Ý thức cảnh giác của anh em cán bộ trung đoàn 66 và lữ đoàn 203 rất khá. Sau khi chiếm được dinh Độc Lập anh em đã đặt nhiều vọng gác. Ngay cửa ra vào nội các ngụy có một vọng gác và có cán bộ bảo vệ trực tiếp. Ai không có nhiệm vụ không được vào.
Tôi cùng anh Duyến phó phòng tác chiến đi sóng đôi bước xuống thềm dinh, ra sân. Cái sân cỏ rộng phẳng phiu có tới mấy nghìn mét vuông. Bọn tù binh đã bị tước vũ khí, ngồi xếp hàng ở giữa sân.
Chúng tới thả từng bước một về phía tù binh. Trong đầu tôi mênh mang vô cảm. Tôi buột miệng hỏi Duyến:
- Cậu đang nghĩ gì lúc này?
- Anh hỏi điều gì kia?
- À là hỏi thế thôi.
Có lẽ trong trận đánh liên tục, khẩn trương, dài ngày và thắng lợi vĩ đại này, có thể tinh thần, tình cảm của con người tôi đã quá tải. Đúng vậy. Cái gì cũng quá mức. Mệt mỏi quá. Căng thẳng quá. Lo lắng quá. Vui mừng sung sướng quá! Tất cả những cái "quá mức” ấy đến lúc này, chiến tranh đã kết thúc, trong đầu tôi tự nghĩ: tuy chiến tranh kết thúc rồi nhưng chưa phải là đã được thảnh thơi đâu anh bạn ơi, còn có hàng trăm hàng nghìn công việc đang đợi anh đấy, hãy sẵn sàng chuẩn bị mà lên đường tiếp tục sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước!
Giữa lúc nhìn cuộc sống xung quanh hư hư, thực thực ấy, mấy quả đạn cối 82 (hoặc 81) nổ liên tiếp ngay trên sân cỏ. Duyến ôm lấy mặt kêu lên "tôi bị thương rồi”. Tôi bảo chiến sĩ gác cho tù binh chạy vào trong hầm.
Mấy quả đạn cối nổ, chỉ có mình cậu Duyến là chẳng may hỏng một bên mắt. Tôi hỏi một sĩ quan tù binh xem xung quanh đây còn lực lượng nào dám kháng cự nữa không. Không có. Như thế là "quân ta bắn quân mình” thôi. Chiến tranh khó tránh hết được cái chuyện quái gở ấy. Nhưng nhờ có vài viên đạn súng cối, trật tự được thiết lập nhanh chóng. Các nhà báo thôi không trèo leo nữa. Các vị đã vào trong sân rồi, cũng vui lòng ra ngoài.
Quân đoàn 2 bàn giao dinh Độc Lập và những phố xá vừa giải phóng cho Quân đoàn 4 rồi lui về khu vực Thủ Đức.
*
* *
Giặc đã tan, cuộc sống trở lại bình yên. Đã lâu lắm rồi, tôi mới được ngủ một đêm tròn giấc. Buổi sáng tràn đầy ánh nắng phương nam rọi qua cửa sổ. Tôi thức dậy, ngồi một mình trong cái phòng ngủ khá rộng đầy đủ tiện nghi của viên tướng ngụy. Sau khi uống một ly trà Thái Nguyên đặc sánh, tâm hồn tôi thấy sảng khoái. Bao nhiêu kỷ niệm trong cuộc chiến tranh ba mươi năm ào ạt kéo đến. Bạn bè kẻ mất, người còn. Những năm tháng gian khổ hy sinh vì đủ thứ bom đạn, bệnh tật... những trận thắng đẹp đã ghi những nét vàng son trong lịch sử mà tôi vinh dự được ghé vai: Bông Lau, Đông Khê, Thất Khê, Mộc Châu, Bình Liêu, A1 Điện Biên Phủ, Nậm Thà, Mường Xinh, Plây-me, sông Sa Thày, Đắc Tô, Đường 9 - Nam Lào, Cánh Đồng Chum - Loong Chẹng... cho tới bây giờ.
Dừng lại sự kiện vĩ đại còn nóng hổi trong tôi có nhiều điều tâm đắc: Điều trước tiên là người chỉ huy phải luôn luôn giữ tinh thần chủ động, dám chịu trách nhiệm, nhất định đơn vị mình sẽ vươn tới chiến công lớn lao hơn.
Sau chiến thắng Đà Nẵng, nếu Quân đoàn 2 thụ động chấp hành mệnh lệnh ở lại Đà Nẵng làm lực lượng dự bị, chắc chắn sẽ không có những trận đánh trong hành tiến đầy hào khí qua Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân... Bộ tư lệnh quân đoàn chúng tôi đã hiểu đúng sức lực của đơn vị mình có thể đảm đương được nhiệm vụ nặng nề hơn, nên đã chủ động mạnh dạn đề nghị với cấp trên thay đổi chủ trương nói trên, để cho quân đoàn đảm nhận đánh dọc theo quốc lộ 1... và đã trở thành hiện thực.