Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:45:41 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Ba Đình  (Đọc 26970 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #10 vào lúc: 20 Tháng Mười Một, 2016, 10:43:43 pm »


Hoạt động có tiếng vang lớn trong giai đoạn này là cuộc tấn công của nghĩa quân toàn tỉnh vào thành Thanh Hóa đêm ngày 11 rạng sáng ngày 12 tháng 3 năm 1886. Từ chiều hôm 11, lợi dụng hôm sau là ngày phiên chợ tỉnh (mồng 7 tháng 2 năm Bính Tuất), Nguyễn Phương từ Tĩnh Gia dẫn 300 quân cảm tử cải trang làm người đi chợ, giấu khí giới (dao găm, kiếm...) vào các đòn ống1 hay giắt vào các gánh chiếu, gánh mía... kéo vào tỉnh lỵ. Đồng thời các cánh quân của Tống Duy Tân và Cao Điển từ Vĩnh Lộc theo đường Thiệu Hóa kéo xuống; Tôn Thất Hàm từ Nông Cống kéo ra; Đỗ Đức Mậu từ Quảng Xương kéo lên; Hà Văn Mao từ Thọ Xuân kéo về. Trong khi đó, Nguyễn Đôn Tiết đưa quân từ Hoằng Hóa lên chặn giặc bên tả ngạn sông Mã. Đúng vào lúc nửa đêm ngày 11 tháng 3, quân cảm tử xông vào hai cửa Tiền và cửa Tả, giết chết lính gác, rồi đột nhập thành đánh chiếm các nơi. Lính Pháp giữa đêm đột ngột bị dựng dậy, hốt hoảng cầm súng vừa chạy ra đã bị nghĩa quân tiêu diệt tại chỗ. Các công sở của địch cùng lúc bị tấn công, chánh văn phòng tòa sứ Buy-ve và trung úy Phơ-răng-cơ đều trúng đạn bị thương.

Nghĩa quân thừa thắng, đánh cả bọn Pháp lẫn bọn ngụy kéo tới cứu nguy cho chủ, nhiều tên chết, một số chạy trốn tán loạn, số còn lại rút vào đồn cố thủ. Lửa cháy rực trời, trống mõ khua vang, tiếng nghĩa quân hò reo dậy đất, cuộc chiến đấu kéo dài đến gần sáng. Nhưng giặc Pháp có ưu thế về vũ khí cố bám lấy công sự, nghĩa quân không sao tiêu diệt hoàn toàn bọn chúng nên phải rút lui. Tống Duy Tân và Cao Điển rút quân về Yên Định; Nguyễn Phương và Tôn Thất Hàm cũng rút quân về xây dựng căn cứ Ẩn Lâm ở miền nam Nông Cống. Tên thiếu tá Tê-ri-ông tức tối đưa quân từ Nam Định vào cứu nguy cho bọn chúng. Nghĩa quân tuy không chiếm được thành Thanh Hóa nhưng đã tiêu diệt được một lực lượng địch, trận đánh có tác dụng phát động phong trào toàn tỉnh, giặc Pháp và bè lũ tay sai hoảng vía kinh hồn phải xin quân vào tăng cường.

Cùng với việc mạo hiểm đánh úp thành tỉnh, nghĩa quân Thanh Hóa trong đêm hôm đó còn đột phá huyện lỵ Đông Sơn.

Tê-ri-ông đã tiến hành một cuộc hành quân càn quét quy mô lớn trong vòng hơn một tháng từ ngày 25 tháng 3 đến ngày 26 tháng 4 năm 1886 trên một vùng rộng lớn bao gồm các huyện Thiệu Hóa, Yên Định, Thọ Xuân, Quảng Hóa, Quan Hóa, lan rộng ra cả các vùng Thạch Bi, Mai Châu tỉnh Hòa Bình.

Đây là chiến dịch càn quét lớn nhất của giặc Pháp ở Thanh Hóa vào đầu năm 1886. Nhưng đây cũng là lúc nghĩa quân phục kích chặn đánh nhiều trận lớn, tiêu diệt nặng lực lượng bình định của chúng trên đường hành quân lấn chiếm. Như các trận An Luỹ2 (26-3-1886), làng Si và Thạch Lẫm3 (7-4-1886), buộc chúng cuối cùng phải quay trở lại Quảng Hóa cắm chốt ở đây để án ngữ con đường sông Mã.

Cũng trong thời kỳ này, nghĩa quân Hậu Lộc do Hoàng Bật Đạt chỉ huy đã phối hợp với nghĩa quân Quảng Xương của Đỗ Đức Mậu, Hoằng Hóa của Nguyễn Đôn Tiết, Nông Cống của Tôn Thất Hàm tấn công đánh chiếm huyện Hoằng Hóa (Bút Sơn) vào mờ sáng ngày 24 tháng 5 năm Bính Tuất (6-1886). Trận đánh diễn ra giữa ban ngày, nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, xung phong hết đợt này tới đợt khác. Nhưng giặc Pháp có ưu thế hơn hẳn về vũ khí, lại có viện binh từ tỉnh lỵ kịp thời về cứu viện nên họ phải rút lui.
_______________________________________
1. Ở Thanh Hóa nông dân thường dùng đòn gánh bằng tre ruột rỗng, gọi là "đòn ống".
2. An Luỹ (còn gọi là An Bình) nay là thôn Bình Yên, xã Định Tường, huyện Thiệu Yên. Tên gọi thông thường là Quán Láo.
3. Nay đều thuộc huyện Thiệu Yên.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #11 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2016, 11:29:35 pm »


Câu hỏi 4: Hòa nhịp với phong trào chung trong tỉnh của người Kinh và người Mường, phong trào đấu tranh của đồng bào Thái ở miền tây Thanh Hóa cũng phát triển mạnh mẽ. Cho biết về phong trào của đồng bào Thái dưới sự lãnh đạo của Cầm Bá Thước?
Trả lời:


So với phong trào của đồng bào Mường do Hà Văn Mao cầm đầu thì phong trào của đồng bào Thái được nhen nhóm lên chậm hơn. Nhưng ngay sau khi vua Hàm Nghi ra lời kêu gọi chống Pháp xâm lược (13-7-1885) thì đồng bào Thái đã tức thời hưởng ứng, sôi nổi đứng dậy dưới sự lãnh đạo của Cầm Bá Thước. Trong hành động cứu nước kịp thời của mình, họ đã lôi cuốn đông đảo nhân dân các dân tộc trong vùng, cùng với sự phối hợp chặt chẽ với đồng bào Kinh dưới xuôi.

Cầm Bá Thước sinh năm Kỷ Mùi (1859) tại chòm Lùm Nưa1, tổng Trịnh Vạn, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Gia đình ông đời đời làm lang đạo trong vùng. Cha ông là Cầm Bá Tiến từng giữ chức quản cơ triều Nguyễn và về sau được cai quản cả miền núi rừng miền tây Thanh Hóa. Đến Cầm Bá Thước, tháng 9 năm 1883, ông được cử giữ chức bang biện quân vụ hai châu Thường Xuân và Lang Chánh. Năm 1885, khi quyết định khởi nghĩa, ông đã chọn ngay quê hương Trịnh Vạn là nơi ông am hiểu địa hình địa vật và nắm chắc sự ủng hộ của nhân dân làm căn cứ.

Khác với hai cứ điểm Ba Đình và Mã Cao được xây dựng ở đồng bằng và trung du, cứ điểm Trịnh Vạn giống với Điền Lư lại hình thành trên miền rừng núi. Trịnh Vạn2 là một thung lũng rộng khoảng 3 kilômét vuông, nằm sâu trong vùng núi rừng hiểm trở có nhiều núi cao và suối sâu chia cắt. Từ trung tâm Trịnh Vạn có ba ngả đường tỏa đi các nơi: ngả thứ nhất men theo sông tới Cửa Đặt rồi xuôi dòng sông Chu về Bái Thượng; ngả thứ hai xuôi về Hậu Lộc, Thọ Thắng rồi theo sông Luộc về Như Xuân; ngả thứ ba từ Trịnh Vạn tới làng Hang, theo suối Bọng và sông Khao, rồi ngược lên phía bắc. Từ Trịnh Vạn cũng có những con đường hẻm xuyên rừng vào Nghệ An.

Suốt trong mười năm đấu tranh vũ trang của đồng bào Thái, căn cứ Trịnh Vạn luôn luôn giữ vị trí trung tâm của cuộc khởi nghĩa3. Để duy trì cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ, nghĩa quân đã phối hợp với nhân dân trong vùng dựng lên tại đây cả một hệ thống đồn trại kiên cố, trong đó Bù Lẹ là đồn quan trọng nhất. Đồn này nằm trên một ngọn đồi cao khoảng 50 mét giữa thung lũng, phía bắc có dãy núi đá vôi sừng sững chắn giữ, phía đông nam có sông Đặt chở che, còn hai phía đông tây tiếp liến đồng rộng, đều có hào cao, luỹ sâu và bãi chông bảo vệ.

Đồn Bù Lẹ có cả một hệ thống cứ điểm để bảo vệ và hỗ trợ, trước mặt có các đồn Bù Đồn, Đồng Chong; bên kia sông Đặt có đồn làng Tột. Đồng thời, để bảo vệ cẩn mật toàn khu căn cứ Trịnh Vạn, nghĩa quân còn bố trí các đồn trại tỏa rộng trên một vùng rộng lớn Thường Xuân, chốt giữ các ngả đường chính, có tác dụng ngăn chặn đòn đánh địch khi chúng kéo tới. Đồn Hón Đồn (Đồn Sơn) ở ngoài cùng án ngữ con đường từ Bái Thượng vào.
____________________________________
1. Tức mường Chiền Ván, nay thuộc xã Vạn Xuân.
2. Nay thuộc hai xã Vạn Xuân và Xuân Lệ.
3. Trước đây có ý kiến cho rằng Cầm Bá Thước đóng quân ở Sầm Sơn thuộc huyện Quảng Xương. Căn cứ vào thư tịch cũ kết hợp với điều tra thực địa, cho thấy Sầm Sơn (núi Sầm hay núi Khầm) tuy nay chưa xác định được cụ thể vị trí nhưng chắc chắn không thể nằm dưới miền biển, mà phải thuộc vùng rừng núi phía tây Thanh Hóa, có thể mở rộng xuống phía nam giáp Nghệ An, hay nằm sâu bên kia biên giới Việt - Lào. Đây chính là căn cứ khởi nghĩa đầu tiên của Tống Duy Tân. Khi nghe tin Tống Duy Tân phất cờ chống Pháp, Cầm Bá Thước đã kéo quân theo, nhưng căn cứ chính của ông lại ở Trịnh Vạn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #12 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2016, 11:30:59 pm »


Đứng vào nơi gặp gỡ của hai đường thủy bộ, trước mặt là sông Chu, sau lưng là núi đá và rừng rậm, đồn Hón Đồn có tác dụng lớn trong việc ngăn chặn những cuộc xâm nhập của địch vào căn cứ. Cách Hón Đồn 5 kilômét về phía tây có đồn Cửa Đặt, cũng ở vào một vị trí quan trọng, vừa là ngã ba đường thuỷ của sông Đặt và sông Chu gặp nhau, vừa là ngã ba đường bộ. Đồn này có nhiệm vụ trấn giữ trực tiếp mặt trước Trịnh Vạn. Dọc theo sông Đặt, trên đường vào Trịnh Vạn nghĩa quân còn đặt một số chốt phục kích, ở phía tây bắc, dọc theo sông suối có các đồn Nhâm Trầm (Xuân Mỹ), Vực Bạch (làng Nhân)... Trên đường từ Nông Cống lên, ven theo bờ sông Lược có các đồn Pà Cầu và Pỏm Pai1. Nằm sâu vào phía sau căn cứ là các đồn Cọc Chẽ, Hòn Bòng có nhiệm vụ bảo đảm việc liên hệ với Nghệ Tĩnh khi cần thiết.

Cầm Bá Thước trực tiếp cầm quân đóng giữ đồn trung tâm Bù Lẹ, đồng thời chỉ đạo hoạt động của các đội nghĩa quân trong toàn căn cứ. Ông đã cử những người cộng sự đắc lực tới phụ trách các đồn quan trọng, như đốc Thận đóng giữ ở Hón Đồn, Lê Trọng Nhung ở Nhân Trầm, Vực Bạch, Tấn Tín ở Cửa Đặt, Vực Thang, Thác Làng.

Lực lượng chính của nghĩa quân, ngoài những người tình nguyện thuộc các dân tộc ít người của các châu Thường Xuân, Như Xuân, Lang Chánh, Ngọc Lặc tỉnh Thanh Hóa chiếm phần đông đảo, còn có đồng bào Thái miền tây Nghệ An dưới sự chỉ huy của Lang Văn Thiết và Lang Văn Hạnh, Quản Thông và Quản Thụ2, cũng như còn có một số người Lào ở mạn Sầm Tớ do Tạo Công phụ trách.

Vũ khí của nghĩa quân ngoài một số thô sơ như giáo mác, súng kíp, cung nỏ và tên tẩm độc, cũng có một số súng trường lấy được của giặc Pháp hoặc do Phan Đình Phùng cung cấp. Khi nghĩa quân Cầm Bá Thước đã trở thành một quân thứ của nghĩa quân Nghệ Tĩnh (Thanh thứ) nghĩa quân còn bố trí các giàn đá, lao gỗ, bãi chông ở những nơi ven theo vách núi cao, hay dọc theo bờ vực sâu để bố trí các trận phục kích lợi hại tiêu diệt địch.

Đứng về danh nghĩa, phong trào do Cầm Bá Thước phụ trách là một bộ phận của phong trào chung và do bộ chỉ huy phong trào Cần Vương toàn tỉnh phụ trách. Trần Xuân Soạn là người thay mặt vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết tại Thanh Hóa đã nhiều lần cùng Cầm Bá Thước bàn bạc kế hoạch xây dựng lực lượng và tổ chức chiến đấu.

Sau một thời gian tổ chức, xây dựng và củng cố lực lượng, nghĩa quân Cầm Bá Thước đã đẩy mạnh hoạt động không chỉ trên địa bàn cơ sở, mà còn phối hợp với các cánh nghĩa quân khác trong tỉnh, gây cho địch tổn thất nặng nề về quân sự, cũng như về chính trị.
____________________________________
1. Hai đồn này đều thuộc chèm Pà Cầu, xã Thắng Lộc, huyện Thường Xuân.
2. Lang Văn Thiết và Lang Văn Hạnh quê làng Gia Hội; Quản Thông và Quản Thụ quê làng Kim Sơn, đều thuộc huyện Quỳ Châu, Lang Văn Hạnh sau hàng Pháp.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #13 vào lúc: 22 Tháng Mười Một, 2016, 10:18:48 pm »


Câu hỏi 5: Những năm 1872-1874, thực dân Pháp đánh ra Bắc Kỳ, Đinh Công Tráng đã tổ chức đánh Pháp như thế nào? Trình bày diễn biến, kết quả các trận đánh thời kỳ này?
Trả lời:


Thực dân Pháp có dã tâm xâm lược nước ta từ lâu. Dựa vào cam kết của Nguyễn Ánh, chúng đã dùng bọn giáo sĩ và con buôn hoạt động gián điệp, gây cơ sở trong giáo dân, làm cho những mâu thuẫn dân tộc thêm gay gắt, đẩy đất nước ta vào tình cảnh rối ren.

Sau khi bị thực dân Anh gạt ra khỏi Ấn Độ, Pháp lo lắng mất miếng mồi béo bở Việt Nam khiến chúng ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta. Năm 1843, Thủ tướng Pháp Guy-dô tuyên bố: "Nước Pháp cần có hai đảm bảo ở Viễn Đông là: một căn cứ quân sự ở biển Trung Quốc và một thuộc địa ở gần Trung Quốc"1. Viện cớ triều đình Huế ngược đãi giáo sĩ và cự tuyệt không nhận quốc thư của Pháp đòi tự do buôn bán, sáng mùng 1 tháng 9 năm 1858, Pháp gửi tốỉ hậu thư cho Tổng đốc Nam Ngãi rồi tấn công chiếm bán đảo Sơn Trà và chiếm lục tỉnh. Nhân dân Nam Kỳ nổi dậy chiến đấu cùng một số quan triều chủ chiến. Nhưng triều đình nhu nhược chỉ lo dàn xếp giảng hòa, ra lệnh cho các đội nghĩa dũng và quân triều bãi binh. Ai trái lệnh thì trị tội. Giữa lúc phong trào kháng chiến lên cao, Pháp đang lúng túng ở Mê-hi-cô thì triều đình Huế vội vã ký hòa ước.

Năm 1872, tên lái buôn Giăng Đuy-puy có giấy phép của tổng đốc Lưỡng Quảng thay mặt "thiên triều" yêu cầu Huế cho hắn ngược đường sông Hồng. Suốt năm 1872 - 1873, hắn liên tiếp khiêu khích, cướp phá, thậm chí còn đánh đồn canh của ta ở ven sông Hồng. Vua Tự Đức truyền chỉ cho tổng đốc Hà Nội Nguyễn Tri Phương: "Không được khiêu khích sinh sự"2. "Quan lại ở Hưng Yên khám xét binh thuyền của Đuy-puy, bị triều đình phạt giáng cấp"3.

Ngày 21 tháng 8 năm 1873, Tự Đức lại cử phái bộ vào Sài Gòn, yêu cầu Pháp cử người ra Bắc Kỳ dàn xếp vụ Đuy-puy. Do đó, Pháp được đàng hoàng ra Bắc.

Ngày 11 tháng 10 năm 1873, thiếu tá hải quân Gác-ni-ê đem 180 quân ra Hà Nội. Hắn hội quân với Đuy-puy, liên hệ với giám mục Puy-gi-ni-ê tập hợp bọn phản động đội lốt phe đảng nhà Lê tuyển mộ ngụy quân, ngụy quyền. Và ngày 20 tháng 11 năm 1873, giặc đánh thành Hà Nội, thành bị tấn công ba mặt, trong có nội phản. Sau bốn giờ chống đỡ thì thành vỡ. Nguyễn Tri Phương bị thương, rồi hy sinh. Quan triều chạy trốn bỏ mặc 80 lính chết và hơn 3.000 lính bị thương. Trong ba tuần lễ, chúng chiếm xong Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Bắc Ninh, Ninh Bình. Ngày 26 tháng 11 năm 1873, tên thiếu úy Ban-ni-dơ A-vơ-ri-cua cùng sáu tên lính Pháp đánh Phủ Lý. Chưa đầy nửa giờ, tri phủ Tôn Thất Hậu trong tay có trên một nghìn lính mà bỏ chạy trốn. Năm giờ sáng ngày 5 tháng 12 năm 1873, tên già Sáu và Thừa Diệu dẫn năm lính Pháp do tên quản Hốt-tơ-phơi chớp nhoáng đánh Ninh Bình. Viên án sát tỉnh này sợ chết, nộp thành cho chúng. Nhiều tên tổng đốc, bố chánh... vừa thấy giặc đã "gối run như chứng phong kinh, mặt xám như hình lôi đả", chỉ có một số văn thân sĩ phu là quyết "quét sạch sành sanh quân thù"4. Họ tổ chức đánh địch ở khắp nơi. Trên các phường phố, các làng ngoại thành Hà Nội như ở Cửa Bắc, Gia Lâm, Hoài Đức đều có nghĩa quân đánh giặc. Gác-ni-ê phải thú nhận "Chiếm thành dễ hơn đóng giữ"5. Trong khi đó triều đình nhà Nguyễn nhai đi nhai lại cái sách lược "thủ để hòa". Căm giận bọn xâm lược hung tàn, bọn vua quan hèn nhát, bọn tay sai bán nước, đốc học Phạm Văn Nghị chiêu mộ nghĩa quân chống giặc ở Nam Định.
_____________________________________
1. Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 31.
2. Sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu, Sài Gòn, 1872, tr. 368-369.
3. Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985. tr. 63.
4, 5. Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985. tr. 64, 65.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #14 vào lúc: 22 Tháng Mười Một, 2016, 10:20:16 pm »


Không thể ngồi nhìn giang sơn chìm đắm, ngay từ những ngày đầu Pháp ra Bắc Kỳ, Đinh Công Tráng đã chiêu mộ trên một trăm nghĩa sĩ lập đồn tại nhà mình, ngày đêm luyện tập, canh phòng nghiêm ngặt. Ngày 6 tháng 10, ông kéo quân xuống Nam Định yết kiến thầy học rồi trở về, gửi thư đi tám tổng trong huyện kêu gọi văn thân làm đại nghĩa. Từ buổi thắng kiện Thừa Diệu, Đinh Công Tráng đã có uy tín lớn nên thư đi tới đâu nghĩa khí bừng lên tới đó. Các nhóm nghĩa dũng được thành lập. Ở Tín Đôn tổng Mỹ Xá có cai Trăm, Đồng Duyên có Bá Mợi, Chi Truật có Tú Tốn, Vĩ Khách có Ngự Mai. Ở Cẩm Du (Bưởi) có nghĩa quân cai Thịnh đông tới hàng trăm người. Mễ Tràng có Bá Nguyên, Bằng Khê có Bá Mỹ, tổng Động Xá có cụ đồ Bùi thôn Nguyễn Trung. Ở Cổ Động có Bang Miết...

Thời kỳ đầu các nhóm văn thân hoạt động riêng lẻ. Nghĩa dũng chủ yếu là tuần đinh, trai tráng tự trang bị vũ khí thô sơ. Lương thực, quân trang dựa vào quyên góp, tự cung tự cấp. Cả chỉ huy và tráng binh đều chưa được huấn luyện đào tạo quân sự. Vì vậy sức mạnh chiến đấu không vững vàng. Có nơi giặc vừa tràn qua, thủ lĩnh đã khiếp sợ, giải giáp vũ khí như Bá Nguyên ở Mễ Tràng... Phong trào tuy nở rộ nhưng phân tán manh mún, dễ tan vỡ.

Trước tình hình đó, Đinh Công Tráng lại về Nam Định yết kiến thầy học. Trở về, ông mời các văn thân toàn huyện họp tại nhà cai tổng Bưởi, bàn bạc thống nhất lực lượng, mở hội thề tử sinh một dạ. Các văn thân tôn Đinh Công Tráng làm thủ lĩnh và lập bốn doanh trại chống giặc tại các làng: Nham Chàng, Bưởi, Lác Chiều, Hương Ngãi.

      "Đạo tây đóng ở làng Chàng
      Đạo đông làng Bưởi quân quan cũng nhiều
      Đạo nam đóng ở Lác Chiều
      Bắc phương Hương Ngãi củng nhiều quan gia".

                                                           (Vè lãnh Chàng)

Đây là các làng giữa đồng chiêm trũng, độc đạo, xung quanh có luỹ tre bao bọc. Nghĩa quân dùng rơm bùn đắp theo luỹ tre thành những làng chiến đấu giữa đồng nước.

Vũ khí, lương thực, quân trang chủ yếu dựa vào quyên góp. Nghĩa quân huấn luyện cấp tốc ngay trong đồn ải.

Đinh Công Tráng quyết định phải đánh thắng địch từ ngay những trận đầu để mở mang thanh thế. Đêm 14 tháng 12 năm 1873, ông mở cuộc tấn công chớp nhoáng vào trại Cần (nay thuộc xã Thanh Tân). Đây là một doanh sở lớn của Kẻ Sở, có hai giáo sĩ Pháp, nhiều tu sĩ, chứa nhiều lương thảo hàng hóa trong kho, do một tiểu đội lính dõng, một trung đội vệ sĩ canh giữ. Nghĩa quân dùng gần năm trăm quân do Đinh Công Tráng trực tiếp chỉ huy bí mật bao vây, bất ngờ tấn công, bắt sống toàn bộ tiểu đội lính, thu toàn bộ vũ khí, giải tán đội vệ sĩ. Lương thực, thực phẩm, hàng hóa thu được gần trăm tấn. Ông chia một phần lương thực cho dân nghèo ăn Tết, phần để lại dự trữ nuôi quân. Nhân dân nức lòng phấn khởi tin theo nghĩa quân.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #15 vào lúc: 22 Tháng Mười Một, 2016, 10:21:44 pm »


Thừa thắng Đinh Công Tráng tiếp tục tấn công Kẻ Sở - trung tâm công giáo Bắc Kỳ lúc đó, cách trại Cần chừng 6 kilômét. Khí thế nghĩa quân như triều dâng, thác đổ. Nhân dân các làng cũng gậy gộc kéo đến rất đông. Bọn giặc ở đây có một đại đội lính dõng do ba sĩ quan Pháp chỉ huy, hàng chục giáo sĩ Pháp cùng hàng trăm tu sĩ tín đồ, trong đó có giám mục Puy-gi-ni-ê (cố Phước) - đứng đầu các giáo sĩ hoạt động trên đất Bắc. Tên này cực kỳ nguy hiểm, chuyên gây cơ sở phản động và bày mưu kế cho bọn tướng Pháp ở Hà Nội. Giặc chống trả được một lúc thì hốt hoảng bỏ chạy. Cố Phước phải trốn vào chuồng lợn nhà một giáo dân bốn ngày mới thoát được ra ngoài. Ta hạ đồn, ở lại Kẻ Sở ba ngày để thu vũ khí lương thảo, ổn định dân tình, giáo dục lính dõng rồi tha về.

Trận này ta diệt 20 tên, bắt sống 100 tên, thu nhiều súng các loại, hàng trăm tấn thóc và vải vóc. Nghĩa quân chia cho dân nghèo khoảng một nửa số lương thực. Còn lại đưa về cất giấu tại rừng Chàng.

Sau khi Đinh Công Tráng và nghĩa quân rút đi, cố Phước cho tay chân đến các giáo dân được nghĩa quân chia lúa bắt phải trả lại, nếu không sẽ bị rút phép thông công.

Sau hai trận mở màn đánh vào “dạ dày” của địch thắng lớn, Đinh Công Tráng cho nghĩa quân tạm dừng để rút kinh nghiệm, chỉnh đốn đội ngũ, huấn luyện quân đội, củng cố trận địa hầm hào đồn luỹ cả bốn doanh trại, chuẩn bị đối phó bọn giặc tấn công trả thù.

Phong trào đánh Pháp các nơi cũng lên mạnh. Ngày 19 tháng 12 năm 1873, bộ chỉ huy quân Pháp ở Sài Gòn gửi thêm ra Bắc một trăm tên lính hải quân pháo thủ. Chúng chủ trương tấn công Sơn Tây, tiêu diệt Hoàng Kế Viêm - tổng đốc Tam Tuyên, mở đường chiếm thượng du, làm chủ sông Hồng, thông thương với Vân Nam Trung Quốc.

Hoàng Kế Viêm cử người đi vời quân Cờ Đen - dư đảng của Thái Bình Thiên Quốc do Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy. Lưu tướng quân kéo về phía tây Hà Nội, dán cáo thị kêu gọi giặc Pháp ra hàng và bao vây Bắc Ninh. Gác-ni-ê mời giám mục Phước hội kiến. Ngày 21 tháng 12 năm 1873, chúng đem quân ra cửa tây tấn công ta ở Cầu Giấy. Cuộc chiến đấu diễn ra suốt buổi chiều. Gác-ni-ê bị chém đầu. Nhiều sĩ quan và binh lính Pháp bỏ mạng. Giặc hoang mang dao động. Nhiều viên chỉ huy định bỏ thành. Phong trào kháng chiến khắp nơi lên mạnh. "Viên Bộ trưởng Hải quân và thuộc địa cấp tốc điện cho Sài Gòn phải trao trả lại Hà Nội và không thể chiếm đóng lâu dài ở bất kỳ nơi nào ở Bắc Kỳ"1.

Tin chiến thắng lan truyền khắp nơi. Ở Thanh Liêm, phong trào văn thân càng lên mạnh. Để giải nguy cho Kẻ Sở - một trung tâm giáo hội lớn - nơi đầu não giáo sĩ phản động ở Bắc Kỳ, bọn giặc quyết định tập trung lực lượng tiêu diệt cứ địa Chàng.
_____________________________________
1. Lịch sử Việt Nam, tập 2. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 65.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #16 vào lúc: 22 Tháng Mười Một, 2016, 10:22:23 pm »


Địch huy động lính tay sai ở Nam Định, Phủ Lý, Duy Tiên, Nam Sang, Bình Lục, Thanh Liêm, Ý Yên, bọn phản động đội lốt tôn giáo ở Tâng (Bang Diệu), Kẻ Sở, Khắc Cần. Chúng bắt giáo dân khỏe mạnh đem theo gậy gộc, giáo mác cùng một trung đội Pháp ở Hà Nội tăng cường cho Kẻ Sở, một tàu chiến giặc chở một trung đội lính lê dương tấn công vào làng Chàng.

Nắm được kế hoạch của địch từ trước, Đinh Công Tráng ra lệnh cho các cứ địa tản quân ra các làng xung quanh, chỉ để lại một lực lượng nhỏ trong thành. Riêng đại bản doanh Chàng, ông đưa dân đi sơ tán, chuyển một bộ phận sang rừng, chỉ để lại một bộ phận rất nhỏ trong làng. Trên núi, căn cứ Chàng treo rất nhiều cờ.

Sáng 16 tháng 1 năm 1874, tàu chiến giặc án ngữ sườn tây làng. Giặc tràn từ Yên Phú sang, Kẻ Sở xuống, từ Kênh Thừa lên ước chừng gần 1.000 tên. Cứ địa Chàng vẫn nổi trống, đàn sáo, nhị để hát chèo. Khung cảnh vẫn bình lặng, thanh bình. Giặc gọi hàng. Trống chèo, đàn hát vẫn nổi lên. Cờ thần, cờ xí, cờ đại của nghĩa quân tung bay. Giặc sợ trúng kế mai phục không dám đánh, chờ đợi và mệt mỏi. Chiều tối, một trung đội lính tiến vào, làng vẫn trống không vắng vẻ, tiếng hát chèo vẫn vang lên ngân nga. Toán giặc run sợ lò dò tiến gần vào thành. Bỗng pháo lệnh nổ vang. Tiếng hô xung phong vang rộ. Giặc hốt hoảng xô vào trong hầm cần bật mìn tự tạo. Các làng bên, chiêng trống nổi lên và tiếng mìn, tiếng súng nổ dữ dội. Chúng đành lùi xa làng để nghe ngóng. Lợi dụng đêm tối, Đinh Công Tráng rút hết quân lên làng Đừng và rừng Chàng. Sáng hôm sau, giặc bao vây dày đặc rồi tràn vào làng lùng bắt nghĩa quân.

Ngày 18 tháng 1 năm 1874, giặc ồ ạt vượt sông Đáy tấn công vào rừng Chàng. Nghĩa quân chặn giặc từ các luỹ tre ven bờ sông rồi theo giao thông hào rút vào đầu ngòi. Giặc đuổi theo, tráng binh áo xanh bỏ chạy. Giặc xua quân truy kích. Tất cả có tới ba bốn trăm tên. Bỗng thần công nổ. Trên núi Đá Rãi vang dậy tiếng hô xung phong. Bay đá đồng loạt đổ xuống. Trên đoạn đường dài một kilômét, đá ào ào, vang động như thác đổ. Giặc hốt hoảng chạy trở lại thì bị nghĩa quân phục sẵn ở hang Phường Chèo, hang Lý Chính, hang Đất, hang Trống khóa đuôi. Nghĩa quân từ núi Rồng bắn ra, từ đầu ngòi bắn vào, từ những hang sườn núi bắn tỉa, đá từ trên đỉnh núi to nhỏ lăn xuống. Giặc hoảng hốt lao ra cánh Dải Cờ lầy lội, cố sống cố chết chạy tháo lui. Nhiều tên bị đá đè ngay chân núi. Nhiều tên bị chết chìm dưới đầm lầy. Trận này giặc chết và bị thương gần trăm tên, trong đó có gần ba mươi lính Pháp. Ta cũng hy sinh trên hai chục nghĩa quân.

Bị thua đau, nhưng giặc quyết tiêu diệt cứ địa Chàng, dập tắt phong trào văn thân Thanh Liêm. Chúng đóng quân tại làng Chàng, tăng quân cho đồn Tâng, Khắc Cần và Kẻ Sở. Tàu chiến tuần tiễu từ đồn Vĩ tới Kiện Khê và đỗ tại cống Chàng.

Thắng lớn, Đinh Công Tráng định tập trung lực lượng đánh đồn Tâng, đuổi giặc khỏi làng Chàng và Khắc Cần nhưng lực lượng địch quá mạnh. Để bảo toàn lực lượng, ông để lại một số ít nghĩa quân ở các doanh trại, còn đại quân rút về tổng Mỹ Xá cùng Tú Tốn. Sau đó nghĩa quân của ông xuống Ý Yên phối hợp với nghĩa quân của Phạm Nhân Nghĩa.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #17 vào lúc: 22 Tháng Mười Một, 2016, 10:23:55 pm »


Tưởng nghĩa quân còn đóng ở làng Đừng cách Khắc Cần chừng trên một kilômét, tên chó săn Thừa Diệu dẫn giặc bao vây tiêu diệt làng Đừng đêm 19 tháng 1 năm 1874. Giặc tràn vào làng lùng sục, cướp bóc, hãm hiếp và bắn giết tất cả không từ một ai, kể cả cụ già, trẻ sơ sinh, phụ nữ có thai rồi san bằng nhà cửa làng xóm. cả làng chỉ sót một bà già đến thăm con gái đẻ tại thôn Trung Thứ, xã Thanh Thuỷ và một bé trai 13 tuổi. Từ đó, không còn làng Đừng nữa. Nỗi đau đớn này càng ghi sâu tội ác dã man của lũ cướp nước và tay sai bán nước, tiêu biểu là tên Thừa Diệu.

Ở lại ít hôm, giặc rút khỏi làng Chàng, để lại một số quân tăng cường cho đồn Tâng, Kẻ Sở, Non rồi rút trở về Nam Định, Phủ Lý.

Được Đinh Công Tráng giao nhiệm vụ chỉ huy ở Thanh Liêm, sư So cùng các tướng khác tuyển mộ thêm quân, tích trữ lương thảo, huấn luyện quân đội, xây dựng cứ địa. Đinh Công Tráng hợp quân với Tú Tốn, Phạm Văn Nghĩa chuẩn bị một chiến dịch hoạt động lớn ở vùng Sơn Nam Hạ (Nam Định, Ninh Bình, Phủ Lý). Lúc này nghĩa quân lên tới bảy nghìn người.

Pháp sai đề đốc Định đánh úp nghĩa quân ở An Hòa. Giặc bị đánh tan tác, Định bị bắt sống.

Thừa thắng, Đinh Công Tráng liên tiếp tấn công và thắng giặc ở Tàng Bàng, Mai Độ, giải phóng phủ Bo (Ý Yên), Chợ Dần (Vụ Bản) rồi kéo về đánh chiếm Non, tiến lên giải phóng Phủ Lý. Lê Văn Ba - tên tay sai chỉ huy thành Phủ Lý bỏ chạy về Nam Định. Sau một loạt chiến thắng liên tiếp, vua Tự Đức phong cho Đinh Công Tráng là Hiệp quản.

Phong trào kháng Pháp tại các tỉnh lên cao. Lực lượng nghĩa quân lớn mạnh. Phối hợp với các thủ lĩnh nghĩa quân và quan triều khác, Đinh Công Tráng tiến đánh và giải phóng thành Nam Định (nhiệm sở trấn Sơn Nam Hạ), thành Ninh Bình (nhiệm sở phủ Hoa Lư).

Sau đó, Đinh Công Tráng cùng các tướng lĩnh chuẩn bị tiến sang Thái Bình, Hải Dương thì triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước ngày 15 tháng 3 năm 1874. Hiệp ước mang tên "Hiệp ước Hòa bình liên minh", thực chất là hiệp ước bán nước nhục nhã.

Cơ hội giải phóng Bắc Kỳ đang ở trong tầm tay thì triều đình nhà Nguyễn lại cúi đầu công nhận chủ quyền của Pháp ở Nam Kỳ lục tỉnh, nắm chủ quyền buôn bán thương mại, tự do đi lại truyền đạo. Nhục nhã hơn nữa, triều đình còn phải đền bù chiến phí, hạ lệnh giải giáp nghĩa quân. "Triều đình Huế cho Hoàng Kê Viêm triệt binh lên Sơn Tây, điều quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc lên miền ngược, bắt họ "án binh bất động" đợi triều đình điều động đi đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nông dân"1. Nhân dân khắp nơi phẫn uất, phản đối sự đầu hàng nhục nhã này. Họ vạch mặt, chỉ tên kẻ phá hoại cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
_____________________________________
1. Lịch sử Việt Nam, tâp 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 65.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #18 vào lúc: 22 Tháng Mười Một, 2016, 10:25:39 pm »


Căm giận hành động hèn nhát hại dân, hại nước đó, Đinh Công Tráng trả lại chức tước cho triều đình ra đi tìm người nghĩa khí liên kết, ấp ủ ý chí chống trời. Câu đối tặng mẹ khi Đinh Công Tráng về chịu tang mẹ đã nói lên khí phách anh hùng đó.

      "Hận vô lập tức thiên thai tứ đồng trượng dương Công Bắc đẩu.
      Sầu bất phi thân vạn trượng giải thôi y thi nghị Nam Tào .


Tạm dịch là:
      Giận vì không bước tới được cửa trời giơ gậy đồng hỏi tội ông Bắc Đẩu.
      Buồn vì không nhảy cao vạn trượng cởi phăng áo ra mà trách mắng ông Nam Tào.

Câu đối ngụ ý mỉa mai căm giận triều đình nhà Nguyễn hèn nhát đã phá hoại cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập của đất nước.

Trong khi đó, đất nước liên tiếp chịu cảnh lụt lội mất mùa, nạn đói khủng khiếp, dân nghèo bồng bế nhau đi ăn xin, chết đói đầy đường.

Chính sự suy vi. Triều đình mục nát. Hoàng thân quốc thích tranh loát lẫn nhau. Bọn quan lại thừa cơ đục khoét, bóc lột. Bọn đầu cơ tha hồ xoay xở, thi nhau xoay ăn trên lưng người đói khổ, càng khoét sâu thêm cái xã hội ung nhọt thời Tự Đức. Còn bọn Pháp và tay sai ngày càng làm sâu thêm mâu thuẫn dân tộc, chuẩn bị xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai. Chúng nắm quyền kiểm soát thương chính, tung tiền mua chuộc hoặc li gián quan triều, dò xét quân cơ quốc mật, gây dựng cơ sở nội ứng.

Kết quả, nguyên nhân thắng lợi.

Trong những năm 1872-1874, Đinh Công Tráng đã phát động phong trào chống giặc lan rộng toàn huyện, mở rộng liên kết với Ý Yên, Nam Định, gây cho địch nhiều thiệt hại, giải phóng được thành Ninh Bình, Nam Định, Phủ Bo, Phủ Lý, Chợ Dần, góp phần cùng các nơi khác đẩy địch vào thế bị động lúng túng ở Bắc Kỳ, đến mức "ở bên Pháp Bộ trưởng Hải quân phải điện cho Sài Gòn trao trả Hà Nội và không chiếm giữ bất cứ nơi nào ở Bắc Kỳ"1.

Có được thắng lợi đó là do tinh thần yêu nước căm thù giặc của nhân dân ta và tài chỉ huy quân sự của Đinh Công Tráng. Cụ thể là biết dựa vào uy danh thầy học để kêu gọi văn thân, tập hợp lực lượng. Biết tập trung lực lượng đánh vào Khắc Cần và Kẻ Sở, hai kho hậu cần lớn của địch. Riêng Kẻ Sở còn là trung tâm đầu não của giáo sĩ phản động. Khi giặc mạnh biết chuyển về Ý Yên phối hợp với nghĩa quân Nam Định, tạo thế và lực giải phóng một miền rộng lớn. Riêng trận Chàng, Đinh Công Tráng đã biết lừa giặc vào chỗ hiểm để tiêu diệt.

Việc chia một phần lương thực cướp được ở Trại Cần và Kẻ Sở cho dân nghèo (hầu hết là giáo dân) đã gây được niềm tin vào sự ủng hộ của nhân dân, đồng thời đánh vào âm mưu tuyên truyền "nghĩa quân phá đạo" của bọn phản động.

Dùng rừng Chàng là hậu cứ hỗ trợ tích cực cho các đồn trại đồng bằng là một chủ trương đúng đắn của Đinh Công Tráng lúc này.
___________________________________________
1. Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 65.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #19 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2016, 08:08:11 pm »


Câu hỏi 6: Trước sự lớn mạnh và lan rộng của phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa, giặc Pháp điên cuồng tìm cách đối phó. Tình hình đó buộc phải gấp rút thống nhất các phong trào trên toàn tỉnh. Hội nghị Bồng Trung đã bàn bạc thống nhất các phong trào như thế nào?
Trả lời:


Các phong trào kháng Pháp ở Thanh Hóa ngày càng nở rộ và phát triển mạnh mẽ. Giặc điên cuồng tìm cách đối phó. Chúng liên tiếp điều động nhiều đạo quân đi sâu vào khu căn cứ nghĩa quân càn đi, quét lại không ngừng. Các cuộc đụng độ ngày càng nhiều và ác liệt hơn, lực lượng nghĩa quân các địa phương không tránh khỏi bị tổn thất. Tình hình đó đòi hỏi phải gấp rút thống nhất lực lượng trên địa bàn toàn tỉnh mới đủ sức đương đầu lại được trước sự phản công ngày càng dồn dập và ác liệt của kẻ thù. Bởi bọn chúng đã qua khỏi thời kỳ choáng váng bị động ban đầu và cũng đang gấp rút đẩy mạnh công cuộc bình định quân sự và thiết lập bộ máy chính trị trong tỉnh Thanh Hóa nói riêng, trong toàn quốc nói chung. Đó chính là hoàn cảnh dẫn tới hội nghị lịch sử Bồng Trung (Vĩnh Lộc) vào giữa năm 1886.

Bước sang năm 1886, phong trào khởi nghĩa ở Thanh Hóa lên mạnh. Nghĩa quân đã làm chủ những vùng nông thôn rộng lớn, luôn luôn quấy rối các đồn bốt và ngăn trở các đường giao thông tiếp tế của giặc Pháp. Nhiều cánh quân tuần tiễu của địch bị phục kích và tiêu diệt. Sự nguy khốn của giặc Pháp cũng làm cho bọn ngụy quyền hoang mang dao động. Cha Sáu, tên tay sai đắc lực đội lốt thầy tu của Pháp, sau khi nhận chức khâm sai tuyên phủ sứ của triều đình bù nhìn Huế, đã kéo quân vào Thanh Hóa, ngày 28 tháng 4 năm 1884, để đàn áp phong trào trong tỉnh.

Vào giữa năm 1886, những người lãnh đạo phong trào yêu nước chống Pháp của Thanh Hóa đã họp ở Bồng Trung (Vĩnh Lộc) để bàn bạc những phương sách mới nhằm đẩy mạnh thêm một bước nữa phong trào chống Pháp trong tỉnh. Tại hội nghị này, căn cứ vào vị trí quan trọng của Thanh Hóa có dân cư đông đúc và giàu truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, đất đai rộng rãi và phì nhiêu, địa thế lại hiểm yếu, những người cầm đầu phong trào đã thống nhất với nhau cần biến gấp Thanh Hóa thành một căn cứ vững chắc cho phong trào chung trong toàn quốc.

Hội nghị đã giao cho Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt, Đinh Công Tráng cùng với một số tướng lĩnh khác như đề đốc Nguyễn Khế, lãnh binh Nguyễn Viết Toại xây dựng căn cứ Ba Đình nhằm bảo vệ "cửa ngõ" miền Trung và làm bàn đạp tỏa đánh địch ở đồng bằng. Đồng thời, Trần Xuân Soạn và Hà Văn Mao cũng được cử phụ trách việc chỉ đạo xây dựng đồn Mã Cao trở thành một cứ điểm chống Pháp chủ chốt trong tỉnh.

Ba Đình thuộc địa phận huyện Nga Sơn, phía bắc tỉnh Thanh Hóa, liền kề tỉnh Ninh Bình. Gọi là Ba Đình vì miền này gồm ba làng Mỹ Khê, Thượng Thọ, Mậu Thịnh ở liền nhau, mỗi làng có một ngôi đình, đứng ở đình làng này sẽ nhìn thấy đình của hai làng bên. Ba làng còn có một ngôi nghè chung. Một bài vè phổ biến ở địa phương đã thâu tóm đặc điểm của vùng này trong mấy câu sau:

      "Xưa Mậu Thịnh, Thượng Thọ, Mỹ Khê
      Ba dân chung một đình nghè,
      Ruộng đồng nổi rộng, giữ nghề canh nông"

                                                        (Vè Ba Đình)
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM