sấm sét kinh hoàng ngay tại sào huyệt của chúng ở Sài Gòn, trung tâm đầu não bộ máy chiến tranh của Mỹ, ngụy. Có thể nói, con người và chiến công của biệt động đã trở nên bất tử - như những biểu tượng rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

        Trong thời gian qua, kể từ sau ngày giải phóng miền Nam, rất nhiều tài liệu, sách báo, phim ảnh đã đề cập đến đề tài biệt động dưới nhiều dạng thức, thể loại khác nhau, góp phần vào việc giáo dục truyền thống yêu nước và giúp chúng ta hiểu thêm về lực lượng đặc biệt này.

        Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, khi đề cập đến lực lượng này đã có khá nhiều sai sót về sử liệu thậm chí thêu dệt sự kiện, có bài báo còn cường điệu đến mức phi lý. Hơn thế, có nhân chứng là người từng giữ vai trò quan trọng trong lực lượng biệt động lại phản bác những vấn đề đã được tổng kết đánh giá thống nhất bằng văn bản.

        Trong bài viết này, chúng tôi xin nêu những điểm chưa chính xác trong một số bài báo và tài liệu gần đây.

        Trong bài "Nhân chứng sống kể chuyện trận đánh Sứ quán Mỹ, Tết Mậu Thân", đăng trên Đặc san Sự kiện và nhân chứng, số tháng 4 năm 2002, tác giả Mỹ Thư ghi theo lời kể của ông Trần Sĩ Hùng, người lái xe cho Đội 11 biệt động đánh Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968. Tác giả viết: "ta đồng loạt đánh vào các mục tiêu Bộ Tổng tham mưu, Tổng Nha cảnh sát, Đài phát thanh, Dinh Độc Lập, quân cảng hải quân ngụy... nhưng đều không đánh được như kế hoạch vạch ra, chỉ có đánh vào Sứ quán Mỹ là đúng ý định". Theo tôi, nhận định trên có mấy điểm chưa đúng. Trong 5 mục tiêu trọng yếu của địch tại Sài Gòn bị lực lượng biệt động tiến công đêm mồng một Tết Mậu Thân, không có Tổng nha cảnh sát và quân cảng hải quân ngụy; trong khi đó trận đánh vào Bộ Tổng tham mưu ngụy rất ác liệt, lại không thấy đề cập? Về vấn đề này, lịch sử biệt động đã xác nhận: trong 9 mục tiêu đầu não dự kiến tiến công, biệt động đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh vào 5 mục tiêu: Dinh Độc Lập, Đài phát thanh Sài Gòn, Bộ tư lệnh hải quân ngụy, Sứ quán Mỹ và Bộ Tổng tham mưu ngụy. Do đụng địch dọc đường và xuất phát chậm nên một số đội biệt động khác không đánh được các mục tiêu: Tổng nha cảnh sát, Biệt khu Thủ đô, Khám Chí Hoà, trại Phi Long (cổng sân bay Tân Sơn Nhất). Ở đây, có lẽ nhân chứng nói nhầm mục tiêu Bộ tư lệnh hải quân ngụy ra quân cảng hải quân (?). Tất cả 5 mục tiêu trên, các đội biệt động đều chiếm được ở mức độ khác nhau và giữ vượt thời gian quy định của trên.

        Còn về nhân chứng quan trọng cuối cùng của trận đánh Đại sứ quán Mỹ, như mọi người đã biết, đó là đồng chí Ba Đen (Ngô Thành Vân), người trực tiếp chỉ huy 16 chiến sĩ chiến đấu suốt 6 giờ trong toà Đại sứ Mỹ. Đồng chí Tư Hùng (Trần Sĩ Hùng) là người được tổ chức phân công lái xe đưa Đội 11 đến mục tiêu rồi quay về, chứ không trực tiếp tham gia trận đánh. Trong trận đánh này, đồng chí Ba Đen là người còn lại sau cùng, sau khi anh em đã hy sinh hết. Đồng chí bị thương, ngất đi và bị địch bắt; sau Hiệp định Pa-ri, được trao trả. Sau này, đồng chí bị tai nạn giao thông và đã qua đời. Do đó, ngoài đồng chí Ba Đen ra, không ai có thể kể diễn biến trận đánh Đại sứ quán Mỹ chính xác hơn.

-------------------

        1. (Tạp Chí LSQS Số 2-20003)
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM