Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 10:23:04 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Mở đầu toàn quốc kháng chiến  (Đọc 28111 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #70 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:31:18 pm »


        Vào thời điểm từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946, cả Việt Nam và Pháp đều có những khó khăn. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ, giặc ngoài, thù trong, khó khăn nghiêm trọng đã đành, nước Pháp cũng bị thiệt hại nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ hai còn ảnh hưởng đến thế và lực của nước Pháp, nhất là trong hoạt động quốc tế.

        Tuy nhiên, về tiềm lực quân sự, kinh tế, điều kiện vật chất đảm bảo cho chiến tranh, thì thực dân Pháp mạnh hơn ta gấp bội.

        Thực dân Pháp gây hấn mở cuộc chiến tranh xâm lược ở Nam Bộ, nhưng với lực lượng có hạn, cũng chỉ đạt mục tiêu chiếm Nam Bộ, Nam Trung Bộ. Muốn chiếm cả nước ta, phải có nhiều viện binh và nhiều phương tiện vật chất khác, mà cho đến mùa thu năm 1946, nước Pháp chưa thể đáp ứng được.

        Về phía ta, cho đến cuối năm 1946, chưa đủ khả năng và điều kiện để tiếp nhận một cuộc chiến tranh toàn diện trên cả nước.

        Đó chính là cơ sở cho sự hoà hoãn Việt - Pháp với các cuộc hoà đàm, hiệp định, tạm ước trong năm 1946.

        Đến cuối năm 1946, phía Pháp đã ổn định được tình hình trong nước, tranh thủ được Anh - Mỹ đồng tình cho trở lại xâm chiếm Đông Dương, nên đã đẩy mạnh việc chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến tranh xâm lược ở nước ta.

        Vào cuối năm 1946, ta đã chuẩn bị được “lực lượng căn bản”, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, chưa hoàn tất và sẵn sàng cho một cuộc kháng chiến toàn quốc. Tuy nhiên, khả năng hoà hoãn đã hết, dù muốn hay không chiến tranh sẽ tới. Quân Pháp đã hạ tối hậu thư, chỉ cuối tháng 9 hoặc đầu tháng 10 năm 1946, khi viện binh tới, chúng sẽ bất ngờ đánh úp ta. Trong hoàn cảnh như thế, ta không thể khoanh tay chờ bị đánh.

        Ngày 19 tháng 12 năm 1946 là thời điểm “khi Pháp đã cố ý gây chiến tranh, chúng ta không thể nhịn được nữa thì cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu”1. Chủ động đứng lên đánh giặc vào lúc mà chúng bất ngờ chưa đủ lực lượng, chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh mở rộng, chủ động đánh địch và buộc địch phải chống lại cách đánh của ta ở những nơi ta chọn..., tức là giành được thế chủ động chiến trường, hãm địch vào thế bị động đối phó, giành thắng lợi ban đầu và tạo đà cho những thắng lợi ở những giai đoạn sau. Đây là mưu lược tài giỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng ta.

        Thực hiện Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Đảng và Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giai cấp, đảng phái, tôn giáo, dân tộc, già trẻ, gái trai, thành thị, nông thôn... đã nhất tề tham gia kháng chiến với những nhiệm vụ khác nhau. Người công nhân chiến đấu giữ nhà máy rồi di chuyển máy móc lên chiến khu; người nông dân ngoại thành, ngoại thị tiếp tế lương thực cho chiến sĩ chiến đấu trong thành phố và chặn đánh địch mở rộng chiếm đóng ra vùng nông thôn; chiến sĩ tự vệ ôm bom ba càng, chai xăng crếp lao vào diệt xe tăng địch, dùng dao pha thịt chém giặc ở chợ Đồng Xuân, chiến đấu đến cùng bảo vệ đường rút quân của trung đoàn Thủ đô; nhiều nhà trí thức, văn nghệ sĩ cũng trực tiếp chiến đấu trong thành phố, thị xã rồi ra chiến khu phục vụ kháng chiến; có nhiều nhà sư cũng cởi áo cà sa lên đường giết giặc... Tất cả đã hoà thành bản anh hùng ca của cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam. Đó là một nét đặc sắc có ý nghĩa vô cùng to lớn của những ngày mở đầu Toàn quốc kháng chiến.

------------------------
       1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000, tr.162.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #71 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:36:21 pm »

       
Phần thứ hai

6O NGÀY ĐÊM CHIẾN ĐẤU CỦA QUÂN VÀ DÂN THỦ ĐÔ HÀ NỘI - MỞ ĐẦU TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN1



Chương 1

TÌNH HÌNH HÀ NỘI TRƯỚC NGÀY TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN

        1. Địa hình.

        Trước ngày toàn quốc kháng chiến, Hà Nội có diện tích 150km2. Trong đó, nội thành diện tích khoảng 13km2, được giới hạn trong phạm vi Ô Yên Phụ, đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên), đường Ngọc Hà, Ô Chợ Dừa, Kim Liên, Ô Cầu Dền, Ô Đống Mác; phía đông và đông bắc là sông Hồng Hà.

        Nội thành được chia làm 3 liên khu:

        - Liên khu 1 nằm trong phạm vi: đông và đông bắc là sông Hồng, tây từ Ô Yên Phụ theo đường Cổ Ngư, vườn Bách Thú, nam là đường Cột Cờ, đường Tràng Thi, đường Hàng Khay, đường Tràng Tiền, Nhà Hát Lớn, gồm 7 khu hành chính: Trúc Bạch, Hồng Hà, Đồng Xuân, Đông Kinh Nghĩa Thục, Hoàn Kiếm, Đông Thành, Long Biên.

        - Liên khu 2: bắc giáp Liên khu 1, đông là sông Hồng, tây là đường Hàng Lọng (nay là đường Lê Duẩn), nam là tuyến Kim Liên, Ô Cầu Dền, Ô Đống Mác, gồm 7 khu hành chính: Chợ Hôm, Bạch Mai, Lò Đúc, Bảy Mẫu, Đồng Nhân, Quán Sứ, Đại Học.

        - Liên khu 3: bắc giáp Liên khu 1, đông giáp Liên khu 2, tây theo đường Ngọc Hà, nam giáp các làng Thịnh Hào, Linh Quang đến Kim Liên, gồm 3 khu hành chính: Thăng Long, Văn Miếu, Vạn Thái.

        Ngoại thành với diện tích 137km2 gồm 118 thôn được chia thành 5 khu hành chính: Lãng Bạc, Đại La, Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh.

        Về địa lý quân sự, khu vực quan trọng nhất của Hà Nội là khu vực tây bắc. Ở đây có Phủ Toàn quyền (nay là Phủ Chủ tịch), Trường An-be Xa-rô (nay là cơ quan Trung ương Đảng), khu Thành, Nha Tài chính (nay là Bộ Ngoại giao), và Trường Bưởi (nay là Trường Chu Văn An).

        Phủ Toàn quyền là một dinh thự rất kiên cố gồm ba tầng nằm giữa một khu vườn rộng có nhiều cây cổ thụ, xung quanh có hàng rào.

        Khu thành vốn là một phần khu thành cổ Thăng Long bị thực dân Pháp phá gần hết và xây lại thành một trại lính rộng khoảng một cây số vuông.

        Các trường An-be Xa-rô, Trường Bưởi, Nha Tài chính gồm nhiều ngôi nhà ba tầng kiên cố.

        Khống chế được khu vực tây bắc của Hà Nội là có thể đưa lực lượng tỏa ra khống chế toàn bộ thành phố.

        Khu vực quan trọng thứ hai là khu vực phía đông hồ Hoàn Kiếm. Ở đây có Bắc Bộ phủ - nơi làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (nay là nhà khách của Chính phủ), Bộ Nội Vụ, Tòa Thị chính, nhà Bưu điện, Nhà Hát Lớn, nhà ngân hàng Đông Dương, khách sạn Mê-tơ-rô-pôn... là những kiến trúc rất kiên cố, nơi tập trung cơ quan chính quyền Trung ương và thành phố của ta.

        Khu vực quan trọng thứ ba nằm trong tứ giác ngã ba đầu đường Hàng Lọng, ga Hàng Cỏ, nhà thương Đồn Thủy, Nhà Hát Lớn với các trục đại lộ song song: Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Hai Bà Trưng, thường được gọi là khu phố Tây, được xây dựng chủ yếu từ thời Pháp thuộc. Ở đây có nhiều dinh thự, công sở, nhà ở của Pháp kiều khá kiên cố, thường là nhà độc lập hoặc biệt thự 2 - 3 tầng ở cách xa nhau và thường có vườn bao quanh, có đường phố rộng từ 12 - 15m. Trong khu vực này còn có những vị trí quan trọng như nhà ga, nhà Đấu Xảo, Sở hỏa xa Việt Điền, Tòa án, Viện Ra-di-um, Sở Liêm phóng, Bộ Quốc phòng, Trại Vệ quốc đoàn Trung ương, Rạp chiếu bóng Ma-giét-tíc, Đồn Thủy. Đồn Thủy là nơi cơ quan tham mưu Pháp đóng hồi Pháp thuộc (nay là nhà khách của Bộ Quốc phòng, số 33 Phạm Ngũ Lão).

-----------------------
       1. Theo tư liệu của Thành ủy Hà Nội - Quân khu Thủ đô: Tổng kết 60 ngày đêm chiến đấu mở đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp của quân và dân Thủ đô Hà Nội (19-12-1946 - 18-2-1947), Nxb Quân đội nhân dân, H. 1997.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #72 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:37:20 pm »


        Do nhà cửa thường ở cách nhau nên ít có điều kiện tổ chức phòng thủ liên hoàn. Vì đường phố rộng nên khó đắp chiến lũy.

        Khu vực thứ tư là khu vực ở bắc hồ Hoàn Kiếm bao gồm các khu hành chính: Đồng Xuân, Đông Kinh Nghĩa Thục, Hoàn Kiếm, Đông Thành, tức là phần lớn phạm vi của Liên khu 1. Đây là khu vực buôn bán, dân số tập trung cao, gồm phần lớn là người Việt, khoảng một vạn người Hoa và mấy chục người Ấn Độ, rất ít Pháp kiều. Người pháp thường gọi đây là khu phố Hoa - Việt. Phố xá ngang dọc chằng chịt, đường hẹp khoảng 5 - 10m, nhà một hai tầng. Đây là khu vực có thể lợi dụng để tổ chức đánh địch dài ngày, nhưng việc liên lạc, tiếp tế cũng như rút lui rất khó khăn.

        Khu vực thứ năm là khu vực ở nam khu phố Tây, tức khu phố ta nhưng cũng có khá nhiều nhà Pháp kiều xen kẽ. Ở đây cũng có phố xá ngang dọc có thể lợi dụng để tổ chức ngăn chặn địch nhưng không được dày đặc liên hoàn như ở khu phố thứ tư, ở phía nam của khu vực này còn nhiều bãi rác, bãi trống.

        Hà Nội có 338 đường phố lớn nhỏ, ngang dọc, địch có thể phát huy ưu thế về xe tăng, thiết giáp, cơ giới để tiến đánh theo các đường phố. Đó là vấn đề mấu chốt mà việc tác chiến bảo vệ thành phố phải tìm cách khắc phục, khi phòng ngự chống địch tiến công trong thành phố cũng như khi chúng đánh ra các cửa ô để khống chế toàn thành phố.

        Từ giữa thành phố ra các cửa ô có những đường phố quan trọng như sau:

        - Đường từ Cửa Bắc (thành) theo Hàng Đậu vượt cầu Long Biên. Đây là cửa ngõ vô cùng quan trọng ra vào Thủ đô ở hướng đông bắc. Cầu Long Biên là một cầu hết sức hiểm yếu vì là chiếc cầu duy nhất qua sông Hồng để đến các hướng phía bắc và đi Hải Phòng, cửa biển lớn nhất của Bắc Bộ.

        Gần cầu Long Biên có sân bay Gia Lâm, một sân bay dân dụng và quân sự lớn của miền Bắc.

        Từ trung tâm thành phố xuống phía nam có 4 trục đường, trong đó trục đường ra Cống Vọng vào đường số 1 và trục đường đê là quan trọng nhất. Gần Cống Vọng có sân bay Bạch Mai, một sân bay nhỏ do ta kiểm soát.

        Từ trung tâm đi tây nam có trục đường từ Quốc Tử Giám theo phố Hàng Bột, Ô Chợ Dừa qua Ngã Tư Sở đến Hà Đông. Đây là trục đường quan trọng nhất về quân sự ở hướng tây nam để ra vào thành phố.

        Đi về phía tây bắc và tây có 5 trục đường, trong đó trục đường từ Cửa Nam theo phố Sơn Tây ra Cầu Giấy là trục đường quan trọng ra vào thành phố ở phía tây.

        Vì sông Hồng ngăn cách ở phía đông nên khi tác chiến, Hà Nội không thể lấy Phúc Yên và Bắc Ninh làm hậu phương mà phải dựa vào Hà Đông làm hậu phương. Trên đất Hà Đông có ba vành đai đường sá bao quanh Hà Nội.

        - Vành đai thứ nhất là đường ngoại ô từ Nhật Tân qua Bưởi, Cầu Giấy, Ngã Tư Sở, ngã tư Trung Hiền, Vĩnh Tuy.

        - Vành đai thứ hai từ đê Đại Hà qua Thượng Cát, Phú Diễn, Đại Mỗ, thị xã Hà Đông, Văn Điển, Đông Trạch.

        - Vành đai thứ ba theo đê sông Đáy, từ Bồng Lai qua Phùng, Yên Sở, Thanh Quang, Mai Lĩnh.

        Đó là những vành đai có thể dựa vào đấy để cơ động lực lượng.

        Về mặt kinh tế, Hà Nội cũng là một trung tâm, nhưng còn là một thành phố tiêu thụ, chưa có công nghiệp lớn đáng kể, mới chỉ có một số nhà máy nhỏ: điện, nước, bia, nước đá, thuộc da, rượu, diêm, in. Đáng chú ý là mấy cơ sở sửa chữa phương tiện vận tải, như Stai, A-vi-a, Boa-lô, xe lửa Gia Lâm. Trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu, chưa có công nghiệp quốc phòng, các cơ sở sửa chữa phương tiện vận tải này sẽ rất quý đối với việc xây dựng những xưởng quân giới đầu tiên phục vụ cho cuộc kháng chiến lâu dài.

        Trong khoảng 523.000 dân (nội thành 30 vạn, ngoại thành 223.000) có khoảng 1 vạn công nhân, 5 vạn thợ thủ công, 10 vạn dân nghèo thành thị. Đây là lực lượng nòng cốt của cuộc kháng chiến.

        Ngoài ra, có khoảng 1 vạn người bán rong, gần 1 vạn người buôn chuyến, gần 1 vạn người có hiệu buôn lớn nhỏ. Họ đều có lòng yêu nước và tích cực đi theo kháng chiến.

        Hà Nội có đông đảo thanh niên nam nữ, có một số trường cao đẳng và đại học như Cao đẳng Thú y, Đại học Tổng hợp, Đại học Canh nông, Đại học Y - Dược, nhiều trường trung học công và tư, rất nhiều trường tiểu học. Số học sinh trung học và sinh viên lên đến hàng vạn. Từ thời Pháp thuộc, nhất là từ khi Nhật đảo chính Pháp, đứng trước tình thế bế tắc, thanh niên, học sinh, sinh viên tích cực tham gia cách mạng và trở thành một lực lượng xung kích quan trọng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #73 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:49:34 pm »


        Hà Nội là nơi có nhiều cơ quan ngôn luận, nhà xuất bản, rạp hát, rạp chiếu bóng, đài phát thanh, là nơi tập trung phần lớn văn nghệ sĩ, nhà báo, nhà nhiếp ảnh, nhà trí thức và đại trí thức của cả nước. Tuy xuất thân của nhiều người ở tầng lớp trung gian và tầng lớp trên, nhưng họ cũng đứng trước tình hình bế tắc do thời cuộc gây nên, tinh thần yêu nước của họ được Việt Minh khơi dậy, họ đã theo cách mạng, tập hợp xung quanh ngọn cờ độc lập dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giương cao. Đại bộ phận quan lại cũ, kể cả một số đại thần cũ không theo Pháp mà ngả về phía kháng chiến. Thậm chí cá biệt có quan lại vốn có nợ máu với cách mạng, với dân cũng là đối tượng cần tranh thủ và có thể tranh thủ, không để họ đứng vào hàng ngũ chống đối ta.

        Hà Nội là trung tâm chính trị của quốc gia, có nhiều cơ quan đầu não của Trung ương và của thành phố, nhiều cơ quan của các ngành, có đội ngũ cán bộ công nhân viên của Đảng, quân, dân, chính rất đông đảo. Việc bảo vệ các cơ quan đầu não, việc tổ chức di chuyển các cơ quan, di chuyển đội ngũ cán bộ công nhân viên đông đảo đó ra ngoài là một nhiệm vụ chính trị rất quan trọng.

        Trên 22 vạn dân ngoại thành chủ yếu làm nông nghiệp. Họ có thể cung cấp lương thực, thực phẩm và rau xanh cho nội thành chiến đấu. Nhiều gia đình ngoại thành vừa làm ruộng vừa vào nội thành làm công, buôn thúng, bán mẹt, bán rau, có quan hệ mật thiết với nội thành, thông thạo phố xá, có thể tham gia việc giao thông liên lạc, dẫn đường, vận chuyển tiếp tế cho nội thành, giúp đỡ nhân dân nội thành tản cư.

        Vì thế, nếu tổ chức động viên được mọi tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến thì Hà Nội có một sức mạnh hết sức to lớn. Đồng thời, việc bảo vệ tính mạng, tài sản của dân, việc tổ chức tản cư nhân dân, việc động viên đông đảo đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, kể cả quan lại, đại thần tham gia kháng chiến trở thành những việc rất quan trọng.

        2. Tình hình địch.

        Theo Hiệp định Sơ bộ và thỏa ước đóng quân của hai cơ quan tham mưu, thực dân Pháp được đưa 15.000 quân ra bắc vĩ tuyến 16 (trong đó có 5.000 quân đóng ở Hà Nội) để làm nhiệm vụ tiếp phòng thay cho 20 vạn quân Tưởng rút về nước.

        Đến trước 19 tháng 12 năm 1946, số quân Pháp ở bắc vĩ tuyến 16 đã lên đến 30.000 tên và riêng ở Hà Nội lên 6.500 tên gồm các phiên hiệu như sau:

        - Trung đoàn bộ binh thuộc địa 6 (6eRIC) thiếu một tiểu đoàn.

        - Binh đoàn Mát-xuy thuộc sư đoàn thiết giáp 2 (2DB).

        - Một tiểu đoàn của trung đoàn pháo binh thuộc địa Ma-rốc số 4 (4eRACM).

        - Một phân đội biệt kích.

        - Một phân đội dù.

        - Một đơn vị không quân.

        - Một phân đội thủy quân.

        Ngoài ra, Bộ tư lệnh sư đoàn bộ binh thuộc địa 9 (9eDIC) với tất cả các đơn vị trực thuộc, được đổi tên thành Bộ tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Bắc Đông Dương do Trung tướng Moóc-li-e đứng đầu cũng đóng ở Hà Nội. Pháp đã trang bị cho 4.000 tù binh trước đây bị Nhật bắt.

        Vũ khí của địch có 5.000 súng trường, 600 tiểu liên, 150 trung liên và đại liên, 42 khẩu pháo (sơn pháo và dã pháo 75, lựu pháo 105, pháo 37 ly), 22 xe tăng, 40 thiết giáp, 30 máy bay và một số tàu chiến trên sông. Đó đều là những phương tiện chiến tranh hiện đại bậc nhất đã được sử dụng trong đại chiến thế giới lần thứ hai.

        Như vậy là so với các nơi khác, ở Hà Nội địch có lực lượng mạnh nhất. Ở Hải Phòng, tuy địch cũng có 1 trung đoàn bộ binh (thiếu 1 tiểu đoàn), 1 trung đoàn pháo (thiếu một tiểu đoàn), 1 trung đoàn chiến xa, 1 bộ phận không quân, 1 bộ phận hải quân, nhưng phạm vi địch đóng khá rộng. Ở Hải Dương, ở Nam Định, ở Huế, mỗi nơi địch chỉ có một tiểu đoàn. Ở Bắc Giang cùng Bắc Ninh, 1 tiểu đoàn. Ở Đà Nẵng có 2 tiểu đoàn và ở Vinh có 1 trung đội.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #74 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:53:11 pm »


        Với lực lượng đó, địch rải quân đóng thành 54 vị trí xen kẽ với ta trong thành phố, trong đó có 6 nơi chúng tập trung khá lớn: Thành (1.200 tên), Phủ Toàn quyền (500 tên), Trường An-be Xa-rô (500 tên), Trường Bưởi (250 tên), khu Đồn Thủy (800 tên), sân bay Gia Lâm (1.800 tên). Ở Trường An-be Xa-rô và trong sân bay Gia Lâm, địch bố trí hai trận địa pháo có thể bắn vào nhiều mục tiêu trong thành phố.

        Xe tăng - thiết giáp tập trung chủ yếu trong thành. Máy bay ở sân bay Gia Lâm.

        Bộ chỉ huy bộ đội viễn chinh miền Bắc đóng ở trong thành.

        Do được làm nhiệm vụ tiếp phòng, thay quân Tưởng, Pháp đã chiếm được những vị trí quân sự có lợi nhất, đặc biệt là khu vực tây bắc, Đồn Thủy và Gia Lâm.

        Ở những vị trí khác, địch có từ 1 tiểu đội đến 1 trung đội, trong đó có một số nơi, họ gác chung với ta như nhà Ngân hàng, nhà Ga, Sở Liên kiểm Việt - Pháp, nhà máy điện, nhà máy nước, nhà đèn Bờ Hồ, cầu Long Biên, nhà in Viễn Đông, nhà Thương chính.

        Đáng chú ý là ở khách sạn Mê-tơ-rô-pôn (cách Bắc Bộ phủ và Bộ Nội vụ một con đường) địch đưa khoảng 200 tên có vũ khí hóa trang thành thường dân đến ém sẵn. Ở rạp Ma-giét-tíc trước Trại Vệ quốc đoàn Trung ương, địch cũng có khoảng một tiểu đội hóa trang ém sẵn.

        Nhiều gia đình trong số 7.000 Pháp kiều cũng được trang bị vũ khí và được tổ chức thành hàng trăm ổ chiến đấu độc lập rải ra các khu phố Tây và ở cả khu phố ta. Mỗi ổ thường có một vài sĩ quan Pháp, một vài tên com-măng-đô mũ đỏ, trang bị đầy đủ súng máy, tiểu liên, súng ngắn, nhiều đạn dược và đầy đủ lương thực, thực phẩm để đánh nhiều ngày.

        Ngoài ra, địch còn dùng nhiều ổ người Hoa, ngoài cửa treo quốc kỳ Trung Hoa dân quốc nhưng cũng được trang bị vũ khí để chống lại ta mà ta không phát hiện được. Địch còn có một số tay sai, Việt gian, gián điệp khá đông đảo.

        13 Tháng Chín, 2008, 09:25:48 pm

        Về mặt hậu cần, từ đầu tháng 12, Pháp đã tích trữ nhiều bột mỹ, gạo, trâu bò, gà lợn ở trong Thành.

        Ngày 16 tháng 12, Đác-giăng-li-ơ, Cao ủy Pháp ở Đông Dương tuyên bố. Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng là lãnh thổ của nước Pháp.

        Cũng ngày 16, Va-luy, Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương họp cùng Moóc-li-e, Tư lệnh quân viễn chinh ở bắc Đông Dương và Xanh-tơ-ny, Cao ủy Pháp ở Bắc Đông Dương để thông qua kế hoạch đánh chiếm Hà Nội.

        Ngày 17, máy bay giặc trinh sát khắp thành phố và cho xe tăng, pháo binh, bộ binh bắn phá các ụ đất và nhà cửa ở phố Yên Ninh, giết chết 43 thường dân và tự vệ, bắt 15 phụ nữ vào thành. Ở phố Lò Đúc, chúng cũng cho xe tăng, xe ủi đất và bộ binh đến phá ụ và giết hại đồng bào và tự vệ. Đây là những vụ tàn sát đẫm máu nhất kể từ khi Pháp vào đóng quân ở Hà Nội.

        Cùng ngày, chúng đưa quân khiêu khích ở phố Hàng Vôi (nay là phố Lý Thái Tổ), ở phố Bắc Ninh (nay là phố Nguyễn Hữu Huân).

        Sáng 18, chúng tiếp tục khiêu khích ở các phố Hàng Lược, Hàng Than, Hàng Đậu, giết 3 thường dân, 1 vệ quốc đoàn, cho thiết giáp đến bắn vào phố Hàng Khoai và chợ Đồng Xuân, bao vây trụ sở công an Hàng Đậu chiếm đóng lại Nha Tài chính.

        21 giờ 15 ngày 18, tướng Moóc-li-e gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí tự vệ, công an của ta và đòi ta trao quyền kiểm soát trật tự an ninh ở Hà Nội cho Pháp. Nếu sáng 20 tháng 12 năm 1946 những điều kiện trên không được chấp thuận thì thực dân Pháp sẽ hành động.

        Như vậy là quân Pháp đang ở tư thế sẵn sàng đưa lực lượng để đánh chiếm các cơ quan đầu não, các vị trí quân sự và hành chính của ta, vô hiệu hóa chính quyền của ta. Chính họ đã tuyên chiến với ta, dự định sẽ đánh bại ta trong một thời gian ngắn nhất kể từ sáng 20 tháng 12 năm 1946.

        Địch có những mặt mạnh như sau:

        - Một là, chúng không phải từ ngoài tiến công vào Hà Nội mà đã có quân đóng xen kẽ với ta và đã chiếm những vị trí hiểm yếu nhất về quân sự ở Thủ đô.

        - Hai là, chúng có ưu thế về binh lực, quân số của chúng đông gấp 4 lần quân số Vệ quốc đoàn (địch có 6.500 quân và 4.000 lính tù binh Nhật được thả và trang bị lại; ta có 2.516 chiến sĩ vệ quốc đoàn).

        - Ba là, chúng được trang bị hiện đại, hỏa lực bộ binh, pháo binh khá mạnh. Với ưu thế về xe tăng, thiết giáp và xe lội nước, chúng có thể tiến theo các đường phố, vượt sông, hồ để tiến công ta. Máy bay địch có thể chi viện cho bộ binh chiến đấu, oanh tạc bắn phá đội hình ta. Tàu chiến địch có thể phong tỏa mặt sông Hồng và hiệp đồng với bộ binh đánh mục tiêu trên bộ.

        - Bốn là, chúng có trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng khá, có những phương tiện thông tin liên lạc hiện đại, có sĩ quan nhà nghề đã được đào tạo ở các trường.

        - Năm là, mặc dù có một bộ phận binh lực mới được trưng tập, nhưng các đơn vị của quân viễn chinh ở Hà Nội đều thuộc những đơn vị có kinh nghiệm chiến đấu trong chiến tranh thế giới thứ hai: binh đoàn Mát-xuy là một binh đoàn của sư đoàn thiết giáp 2, một sư đoàn do tướng Lơ-cléc chỉ huy đã từng tiến vào giải phóng Pa-ri. Sư đoàn bộ binh thuộc địa số 9 là một sư đoàn đã tham gia giải phóng nước Pháp và cùng quân Đồng minh tiến quân đánh chiếm Tây Đức.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #75 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:55:11 pm »


        Địch cũng có những mặt yếu sau đây:

        - Một là, chúng tiến hành chiến tranh phi nghĩa nên gặp phải sự phản kháng kiên quyết của toàn dân Hà Nội, bị cô lập cao độ về chính trị, tinh thần của binh lính địch tuy hung hăng nhưng không cao.

        - Hai là, tuy binh lực của chúng nhiều hơn ta nhưng vẫn có hạn, phải rải ra đóng nhiều nơi, không đủ sức mở những đợt tiến công lớn, nhanh chóng đánh chiếm tất cả các mục tiêu trong một thời gian ngắn.

        - Ba là, lực lượng dự bị chiến lược rất ít trong lúc phải đồng thời đối phó với quân ta ở Hà Nội và ở nhiều thành phố khác. Việc tăng cường lực lượng cho Hà Nội có khó khăn.

        - Bốn là, khó khăn về tiếp tế. Dù đã có chuẩn bị về vật chất, bản thân quân địch ở Hà Nội cũng không đủ bảo đảm để đánh dài ngày. Hơn nữa, Bộ tư lệnh quân viễn chinh Bắc Đông Dương ở Hà Nội còn phải tổ chức tiếp tế cho các thành phố thị xã khác bị đánh.

        - Năm là, địch không thông thạo địa hình Hà Nội, không hiểu biết các ngõ ngách của Hà Nội bằng quân ta.

        3. Tình hình ta.

        Tháng 11 năm 1946, khu đặc biệt Hà Nội đổi thành Chiến khu 11. Đồng chí Vương Thừa Vũ được điều về làm khu trưởng, đồng chí Trần Độ vẫn giữ chức chính ủy.

        a) Lực lượng vũ trang.

        Lực lượng của Chiến khu 11 lúc này có 5 tiểu đoàn vệ quốc đoàn bộ binh (các tiểu đoàn: 101, 77, 212, 145, 523), 1 đại đội cảnh vệ, 4 trung đội pháo cao xạ ở các pháo đài Láng, Xuân Canh, Thổ Khối, Xuân Tảo. Tổng quân số là 2.516 người, được trang bị 1.516 súng trường, 3 trung liên, 1 đại liên, 1 ba-dô-ca 60 ly, 1.000 lựu đạn, 80 bom ba càng, 200 chai xăng crếp, 7 khẩu pháo cao xạ, 1 khẩu sơn pháo 75 ly, 1 khẩu pháo 25 ly, 2 khẩu cối 60 ly.

        Như vậy là lực lượng vệ quốc đoàn rất ít, trang bị lại rất kém so với nhiệm vụ nặng nề của mình.

        Các lực lượng tự vệ cho đến những ngày sắp nổ ra cuộc kháng chiến đều được củng cố về tổ chức, nâng cao trình độ chính trị và quân sự. Sau khi được thống nhất thành một tổ chức chung lấy tên là Đoàn thanh niên tự vệ Hà Nội, các tổ chức tự vệ vẫn có hệ thống tổ chức dọc của mình.

        Quân số tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu có khoảng 300 người, được trang bị khá đầy đủ bằng súng trường.

        Tự vệ thành Hoàng Diệu có khoảng 8.500 người.

        Ở các xí nghiệp như máy điện, máy nước Yên Phụ, máy đèn Bờ Hồ, xưởng sửa chữa xe lửa Gia Lâm, các xưởng A-vi-a, Boa-lô, Sở Xe điện, ga Hàng Cỏ... mỗi nơi có khoảng từ 1 trung đội đến 1 đại đội tự vệ xí nghiệp.

        Tự vệ chiến đấu ở ngoại thành có khoảng 2 vạn người.

        Toàn bộ vũ khí của các lực lượng tự vệ có khoảng 500 - 600 súng trường, 2 trung liên, một số súng ngắn, một số mìn, lựu đạn; còn lại toàn là giáo mác, kiếm, dao găm.

        Ngoài các lực lượng vũ trang nói trên, khu còn tổ chức 13 đội quyết tử đánh tăng và 36 tổ du kích đặc biệt. Khi kháng chiến bùng nổ, các đội và tổ này được phân cho các liên khu. Từ tháng 11 năm 1946, khi Thường vụ Trung ương quyết định giao cho Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy nắm quyền chỉ huy cả Vệ quốc quân và dân quân tự vệ thì Bộ chỉ huy Khu 11 cũng nắm quyền chỉ huy cả vệ quốc quân và dân quân tự vệ tại Thủ đô.

        Trước khi nổ súng mấy ngày, theo chỉ thị của Bộ, trung đoàn 13 Hà Đông đưa 2 đại đội của tiểu đoàn 56 vào tăng cường cho Hà Nội. Bộ chỉ huy Hà Nội đã xếp vào biên chế của tiểu đoàn 77 và tiểu đoàn 523 mỗi nơi 1 đại đội.
   
        b) Lực lượng chính trị.

        Toàn dân Hà Nội đã vùng lên với khí thế long trời lở đất giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám.

        Sau khi tổng khởi nghĩa thành công, Thành ủy Hà Nội đã nhanh chóng phát triển các đoàn thể cứu quốc, làm cho Mặt trận Việt Minh thành phố có một lực lượng hùng hậu gồm 16 vạn người.

        Sau 16 tháng xây dựng và rèn luyện, lực lượng chính trị toàn dân Hà Nội vẫn giữ vững khí thế sôi sục của Cách mạng tháng Tám. Họ sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến với quyết tâm thà chết không chịu làm nô lệ, quyết sống chết với Thủ đô.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #76 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:56:57 pm »


        c) Tổ chức lãnh đạo của Đảng và của chính quyền.

        Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương ở Hà Nội là cơ quan lãnh đạo toàn dân, toàn quân Thủ đô tiến hành kháng chiến.

        Đảng bộ được tăng cường từng bước, ngày 25 tháng 9 năm 1945 Thành ủy mới được chỉ định. Từ tháng 11 năm 1946 khi Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật thì Đảng bộ Hà Nội lấy danh nghĩa Mặt trận Việt Minh để lãnh đạo tiến hành mọi mặt công tác.

        Công tác phát triển Đảng được coi trọng. Khi kháng chiến bùng nổ, số đảng viên có khoảng 400 (chưa kể số đảng viên trong quân đội).

        Đến khi đổi khu đặc biệt Hà Nội thành Chiến khu 11, Thành ủy được đổi thành Khu ủy Khu 11 do đồng chí Nguyễn Văn Trân làm Bí thư, đồng chí Lê Quang Đạo làm Phó bí thư. Dưới khu ủy có đảng ủy các Liên khu 1, 2, 3 do các khu ủy viên Khu 11 kiêm nhiệm bí thư.

        Mỗi đảng bộ liên khu có vài ba chi bộ ghép trở lên gồm các đảng viên ở các khu phố và một số chi bộ ghép ở các xí nghiệp. Một số xí nghiệp như xe lửa Gia Lâm, cơ khí A-vi-a, Stai, rượu, bia, nước đá có 3 đảng viên trở lên được tổ chức thành chi bộ độc lập. Riêng chi bộ đội tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu ủy Khu 11.

        Ban cán sự Đảng ngoại thành được tổ chức thành một đảng ủy lãnh đạo 5 chi bộ ghép của 5 khu: Lãng Bạc, Đại La, Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh.

        Như vậy là, để lãnh đạo việc kháng chiến của một thành phố lớn như Hà Nội, số đảng viên còn quá ít. Tuy nhiên, đây là những đảng viên đã được tôi luyện trong đấu tranh thực tế, nhiều đồng chí đã vào tù ra tội. Được sự chỉ đạo trực tiếp của Thường vụ Trung ương và của Bác, Đảng bộ Hà Nội có trình độ lãnh đạo khá vững vàng.

        Bác và Thường vụ Trung ương đã sớm nhận thấy: Về chính quyền, cần có một tổ chức lãnh đạo đủ quyền hạn để huy động được lực lượng của mọi ngành.

        Tháng 10 năm 1945, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã Phổ biến quyết định của Thường vụ lập Ủy ban bảo vệ Hà Nội do đồng chí Nguyễn Văn Trân, lúc đó là phó chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc Bộ làm chủ tịch. Đồng chí Lâm Kính, chỉ huy giải phóng quân làm ủy viên. Đồng chí Lê Trung Toản, chỉ huy đội tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu làm ủy viên.

        Khi thành lập Chiến khu 11, Ủy ban bảo vệ Hà Nội được đổi thành Ủy ban bảo vệ Chiến khu 11 rồi Ủy ban kháng chiến Chiến khu 11. Ủy ban này do đồng chí Nguyễn Văn Trân - Bí thư Khu ủy 11 làm Chủ tịch. Đồng chí Vương Thừa Vũ - Khu trưởng Khu 11 làm Phó chủ tịch. Đồng chí Trần Độ - Chính ủy Khu 11 làm ủy viên.

        Khi bước vào kháng chiến, Hà Nội có những mặt mạnh và mặt yếu của nó.

        Về mặt mạnh, có thể nêu mấy điểm sau đây:

        - Một là, sức mạnh của chính nghĩa. Mọi người, mọi ngành sẵn sàng hy sinh tất cả vì chính nghĩa, vì sự nghiệp bảo vệ Thủ đô.

        - Hai là, có ưu thế to lớn về lực lượng chính trị. Đó là lực lượng toàn dân, vừa vùng lên giành chính quyền, có tổ chức, có lãnh đạo, có lòng yêu nước cao, căm thù giặc sâu sắc. Lực lượng chính trị toàn dân có sức mạnh tiềm tàng rất to lớn.

        - Ba là, có một đảng bộ tuy số lượng ít nhưng vững vàng và là linh hồn của cuộc kháng chiến ở Hà Nội, có một Ủy ban kháng chiến đại diện chính quyền cách mạng có thể huy động lực lượng của mọi ngành để tham gia kháng chiến.

        - Bốn là, đánh địch ngay trên nơi chôn rau cắt rốn của mình, thông thạo mọi ngõ ngách địa hình, địa vật của Thủ đô.

        - Năm là, nằm trong một chiến cuộc lớn, trong đó nhiều thành phố thị xã đồng thời cùng đánh địch, được sự phối hợp của các thành phố thị xã, của các chiến trường khác, do đó phân tán được lực lượng và sự đối phó của địch.

        - Sáu là, được Bác Hồ, Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy trực tiếp lãnh đạo và chỉ huy. Mọi chỉ thị, mệnh lệnh của trên có thể nhanh chóng được chuyển đạt cho Hà Nội. Việc xử lý các tình huống trong chiến đấu có thể kịp thời và chính xác.

        Những mặt yếu của Hà Nội là:

        - Một là, bộ đội ta chưa được huấn luyện gì đáng kể. Chiến sĩ chỉ mới học bắn súng, ném lựu đạn, đâm lê, hầu hết chưa được bắn đạn thật. Tuy phải đánh nhau với địch trong thành phố, nhưng quân ta chưa hề biết cách đánh trong thành phố.

        - Hai là, trình độ của cán bộ chỉ huy của ta còn rất non. Cán bộ phần lớn được huấn luyện cấp tốc 1 tháng đến 3 tháng, nhiều lắm là 6 tháng, chưa có kinh nghiệm chiến đấu. Trình độ cán bộ chỉ huy còn rất non là một điểm yếu rất quan trọng.

        - Ba là, trang bị của bộ đội Hà Nội rất kém. Tuy có 1.516 súng trường, nhưng đó là những súng cũ kỹ đủ các loại Tây, Nhật, Tàu, Nga, Bỉ... với đạn dược rất ít. Đạn súng trường có tất cả khoảng 1 vạn viên. Nhiều người phải trang bị bằng mác búp đa, dao, kiếm. Lựu đạn phần nhiều là loại lọ mực do xưởng Phan Đình Phùng chế, có thể nổ ở tay khi ném, còn bom mìn đều là loại nhặt nhạnh có quả nổ, quả không nổ. Về vũ khí chống tăng chỉ có độc nhất một khẩu ba-dô-ca do Mỹ thả dù viện trợ ở Việt Bắc với ít viên đạn, còn phải dùng chai xăng crếp và bom ba càng. 7 khẩu pháo ở các pháo đài Láng, Xuân Canh, Xuân Tảo, Thổ Khối là loại pháo phòng không cũ của Pháp. Nếu bắn mục tiêu dưới đất thì chỉ bắn được theo diện, không có các khí tài đo đạc, không có đài quan sát

        - Bốn là, lực lượng ta phải phân ra đóng xen kẽ với địch. Các cơ quan Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Khu bộ Khu 11 đều ở trong thành phố. Ta rất khó giữ bí mật, rất dễ bị địch tập kích bất ngờ.

        Các mặt mạnh, mặt yếu của địch, của ta nói trên cũng chính là các thuận lợi, các khó khăn của địch, của ta.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #77 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:58:25 pm »


Chương 2

KẾ HOẠCH TÁC CHIẾN VÀ CÔNG TÁC CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN

        1. Kế hoạch tác chiến.

        Việc làm kế hoạch tác chiến của Hà Nội có liên quan mật thiết với việc xác định kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tham mưu đối với toàn quốc.

        Làm kế hoạch tác chiến là việc rất mới và rất khó. Vì cơ quan mới được xây dựng nên Bộ Tổng tham mưu tuy đã hình thành các phòng nhân sự, tình báo, tác chiến, thông tin, nhưng chưa thể dự thảo được một kế hoạch tác chiến trình lên Quân ủy và Bộ Tổng chỉ huy thông qua như ngày nay. Cơ quan tham mưu khu Hà Nội mới ra đời, đứng đầu mới có một tham mưu chủ nhiệm, tức là một thủ trưởng tham mưu làm công tác nội bộ, nên việc làm kế hoạch càng khó.

        Chưa ai dạy ta làm một kế hoạch tác chiến. Từ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy, Tổng tham mưu trưởng đến chủ tịch Ủy ban bảo vệ Hà Nội, khu trưởng khu đặc biệt Hà Nội phải cùng nhau bàn bạc, từng bước nghiên cứu để đặt kế hoạch tác chiến.

        Khi pháp đưa quân vào đóng ở Hà Nội, ta thấy chúng có khả năng bất ngờ đánh úp ta; chúng ta đã nắm được âm mưu của chúng là sẽ “kết thúc bằng một màn đảo chính”.

        Cho nên, Quân ủy và Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ cho khu đặc biệt Hà Nội “phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu cao độ, không được bị động để địch đánh úp bất ngờ, nếu bị đánh thì phải có kế hoạch quật lại, giành lấy quyền chủ động”. Đó là một yêu cầu đúng, nhưng kế hoạch “quật lại địch giành lấy quyền chủ động” trong điều kiện so sánh lực lượng địch mạnh, ta yếu rất chênh lệch như trên, thì ta lại chưa nói rõ.

        Kế hoạch bảo vệ lúc đầu của Hà Nội chỉ là đem 5 tiểu đoàn vệ quốc đoàn cùng lực lượng tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu phân ra bảo vệ các cơ quan, nhiều nơi bố trí từ 1 đến 2 tiểu đội, một số nơi có 1 trung đội, ở Bắc Bộ phủ và ở sân bay Bạch Mai mỗi nơi có 1 đại đội. Riêng ở Quần Ngựa có 2 đại đội. Cụ thể, Liên khu 1 có tiểu đoàn 101 và tiểu đoàn 145 chia ra bố trí ở 17 điểm. Liên khu 2 có tiểu đoàn 77 và 212 chia ra bố trí tại 27 điểm. Liên khu 3 có tiểu đoàn 523 chia ra bố trí tại 20 điểm.

        Như vậy, đại bộ phận lực lượng vệ quốc quân được phân ra bảo vệ các cơ quan làm bộ đội cảnh vệ. Chỉ ở Bạch Mai có 1 đại đội và ở Quần Ngựa có 2 đại đội có tính chất lực lượng dự bị.

        Trong lúc địch có 5 điểm tập trung lớn, còn ta với lực lượng được bố trí rất phân tán, quả khó có khả năng “quật lại địch để giành quyền chủ động”. Tuy nhiên, lúc đầu vì bản thân địch cũng khó khăn, kế hoạch bảo vệ của ta lúc đó vẫn đúng, địch chưa làm gì ta được. Ta chưa phải quật lại chúng.

        Nhưng khi thấy rõ địch không thực lòng đàm phán ở Phông-ten-nơ-blô, Hội nghị cán bộ Trung ương cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm 1946 do đồng chí Trường Chinh chủ trì đã đề ra: ta phải “sẵn sàng về chính trị và quân sự đối phó với những bất trắc có thể xảy ra”. Như vậy, việc đặt kế hoạch tác chiến của Hà Nội để phòng địch đánh úp, kế hoạch quật lại địch trở nên cấp thiết.

        Hội nghị cán bộ Trung ương đã rút ra những kinh nghiệm về tác chiến ở miền Nam rất sắc sảo, rất có ích cho việc nghiên cứu kế hoạch tác chiến ở miền Bắc trong đó có ba vấn đề quan trọng: một là, giữ gìn lực lượng, không đem tiêu phí vào việc bảo vệ một số thành phố, hai là, phá hoại đường sá không cho địch phát huy được ưu thế về cơ giới đánh chiếm nhanh chóng các thành phố thị xã; ba là, nghiên cứu đánh cho lược xe tăng. Ngoài ra, một điểm hết sức quan trọng là phải nắm được quyền chủ động chiến lược.

        Đó là những kinh nghiệm xương máu mà đồng bào miền Nam giúp cho Hà Nội trong việc đặt kế hoạch tác chiến.

        Xuất phát từ những kết luận của hội nghị và theo chỉ thị của Quân ủy, Bộ Tổng tham mưu tổ chức nghiên cứu ba vấn đề:

        a) Đánh xe tăng.

        b) Phá hoại đường sá.

        c) Đánh thành phố.

        Có giải quyết được ba vấn đề này mới làm được kế hoạch tác chiến chiến lược của Bộ và kế hoạch tác chiến của Hà Nội.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #78 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 09:00:20 pm »


        Về đánh xe tăng, cái khó nhất là dùng vũ khí gì để đánh. Bộ Tổng tham mưu và Cục Chế tạo vũ khí đồng thời cùng nghiên cứu.

        Ta nghĩ ra một số cách:

        - Dùng chai xăng crếp để đốt. Từ cuối tháng 10, ta chế tạo được loại “vũ khí” này và bắt đầu sản xuất để phát cho Hà Nội và các nơi khác.

        - Dùng ba-dô-ca để bắn. Ta phải chế tạo súng, mấu chốt là chế tạo đạn lõm. Đến ngày 19 tháng 12 năm 1946 vẫn đang thí nghiệm, chưa thành công. Khu chỉ có một khẩu ba-dô-ca từ Việt Bắc đưa về do khu nắm làm lực lượng cơ động.

        - Dùng bom ba càng, nhược điểm là phải có người ôm bom đâm vào tăng, bom nổ là người hy sinh. Không có cách nào khác, Khu 11 phải tổ chức 12 tổ quyết tử đánh tăng bằng bom ba càng.

        - Chôn bom, mìn cũ nhặt nhạnh được, có thể nổ, có thể không nổ. Ta chưa sản xuất được mìn chống tăng.

        Về phá hoại đường sá, để ngăn chặn địch phát huy ưu thế về cơ giới tiến công ta, Bộ Tổng tham mưu đề ra mấy biện pháp: đắp ụ, đóng cọc, đào đường, phá cầu cống...

        Vì kháng chiến toàn quốc chưa nổ ra, xe cộ nhân dân còn phải đi lại làm ăn nên chưa thể đào đường, phá cầu cống, nhưng cần dự kiến địa điểm phá và chuẩn bị trước.

        Việc có thể làm ngay từ tháng 8 là đắp ụ ba-ri-cát, ụ đắp nửa đường theo kiểu chữ chi, xe cộ phải chậm lại nhưng vẫn chạy được. Khi chiến tranh nổ ra sẽ đắp hết ngang đường kết hợp đào đường, phá cầu cống.

        Về cách đánh thành phố, Bộ lấy Hà Nội làm trọng điểm để nghiên cứu rồi phổ biến cho các thành phố khác.

        Bí thư Quân ủy, Tổng tham mưu trưởng, một bộ phận cán bộ tác chiến bí mật cùng nghiên cứu với chủ tịch Ủy ban bảo vệ và khu trưởng khu Hà Nội.

        Từ tháng 8 năm 1946, Bộ cùng với đồng chí Khu trưởng Lê Quảng Ba làm kế hoạch. Đến tháng 11 năm 1946, đồng chí Vương Thừa Vũ về làm khu trưởng thay đồng chí Lê Quảng Ba. Việc làm kế hoạch mới khẩn trương hơn, trong đó vấn đề mấu chốt nhất là cách đánh.

        Có ý kiến cho là nên đồng loạt đánh Pháp ở thành Hà Nội như ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật đã làm. Ý kiến đó không được chấp nhận vì ta phải đánh một mục tiêu rất lớn.

        Cũng có ý kiến đề nghị trên đường Hà Nội - Hà Đông nên xây dựng một số phòng tuyến trận địa để chặn địch. Nhưng Hội nghị cán bộ Trung ương cuối tháng 7 đầu tháng 8 đã nêu lên: Xung quanh Sài Gòn đã lập trận địa rải mành mành nhưng không chặn nổi địch nên kết quả là “đem lực lượng tiêu phí vào việc giữ thành phố”.

        Ta phải bảo toàn thực lực mới kháng chiến được lâu dài. Vì thế, nhiệm vụ chiến lược của chiến cuộc mở đầu kháng chiến toàn quốc được nêu trong chỉ thị toàn dân kháng chiến ngày 22 tháng 12 năm 1946 là: “Tích cực tiêu hao tiêu diệt địch, ngăn chặn làm chậm bước tiến của chúng, vạn bất đắc dĩ phải rút khỏi một số thành phố sau khi đã đánh địch quyết liệt ở đó để bảo toàn thực lực kháng chiến lâu dài”.

        Nhưng ta cũng không thể bị động để địch chiếm dễ dàng thành phố, mà phải cố nắm quyền chủ động, tích cực tiêu hao tiêu diệt chúng, ngăn chặn chúng một thời gian để tạo điều kiện chuyển đất nước sang thời chiến.

        Có lần Bác hỏi về thời gian đó, các đồng chí lãnh đạo Hà Nội không dám hứa cụ thể mà chỉ nói xin cố gắng. Đồng chí Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái báo cáo với Bác có thể giữ Hà Nội một tháng.

        Nhưng vì Sài Gòn, các thành phố, thị xã miền Nam, Hải Phòng, Lạng Sơn lúc đầu chưa có kinh nghiệm, nên chỉ đánh địch trong nội thành được mấy ngày. Bộ thấy ta phải cố tránh không mắc phải tình trạng đó, nên khi ra lệnh, đồng chí Tổng chỉ huy chỉ giao cho Hà Nội cố giữ đuợc 15 ngày. Tuy nhiên, Bộ và Khu 11 đều thống nhất nếu giữ được một tháng hoặc càng lâu hơn càng tốt.

        Để ngăn chặn địch dài ngày, vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để hạn chế ưu thế về xe tăng - thiết giáp của địch trong thành phố.

        Kinh nghiệm đánh địch ở Sài Gòn do đồng chí Huỳnh Văn Tiểng ở Nam ra phổ biến hồi tháng 8 năm 1946 cho biết, dân đã quẳng bàn, ghế, sập, tủ, giường, xe cộ, ngả cây, ngả cột điện... để làm chướng ngại đường phố, nhưng chỉ chặn địch được một thời gian ngắn. Ta sẽ vận dụng kinh nghiệm quý này nhưng phải nghĩ thêm cách khác để có thể chặn địch lâu hơn.

        Bộ Tổng tham mưu đề ra nên theo cách đã làm trên đường giao thông, tức là sẽ đắp ụ đất (ba-ri-cát, sẽ gọi là chiến lũy đường phố), đóng cọc, đào hầm hố chống tăng nhiều tầng lớp kết hợp ngả cây, ngả cột điện, quẳng đồ đạc ra đường.

        Khi chưa nổ ra chiến tranh, địch còn được phép đi lại, chưa đắp chiến lũy và lập chướng ngại trên mọi đường phố nhưng cần dự kiến nơi làm và chuẩn bị sẵn đất, bao cát, cọc, dụng cụ, nhân lực, phân công cụ thể. Cây cối và cột điện thì khoan sẵn lỗ, khi tác chiến sẽ tra thuốc nổ vào để phá. Nhưng chỗ nào làm trước được vẫn cứ làm.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #79 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 09:01:38 pm »


        Vì trên các đường phố sẽ xây chiến lũy, đặt chướng ngại nên để tiện việc cơ động và liên lạc, Bộ Tổng tham mưu đề ra cần đục thông tường nhà nọ sang nhà kia.

        Một vấn đề rất quan trọng nữa được đồng chí Tổng chỉ huy nêu lên vào cuối tháng 8 năm 1946 với Bộ Tổng tham mưu và Khu 11 là cần chọn một số khu vực có thể tổ chức trụ lại đánh dài ngày. Trong tháng 9 và tháng 10, phòng Tác chiến Bộ Tổng tham mưu đã cùng khu đặc biệt Hà Nội đi nghiên cứu tại thực địa vài ba khu vực.

        Sau khi Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đi nghiên cứu với khu trưởng Khu 11, vào cuối tháng 11 năm 1946 khu vực được chọn là khu vực bắc hồ Hoàn Kiếm thuộc Liên khu 1. Khu vực này như trên đã nói có điều kiện về địa hình, địa vật đáp ứng việc trụ lại đánh dài ngày trong lòng thành phố.

        Đồng chí Tổng chỉ huy còn nhắc Hà Nội phải chọn những nhà cửa, kiến trúc ở các vị trí khống chế được những quãng đường hiểm yếu để đặt hỏa lực, bố trí lực lượng. Những nơi chưa bố trí lực lượng cũng cần chuẩn bị thiết bị sẵn. Đó là một trong những kinh nghiệm đánh Nhật ở Thái Nguyên hồi tháng 8 năm 1945.

        Ngoài ra, Bộ còn giao cho cơ quan tham mưu Hà Nội phải tìm hiểu hệ thống cống ngầm để có thể lợi dụng khi tác chiến. Đồng chí Hoàng Văn Khánh đã hai lần tổ chức hai đoàn chui vào hệ thống cống với mục đích tìm đường tiếp tế và rút lui cho Liên khu 1 và sử dụng trong quá trình tác chiến nhưng không đạt được ý định đề ra.

        Vấn đề mấu chốt Bộ chỉ đạo là phải nắm cho được quyền chủ động, làm cho địch bị động.

        Căn cứ vào những điểm chỉ đạo đó của Bộ, từ cuối tháng 11 năm 1946 Khu trưởng Khu 11 Vương Thừa Vũ vừa về nhận nhiệm vụ đã khẩn trương làm kế hoạch tác chiến cụ thể.

        Đến ngày 13 tháng 12 năm 1946, kế hoạch tác chiến của khu được Bộ Tổng chỉ huy thông qua lần cuối cùng.

        Trong kế hoạch, ta phán đoán địch sẽ đem quân từ Của Bắc của thành tiến theo đường Phan Đình Phùng, Hàng Đậu ra chiếm cầu Long Biên đồng thời với quân từ Gia Lâm đánh sang. Địch từ Cửa Nam thành theo đường Cột Cờ, Tràng Thi, Tràng Tiền và từ Đồn Thủy theo đường Lê Thánh Tông lên cùng với cánh quân Cửa Nam ra, đánh chiếm khu Bắc Bộ Phủ, Tòa Thị chính. Địch có thể từ Cửa Nam theo đường Hàng Lọng và từ Đồn Thủy theo đường Trần Hưng Đạo nối liền với ga Hàng Cỏ và ngã tư Khâm Thiên. Địch ở Gia Lâm có thể vượt sông sang tăng viện cho Hà Nội.

        Ý định tác chiến của ta là nắm quyền chủ động, dùng lực lượng vệ quốc đoàn, tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu, tự vệ thành bất ngờ tiến công đồng loạt nhiều vị trí địch trước khi chúng tiến công ta, đặc biệt phải bất ngờ tiêu diệt ngay từ đầu các ổ chiến đấu độc lập của địch tại các khu phố, làm chúng bị động, đồng thời tích cực ngăn chặn và hạn chế sự tiến công ồ ạt, đánh nhanh thắng nhanh của chúng. Sau 3 ngày tác chiến thì:

        - Cắm lại một lực lượng trong lòng thành phố ở Liên khu 1 chặn đánh dài ngày ở sau lưng địch. Kết hợp với Liên khu 2 và Liên khu 3 cùng chặn đánh từ trong ra và lui dần, đêm luồn vào đánh du kích làm cho địch lâm vào thế trước sau đều bị ta chặn đánh phải phân tán lực lượng không thể đánh chiếm nhanh chóng thành phố.

        - Phối hợp chặt chẽ các lực lượng vệ quốc đoàn, tự vệ chiến đấu, tự vệ Thành, công an xung phong, các đội cảm tử đánh tăng, các tổ du kích đặc biệt, bám sát địch và chặn đánh địch khắp nơi để tiêu hao chúng, làm chúng hoang mang, luôn luôn phải bị động chống đỡ.

        - Vận dụng chiến thuật “cảng chiến” để chặn cuộc tiến công của địch, kết hợp tiến công với phòng ngự tiêu hao tiêu diệt chúng.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM