Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 04:32:43 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy  (Đọc 31787 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« vào lúc: 02 Tháng Mười Hai, 2016, 09:08:31 pm »

Tên sách: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2008
Số hoá: ptlinh, chuongxedap


Ban biên soan:
Thượng tá ĐẶNG VIỆT THỦY (Chủ biên)
Đại tá ĐỒNG KIM HẢI
Thượng tá ĐẬU XUÂN LUẬN
Thượng úy PHAN NGỌC DOÃN
Trung úy NGUYỄN MINH THỦY

Hoàn chỉnh bản thảo:
Thượng úy PHAN NGỌC DOÃN



LỜI NÓI ĐẦU

Việt Nam là một đất nước năm ở ven biển Thái Bình Dương - cửa ngõ quan trọng của lục địa Đông Nam châu Á. Trải qua bao thế kỷ, bọn phong kiến, thực dân và đế quốc nhòm ngó và xâm lăng nhưng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ chịu khuất phục. Ngay từ ngày dựng nước đến nay, dân tộc ta đã phải bao phen đứng lên chiến đấu bảo vệ non sông đất nước, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, lập nên những chiến công oanh liệt: Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân 1975...

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là một kho tàng kiến thức vô cùng quý giá, xây đắp nên truyền thống quật cường, bất khuất, lòng yêu quê hương đất nước và lòng tự hào dân tộc. Việc tìm hiểu lịch sử dân tộc vừa là nhu cầu, vừa là trách nhiệm trước lịch sử để tỏ lòng biết ơn đối với công lao to lớn của tổ tiên, vừa là đòi hỏi của thời cuộc để mỗi người dân Việt Nam tự tin hội nhập cùng bạn bè quốc tế với một bản sắc dân tộc mạnh mẽ.

Với ý nghĩa đó, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân tổ chức biên soạn và xuất bản "Tủ sách lịch sử Việt Nam". Tủ sách lịch sử Việt Nam gồm nhiều cuốn, mỗi cuốn sách trình bày một cuộc khởi nghĩa cụ thể, theo dạng hỏi đáp, ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ và đảm bảo tính chính xác, khoa học.

Hy vọng "Tủ sách lịch sử Việt Nam" nói chung và cuốn sách "Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy” nói riêng sẽ là người bạn đồng hành thân thiết của mỗi bạn đọc trong cuộc hành trình tìm về lịch sử dân tộc.

Mặc dù những người biên soạn đã có nhiều cố gắng, nhưng bộ sách khó tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong được bạn đọc lượng thứ và đóng góp ý kiến.

Trân trọng giới thiệu!


NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #1 vào lúc: 02 Tháng Mười Hai, 2016, 09:09:41 pm »


Câu hỏi 1: Bãi Sậy là một trong những trung tâm chống thực dân Pháp lớn nhất vào cuối thế kỷ XIX. Cho biết bối cảnh và các giai đoạn chính về cuộc khởi nghĩa?
Trả lời:


Từ tháng 6 năm 1885, phong trào kháng Pháp nổ ra khắp các tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ, trong đó đáng chú ý là cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Từ những đội quân nhỏ lẻ, văn thân, sĩ phu, thủ lĩnh, nông dân, những người yêu nước đã tập hợp lại tại vùng Bãi Sậy. Bãi Sậy là nơi có địa bàn hoang vu, lầy lội, thuận tiện cho phát triển cuộc khởi nghĩa. Theo ý kiến chung của một số người nghiên cứu thì cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy mở đầu từ năm 1885 và chấm dứt vào năm 1889. Nhưng thực ra cuộc khởi nghĩa ấy là cả một quá trình chống thực dân Pháp liên tục và lâu dài kể từ năm 1883 đến năm 1892 mới kết thúc.

Địa bàn hoạt động của nghĩa quân kéo dài khắp hai tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và một phần tỉnh Bắc Ninh, Hải Phòng, Quảng Yên. Từ căn cứ Bãi Sậy, nghĩa quân hoạt động mở rộng ra vùng đồng bằng và khống chế luôn cả những tuyến giao thông quan trọng bằng đường bộ (đường số 5: Hà Nội - Hải Phòng; đường số 1: Hà Nội - Nam Định; đường Hà Nội - Bắc Ninh) và đường thủy (trên sông Thái Bình, sông Đuống, sông Hồng...)- Ngoài Bãi Sậy thì Hai Sông (thuộc huyện Kinh Môn, Hải Dương) là căn cứ thứ hai của nghĩa quân. Tại căn cứ này, nghĩa quân hoạt động lan ra khắp các vùng lân cận như Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Yên.

Nghĩa quân Bãi Sậy có đặc thù là chia thành những đội quân với quy mô nhỏ, hoạt động phân tán, tác chiến theo kiểu đánh du kích. Mỗi đội chừng 20 đến 25 người, sống lẫn vào dân, vận động nhân dân giúp đỡ, tích cực ủng hộ tham gia nghĩa quân chống thực dân Pháp. Không chỉ vậy, nghĩa quân Bãi Sậy còn sử dụng công tác binh vận để kêu gọi binh lính ngụy quân quay trở về với nghĩa quân đánh thực dân Pháp.

Cuộc khởi nghĩa này diễn biến qua ba giai đoạn sau đây:
- Giai đoạn thứ nhất (1883-1885) do Đinh Gia Quế, tức Đổng Quế lãnh đạo.
- Giai đoạn thứ hai (1885-1889) do Nguyễn Thiện Thuật, tức Tán Thuật lãnh đạo.
- Giai đoạn thứ ba (1890-1892) do Nguyễn Thiện Kế, tức Hai Kế lãnh đạo.

Dưới quyền của ba lãnh tụ chính chỉ huy toàn bộ cuộc khởi nghĩa nói trên còn có vô số tướng lĩnh ở các địa phương, nếu chỉ tính từ Đề đốc, Lãnh binh đã có tới hàng trăm, tiêu biểu như: Lưu Kỳ, Nguyễn Thiện Dương, Đội Văn, Nguyễn Văn Sung, Đốc Cọp, Nguyễn Đình Tính, Nguyễn Đình Đề, Ba Sành, Nguyễn Đình Xuyên, Dương Văn Điển, Đốc Tít, Phạm Văn Ban, Đề Vinh, Nguyễn Đình Mai, Quyền Túc, Lê Văn Hanh... Họ đã trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự chỉ đạo của các lãnh tụ chính và góp sức làm nên một phong trào Bãi Sậy chống Pháp rộng lớn trong nhiều phủ huyện ở tả ngạn sông Hồng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #2 vào lúc: 02 Tháng Mười Hai, 2016, 09:14:37 pm »


Câu hỏi 2: Tên tuổi của Đinh Gia Quế gắn liền với giai đoạn thứ nhất của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Xuất phát từ đâu mà ông lại xưng là "Đổng Quân vụ" giương cao cờ "Nam đạo Cần Vương - Bình Tây phạt tội"? Ông đã tập hợp lực lượng nghĩa quân ra sao? Hãy cho biết vài nét về ông?
Trả lời:


Đinh Gia Quế sinh ngày 1 tháng 11 năm 1825, là con cụ Đinh Quý Công (hiệu Gia Phúc) và cụ bà Nguyễn Thị Bách, quê xã Nghiêm Xá, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Ông học đến Khóa sinh thì chuyển đến làng Thọ Bình, tổng Bình Dân, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên dạy học, sau làm Chánh tổng rồi thăng Chánh tuần huyện Đông Yên1.

Ngày 27 tháng 3 năm 1883, quân Pháp do trung tá hải quân Henri Rivière chỉ huy từ Hà Nội theo sông Hồng hạ thành Nam Định rồi cho viên thiếu úy Trentinni đưa một toán bộ binh đi một chiếc tàu nhẹ tới đánh thành Hưng Yên. Tuần phủ Nguyễn Đức Đạt, án sát Tôn Thất Phiên sợ hãi không dám chống cự, đã bỏ thành chạy, sau đó về theo Pháp. Ngày 28 tháng 3 năm 1883, quân Pháp chiếm thành Hưng Yên không mất một viên đạn2.

Căm thù giặc Pháp xâm lược và bọn vua quan triều đình hèn nhát đầu hàng giặc, Đinh Gia Quế phất cờ khởi nghĩa.

Khi giặc Pháp chiếm tỉnh thành Hưng Yên, Đinh Gia Quế từ quan về quê, chiêu mộ nghĩa quân đánh Pháp.

Đinh Gia Quế lập căn cứ ngay tại ấp Thọ Bình, giữa các làng Yên Vĩnh, Đức Nhuận, Dương Trạch, trung tâm của vùng Bãi Sậy rộng mênh mông.

Xa xưa, sông Hồng chưa có đê thì từ Văn Giang, Khoái Châu, Kim Động đến cửa biển chỉ là đầm lầy và một số gò đống, cồn cát nổi lên ở hai bờ tả và hữu ngạn sông Hồng. Một số cư dân đã đến cư trú trên các gò đống cao dọc theo bờ sông Hồng.

Đây là nơi vào đời Hùng vương thứ 18, nơi Chử Đồng Tử - chàng trai nghèo và cô công chúa - con gái yêu của Hùng Duệ vương - Tiên Dung gặp gỡ nhau, tạo nên một huyền thoại về tình yêu không phân biệt đẳng cấp. Cũng tại thôn Yên Vĩnh, tổng Yên Vĩnh, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, có đền thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung (Tây Cung tiên nữ), gọi là đền hóa Dạ Trạch nằm trên một cái gò cao giữa đầm Dạ Trạch bên bờ sông Hồng. Từ năm 545 đến năm 550, Triệu Quang Phục đã xây dựng căn cứ kháng chiến ở đầm Dạ Trạch, sử dụng chiến tranh du kích, giết chết chủ tướng giặc Dương Sàn, đánh đuổi quân Lương ra khỏi bờ cõi, lập nên triều đại nhà Triệu. Từ đó cho đến triều đại Tiền Lê (891-1009), vùng tây nam Hưng Yên ngày nay chỉ là vùng đất hoang. Đến đời Nguyễn, do chính sách phản động của bọn vua quan làm cho kinh tế suy thoái, nhân dân đói khổ lầm than. Dưới thời Tự Đức, đê Văn Giang vỡ 18 năm liền3 gây nên lụt lội, nhiều năm nước ngập sâu từ 2,5 đến 3 mét, làng xóm, đồng ruộng bị chìm trong biển nước mênh mông, dân cư tha phương cầu thực. Làng xóm điêu tàn, đồng ruộng bỏ hoang, lau sậy mọc lên mỗi năm một rậm rạp, lớp này đổ xuống, lớp khác mọc đè lên, tầng tầng lớp lớp. Sậy mọc thành bãi, thành rừng khắp miền tây Hưng Yên, phía tây nam Bắc Ninh, phía tây huyện Mỹ Hào, tỉnh Hải Dương.

Những người ở lại đều sống nghèo khổ bằng nghề gieo trồng rau màu vụ đông xuân trên bãi và cấy một ít lúa chiêm. Còn nghề chính của đồng bào là chài lưới, người không có vốn sắm thuyền, lưới thì đánh giậm, kéo vó, tát vét, mò cua, kiếm cá,..
_______________________________________
1. Anh Nguyễn Văn Ứng, cháu bốn đời cụ Đinh Gia Quế cung cấp theo gia phả (con cháu của Đinh Gia Quế đổi từ họ Đinh sang họ Nguyễn từ khi cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy thất bại, nay vẫn mang họ Nguyễn) và tham khảo gia phả họ Nguyễn Lê - họ cụ bà Nguyễn Thị Duyên ở làng Thọ Bình.
    Đinh Gia Quế có ba người vợ: bà chính thất là Nguyễn Thị Duyên, bà kế là Nguyễn Thị Hương, bà thứ ba là Nguyễn Thị Thao. Bà chính thất sinh ra Nguyễn Thị Duyến, bà thứ hai sinh ra Nguyễn Thị Hướng, Nguyễn Thị Hường, bà thứ ba sinh ra Nguyễn Văn Vĩnh.

2. Trịnh Như Tấu trích dịch trong quyển Notice của A de Miribel và quyển Notice sur la Gardière du Tonkin dẫn trong quyển Hưng Yên địa chí xuất bản năm 1934.
3. Từ năm 1871 đến năm 1883, đê Phi Liệt (huyện Văn Giang) và đê huyện Kim Động, huyện Khoái Châu đều cùng bị vỡ trong 12 năm liền, còn lại 6 năm chỉ riêng đê Phi Liệt và đê sông Cửu Yên vỡ.
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2016, 10:49:05 pm gửi bởi chuongxedap » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #3 vào lúc: 02 Tháng Mười Hai, 2016, 09:16:52 pm »


Dân vùng Bãi Sậy vốn có truyền thống đánh giặc giữ nước từ thuở các vua Hùng dựng nước, thời Hai Bà Trưng, thời Triệu Quang Phục đóng quân ở đầm Dạ Trạch, thời Trần ba lần lui quân về hạ lưu sông Hồng mà vùng Khoái Châu là căn cứ lớn... đã từng giúp quan quân đánh giặc, giải phóng đất nước, nên khi Đinh Gia Quế phất cờ khởi nghĩa mọi người đều hưởng ứng.

Để có danh nghĩa tập hợp lực lượng, ông tự xưng là "Đổng Quân vụ”1 vì vậy nhân dân và quân sĩ gọi ông là Đổng Quế. Ông cũng giương cao lá cờ đỏ hình vuông có tám chữ là "Nam đạo Cần Vương - Bình Tây phạt tội”2.

Cờ nghĩa phất lên, nhân dân trong vùng mến mộ ông từ khi ông còn dạy học, làm Chánh tổng rồi Tuần huyện vẫn giữ được lòng nhân nghĩa, tính cương trực của nhà Nho, luôn luôn đứng về phía dân nghèo, bảo vệ quyền lợi cho họ, nên theo về rất đông. Chẳng những chỉ có nhân dân huyện Đông Yên, mà nhân dân các huyện Ân Thi, Kim Động, Phù Cừ, Tiên Lữ thuộc phủ Khoái Châu; nhân dân huyện Mỹ Hào, tỉnh Hải Dương; nhân dân các huyện Văn Giang, Gia Lâm thuộc tỉnh Bắc Ninh cũng hưởng ứng. Ở nhiều làng, toàn bộ trai tráng đều gia nhập nghĩa quân, tự trang bị một phần vũ khí, tự lo lương thực. Nhiều gia đình có từ 2 tới 5 anh em ruột như anh em ông Nguyễn Đình Tính ở An Vĩ, anh em ông Lãnh Điển ở Phù Sa cùng tham gia khởi nghĩa. Một số gia đình cả hai vợ chồng đều tham gia như ông Nguyễn Túc và bà Nguyễn Thị Biên, vợ chồng bà Đốc Huệ, vợ chồng Dương Văn Điển. Và có những gia đình mấy cha con cùng tham gia nghĩa quân.

Người già, trẻ em, phụ nữ không tham gia vào các đội quân thường trực tập trung thì chiến đấu ngay tại làng xã mình, tự nguyện rào làng, đào đắp công sự, xay giã thóc gạo, vận chuyển quân lương, canh gác, giao thông liên lạc... Nông dân còn quyên góp lương thực, đóng thuế cho nghĩa quân, có nơi mỗi mẫu nộp 3 phương. Nhiều gia đình còn cấy từ một sào ruộng trở lên để ủng hộ nghĩa quân.

Trong số những người tham gia khởi nghĩa Bãi Sậy còn có các trí thức như cử nhân Nguyễn Hữu Đức ở làng Mễ Xá, huyện Ân Thi, cùng con trai là Nguyễn Hữu Hạnh. Nhiều hào lý cũng tự nguyện gia nhập nghĩa quân như Chánh tổng Nguyễn Đình Tiêm, Lý trưởng Vũ Văn Cợp, Lý trưởng Phạm Văn Ban, Chánh tổng Sái Văn Vện...

Cờ nghĩa phất lên, các tướng lĩnh của triều Tự Đức chống lệnh bãi binh của triều đình như Tạ Hiện, Đốc Chính, Đề Dần ở Nam Định, Thái Bình cũng đến Bãi Sậy bàn kế hoạch phối hợp tác chiến.

Lực lượng nhân dân theo Đổng Quế rất đông, chính tên công sứ Hưng Yên Miribel đã phải thú nhận: "Tất cả những người nông dân ở vùng Bãi Sậy đều theo Đinh Gia Quế chống người Pháp".
_________________________________________
1. Các tài liệu của Pháp như Les provinces du Tonkin Hưng Yên của A de Miribel (bản đánh máy viết tháng 12-1904), Notice sur la province de Hưng Yên của Tòa sứ Hưng Yên (bản đánh máy tháng 1-1933) và sau đó là của các nhà sử học Việt Nam đều viết Đinh Gia Quế tự xưng là "Đổng Nguyên nhung". Nay chúng tôi căn cứ vào gia phả của dòng họ Đinh (con cháu vẫn mang họ Nguyễn) và lời kể của các bô lão ở làng Thọ Bình và con cháu cụ đều nói cụ xưng là "Đổng Quân vụ".
2. Từ trước tới nay, các tài liệu của Pháp cũng như của Việt Nam đều viết: "Cờ của ông có bốn chữ "Bình Tây phạt tội", không nói rõ cờ màu gì”. Thực ra cụm từ này chỉ là động từ, đứng trước nó phải là cụm danh từ. Cũng theo gia phả họ Đinh (nay con cháu vẫn mang họ Nguyễn) thì lá cờ của Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế màu đỏ, có tám chữ "Nam đạo Cần Vương - Bình Tây phạt tội". Chúng tôi viết theo tư liệu này.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #4 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2016, 09:10:46 pm »


Câu hỏi 3: Đinh Gia Quế đã chọn địa hình nào để xây dựng căn cứ và ông đã tổ chức huấn luyện nghĩa quân chiến đấu như thế nào?
Trả lời:


Khi đã tập hợp được đông đảo lực lượng nghĩa quân, Đinh Gia Quế đã chọn vùng Bãi Sậy làm căn cứ. Bãi Sậy là một vùng rộng lớn mênh mông, bát ngát, thuộc huyện Đông Yên, một phần huyện Kim Động, Ân Thi của Hưng Yên, một phần huyện Văn Giang của tỉnh Bắc Ninh, một nửa huyện Mỹ Hào thuộc tỉnh Hải Dương mà trung tâm là đầm Dạ Trạch, một vùng đất đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc. Từ năm 547, Triệu Quang Phục đã về xây căn cứ thực hiện chiến thuật "Trì cửu chiến" đánh du kích mà làm nên nghiệp lớn, đánh đuổi được giặc Lương, giành độc lập cho dân tộc. Trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, vùng này được đắp đê, đào sông tiêu nước, mở mang đồng ruộng, làng xóm đông vui, trù phú. Nhưng từ năm 1802, Gia Long lên cầm quyền không coi trọng đê điều, khuyến khích nông trang nên vùng này thường bị lũ lụt, hạn hán. Đặc biệt, dưới triều Tự Đức, chỉ riêng đê Phi Liệt ở Văn Giang vỡ 18 năm liền, dân chết đói, chết rét, tha phương cầu thực, cả một vùng rộng lớn trên trở thành bãi sậy. Sậy mọc chồng chất lên nhau, có chỗ cao tới 3 mét, đây cũng là nơi rắn rết sinh sôi nảy nở.

Đinh Gia Quế xây dựng tại ấp Thọ Bình một thành bằng gạch, chu vi 5 mẫu Bắc Bộ có tường gạch vây quanh; có một số nhà kho, trường tập bắn, sân luyện tập võ nghệ. Đồn xây dựng không kiên cố lắm và thực sự chỉ là nơi làm việc của Đổng Quế, nơi hội họp của các thủ lĩnh và là nơi đóng quân của đội quân thường trực. Trong đồn có đường địa đạo, nhiều đoạn được xây bằng gạch từ trong thành luồn ra đê sông Hồng, đến đền hóa Dạ Trạch, tỏa ra bãi sậy chung quanh. Đường hầm rộng, có các ngã tư, hai người tránh nhau dễ dàng. Trong địa đạo có kho lương, kho vũ khí, nơi làm việc, hội họp của bộ chỉ huy, nơi ăn ngủ của nghĩa quân. Hầm có các lỗ thông hơi rất bí mật, các cửa hầm cũng bí mật, có dấu riêng, chỉ nghĩa quân thân tín mới được biết và cũng chỉ được biết một nửa. Muốn vào được thành rất khó khăn vì phải vượt qua đầm lầy, qua nhiều trạm gác công khai, bí mật và qua các bãi sậy nối tiếp nhau cao tới 3 đến 4 mét, lớp nọ mọc đè lên lớp kia.

Đặc điểm của nghĩa quân Bãi Sậy là trừ đội quân cơ động còn lại đều không tập trung, không ở trong thành lũy như các cuộc khởi nghĩa đương thời khác. Quân ở làng xã nào biên chế theo từng xóm, làng, xã; chỉ huy cũng là người ở địa phương đó. Nghĩa quân vẫn ở nhà làm việc, sinh hoạt như những nông dân bình thường khác, giặc tới thì đánh, hoặc có lệnh đi đánh nơi khác mới tập trung, đánh xong lại về làng. Tuy không thoát ly, nhưng nghĩa quân được huấn luyện sử dụng vũ khí, kể cả súng bắn nhanh, học võ thuật, học tác chiến theo lối du kích. Nghĩa quân còn có các lò rèn sản xuất súng kíp (làm theo mẫu súng năm 1874 của Pháp), riêng thợ rèn ở làng Hoàng Vân, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, còn chế tạo được cả súng thần công bắn đạn ghém. Trong trận giếng Vàng (Bô Thời), nghĩa quân bắn một phát loại khỏi vòng chiến đấu một phân đội lính khố xanh đang tập hợp trên đường 39. Rất nhiều làng xây dựng thành làng chiến đấu: trồng tre, đắp lũy kín chung quanh làng, chỉ để hai cổng ra vào và đường rút lui bí mật.

Với phương châm "bất biến vi dân, biến vi binh'' nên làng nào cũng có người gia nhập nghĩa quân, kể cả các xã gần thị trấn, dọc đường 39.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #5 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2016, 09:14:20 pm »


Ngày 6 tháng 3 năm Quý Mùi (ngày 8 tháng 4 năm 1883)1, Đổng Quế tế cờ khởi nghĩa ở văn chỉ Bình Dân. Tới dự lễ tế cờ có đông đủ các tướng lĩnh, đội danh dự nghĩa quân và còn có Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật, Đốc binh Tạ Hiện, Đốc Chính, Đề Dần từ Hải Dương, Nam Định, Thái Bình đến dự.

Ngay sau lễ tế cờ, nghĩa quân Bãi Sậy do Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế chỉ huy đã tiến đánh quân Pháp ở nhiều nơi, nay ta còn biết được một số trận như sau:

Dân theo đạo Thiên Chúa ở thôn Sài Quất, tổng Đại Quân, thường đi do thám các hoạt động của nghĩa quân báo cho quân Pháp. Đổng Quế cho đội tuyên truyền đến giải thích thì chúng vũ trang đánh giết nghĩa quân. Vì vậy, Đổng Quế giao cho Lãnh Điển đưa quân tấn công đám dân công giáo phản động ở làng này.

Trong một trận đánh lớn ở làng Đức Nhuận, cạnh xã Yên Vĩnh, gần đền hoá Dạ Trạch, nghĩa quân mặc quần áo như nông dân, bọn Pháp chỉ nhận ra người chỉ huy là Lãnh Sậy (Nguyễn Đình Mai) vì ông chít khăn xanh và thắt lưng đỏ.

Những người chỉ huy quân Pháp ở Bắc Kỳ quyết định thành lập một binh đoàn mạnh tiến từ Hải Phòng lên đánh bật quân của Đổng Quế ra sông Hồng để tiêu diệt. Đại tá Donnier thuộc lữ đoàn Négrier chỉ huy binh đoàn này. Đại tá Donnier với đội quân hùng hậu, trang bị mạnh, nhưng vừa tấn công vào Bãi Sậy đã bị thiệt hại nặng nề, phải rút quân và cay đắng thú nhận: "Vì những lý do tôi nói ở trên cuộc hành quân này cũng không đạt được kết quả, mà chỉ làm cho dân chúng nghèo đói thêm".

Trước thất bại đó, bộ tư lệnh quân đội Pháp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ liền giao cho Hoàng Cao Khải khi đó đang làm án sát Hưng Yên phối hợp với quân Pháp đánh Đổng Quế. Hoàng Cao Khải được quân Pháp hỗ trợ bằng công binh, pháo binh, tàu chiến trang bị đại bác diễu võ giương oai dưới sông Hồng. Hoàng Cao Khải hung hăng ra trận với mưu đồ chỉ trong một trận dồn nghĩa quân vào chỗ chết. Khải ra lệnh cho quân lính phải vượt Bãi Sậy mà tiến vào. Điều làm chúng hoảng sợ là rất nhiều hầm hào luồn dưới những thân sậy lớp nọ chồng lên lớp kia. Nhiều tên bò vào trinh sát bị rắn cắn chết. Đại tá Donnier cho một toán quân liều chết thọc sâu vào căn cứ, cả toán không một tên nào sống sót trở về mà không hề có một tiếng súng nổ. Cay cú, Hoàng Cao Khải cho lính dàn hàng ngang tiến vào. Bọn lính phải vượt qua những đám sậy cao tới 3 mét cùng những gai mỏ quạ, cà gai leo, gai dứa và những cây lá han đụng vào là sưng tấy nhức buốt đến tận xương. Khi chúng lội qua đầm lầy, kênh rạch thì vô vàn những con đỉa đói bám lấy mà hút máu. Quân giặc dò dẫm như đi vào mê hồn trận, đang lúc bàng hoàng chưa biết đi về hướng nào thì cờ đỏ phất lên, lập tức nghĩa quân nấp trong các hầm hào, địa đạo bí mật nổ súng.

Hơn ba chục tên đổ vật xuống giãy giụa trong vũng máu, bọn sống sót vừa nằm dán mình xuống đầm lầy tránh đạn thì nghĩa quân cầm kiếm, mã tấu, đoản đao xông ra đánh giáp lá cà. Trong trận hỗn chiến đó hàng chục tên lính Pháp, lính Nam bị giết chết bởi thứ vũ khí thô sơ mà chúng rất coi thường đó. Bọn còn lại bỏ những tên bị thương đang rên la cùng toàn bộ súng đạn để thoát thân. Bọn giặc nhìn thấy một hướng trống trải liền chạy xô cả về phía đó, chúng kinh hoàng khi đất lở dưới chân, cả bọn sa vào hố chông. Bị thiệt hại lớn, Hoàng Cao Khải điên khùng cho đốt Bãi Sậy thì chính lửa lại bao vây lấy chúng khiến chúng không có đường ra. Quá khiếp đảm, bọn lính Pháp, lính Nam không chờ lệnh chỉ huy đã tháo chạy như vịt. Trận này quân Pháp chết và bị thương tới bảy, tám phần mười quân số, súng hầu như mất gần hết. Nhưng thất bại lớn hơn cả là lính Pháp. Lính Nam rất kinh sợ nghĩa quân Bãi Sậy. Khi bị bắt đi đánh Bãi Sậy, nhiều tên bỏ trốn2.

Quân Pháp rút về đóng ở phủ lỵ Khoái Châu và nhiều lần xua quân đi đánh Bãi Sậy nhưng chúng không dám vào sâu vì sợ nghĩa quân phục kích, tập kích.
________________________________
1. Theo gia phả họ Đinh (Nguyễn) ở Thọ Bình.
2. Theo Lịch sử Việt Nam (tập I), Nguyễn Khánh Toàn chủ biên - Theo A de Miribel - Cuộc chiến đấu của nghĩa quân Bãi Sậy, Lịch sử Quân sự số 46, tháng 12-1989.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #6 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2016, 09:18:16 pm »


Nghĩa quân Bãi Sậy do Đổng Quế chỉ huy bị quân Pháp tấn công liên tục nhưng không bị tiêu diệt mà quân số ngày càng phát triển, được trang bị thêm nhiều súng bắn nhanh và dày dạn kinh nghiệm chiến đấu. Ban ngày nghĩa quân ở trong căn cứ, ban đêm đi tập kích các đồn địch. Nhân dân đã tự động làm công tác trinh sát, phát hiện các cuộc càn quét của giặc và báo cho nghĩa quân nên nghĩa quân đã kịp thời đón đánh chúng. Nghĩa quân không chỉ đánh giặc khi chúng xâm phạm vào căn cứ, mà còn tấn công các đồn binh Bình Phú, Lực Điền, Thụy Lân (Yên Mỹ), đồn Thứa (Mỹ Hảo), đồn phủ Ân Thi, đồn Thụy Lôi (Tiên Lữ), các đồn ở huyện Văn Giang và phục kích quân Pháp trên đường số 5, đường 391.

Bọn cầm đầu quân sự Pháp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ phải thú nhận: "Nghĩa quân vẫn thật sự cai trị các làng, còn bọn quan cai trị Pháp đặt ở các phủ huyện để cai trị dân thì tỏ ra bất lực và hoảng sợ trước sự phát triển của nghĩa quân, chúng bỏ trốn vào các tỉnh lỵ. Phần đông các tổng lý lại có cảm tình hoặc ủng hộ quân khởi nghĩa"2.

Vì vậy, quân Pháp phải rút khỏi Bãi Sậy, nhưng vẫn luôn luôn chú ý đến vùng này.

Từ đó, quân Pháp, quân Nam chỉ nghe tiếng Bãi Sậy là đã sợ hãi trốn tránh, không dám liều mạng vào chỗ chết. Chính Dilleman cũng phải thú nhận: "Khu vực Bãi Sậy bọn phản nghịch đương đầu với lực lượng của chúng ta và né tránh được các cuộc truy lùng. Tướng De Courcy đích thân đi tuần tiễu thành công một phần"3.

Cuối năm 1883, đầu năm 1884, trên toàn mặt trận, thế lực của Đổng Quế ngày càng lớn mạnh. Những khi quân Pháp đưa quân từ Hải Dương, Hải Phòng đến uy hiếp căn cứ Bãi Sậy thì Nguyễn Thiện Thuật đưa quân về đóng ở huyện Mỹ Hào để chi viện cho Đổng Quế, quân Pháp e ngại không dám tấn công Bãi Sậy vì sợ Nguyễn Thiện Thuật đánh tập hậu.

Nhưng rồi tình hình chiến sự biến động, sau khi vua Hiệp Hòa ký hòa ước với Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884 đặt Bắc Kỳ, Trung Kỳ dưới sự bảo hộ của Pháp, khi đó Bắc Kỳ có 13 tỉnh4 thì quân Pháp tăng cường đàn áp các cuộc khởi nghĩa, hoàn chỉnh bộ máy cai trị từ huyện đến tổng, xã.
________________________________
1, 2. Dilleman: Nhiệm vụ bình định và cuộc chiến đấu chống cướp bóc.
3. Hưng Yên địa chí của Trịnh Như Tấu.
4. Đại Nam thực lục chính biên, Quốc sử quán triều Nguyễn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #7 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2016, 09:22:39 pm »


Tới tháng 11 năm 1884, Chính phủ Pháp đưa thêm 6.000 quân tiếp viện sang chiến trường Bắc Kỳ. Chiến sự ở Phủ Lạng Thương, Lạng Sơn, Tuyên Quang có nhiều biến động. Nguyễn Thiện Thuật phải đưa quân lên các tỉnh đó phối hợp với các tướng Cai Kinh, Tổng Bưởi, Lưu Kỳ và quân Cờ Đen đánh Pháp. Thừa dịp đó, quân Pháp huy động quân tấn công căn cứ Bãi Sậy, nhưng Đổng Quế và các tướng lĩnh vẫn bảo vệ được căn cứ, đánh cho quân Pháp đại bại. Nghĩa quân còn liên tục tập kích các đồn địch ở Hưng Yên, vượt sông Hồng đánh sang Thường Tín, Thanh Trì, Phú Xuyên1.

Nhận xét về cuộc chiến đấu của Đinh Gia Quế, một quan chức Pháp viết trong quyển "La province de Hưng Yên" bằng tiếng Pháp, không ký tên tác giả, có đoạn như sau: "Từ năm 1883 đến năm 1885, giặc cướp nổi lên khắp nơi dưới sự chỉ huy của Đổng Quế. Lau sậy giúp họ có chỗ để ẩn nấp, lính tráng không vào được. Từ ngoài nhìn vào không thấy. Họ như đàn hổ náu sau bụi rậm. Bất thình lình nhảy ra vồ mồi. Điều đó giải thích tại sao các cuộc cố đánh dẹp, quân giặc thắng và đại nhân Hoàng Cao Khải lại thua”2.

Khoảng cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm 1885 (cuối tháng 6 đầu tháng 7 năm Ất Dậu), sau khi đánh thắng cuộc càn quét lớn của quân Pháp - Nam do Hoàng Cao Khải chỉ huy vào căn cứ Bãi Sậy, Đinh Gia Quế, Lãnh binh Nguyễn Đình Mai chỉ huy một cánh quân vượt sông Hồng đuổi theo quân Hoàng Cao Khải qua huyện Thường Tín đến tận làng Thanh Trì, huyện Thanh Trì (gần cảng Phà Đen, Hà Nội). Hoàng Cao Khải sắp bị bắt thì có kẻ đưa đi trốn, các ông liền dẫn quân quay về. Vì không phòng bị nên đến bến đò Vạn Phúc thì bị quân Pháp phục kích. Nghĩa quân thua to, tan rã; Đổng Quế phải chạy lên một làng ở gần bến đò Hồ (Thuận Thành, Bắc Ninh). Khoảng một tháng sau, ông trở về cùng một em bé khoảng bốn tuổi giả làm hai ông cháu về quê nhằm che mắt địch3. Quân Pháp truy sát ráo riết, ông phải lánh lên ấp Dương Trạch cũng ở trong tổng Bình Dân, huyện Đông Yên, trong căn cứ Bãi Sậy dưỡng bệnh. Khi đó ông đã tròn 60 tuổi, sức yếu nên bệnh ngày càng nguy kịch. Biết mình không cầm quân được, khó lòng qua khỏi, ông giao binh quyền cho Chánh đề đốc Nguyễn Đình Tính làm tổng chỉ huy nghĩa quân Bãi Sậy. Đổng Quế mất ngày 21 tháng 11 năm Ất Dậu (khoảng cuối tháng 12 năm 1885)4.

Còn Lãnh Sậy (Nguyễn Xuân Mai) bị quân Pháp truy kích ráo riết, ông phải cải trang làm nhà sư trốn vào đền Đại Lộ, huyện Thanh Trì. Vì có mật vụ chỉ điểm, ông bị giặc Pháp bắt chém đầu ở cửa đền Lộ, cắt đầu đem về Hưng Yên bêu, còn thân chôn dưới gốc gạo trước cửa đền5.

Sau khi Đinh Gia Quế bị ốm và Lãnh Sậy hy sinh, quân Pháp ráo riết đánh phá căn cứ Bãi Sậy, Chánh đề đốc Nguyễn Đình Tính cùng các tướng cố gắng duy trì được phong trào, nhưng chỉ giữ được căn cứ chính. Giữa lúc khó khăn đó thì Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật về trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, đưa cuộc khởi nghĩa lên quy mô lớn hơn trước.
___________________________________
1. La province de Hưng Yên, viết xong tháng 1-1933, không có tên tác giả.
2. Chúng tôi cho rằng tháng 7-1885, Đổng Quế vẫn rất mạnh, đánh bật Hoàng Cao Khải ra khỏi căn cứ Bãi Sậy còn vượt sông Hồng truy kích chúng đến tận làng Thanh Trì, huvện Thanh Trì, Hà Đông. Điều này phù hợp với gia phả họ Đinh (Gia Quế), họ Nguyễn (Xuân Mai) ở Thọ Bình.
3. Người đó sau trở thành con nuôi Đổng Quế, thành một chi họ ỏ Thọ Bình, nay cháu bốn đời mới tìm thấy quê quán ở Thuận Thành.
4. Tư liệu trên là do anh Nguyễn Văn Ứng, cháu bốn đời cụ Đinh Gia Quế cung cấp theo gia phả với tác giả.
    Tháng 7-1885, Nguyễn Thiện Thuật ở Long Châu về nước; tháng 8, ông đến căn cứ Bãi Sậy; tháng 9, ông làm lễ tế cờ khởi nghĩa ở văn chỉ Bình Dân, chắc chắn trước đó hai người đã gặp nhau bàn bạc công việc.

5. Theo gia phả họ Nguyễn Xuân do ông Nguyễn Đình Đối, cháu năm đời cụ Lãnh Sậy, thì gia đình vẫn cúng giỗ ông vào ngày 17-7 (âm lịch) là ngày ông đi đánh trận này. Trong bản "Danh sách nghĩa quân Bãi Sậy bị chặt đầu" của Phủ thống sứ Bắc Kỳ hiện lưu giữ ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I ở Hà Nội cũng ghi: "Sậy, Lãnh binh, sinh ở Thọ Bình, tổng Bình Dân, bị chặt đầu ở Hà Nội" là phù hợp với Quốc triều chính biên toát yếu và gia phả họ Nguyễn Xuân.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #8 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2016, 06:58:29 pm »


Câu hỏi 4: Cho biết đôi nét về Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật - người chỉ huy giai đoạn thứ hai và củng là giai đoạn quan trọng nhất của cuộc khởi nghĩa? Ông đã tổ chức lực lượng và phân công giao nhiệm vụ cho các tướng lĩnh như thế nào?
Trả lời:


Theo gia phả họ Nguyễn ở làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, tổng Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hải Dương (nay là thôn Xuân Dục, xã Lê Hồng Phong, huyện Mỹ Hào. tỉnh Hưng Yên) chép: Thủy tổ là Nguyễn Bặc - khai quốc công thần triều Đinh Tiên Hoàng. Tổ tiên gần là Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Anh Vũ, gốc tích ở làng Chi Ngãi, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, rồi chuyển về làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Thoạt đầu có một người trong chi họ Nhị Khê đi về làng Cổ Hiền, thôn Thái Công, sau một người trong chi họ Cổ Hiền tên là Nguyễn Gián đi về phường Hoè Nhai (Thăng Long) thành lập một chi. Nguyễn Gián có 3 người con trai. Người con thứ hai là Nguyễn Át khi lên 3 tuổi, Nguyễn Gián cho một người bạn thân ở làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, tổng Bạch Sam làm con nuôi. Năm 70 tuổi, Nguyễn Át còn làm Đồng tri phủ huyện Thăng Hoa. Nguyễn Át sinh ra Nguyễn Quý, tự Xuân Lan. Nguyễn Quý sinh ra Nguyễn Trọng. Nguyễn Trọng sinh được 3 con trai là Nguyễn Duy, Nguyễn Tuy, Nguyễn Trung. Người anh cả là Nguyễn Duy không có con trai, người em thứ ba là Nguyễn Trung chết trẻ. Nguyễn Tuy (hiệu Quảng Phường) lấy một bà họ Phạm, người làng Dị Sử, tổng Bạch Sam. Ông bà sinh được 4 người con trai là Nguyễn Thuật, Nguyễn Kế, Nguyễn Hiển, Nguyễn Dương.

Nguyễn Thuật sinh ngày 6 tháng 2 năm Giáp Thìn (23-3-1844), tự là Mạnh Hiếu tiên sinh. Nguyễn Thuật lấy bà chính thất là Nguyễn Thị Tuân, bà thứ là Trần Thị Thuần Tĩnh. Ông và 2 bà sinh được 2 con trai là Nguyễn Tuyển Chi, Nguyễn Thạc Chi, 2 người con gái, trong đó có một người là Nguyễn Thị Trúc.

Nguyễn Thuật thi Hương và đậu tú tài năm Canh Ngọ (1870), đỗ thủ khoa. Thấy ông là người thông minh, lanh lợi các quan tỉnh Hải Dương đưa về giúp việc quân.

Quan tỉnh giao cho Nguyễn Thuật đi dẹp giặc Tiên Viên. Ông cho quân vào đồn trinh sát, khi trở ra đụng quân tuần tiễu của Tiên Viên đi tuần về, hai bên bắn nhau, quân ông Thuật giết một số tên, bắt sống hai tên rồi rút. Vì mất yếu tố bất ngờ, ông Thuật cho quân bao vây triệt đường tiếp lương. Tiên Viên cho quân vào chợ cướp lương rồi phục quân của ông đổ ra đánh giết, thừa thắng tấn công vào đồn binh giết giặc, Tiên Viên cũng bị giết chết.

Nguyễn Thuật được triều đình thưởng Quân công bội tinh và được cử làm Bang biện phủ Kinh Môn. Nguyễn Thuật vừa làm việc quan vừa tự học. Khoa thi Bính Tý (1876), ông thi Hội ở Nam Định, đỗ cử nhân1, đỗ thủ khoa. Năm 1877, ông được bổ làm Tri phủ Từ Sơn (Bắc Ninh).

Vì có người cùng thời làm quan cũng tên là Nguyễn Thuật, ông làm sớ xin nhà vua cho đệm chữ Thiện, nhà vua ưng thuận, các em ông cũng đệm chữ Thiện.

Tháng 6 năm Kỷ Mão (8-1879), Nguyễn Thiện Thuật được thăng chức Tán tương quân thứ. Hai năm sau ông được thăng làm Sơn phòng chánh sứ, kiêm Tán tương quân thứ Sơn Tây. Ông cùng Thống đốc Hoàng Tá Viêm thu phục 16 châu từ Bắc Giang đến Sơn La, bình được Ba Bể, lập nhiều công to. Các em ông cũng theo việc quân và có tài như Nguyễn Thiện Hiển (sau được phong xuất đội, bị bệnh sốt rét chết ở đồn Vàng khi còn ít tuổi).
_________________________________________
1. Trong cuốn "Thi ca thời Cần Vương", Phan Canh và Đào Đức Chương viết: "Nguyễn Thiện Thuật sinh năm Tân Sửu (1841), người làng Xuân Dục, tổng Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Năm Nhâm Tý (1852), niên hiệu Tự Đức thứ 5, ông đỗ tú tài và được bổ làm Bang biện tỉnh Hưng Yên... Năm Tân Mùi (1871) niên hiệu Tự Đức thứ 24, ông đậu cử nhân, làm Tri phủ Từ Sơn, Bắc Ninh. Ông là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy chiến đấu bên cạnh Đô đốc Tạ Hiện, Tán lý Ngô Quang Huy, Tán lý Nguyễn Cao. Năm 1889, căn cứ Hai Sông bị quân của Hoàng Cao Khải vây rất chặt, nhưng ông được Đốc Tít đưa thoát khỏi vòng vây sang Trung Quốc. Từ đấy ông ở nhà Lưu Vĩnh Phúc tham gia đánh Pháp và ôm mối hận vong quốc cho đến ngày tạ thế".
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #9 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2016, 07:00:19 pm »


Ngày 10 tháng 7 năm Quý Mùi (9-8-1883), đại úy Briolval hạ thành Hải Dương, triều đình cử ông về làm Tổng đốc Hải Yên, đồng thời làm Phó Nguyên súy đạo binh đông bắc cho Thống đốc Hoàng Tá Viêm. Ông thành lập đạo quân gồm người Nam và người Khách ở huyện Đông Triều định thu phục Ninh Hải (Hải Phòng), nhưng việc không thành.

Ngày 20 tháng 8 năm 1883, triều đình ký với Pháp Hiệp ước Harmand ra lệnh cho các quân thứ Bắc Kỳ: "Phải lập tức triệt binh dũng lui để tỏ điều tin đối với nước đại Pháp ", đòi "quan lại đang đánh Pháp ở Bắc Kỳ về kinh đợi chỉ". Nguyễn Thiện Thuật kháng chỉ bỏ chức Tổng đốc Hải Yên về Đông Triều mộ quân đánh Pháp. Hưởng ứng lời kêu gọi của Nguyễn Thiện Thuật, nhiều bậc chí sĩ, quan lại, tổng lý, nông dân, dân nghèo, binh sĩ yêu nước đã nhiệt liệt tham gia và nổi dậy ở nhiều nơi.

Hoạt động của nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật làm cho quân Pháp chịu nhiều tổn thất nặng nề, chúng đã phải cay đắng thừa nhận: "Trong tất cả những kẻ thủ xướng, người quan trọng nhất, người mà tất cả những kẻ khác đều công nhận là bậc thầy của họ, người mà uy tín khiến cho tất cả đều tuân lệnh một cách mù quáng, người đó là tên phiến loạn cự phá hậu cần, thường gọi là Tán Thuật. Nếu Tán Thuật kêu gọi sự hợp tác của bọn giặc cướp để giúp đỡ ông trong cái nhiệm vụ cứu nước mà ông tiến hành chống chúng ta thì đó là ông cần phải có số đông người vì ông không được chọn lọc. Để đạt mục đích tất cả mọi phương tiện đối với ông đều tốt. Nhưng không vì thế mà không gọi ông là kẻ phiến loạn theo nghĩa chính trị của danh từ này. Trong những bản Tuyên cáo của ông, ông coi chúng ta như một kẻ thù tàn bạo, mọi rợ để đàn áp và dìm xứ sở này trong biển máu. Các thư từ giao dịch bắt được cho chúng ta biết ông có liên lạc với các thủ lĩnh nghĩa quân phiến loạn lớn khác ở Bắc Kỳ. Trong những bản Tuyên cáo của ông, ông thường xưng là "Đại tướng Đạo Tả quân", hay "Nguyên soái nghĩa binh Đông Đạo", hay "Bình Tây đại tướng". Nhân danh phái chủ chiến, ông ra lệnh cho những người trung nghĩa nổi lên và liên kết với nhau chiến đấu chống chúng ta ở bất cứ đâu có cơ hội tốt; ông hứa với họ sẽ có quân tiếp viện của Hoàng đế Trung Quốc liên tục gửi sang để giải phóng Bắc Kỳ”1

Nguyễn Thiện Thuật cũng quan hệ chặt chẽ với Đinh Gia Quế, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, ông về căn cứ Thọ Bình dự lễ tế cờ khởi nghĩa của Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế.

Chiều ngày 12 tháng 11 năm 1883, Nguyễn Thiện Thuật giao cho Lãnh Giang ở lại giữ Đông Triều, còn ông cùng Nguyễn Thiện Kế, Đề Vinh dẫn quân về đánh thành Hải Dương. 8 giờ tối, nghĩa quân bí mật bao vây thành, sắp tới giờ nổ súng thì cánh quân bên ngoài do Hai Kế chỉ huy chạm trán với toán quân Pháp đi tuần về nên buộc lòng phải nổ súng. Bọn Pháp nghe thấy súng nổ, liền leo lên mặt thành bắn ra ngoài ngăn không cho nghĩa quân tiến công vào thành.

Mặc dù mất yếu tố bất ngờ, Nguyễn Thiện Thuật vẫn quyết tâm đánh thành. Nguyễn Thiện Kế dẫn quân săn đuổi bọn lính tuần và chặn đánh bọn ở nơi khác đến cứu viện.

Trước sức tấn công mãnh liệt của nghĩa quân, thành Hải Dương lâm vào thế nguy ngập. Trời gần sáng, thành sắp bị hạ thì ông Thuật hạ lệnh ngừng công phá thành, bắn thưa thớt rồi lui quân. Ông Thuật vừa rút khỏi thành thì quân Pháp ở Bắc Ninh tới tiếp viện, nhưng quân ông Thuật đi đã xa2.

Sau trận hạ thành Hải Dương không thành, Nguyễn Thiện Thuật phối hợp với quân của Lưu Kỳ, với Đề đốc Tạ Hiện hoạt động ở vùng sông Thái Bình, Kinh Thầỵ, với nghĩa quân do Nguyễn Cao, Hoàng Văn Hoè chỉ huy tấn công quân Pháp đang chiếm đóng Phả Lại. Phả Lại lọt vào tay quân Pháp, ông đưa quân lên tham gia giữ thành Bắc Ninh, thành Hưng Hóa. Hai thành trên thất thủ, Nguyễn Thiện Thuật lên Lạng Sơn cùng Tổng Bưởi, Cai Kinh, Lưu Kỳ và quân Cờ Đen do Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy đánh quân Pháp ở Phủ Lạng Thương, Lạng Sơn, Tuyên Quang.
________________________________
1, 2. Dilleman: Nhiệm vụ bình định và cuộc chiến đấu chống cướp bóc.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM