Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:05:03 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy  (Đọc 31589 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #60 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2016, 10:13:44 pm »


Ngày 14 tháng 3 năm 1889, do sự trung gian của một cố đạo Tây Ban Nha ở Bắc Ninh, Đội Văn và 273 nghĩa quân của ông đã mang theo 113 súng trường, 16 súng lục và một số gươm giáo ra hàng Pháp. Địch rất mừng và cho rằng đã bình định xong phong trào Bãi Sậy ở tỉnh Bắc Ninh vì cuộc khởi nghĩa Đội Văn là một cuộc khởi nghĩa lớn nhất ở tỉnh này. Hơn nữa, chúng còn dự đoán là Nguyễn Thiện Thuật sẽ theo gương Đội Văn ra hàng. Vì thế, địch càng hết sức mua chuộc Đội Văn hòng biến ông thành tay sai đắc lực của chúng trong việc đàn áp phong trào Bãi Sậy như chúng đã từng lôi kéo được các đề đốc Nguyễn Văn Quan, Phạm Văn Khoát, v.v... trước đây. Nhưng địch đã lầm to. Vốn là một thủ lĩnh có tài trí, mưu lược hơn ngươi nên Đội Văn chỉ tạm thời trá hàng Pháp nhằm mục đích để học tập phương pháp tổ chức quân đội và chiến thuật của Pháp đặng đánh thắng địch, rồi khi có điều kiện thuận lợi, Văn sẽ sẵn sàng quay lại đánh Pháp ngay, vả lại ông vẫn thề "không chịu sống đội trời chung với bọn quỷ Tây dương"1.

Sau 6 tháng tạm thời trá hàng địch, ngày 17 tháng 9 năm 1889, lợi dụng lúc chúng sơ hở, Đội Văn cùng với 200 nghĩa quân đã mang theo 40 súng chạy lên vùng Yên Thế gia nhập nghĩa quân Đề Nắm (Lương Văn Nắm) để đánh Pháp. Cùng lúc ấy, các ông Lãnh Giám, Lãnh Giới, Xuất Ly, Lãnh Thiết và Lãnh Bôi cũng chạy lên Yên Thế hợp tác với Đội Văn. Lực lượng nghĩa quân của Văn, Giám Giới, v.v... lên đến 400 người.

Lúc này Đội Văn lại hoạt động mạnh trong một vùng rộng lớn giữa Phủ Lạng Thương, Bắc Ninh và Tỉnh Đạo. Địch phải thừa nhận rằng: "Cách đây 2 tháng (chỉ thời gian trước khi Đội Văn trở lại đánh Pháp) người ta có thể ung dung đi lại trên con đường Hà Nội - Lạng Sơn, nhưng ngày nay thì người ta đã phải "vũ trang đến tận răng" thế mà cũng phải là người táo bạo lắm mới chỉ dám đi từ Đáp Cầu đến Phủ Lạng Thương".

Trong tháng 9 và tháng 10, nghĩa quân Đội Văn đã giao chiến với địch ở chùa Lang Tài, huyện Yên Dũng, v.v...

Ngày 18 tháng 9, trong khi trung úy Meyer và 51 lính đang đóng ở chùa Lang Lai bên hữu ngạn sông Thương thì hồi 1 giờ 30 chiều, 400 nghĩa quân Đội Văn mặc giả làm lính khố đỏ đã tiến đến cách chùa 100 mét, nổ súng bắn vào bọn địch ở trong chùa. Sau đó nghĩa quân lại chiếm hai cao điểm gần đấy để tiếp tục bắn vào chùa trong khoảng 2 giờ nữa, buộc địch phải cố thủ ở đây. Rồi nghĩa quân chia thành ba nhóm tiến về phía chùa và lợi dụng những mô đất ruộng để tránh hỏa lực của địch. Cuộc chiến đấu kéo dài đến nửa đêm, viên đội Gaudin phải mở một đường máu thoát ra ngoài. Sáng hôm sau thì Meyer cũng đem tàn quân về Phủ Lạng Thương2.

Tiếp theo đó, ngày 22 và 23 tháng 10, trên đường đi về huyện Yên Dũng (Bắc Giang), 100 nghĩa quân Đội Văn lại đánh nhau với địch ở đây. Thấy địch không ngừng truy kích khắp nơi, Đội Văn vội phái 14 thủ lĩnh dưới quyền ông trở về đồng bằng để xây dựng lại lực lượng nghĩa quân làm cơ sở phát động một phong trào khởi nghĩa mới. Nhưng đáng tiếc, họ đều bị địch bắt, còn Đội Văn cũng bị trọng thương trong chiến đấu và lại bị ốm nặng ở Hữu Thượng (huyện Yên Thế, Bắc Giang). Lực lượng nghĩa quân thì ngày một suy yếu, nhiều người đã ra hàng. Trước tình hình đó, Đội Văn định rút về đồng bằng chờ đợi thời cơ khác.
___________________________________
1. Theo bản dịch chữ Pháp bức thư của Đội Văn gửi nhân dân huyện Yên Dũng (Bắc Giang).
2. Theo Chabrol: Opérations militaires au Tonkin (xuất bản ở Paris, năm 1896) và Quence: Les provinces du Tonkin: "Bắc Giang” (Revue Indochinoise, tome I no8-1994).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #61 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2016, 10:16:18 pm »


Để ngăn cản nghĩa quân Đội Văn, tháng 10 năm 1889, Hoàng Cao Khải bèn chia lực lượng "đạo quân bình định" thành 2 cánh quân: một cánh do giám binh Chiappini chỉ huy hợp lực với quân của Piequet - Dumont gồm có 650 người và 100 ngựa; cánh thứ hai do giám binh Vincillionni chỉ huy; truy kích khắp vùng thượng, hạ Yên Thế và Bắc Ninh. Đến lúc thế cùng sức kiệt, ngày 31 tháng 10 năm 1889, Đội Văn bị bắt ở Bắc Ninh và bảy ngày sau, hồi 5 giờ chiểu ngày 7 tháng 11 năm 1889 ông bị địch xử chém trên một bãi đất trống ở Hà Nội (nay là vườn hoa Chí Linh)1.

Đội Văn đã chết với một thái độ hết sức dũng cảm: Ông hiên ngang mỉm cười trước lưỡi đao kẻ thù2.

Thế là sau hàng loạt trận đánh kể trên giữa ta và địch trong năm 1889, lực lượng nghĩa quân Bãi Sậy bắt đầu bị suy giảm, một số thủ lĩnh nghĩa quân bị bắt hoặc ra hàng, vũ khí cũng bị tịch thu.

Nhìn chung lại, trong 5 năm khởi nghĩa, nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật đã xây dựng được một địa bàn hoạt động khá rộng lớn ở hầu khắp ba tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ và có một ảnh hưởng chính trị trong quần chúng nhân dân, khiến thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn rất lo sợ.

Nghĩa quân lại chủ động đánh địch ở khắp nơi, trong các làng xóm, đồn bốt, các phủ huyện, tỉnh lỵ, trên các con đường giao thông chính, các đường đi tuần tiễu của địch. Có thể nói, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật trực tiếp lãnh đạo (1885-1889) là đỉnh cao nhất trong cả ba giai đoạn của cuộc khởi nghĩa ấy. Nếu xét về quy mô khởi nghĩa, địa bàn hoạt động và lực lượng nghĩa quân thì nó cũng trở thành một cuộc khởi nghĩa lớn nhất ở đồng bằng Bắc Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XIX.

Mặc dù đến cuối năm 1889, cuộc khởi nghĩa có tạm thời thoái trào, nhưng quần chúng vẫn không chịu khuất phục địch, một lòng hướng theo ngọn cờ Cần Vương của nghĩa quân Bãi Sậy, tiếp tục đứng lên chống Pháp. Mặt khác, thì các thủ lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy như Hai Kế, Đốc Cập, Đề Tính, Lãnh Điển, Đề Ban, v.v... còn duy trì được một phần lực lượng đáng kể của họ và vẫn hoạt động đánh địch. Nhờ đó, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy lại chuyển sang được giai đoạn thứ ba.
_____________________________________
1. Căn cứ theo tài liệu của Pháp thì trong phong trào Bãi Sậy ở Bắc Ninh có hai thủ lĩnh nghĩa quân là Tuần Văn (hoặc Tuần Vân) và Đội Văn (hoặc Đội Vang). Sau khi Tuần Văn chết, nghĩa quân ông bị tan rã, nhưng có một bộ phận đã gia nhập nghĩa quân Đội Văn, tiếp tục kháng Pháp. Đội Văn tên thật là Vương Văn Vang, trong các bản thông cáo của ông gửi nhân dân huyện Yên Dũng (Bắc Giang) và tháng 10-1889, ông cũng thường tự xưng là Đề đốc họ Vương. Chức Đề đốc của ông là do Tán Thuật phong.
    Lực lượng nghĩa quân Văn có tới 300 người được vũ trang bằng 150 súng mà phần lớn là loại súng trường kiểu năm 1874 của địch. Nghĩa quân đều là những người rất khỏe mạnh, can đảm và có kỷ luật. Đội Văn đã khởi nghĩa chống Pháp từ năm 1887 trên một địa bàn bao gồm 6 phủ huyện Tiên Du, Quế Hương, Gia Bình, Lang Tài, phủ Thuận Thành và Siêu Loại, có 275 làng. Trong một bài vè sưu tầm được ở huyện Văn Giang (Hưng Yên) (trước kia Văn Giang thuộc tỉnh Bắc Ninh) cũng có một đoạn nói đến tên hai ông "Tuần" Vân và Vang; có lẽ ám chỉ vào Tuần Vân và Đội Văn.
    "Trên trời có hai sao dài,
    Ở dưới hạ giới có hai ông "Tuần".
    Vân, Vang lừng lẫy xa gần,
    Đánh Tây để cứu thần dân khỏi hàn".

2. Theo Albert de Pouvourville: Chasseur de pirates (Les livres de la Brousse) (xuất bản ở Paris, năm 1928).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #62 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2016, 10:17:09 pm »


Câu hỏi 23: Cho biết những bước đầu của quá trình chiến đấu ở giai đoạn thứ ba (1890-1892), Nguyễn Thiện Kế đã xây dựng phong trào, tập hợp nghĩa quân như thế nào trước sự thi hành ráo riết những biện pháp đàn áp, khủng bố dã man của địch?
Trả lời:


Trong giai đoạn cuối cùng này, trừ những thủ lĩnh nghĩa quân đã bị bắt, ra hàng hoặc tử trận; số còn lại đều tập trung lực lượng xung quanh người lãnh tụ mới là Nguyễn Thiện Kế.

Theo De Miribel, lúc ấy ở Hưng Yên chỉ còn lại bảy thủ lĩnh chính là các ông Đốc Sung (làng Dịch Trì, huyện Yên Mỹ), Đề Ban (làng Bối Khê, huyện Ân Thi), Đề Tính (làng An Vỹ, huyện Khoái Châu), Đốc Cập (làng An Xá, huyện Kim Động), Lãnh Điển (làng Phù Sa, huyện Khoái Châu), Tuần Vân (làng Như Quỳnh, huyện Văn Lâm) và Đề Mỹ (làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang) với hơn 600 khẩu súng.

Nhưng thực ra lực lượng nghĩa quân còn lớn hơn nhiều và cũng chỉ cần căn cứ theo tài liệu Pháp, chúng ta sẽ thấy Đốc Sung có từ 200 đến 300 nghĩa quân với hàng trăm súng, hoặc trong trận Quang Xá, Chaigneau phải đánh nhau với nghĩa quân Đề Ban có 150 súng, trong trận Đồng Ngư, hàng 500 lính đã được huy động để đánh Đốc Sung và Lãnh Mỹ, ở đồn Kẻ Sặt, có tới 300 nghĩa quân kéo đến tấn công, v.v... Một vài sự kiện trên cũng gián tiếp cho chúng ta thấy quần chúng nông dân vẫn một lòng một dạ tin theo, ủng hộ, tham gia cuộc khởi nghĩa. Nhờ thế, lực lượng nghĩa quân mới đông đảo như vậy.

Theo các báo cáo chính trị của thông sứ Bắc Kỳ gửi toàn quyền Đông Dương thì lực lượng nghĩa quân Bãi Sậy vẫn được tổ chức, trang bị vũ khí tốt và ngày càng lớn mạnh.

Cũng như giai đoạn khởi nghĩa trước, nghĩa quân vẫn chia thành những toán nhỏ và lấy Bãi Sậy làm căn cứ địa chính để tỏa ra hoạt động đánh địch ở khắp tỉnh Hưng Yên và trong một số phủ huyện ở Bắc Ninh và Hải Dương. Đến đầu năm 1891, nghĩa quân còn tấn công cả Hà Nội.

Các con đường giao thông chính như Hà Nội - Hải Dương - Hải Phòng và Hà Nội - Hưng Yên - Thái Bình đều bị uy hiếp. Nghĩa quân cũng luôn tấn công các đồn bốt và phục kích các toán quân địch đi tuần tiễu.

Để kịp thời đối phó với phong trào, ngay từ tháng 2 năm 1890, Pháp lại vội vàng thành lập đạo Bãi Sậy bao gồm các phủ huyện Mỹ Hào, Văn Lâm và Yên Mỹ với trung tâm của đạo là Bần Yên Nhân, nhằm đặt cả vùng này dưới chế độ quân sự để có thể đàn áp nghĩa quân Bãi Sậy có kết quả hơn.

Đạo do Muselier phụ trách và dưới quyền hắn có hai "chánh phó quản đạo", về quân sự, đạo có 380 tên lính và 8 viên quản, tất cả do một giám binh chỉ huy. Nhưng chưa đủ, Muselier còn thành lập thêm những đồn bốt nhỏ ở những vùng giáp giới của ba tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Hưng Yên nữa; mỗi đồn có 50 lính đóng giữ. Hắn cũng tổ chức những đội quân cơ động tuần tiễu trong vùng. Còn bọn quan phủ huyện thì được quyền chỉ huy những đội lính cơ giúp Pháp đàn áp nghĩa quân, khủng bố nhân dân. Đặc biệt là "đạo quân bình định" vừa mới được giải tán cách đấy không lâu, thì nay Pháp lại phải tổ chức một đạo quân mới tên là "đạo quân trị an" gồm có 1.000 lính khố xanh và 500 lính cơ do Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải và Muselier chỉ huy để tiêu diệt phong trào. Ngoài ra đi theo "giúp việc" cho Khải còn có một số viên quan lại Việt và một "tòa án quân sự thường trực" để xét xử những "vụ án phiến loạn".

Nhưng mặc dù địch đã thi hành ráo riết những biện pháp đàn áp, khủng bố dã man nói trên, trong ba năm 1890-1892, phong trào Bãi Sậy vẫn tồn tại và nhất là trong hai năm đầu, có nhiều trận đánh đã xảy ra.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #63 vào lúc: 17 Tháng Mười Hai, 2016, 08:41:44 am »


Câu hỏi 24: Cho biết quá trình chiến đấu diễn ra trong năm 1890 - năm đầu tiên của giai đoạn thứ ba cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Thiện Kế lãnh đạo?
Trả lời:


Vào tháng 1, đồn Kẻ Sặt (Hải Dương) do giám binh Bellissen, phó quản Tích và 60 lính đóng giữ bị nghĩa quân tấn công.

Đêm hôm ấy, nghĩa quân cải trang làm lính địch do một "sĩ quan Pháp” chỉ huy kéo đến đồn. Tên gác cổng ngăn lại, lập tức hắn bị bắn gãy tay, rồi nghĩa quân xông luôn vào đồn, giao chiến. Sau đó, ta và địch tạm ngừng đánh, nghĩa quân rút ra khỏi đồn. Nhưng chỉ hai giờ sau, 300 nghĩa quân lại tấn công vào đồn lần thứ hai. Cho đến 4 giờ sáng, nghĩa quân mới rút.

Sang tháng 2, có một trận lớn ở Đồng Ngư. Ngày 20 tháng 2, khi được tin Đốc Sung và Lãnh Mỹ đang đóng ở làng Đồng Ngư (phủ Thuận Thành, Bắc Ninh), địch vội huy động lực lượng ở các đồn xung quanh mang theo hơn 140 khẩu súng đến bao vây nghĩa quân. Nhưng chúng bị thất bại; hai viên quản Pháp là Leglée bị chết và Aubert thì trọng thương. Sau đó chúng phải tăng viện thêm 500 quân nữa tới Đồng Ngư, nhưng Sung và Mỹ đã rút đi nơi khác1.

Đến ngày 17 tháng 3 địch lại bao vây nghĩa quân Đốc Sung ở một làng thuộc phía nam tỉnh Bắc Ninh và trong trận này Sung bị viên trưởng đồn Miliner giết chết2.

Tiếp theo đó, trong tháng 5 có hai trận như sau: Vào ngày 24 tháng 5, 300 nghĩa quân Đề Ban có 150 súng đã giao chiến với một toán quân Chaigneau ở làng Quang Xá (huyện Phù Cừ, Hưng Yên). Nghĩa quân đều mặc quân phục của lính khố đỏ và lính khố xanh3.

Rồi ngày 27 tháng 5, nghĩa quân ở Hà Nội xuống phối hợp với nghĩa quân Lãnh Điển đã phục kích quân của Aubert ở hai làng Phù Sa và Ninh Võ (huyện Khoái Châu, Hưng Yên), Aubert phải bỏ chạy, để lại 1 tên chết, 2 tên bị thương nặng và 1 tên bị bắt sống.

Đến ngày 2 tháng 9, một lần nữa nghĩa quân ở Hải Dương và nghĩa quân Lãnh Điển lại phối hợp với nhau định tấn công tỉnh lỵ Hải Dương. Nhưng tên công sứ Pháp biết tin trước đã sai Chaigneau mang 70 lính đi đánh nghĩa quân. Hai bên gặp nhau và giao chiến quyết liệt từ 3 giờ đến 6 giờ chiều ở làng Yên Lưu (huyện Kinh Môn, Hải Dương). Địch có 2 tên chết và 2 tên bị thương.
______________________________________
1. Theo "Lịch sử tám mươi năm chống Pháp”, quyển I.
2. Ông tên thật là Nguyễn Văn Sung hoặc Nguyễn Đức Sung, sinh trưởng trong một gia đình nghèo ở làng Dịch Trì (huyện Yên Mỹ, Hưng Yên). Ông tham gia phong trào Bãi Sậy và được phong chức Đề đốc nên nhân dân vẫn gọi ông là Đốc Sung hoặc Đề Sung. Theo tài liệu của Pháp và tài liệu dân gian ở Hưng Yên thì Đốc Sung là một trong những tỳ tướng giỏi của Tuần Văn, một thủ lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy hoạt động ở Bắc Ninh. Sau Sung đem nghĩa quân về đánh Pháp ở Hưng Yên (Yên Mỹ, Mỹ Hào, Khoái Châu) và ở một số phủ huyện thuộc tỉnh Hải Dương (Bình Giang, Cẩm Giàng). Sau khi Đốc Tích ra hàng (12-8-1889), ông vẫn còn 200, 300 nghĩa quân với hàng trăm súng và tiếp tục chống Pháp ở một số huyện giáp giới giữa ba tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Hưng Yên. Ông bị địch giết trong một trận bao vây và khi khám trong người ông, chúng còn tìm thấy đồng kim tiền của triều đình mà Tôn Thất Thuyết thường giao cho các lãnh tụ nghĩa quân ở Bắc Kỳ. Địch chém đầu ông gửi lên Hà Nội để xác minh và sau đó mang về bêu ở Bần Yên Nhân (Hưng Yên).
    Theo lời thuật lại của các phụ lão và gia đình Đốc Sung ở làng Dịch Trì (quê hương Sung) thì trong một cuộc bao vây làng này vào một buổi sáng sớm có sương mù, do tên phản bội Lãnh Vắn - một thủ lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy, sau trận tấn công của địch ở Mễ Đao (phủ Thuận Thành, Bắc Ninh) (ngày 23-4-1889) đã ra hàng và quay lại chống phong trào - chỉ điểm, Đốc Sung bị địch bắn bị thương. Biết không thể sống được và cũng không muốn lọt vào tay Pháp, Sung dùng súng lục tự sát. Sau địch tìm thấy xác ông đem chém, bêu đầu ở Bần Yên Nhân. Nay gia đình giỗ Sung vào ngày 27-2 âm lịch (tức là ngày 17-3-1890).

3. Theo các sách Hưng Yên địa chí, La Garde indigne de sa création à nos jours (tome I) Histoire de la garde indigène de l'Annam et du Tonkin (tome I), Nomenclature des communes du Tonkin (Ngô Vi Liễn), xuất bản ở Hà Nội, năm 1928, v.v...
    Theo Lịch sử tám mươi năm chống Pháp, quyển I thì nghĩa quân Đề Ban đã đánh nhau với địch ở làng Quang Xá (Hưng Yên) và trận này cũng nằm trong thời kỳ 1885-1889. Như vậy chưa được đúng.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #64 vào lúc: 17 Tháng Mười Hai, 2016, 08:42:10 am »


Trong ba tháng cuối năm, đáng chú ý nhất là trận Lamát (hai lần xảy ra) và trận đánh ở Gia Lâm (ngày 26-10-1890).

Trận LaMát lần thứ nhất.

Ngày 18 tháng 10, Montillon và phó quản Tích mang quân ở đồn Kẻ Sặt cùng với quân của Breton và Peti Jean đóng ở các đồn lân cận, mở một cuộc tấn công lớn vào vùng Kẻ Sặt. Suốt từ 5 giờ sáng đến 6 giờ chiều ngày hôm đó, nghĩa quân phải chống cự với địch rất dữ dội ở làng Lamát (huyện Ân Thi, Hưng Yên). Đến chiều, thấy quân lương đã cạn, Montillon phải vừa đánh vừa tìm cách rút lui về đồn Kẻ Sặt. Nhưng khi địch vừa tới bến đò Phù Ủng (huyện Ân Thi, Hưng Yên) thì bị nghĩa quân từ trong một ngôi chùa ở gần đấy đánh lại. Sau một hồi giao chiến, địch chiếm được chùa, nghĩa quân đành phải rút ra ngoài, tổ chức bao vây. Lần này địch lại bị nguy khốn. Song lúc đó có một tên giáo dân phản động đi báo tin cho Garcia là cha cố người Tây Ban Nha ở Kẻ Sặt biết nên Garcia vội thông báo ngay cho Genella ở đạo Bãi Sậy. Lập tức, Genella đem 100 súng đến giải vây cho Montillon. Địch được thoát chết, nhưng Montillon cũng bị thương nặng.

Trận LaMát lần thứ hai.

Gần 2 tháng sau, ngày 8 tháng 12, để báo thù, giám binh Soubran và hai viên quản Chaigneau, Breton đem theo một lực lượng lớn lại tấn công vào vùng Kẻ Sặt. Hai bên lại đánh nhau ở Lamát. Nghĩa quân bị chết một số người và mất 8 khẩu súng; còn địch bị thương 9 tên.

Trận đánh huyện Gia Lâm.

Vào khoảng 9 giờ tối ngày 26 tháng 10, một lực lượng nghĩa quân 150 người có 40 - 50 súng đã bất ngờ tập kích một đồn địch ở huyện Gia Lâm, ngay sát cạnh Hà Nội. Đồn này do 25 tên lính Pháp và khố đỏ đóng. Địch phải cho quân ở Hà Nội đến tiếp viện cho bọn lính ở Gia Lâm.

Trong trận này, địch bị 1 tên chết và 1 tên bị thương. Về phía ta, có 4 nghĩa quân bị thương.

Sau đó, nghĩa quân đã rút lui.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #65 vào lúc: 17 Tháng Mười Hai, 2016, 08:43:45 am »


Câu hỏi 25: Cho biết quá trình chiến đấu diễn ra trong năm 1891 - năm thứ hai của giai đoạn thứ ba cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Thiện Kế lãnh đạo?
Trả lời:


Trong năm 1891, theo nhận định của địch, thì lực lượng nghĩa quân Bãi Sậy khá đông đảo và được vũ trang tương đối tốt.

Trong tháng 3, nghĩa quân Lãnh Điển đã vượt sông Hồng, tấn công một đồn lính ở huyện Phú Xuyên (Hà Đông).

Đêm 4 tháng 3, nhờ có nội ứng trước, một toán nhỏ nghĩa quân sau khi lọt vào được một đồn địch ở phủ lỵ Khoái Châu (Hưng Yên) đã giết chết 1 tên lính, làm bị thương 4 tên khác và lấy được 12 khẩu súng cùng 50 bao đạn. Sự việc trên diễn ra rất nhanh chóng và bí mật đến nỗi bọn lính đóng ở một đồn cách đấy chừng 250 mét vẫn không biết một chút gì. Trong khi đó, đại bộ phận nghĩa quân này trong làng An Vỹ (sát bên cạnh phủ lỵ Khoái Châu) đợi cho toán nghĩa quân ở trong đồn rút ra xong mới bắn hàng loạt đạn yểm hộ để ngăn cản địch truy kích. Nghe tiếng súng nổ, địch ở đồn bên cạnh mới biết, nhưng sợ đêm tối, chúng cũng không dám đuổi theo. Sau trận này, sợ bị khiển trách, viên trưởng đồn phải tự sát, còn viên tuần phủ Hưng Yên và viên tri phủ Khoái Châu thì bị bắt giải về Hà Nội để xét hỏi về tội "có liên quan" tới cuộc tập kích nói trên.

Đến 9 tháng 4, trên đường đi đến làng Đào Xá (huyện Ân Thi, Hưng Yên), giám binh Porto Carrero, phó quản Chung và 60 lính khố xanh bất ngờ gặp nghĩa quân đang đóng ở đây. Ngay từ những loạt đạn đầu, Porto Carrero và Chung đã tử trận. Hoảng sợ, viên quản Pointis lên thay Carrero, phải vừa đánh vừa lui, nhưng chúng cũng bị thiệt hại thêm: có 2 tên chết và 2 tên bị thương1.

Sang tháng 5, chỉ có hai sự kiện lớn là nghĩa quân Đốc Tích hoạt động trở lại ở vùng Hai Sông và Đốc Cập bị chết.
____________________________________
1. Theo Báo cáo chính trị, số 396 ngày 16-4-1891 của thống sứ Bắc Kỳ gửi toàn quyền Đông Dương, bản viết tay: Khi đến làng Đào Xá, địch gặp một lực lượng nghĩa quân đông tới 300, 400 người. Porto Carrero bèn dẫn 50 lính tiến lên trước "nghênh chiến". Ngay loạt đạn đầu, Carrero đã bị chết, viên phó quản bị thương nặng. Viên quản người Pháp lên thay chỉ huy, phải cùng với tên quan án Hải Dương, mang quân rút lui.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #66 vào lúc: 17 Tháng Mười Hai, 2016, 08:46:18 am »


Sau một thời gian tạm ngừng hoạt động ở Hai Sông, ngày 15 tháng 5, nghĩa quân Đốc Tích đã xuất hiện, hoạt động ở vùng này, tấn công một đồn lính.

Thấy thế ngày 17 tháng 5, địch cho ngay 125 lính khố xanh chia thành 4 toán đổ bộ lên Hai Sông, tiêu diệt nghĩa quân. Nhưng với một lực lượng đông khoảng 300, 400 người lại chiếm được các hang núi đá cũ của Đốc Tích ở Pháp Cổ, Phi Liệt và Đoàn Lễ (huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng), nghĩa quân đã chống cự quyết liệt với địch suốt trong 4 tiếng đồng hồ, rồi rút về hang Trại Sơn (huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng).

Đánh xong ở Hai Sông, Pháp quay sang tiêu diệt nghĩa quân Đốc Cập là một trong những lực lượng chính của phong trào Bãi Sậy ở Hưng Yên mà chúng vẫn sợ. Vì thế, ngày 21 tháng 5, khi được tin có 300 quân Đốc Cập đang đóng ở làng Tiểu Quan (huyện Khoái Châu, Hưng Yên), lập tức Muselier cho các cánh quân của Vincillioni, Pointis và Breton bao vây Tiểu Quan. Trong suốt ngày hôm ấy, cuộc chiến đấu diễn ra khá ác liệt và cuối cùng địch mới chiếm được Tiểu Quan. Nghĩa quân bị thiệt hại nặng, có 30 người chết, mất 10 khẩu súng trường, 3 khẩu súng lục và 10 người bị bắt, kể cả Cập1. Riêng Đốc Cập sau một ngày chiến đấu dũng cảm, khi thấy địch kéo vào làng, ông bèn nấp xuống một cái ao sâu, chỉ ngửa mặt lên mặt nước để thở. Nhưng địch phát hiện thấy ông, bắt giải về Hà Nội, giết ngày 23 tháng 5 năm 1891 ở vườn hoa Paul Bert (nay là vườn hoa Chí Linh). Đầu Cập thì gửi về Hưng Yên để bêu, còn xác ông bị ném xuống sông Hồng2.

Đến tháng 6 thì xảy ra trận My Đông (huyện Thanh Miện, Hải Dương) giữa Đề Ban, Đề Quý với địch vào ngày 4 tháng 6 và hai trận đánh lớn ở Hưng Yên của 100 nghĩa quân Lãnh Ngư và Lãnh Lộ với giám binh Riou và án sát Hải Dương trong ngày 15 và 22 tháng 6. Ngư và Lộ đều tử trận.

Tiếp theo ngày 27 tháng 6, được tin nghĩa quân Lãnh Hiềm đóng ở làng Quỳnh Bội (huyện Gia Bình, Bắc Ninh), Lesage và Picard vội đem hai toán quân đến bao vây. Nhưng khi mới xuất trận, Lesage cưỡi ngựa vượt lên trước, bị 3 nghĩa quân nấp trong đám lau sậy xông ra giao chiến, Lesage bị tử thương. Đội Nguyễn Văn Long và 2 tên lính khố xanh vội nhảy vào cướp xác hắn.
_______________________________________
1. Theo các tài liệu của Daufès, Piglowski, Ngô Vi Liễn, v.v... và báo L' Avenir du Tonkin năm 1891, cùng với tài liệu dân gian sưu tầm ở Hưng Yên.
    Theo Lịch sử tám mươi năm chống Pháp, quyển I: trận đánh xảy ra ở làng Điểu Nha (thuộc Hưng Yên), trong thời kỳ 1885-1889, do Đốc Cọp chỉ huy; chưa được đúng.

2. Ông chính tên là Vũ Văn Cập, quê ở làng An Xá (huyện Kim Động, Hưng Yên), thuộc một dòng họ giàu có, quyền thế nhất làng. Riêng họ ông đã chiếm đến 600 mẫu ruộng trong làng. Ông có học, đi thi Hương và đậu nhị trường, rồi về An Xá làm phó lý. Khi phong trào Bãi Sậy bùng nổ, ông đã tham gia khởi nghĩa và được phong chức Đề đốc. Từ đó nhân dân thường gọi là Đốc Cập hoặc Đề Cập. Ông còn xuất của riêng và vận động gia đình họ hàng quyên góp được rất nhiều lương thực, tiền bạc để nuôi nghĩa quân. Trong trận Tiểu Quan, ông bị địch bắt, giết ở Hà Nội.
    Về cái chết của Đốc Cập, gia đình ông cũng như nhân dân ở nhiều làng thuộc huyện Kim Động, Khoái Châu, v.v... (Hưng Yên) đều thuật lại rằng, trong trận Tiểu Quan bị địch bao vây chặt, Cập phải nhảy xuống nấp dưới một cái ao sâu, đậy bè rau muống lên đầu. Nhưng khi địch vào làng đuổi bắt gà, tình cờ có một con gà đậu trên bè rau muống nên chúng đã phát hiện ra Cập. Ông bị địch bắt giết ngày 16-4 âm lịch (tức là ngày 23-5-1891), bêu đầu ở Hưng Yên, còn xác bị buộc vào cối đá ném xuống sông Hồng.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #67 vào lúc: 17 Tháng Mười Hai, 2016, 08:48:13 am »


Sau tháng 7 và tháng 8, Đề Tính và Lãnh Điển đều hy sinh và nghĩa quân của hai ông cũng tan rã.

Trước hết là Đề Tính.

Bị đạo quân Hoàng Cao Khải không ngừng truy kích, Đề Tính phải đem 300 nghĩa quân vượt sông Hồng, sang Hà Đông để liên hệ với nghĩa quân của hai thủ lĩnh là Đôn và Tây đang hoạt động ở vùng này. Rồi trong tháng 7 năm 1891 nghĩa quân có 200 súng đã tấn công huyện Phú Xuyên (Hà Đông), giết tên tri huyện.

Sau nghĩa quân Đề Tính bị địch truy kích lại phải rút trở về Hưng Yên.

Trong một cuộc bao vây, Đề Tính bị Lãnh Vắn - tên phản bội nghĩa quân, ra hàng - chỉ huy đồn Đông Mai (huyện Văn Lâm, Hưng Yên) bắt, giao cho Pháp. Ông bị giải về Hà Nội, giết vào ngày 21 tháng 8 năm 1891.

Đồng thời với sự hy sinh trên của Đề Tính, cũng trong thời gian này, nghĩa quân Bãi Sậy còn bị mất một thủ lĩnh nữa là Lãnh Điển.

Sau nhiều năm hoạt động chống Pháp ở phía bắc Hưng Yên và Hà Nội, đến năm 1891, khi thấy phong trào Bãi Sậy dần dần thất bại và biết không thể nào hoạt động trên địa bàn cũ được nữa, tháng 8 năm 1891, Lãnh Điển cùng với 3 nghĩa quân thân tín đã lên Hưng Hóa định liên hệ với Đề Kiều đang chống Pháp ở vùng này, nhưng khi đến làng Phương Cách, ông bị lính ở đồn phủ Quốc Oai (Sơn Tây) và tri phủ sở tại là Phạm Hữu Đại bao vây. Lãnh Điển vội nhảy xuống nấp dưới ao sâu, nhưng ông vẫn bị bọn lính phu bắt giết1. 3 nghĩa quân đi theo ông đều bị bắt.

Sự tan rã của ba lực lượng nghĩa quân lớn nói trên trong 8 tháng đầu năm 1891, cũng như sự hy sinh của ba thủ lĩnh xuất sắc: Đốc Cập, Đề Tính và Lãnh Điển đã thực sự có ảnh hưởng đến phong trào Bãi Sậy. Từ đó trở đi cuộc khởi nghĩa càng mau chóng suy yếu, thất bại.
_______________________________________
1. Ông tên thật là Dương Văn Điển, người làng Phù Sa (huyện Khoái Châu, Hưng Yên), thuộc một gia đình nông dân nghèo. Từ năm 1885, Điển đã tham gia phong trào Bãi Sậy và được phong chức Lãnh binh nên thường gọi là Lãnh Điển. Địa bàn hoạt động chủ yếu của ông là ở phía bắc Hưng Yên và Hà Nội. Điển đã lập được nhiều thành tích chống Pháp xuất sắc nên địch rất sợ và vẫn coi ông là một trong những thủ lĩnh nghĩa quân nguy hiểm nhất đối với chúng. Vì thế, vào tháng 6 năm 1889, địch đóng ở các đồn phủ lỵ Khoái Châu và Phù Sa ra sức truy kích nghĩa quân ông. Đồng thời, Morel, phó sứ Hưng Yên, lại viết thư dụ hàng ông. Nhưng Điển không chịu hàng. Morel bèn bắt thân nhân ông và hẹn trong 5 ngày nữa ông phải mang nghĩa quân ra hàng chúng ở làng Kênh Khê (huyện Khoái Châu, Hưng Yên). Morel còn đe dọa nếu Điển không chịu hàng theo đúng thời hạn trên thì hắn sẽ đánh Phù Sa cho đến khi tiêu diệt xong hoàn toàn nghĩa quân. Thấy vậy, Lãnh Điển phải trá hàng địch (tháng 6-1889). Sau Điển bỏ trốn và tiếp tục chống Pháp. Đến gần cuối năm 1890, tên quan án Hưng Yên bèn sai 2 tên đầy tớ trung thành và 2 tên cựu ngụy binh trà trộn vào nghĩa quân Điển với âm mưu ám sát Lãnh Điển. Nhưng hắn cũng không thành công. Tháng 8-1891, trên đường đi liên hệ với nghĩa quân Đề Kiều, đến Sơn Tây. Điển bị bắt và bị giết.
    Về cái chết của Lãnh Điển, trong tài liệu dân gian ở Hưng Yên hiện nay còn có hai ý kiến khác nhau: một ý kiến cho rằng ông bị địch bắt, giết. Ý kiến thứ hai nói ông bị địch vây bắt, rồi tự sát.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #68 vào lúc: 17 Tháng Mười Hai, 2016, 08:50:04 am »


Trong tháng 10, chỉ có hai trận lớn sau đây:

Ngày 10 tháng 10, khi nghe tin nghĩa quân đang hoạt động ở làng Mao Điền (huyện Cẩm Giàng, Hải Dương), Lambert, Bonnel, Fourré và Filippi vội mang ngay 80 tên lính đến đánh. Nhưng lực lượng nghĩa quân ở đây khá mạnh, địch phải lấy thêm bọn lính đóng ở đồn Trân Kỳ (huyện Cẩm Giàng, Hải Dương) đến tiếp viện. Lúc đó nghĩa quân mới chịu rút.

Ngày 12 tháng 10, Lambert, Simon cùng 50 lính lại đến bao vây nghĩa quân Đề Hưng và Để Mỹ ở một làng thuộc tỉnh Hưng Yên. Địch vừa đến nơi, nghĩa quân nấp trong một ngôi chùa có nhiều lỗ châu mai đã bắn ra.   

Cuộc chiến đấu kéo dài từ 9 giờ sáng đến tối. Địch dần dần yếu thế. Filippi, Delouard, Bonnel vội mang thêm quân để sáng hôm sau tiếp tục tấn công nữa. Nhưng đến khoảng 2 giờ sáng rạng ngày 13 tháng 10, nghĩa quân rút đi nơi khác. Trong trận này, có 3 nghĩa quân bị địch chặt đầu, bêu ở Bần Yên Nhân. Còn địch bị chết 5 tên và bị thương 2 tên.

Sau đó để đàn áp phong trào và triệt phá hết những công sự do nghĩa quân xây dựng ở làng này, địch phải đóng thêm quân ở các đồn: Bonnel ở Mỹ Hào (Hưng Yên), Filippi ở Đông Mai (huyện Văn Lâm, Hưng Yên) và Simon ở Đỗ Mỹ (huyện Ân Thi, Hưng Yên).

Đến cuối năm 1891, được đánh dấu bằng sự tan rã của nghĩa quân Đề Ban và cái chết của vị thủ lĩnh tài giỏi này.

Trong hai ngày 19 và 23 tháng 11, nghĩa quân Đề Ban đã hai lần đánh nhau với Pierrot, Moulin, Simon, Fourré ở làng Hòa Đam (huyện Mỹ Hào, Hưng Yên) và làng Cao Trai (huyện Ân Thi, Hưng Yên).

Đến ngày 12 tháng 12, Lambert, Bellisen, Durban, Pierrot, Breton, Bonnel và Simon lại bao vây 100 nghĩa quân Đề Ban và Hai Kế ở làng Chu Xá (huyện Ân Thi, Hưng Yên). Lần này, nghĩa quân có 6 người chết, mất 4 súng trường và 1 súng lục. Đề Ban bị thương nặng. Sau đó nghĩa quân phải vượt qua một cái kênh chạy sang huyện Bình Giang (Hải Dương). Nhưng địch vẫn không ngừng truy kích và nghĩa quân lại chạy sang làng Đoàn Lâm (huyện Thanh Miện, Hải Dương). Song Đề Ban vừa mới đến đây được vài ngày, thì ngày 17 tháng 12, Broussiac, Julliard, Masseboeuf và Ménerd đã đem 100 lính khố xanh phối hợp với quân của Phạm Văn Khoát, một thủ lĩnh Bãi Sậy, ra hàng, làm tay sai cho Pháp từ năm 1888 đến bao vây. Địch đến Đoàn Lâm đúng lúc 100 nghĩa quân vừa đi ra. Thế là hai bên đánh nhau ngay trên mặt đê. Nghĩa quân bị thất bại nặng và Đề Ban hy sinh1.

Cho tới đây, lực lượng nghĩa quân Đề Ban cũng tan rã.

Tóm lại, đến khoảng cuối năm 1891, các lực lượng nghĩa quân lớn của Bãi Sậy đều lần lượt bị suy yếu, tan rã và cuộc khởi nghĩa đã thực sự thoái trào.

Tháng 12 năm ấy, "đạo quân trị an" đã giải tán và sau đó đạo Bãi Sậy cũng bãi bỏ nốt để sáp nhập vào tỉnh Hưng Yên, Muselier thì được cử làm công sứ tỉnh này.

Tuy vậy, đến tháng 4 năm sau, địch còn phải chạm trán một lần nữa với nghĩa quân Đề Vinh và Hai Kế ở Ngô Phần - Bích Khê. Sau hai trận này, Pháp mới có thể thực sự kết thúc xong "giặc Bãi Sậy".
_________________________________________
1. Ông tên thật là Phạm Văn Ban, sinh ở làng Bối Khê (huyện Ân Thi, Hưng Yên), thuộc một gia đình địa chủ phong kiến. Ban đã làm lý trưởng ở làng. Khi tham gia phong trào Bãi Sậy, Ban được phong chức Đề đốc nên còn gọi là Đề Ban, hoặc Đốc Ban. Ông hoạt động trên một địa bàn khá rộng ở Hưng Yên và Hải Dương như Khoái Châu, Mỹ Hào, Ân Thi, Phù Cừ, Bình Giang, Ninh Giang, Cẩm Giàng, Thanh Miện, v.v... Sau khi Nguyễn Thiện Thuật sang Trung Quốc (năm 1890), Đề Ban đã cùng với Hai Kế và các thủ lĩnh khác cố gắng duy trì cuộc khởi nghĩa. Ông bị thương nặng ở trận Chu Xá (ngày 12-12-1891) và chết ở Đoàn Lâm (ngày 17-12-1891).
    Theo lời thuật lại của gia đình Đề Ban và các cụ phụ lão Bối Khê thì Ban bị bắn gãy chân trong một trận đánh nhau với địch (nhân dân không nhớ ra là trận nào). Sau đó, có một nghĩa quân thân tín cõng Ban chạy đến làng Đoàn Lâm (huyện Thanh Miện, Hải Dương). Nhưng địch lại bao vây, tấn công và nghĩa quân bị thua nặng. Thấy rõ nguy cơ thất bại và biết mình không thể sống được, Ban đã từ chối không chịu để cho nghĩa quân cõng ông chạy nữa. Rồi ông chết ở Đoàn Lâm. Gia đình vẫn giỗ Ban vào ngày 18-11 âm lịch (tức là ngày 18-12-1891) (theo lời cụ Dậu và cụ Kiển, 70 tuổi, quê ở Bối Khê).

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #69 vào lúc: 17 Tháng Mười Hai, 2016, 08:52:02 am »


Câu hỏi 26: Cho biết quá trình chiến đấu diễn ra trong năm 1892, năm cuối của giai đoạn thứ ba cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Thiện Kế lãnh đạo?
Trả lời:


Khi được tin báo có Hai Kế và Đề Vinh cùng với 200 nghĩa quân đang ở làng Mậu Duyệt (huyện Văn Lâm, Hưng Yên), lập tức Lambert, Moliner và Simon đem 409 lính đến bao vây. Nhưng địch vừa đến Mậu Duyệt thì nghĩa quân đã rút sang làng Ngô Phần (huyện Lang Tài, Bắc Ninh) rồi. Cho nên ngày 11 tháng 1, chúng lại vội vàng chuyển sang Ngô Phần. Làng này đã được nghĩa quân phòng thủ rất vững chắc và mỗi nhà đều có tường đất, lũy tre dày bao quanh. Khi đến nơi, Moliner được quân Fourré trợ lực bèn mở ngay cuộc tấn công vào Ngô Phần. Đồng thời Desmot và Lambert cũng tấn công vào một mặt khác của làng này. Nhưng cả hai tên đều phải đền tội ác: Desmot bị thương nặng (đến ngày 13-4-1892 hắn chết), còn Lambert cũng bị thương nhẹ. Thấy nguy, Lambert vội vã lệnh ngừng tấn công và chuyển sang hình thức bao vây. Vừa lúc ấy, Pierro, Simon, Filippi và Villain lại mang thêm các cánh quân đến tiếp viện nên địch bèn tổ chức ngay một đợt tấn công thứ hai nữa vào Ngô Phần. Nhưng nghĩa quân nấp ở hai bên lũy tre đã bắn ra như mưa khiến địch không thể nào chiếm được làng. Chúng lại phải rút ra bao vây nghĩa quân chặt chẽ hơn. Đồng thời chúng còn chủ trương mang đại bác từ Bắc Ninh đến bắn vào Ngô Phần để tàn phá triệt hạ cả làng, giết hại nghĩa quân rồi sau đó mới cho lính xung phong vào làng tiêu diệt nốt số nghĩa quân còn lại.

Đêm hôm đó, lợi dụng lúc gió bão nổi lên, nghĩa quân rút ra khỏi Ngô Phần và về đóng ở làng Bích Khê (huyện Lang Tài, Bắc Ninh). Còn địch thì gặp nhiều khó khăn trong việc vận chuyển đại bác và tiếp tế đạn dược nên chúng cũng không thực hiện được ngay âm mưu tấn công của chúng.

Song nghĩa quân vừa mới đến Bích Khê được vài giờ thì ngày 12 tháng 4, địch đã nhanh chóng chuyển quân sang bao vây làng này. Và trưa hôm đó, dưới sự chỉ huy của trung úy Gaumard, từng loạt đạn đại bác của địch bắn vào Bích Khê như mưa, làm đổ nát nhiều nhà cửa và triệt phá làng xóm. Tiếp theo đó, địch bắt đầu xung phong vào làng. Không thể đương đầu nổi với hỏa lực mạnh mẽ nói trên, nửa đêm hôm ấy, nghĩa quân phải rút ra khỏi Bích Khê. Thế là sau hai trận chiến đấu, nghĩa quân bị chết 30 người, trong đó có Đề Vinh, mất 10 khẩu súng và một số đạn dược. Sau địch tìm thấy xác Đề Vinh, chặt đầu ông đem bêu.

Tới đây, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy hoàn toàn chấm dứt sau 10 năm chiến đấu vô cùng anh dũng, tài trí, vẻ vang1. Một số thủ lĩnh và nghĩa quân còn lại thì ra hàng hoặc chạy lên vùng Yên Thế gia nhập nghĩa quân Hoàng Hoa Thám để tiếp tục chống Pháp2.
__________________________________________
1. Theo Piglowski: sách đã dẫn, thì sau 3 năm tạm thời ngừng hoạt động (1892-1895), đến năm 1895 hai thủ lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy là Hai Kế và Ba Giang với một lực lượng khoảng 80 khẩu súng đã trở lại đánh Pháp ở huyện Lang Tài (Bắc Ninh); nhưng hoạt động cụ thể của hai ông ra sao không thấy Piglowski nói thêm gì nữa.
2. Các cụ phụ lão ở Hưng Yên có thuật lại rằng, sau khi cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy thất bại, hầu hết các thủ lĩnh nghĩa quân còn lại đã chạy lên vùng Yên Thế gia nhập nghĩa quân Hoàng Hoa Thám để tiếp tục thực hiện nguyện vọng của mình là đánh Pháp đến cùng. Vả lại Hoàng Hoa Thám nguyên gốc tích ở làng Dị Chế (huyện Tiên Lữ, Hưng Yên) nên khi phất cờ khởi nghĩa ở Yên Thế, Thám thường cho người về Hưng Yên để chiêu mộ lực lượng. Ông đã được số nghĩa quân Bãi Sậy còn lại và nhân dân địa phương nhiệt liệt hưởng ứng. Con trai cả của Nguyễn Thiện Thuật là Nguyễn Thiện Tuyển cũng tham gia khởi nghĩa Yên Thế và hy sinh ở núi Ham Lợn (năm 1909).
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM