Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 04:28:30 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Mở đầu toàn quốc kháng chiến  (Đọc 28132 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #60 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2016, 11:39:59 pm »


        Mờ sáng ngày 10 tháng 3, mũi quân địch theo đường 38 xuống Viềng để đánh về thành phố. Khi địch đến làng Đệ Nhất, Lưu Phố (Lộc Hạ) bị đại đội 11 (tiểu đoàn 75) chặn đánh, chúng phải lui về Viềng.

        Trưa ngày 10 tháng 3, quân địch từ Tân Đệ tiến vào đường 10. Khi chúng đánh vào thôn Trung Trang (Mỹ Tân, Mỹ Lộc) đã vấp phải mìn của trung đội tự vệ khu phố Hồ Văn Mịch do Trung đội trưởng Tạ Quang Khả và Chính trị viên Bùi Tư Nghĩa chỉ huy, làm một số tên tử trận. Địch phải lui quân về để chuyển hướng tiến công. Sáng sớm hôm sau (ngày 11 tháng 3) chúng tăng thêm lực lượng có xe bọc thép đi kèm, vòng từ phía Hữu Bị xuống làng Trung Trang. Đợi địch đến sát bãi mìn, Tiểu đội trưởng Tạ Quang Thuấn điểm hỏa và hô xung phong, nhưng mìn không nổ. Quân ta xông lên đã bị hỏa lực của địch chặn lại, một số chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, trong đó có Tạ Quang Thuấn. Trước tình thế bất lợi, các chiến sĩ vừa bắn chặn địch vừa rút vào trong làng. Một số anh chị em vượt ra khỏi làng, số còn lại do trung đội trưởng chỉ huy rút vào căn nhà xây hai tầng cố thủ. Địch bao vây căn nhà, các đồng chí rút lên gác hai, tiếp tục chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Trong trận chiến đấu này, bốn anh em ruột họ Tạ Quang (Khả, Hồng, Thuấn, Đức) và bảy chiến sĩ tự vệ hy sinh anh dũng.

        Như vậy, đến trưa ngày 10 tháng 3 năm 1947, ở phía bắc và phía đông thành phố Nam Định, sau khi các đại đội của tiểu đoàn 75 rút đi, địch mới tiến được vào nội thành. Tại hướng tây nam, tiểu đoàn 69 phối hợp tổ chức đánh địch đổ bộ từ sông Đào lên Lò Lợn tiếp tục bắn tỉa quấy rối kìm chân địch trong thành phố và triển khai các trận địa ở các làng xã phía đường 10 thuộc Vụ Bản, chờ lệnh rút quân. Ngày 13 tháng 3, tiểu đoàn 69 đã hoàn thành nhiệm vụ ra khỏi thành phố. Trong các ngày 12, 13, 14 tháng 3, các đơn vị của trung đoàn 34, nhất là đại đội Quyết tử quân vừa đánh vừa lui, tiếp tục tiêu hao, tiêu diệt thêm một số tên địch. Ngày 15 tháng 3, trung đoàn 34 và các lực lượng vũ trang nhân dân thành phố đã hoàn thành nhiệm vụ bao vây tiến công quân địch đồn trú ở thành phố Nam Định.

        Sau 86 ngày đêm liên tục chiến đấu, quân dân Nam Định đã kìm chế, giam chân một lực lượng lớn quân viễn chinh Pháp; đã giết và làm bị thương hơn 400 tên, trong đó có nhiều sĩ quan và binh lính Âu Phi, bắt sống 6 tên, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.

        Cùng với Thủ đô Hà Nội và một số thành phố, thị xã khác ở Bắc Bộ, cuộc chiến đấu của quân dân Nam Định đã làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, góp phần cùng cả nước có thêm thời gian củng cố và xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

        Qua chiến đấu ác liệt, lực lượng ta vẫn được bảo toàn và ngày càng trưởng thành. Bộ đội địa phương, nhất là trung đoàn 34 có thêm nhiều kinh nghiệm chiến đấu độc lập hỗ trợ cho bộ đội địa phương và dân quân du kích đứng lên chủ động chiến đấu sau này.

        Có được những thắng lợi to lớn trên đây là do Đảng bộ đã thấm nhuần và vận dụng một cách sinh động đường lối cách mạng bạo lực của Đảng vào hoàn cảnh địa phương, luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ra sức xây dựng lực lượng về mọi mặt, đặc biệt là lực lượng vũ trang nhân dân, chủ động đối phó với mọi tình thế có thể xay ra khi cuộc kháng chiến bùng nổ. Đảng bộ đã nhanh chóng chớp thời cơ, kiên quyết tấn công địch; đồng thời phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước và truyền thống đấu tranh bất khuất của nhân dân trong tỉnh, hướng dẫn, tổ chức toàn dân xông lên giết giặc lập công, tạo nên khí thế hào hùng mở đầu cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện ở địa phương.

        Đó là các địa phương tiêu biểu trong cả nước. Quân dân các địa phương khác cũng đã chiến đấu anh dũng, ngăn chặn các cuộc tiến công mở rộng chiếm đóng của địch, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, góp phần vào thắng lợi chung mở đầu Toàn quốc kháng chiến.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #61 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:24:10 pm »


IV. THỪA THIÊN - HUẾ BAO VÂY, TIẾN CÔNG ĐỊCH
(20-2-1946 – 5-2-1947)

        Đáp lời kêu gọi Của Hồ Chủ tịch, cả nước nhất tề đứng lên! Quân và dân Thủ đô xuống đường lập phòng tuyến đánh giặc. Cùng với quân dân Thủ đô và cả nước, Đảng bộ Thừa Thiên - Huế thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch đã nhanh chóng triển khai lực lượng, lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Thừa Thiên - Huế. Ngay trong đêm 19 tháng 12 năm 1946, Thường vụ Tỉnh ủy đã họp phiên mở rộng, quán triệt chủ trương và đường lối kháng chiến của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, đồng thời thông qua kế hoạch tác chiến theo chủ trương của Xứ ủy Trung Bộ và Ủy ban kháng chiến hành chính Trung Bộ. Căn cứ tình hình lực lượng giữa ta và địch trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế, Tỉnh ủy hạ quyết tâm: một mặt nhanh chóng triển khai công tác sơ tán các kho tàng, công binh xưởng lên miền Tây Thừa Thiên để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, mặt khác chủ trương dùng lực lượng vũ trang tiến hành bao vây tiêu diệt toàn bộ quân Pháp đóng tại thị xã Huế trước khi lực lượng địch tăng viện đến.

        Quyết tâm đó lập tức phổ biến nhanh chóng xuống toàn Đảng bộ, toàn dân và toàn quân trong tỉnh để triển khai kịp thời. Toàn tỉnh hưởng ứng và ủng hộ quyết tâm của Thường vụ Tỉnh ủy sẵn sàng chờ lệnh.

        Không khí chuẩn bị vào cuộc chiến đấu mới của Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên - Huế những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hết sức khẩn trương, sôi nổi với tinh thần bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, với lòng căm thù trước thái độ lật lọng xảo trá, khiêu khích ngang ngược của kẻ thù.

        Giờ quyết chiến đã điểm. “Khu tam giác” (nam sông Hương), nơi tập trung tiểu đoàn lính Pháp trở thành một mục tiêu quan trọng của cuộc tấn công, bao vây chia cắt địch của ta. Đúng 2 giờ 30 phút ngày 20 tháng 12 năm 1946, sau hàng loạt phát đại bác bắn vào các vị trí tiền tiêu của địch ở Mo-rin, chiến dịch Huế mở màn. Quân ta đồng loạt nổ súng tiến công vào các cứ điểm địch, Nhà máy Điện Huế bị điểm hỏa, toàn bộ điện thị xã Huế bị cắt, bọn Pháp chìm trong bóng tối cố thủ. Các mũi tiến công của ta chia cắt địch không cho chúng co cụm đối phó. Phía bắc cầu Tràng Tiền, cầu Giả Viên bị phong tỏa cắt đứt, phía tây và tây nam cầu Ga, cầu Bến Ngự, Phú Cam, Lò Rèn, An Cựu... bị khóa chặt. Toàn bộ quân Pháp bị nhốt lại ở khu Tam Giác (nam sông Hương).

        Nhiều trận kịch chiến giữa ta và địch diễn ra ở khách sạn Morin, trường Thiên Hữu, nhà máy điện, miếu Đại Càng (An Cựu), quân ta phải giành giật với địch từng tầng nhà, từng góc phố, với vũ khí thô sơ phải đương đầu với hỏa lực của địch cố thủ. Liên tiếp trong ngày 20 tháng 12 năm 1946 quân ta tổ chức nhiều đợt tập kích áp sát vị trí quân địch, dùng mã tấu, đại đao, bom xăng, bom ba càng, lựu đạn, cảm tử xông thẳng vào cứ điểm địch, đánh lui các đợt phản kích của kẻ thù, hòng chiếm lại vị trí quân ta chiếm. Địch ỷ vào sức mạnh của hỏa lực, cố thủ chống trả chờ quân tiếp viện. Quân ta do vũ khí quá thô sơ, thiếu kinh nghiệm tác chiến ở thành phố, đặc biệt khi địch co cụm cố thủ có hỏa lực mạnh. Nhiều trận đánh quyết liệt như khách sạn Mo-rin, cảm tử quân chiếm được tầng 1 địch ở tầng 2 cố thủ các lối lên xuống, ta phải dùng cả hỏa công có hơi cay ớt nhưng chỉ bao vây kìm chân địch, gây cho địch nhiều tổn thất về quân và vũ khí.

        Chiến sự diễn ra ác liệt, căng thẳng, tình thế kéo dài sẽ bất lợi cho ta. Trước tình hình đó, Ban chỉ huy mặt trận chuyển hướng chiến thuật tiến công của các đơn vị, hình thành thế bao vây tiêu hao sinh lực địch. Tổ chức những mũi đột kích gây cho chúng nhiều hoang mang sợ hãi. Địch bị vây hãm, cắt đứt điện nước và tiếp tế từ bên ngoài vào. Thời gian kéo dài, đẩy quân Pháp vào tình trạng thiếu lương thực, đạn dược, thuốc men, xác chết, bị thương không được đưa đi chôn cất, cứu chữa... đêm ngày trông đợi viện binh.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #62 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:24:31 pm »


        Để tiến công, bao vây tiêu diệt sinh lực địch, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân các huyện hỗ trợ cho mặt trận Huế lương thực, thực phẩm, thuốc men được nhân dân tiếp tế tận nơi, thương binh, tử sĩ được đưa về tuyến sau cứu chữa, mai táng. Hình ảnh các mẹ, các chị ở Huế và vùng phụ cận mang quà Tết Đinh Hợi (1947) phục vụ động viên các chiến sĩ tận chiến hào giữa lúc chiến sự còn diễn ra ác liệt thể hiện sự gắn bó tình quân dân như cá với nước. Tại mặt trận Huế, những nơi chiến sự xảy ra ác liệt, phần lớn người già, trẻ em được đưa đi sơ tán, đồng bào ở lại trực tiếp phục vụ và tham gia chiến đấu. Đồng bào đi sơ tán được các tổ chức đoàn thể địa phương ân cần đón tiếp lo nơi ăn chốn ở chu đáo.

        Phối hợp với mặt trận ở Huế, ở tuyến sau, bên cạnh công tác hậu cần tiếp tế, Đảng bộ địa phương chỉ đạo nhân dân xây dựng hầm hào, công sự, dựng chướng ngại vật, phá cầu cống, đường sá ngăn chặn tiếp tế và cản bước tiến của quân địch. Nhân dân thực hiện chiến lược “tiêu thổ kháng chiến”, phá những nơi địch có thể lợi dụng để xây dựng đóng đồn bốt hoặc đóng quân như nhà gạch, đình, chùa. Mọi phương tiện, lương thực, thực phẩm đều bị cất giấu hoặc phá bỏ, thực hiện triệt để chiến lược “vườn không nhà trống”.

        Mặt trận Huế ngày càng trở nên nóng bỏng và quyết liệt, chiến lược của ta chuyển từ tấn công đồng loạt sang vây ép địch, vừa đánh vừa củng cố lực lượng và trận địa, siết chặt vòng vây, chặn nguồn tiếp tế, đẩy chúng vào thế hoang mang cực độ, tạo thời cơ để quân ta đánh tiêu hao sinh lực địch, diệt từng cứ điểm của chúng.

        Trước nguy cơ bọn Pháp ở Huế bị tiêu diệt, ngày 15 tháng 1 năm 1947, Bộ chỉ huy quân đội Pháp vội vã tăng viện một lực lượng lớn hơn 5.000 tên bao gồm hải, lục, không quân và bộ binh cơ giới đổ bộ ở Đà Nẵng.

        Ngày 28 tháng 1 năm 1947, quân Pháp từ Đà Nẵng đánh ra và 8 canô đổ bộ vào khu vực Lăng Cô. Ngày 29 tháng 1 năm 1947, địch tấn công Truồi, đổ bộ cửa Tư Hiền. Địch ồ ạt tấn công khắp các tuyến phòng ngự của ta. Quân và dân các huyện Phú Lộc, Phú Vang, Hương Thủy phối hợp với tiểu đoàn 18 của chi đội Trần Cao Vân chặn đánh địch quyết liệt, ngăn cản bước tiến của chúng nhằm giải vây cho quân Pháp ở Huế. Với ưu thế của hỏa lực không quân và bộ binh cơ giới lần lượt các tuyến phòng ngự của ta bị phá vỡ.

        Do so sánh lực lượng quá chênh lệch, mặc dù quân ta chiến đấu hết sức dũng cảm nhưng phải rơi vào thế phòng ngự bị động, nhưng cuộc chiến đấu không cân sức đó đã làm chậm bước tiến của quân thù, đồng thời thể hiện được tinh thần yêu nước và ý chí diệt địch của Đảng bộ và nhân dân các huyện phía nam trong tỉnh. Một đoạn đường chưa đầy 60km với hàng trăm tên địch bị tiêu diệt; 16 ngày hành quân mới đến được Huế để giải vây đồng bọn.

        Ngày 5 tháng 2 năm 1947, địch từ ba mặt Thuận An, Thanh Thủy, Bãng Lãng đánh vào Huế. Quân địch từ bên trong đánh ra cung An Định, trường Việt An, ga Huế. Ngày 6 tháng 2 năm 1947, quân địch bên ngoài và bên trong gặp nhau.

        Căn cứ vào tình hình tương quan lực lượng và hoàn cảnh cụ thể của chiến trường, Bộ tư lệnh mặt trận Thừa Thiên - Huế quyết định rút toàn bộ lực lượng ra ngoài để tiến hành kháng chiến lâu dài. Từ đêm lịch sử 19 tháng 12 năm 1946 ấy, quân dân ta đã bao vây địch suốt 50 ngày đêm trong thành phố Huế. Năm mươi ngày đêm quân và dân Huế chiến đấu anh dũng ngoan cường và tiêu diệt hàng trăm tên, tịch thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của chúng. Hai lần quân địch phải thả dù quân tăng viện và tiếp tế lương thực, vũ khí cho quân của chúng ở Huế. Ngày 2 tháng 1 năm 1947: 100 dù, ngày 17 tháng 1: 90 dù. Điều đó nói lên tình trạng nguy khốn của địch và kết quả tiêu hao, tiêu diệt địch của quân dân ta.

        Cùng với nhân dân cả nước, quân và dân Thừa Thiên - Huế dưới sự lãnh đạo của Đảng đã viết nên những trang sử hào hùng về lòng dũng cảm, chí khí kiên cường, tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #63 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:25:39 pm »


V. QUẢNG NAM, ĐÀ NẴNG CHIẾN ĐẤU GIAM CHÂN ĐỊCH VÀ ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC ĐÁNH NHANH, THẮNG NHANH CỦA GIẶC PHÁP

        Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, nhân dân cả nước chủ động, sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc.

        Tại thành phố Đà Nẵng, ngày 15 tháng 12 năm 1946, Ủy ban quân sự Quảng Nam - Đà Nẵng họp nhận định tình hình trước hành động tăng quân của địch, kiểm tra việc bố trí lực lượng theo các phương án tác chiến, sẵn sàng đợi lệnh Trung ương. Hội nghị quyết định gấp rút triến khai kế hoạch bổ sung phương án tác chiến của bộ đội chủ lực và dân quân tự vệ. Trung đoàn 96 bố trí sát các vị trí đóng quân của địch, thế trận vòng cánh cung từ trụ sở Ủy ban, nhà Bưu điện, Ngã Năm, Cổ Viện Chàm đến khu vực Chợ Mới. Một tiểu đoàn phong tỏa cụm quân địch tại sân bay Đà Nẵng. Trung đoàn bộ đóng tại ngã tư Yên Khê. Cứ mỗi đại đội chủ lực có một đại đội tự vệ thành phố hoặc dân quân du kích Hòa Vang làm nhiệm vụ phối thuộc chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Đại đội tự vệ chiến đấu của công nhân ngành hỏa xa Đà Nẵng (Lý Chính Thắng) sát cánh cùng bộ đội ở lại trong thành phố đánh giặc.

        Trung đoàn 93 phòng thủ nam sông Cẩm Lệ. Một tiểu đoàn bố trí từ Non Nước, Mỹ Thị, Miếu Bông, cầu Cẩm Lệ đến Trung Lương. Một tiểu đoàn đóng ở Thanh Quýt. Một tiểu đoàn đóng ở Vĩnh Điện, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, không cho địch vượt sông, và có nhiệm vụ chi viện cho trung đoàn 96 ở Đà Nẵng.

        Hội nghị hạ quyết tâm cho toàn quân: khi đã có lệnh kháng chiến thì kiên quyết chiến đấu, vây hãm, tiêu hao, quấy rối, phá hoại, làm thiệt hại quân địch, không cho chúng thực hiện kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh”, tạo điều kiện cho đồng bào tản cư, các cơ quan rút ra ngoài thành phố, bảo tồn lực lượng, xây dựng cơ sở kháng chiến lâu dài.

        Thế trận được bày sẵn, dân quân tự vệ, công an sát cánh cùng bộ đội chủ lực sẵn sàng chờ lệnh chiến đấu. Những tổ xung kích bí mật áp sát các vị trí, kho tàng, các mục tiêu quan trọng để nổ súng, giật mìn phá hủy. Các cầu Thủy Tú, Phong Lệ, Cẩm Lệ đã bố trí lực lượng và phương tiện sẵn sàng đánh sập. Các trục đường ra, vào và xung quanh Đà Nẵng đang gấp rút xây dựng thêm những chướng ngại vật. Tài liệu, máy móc, phương tiện của các cơ quan bí mật chuyển ra ngoài thành, lên căn cứ. Nhân dân nội thành được lệnh chuẩn bị tản cư triệt để và làm vườn không nhà trống “tiêu thổ kháng chiến”, bất hợp tác với giặc.

        Ủy ban kháng chiến tỉnh chỉ thị cho các huyện lân cận Hòa Vang, Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên đón tiếp giúp đỡ đồng bào Đà Nẵng tản cư. Lực lượng tự vệ, dân quân sẵn sàng tham gia chiến đấu, thanh niên nam nữ và những người khỏe mạnh sẵn sàng phục vụ chiến đấu. Các trạm cứu thương, trạm tiếp tế được lập ngay ở Hòa Vang, Điện Bàn, nơi tiếp cận với mặt trận Đà Nẵng để phục vụ bộ đội.

        Công việc chuẩn bị kháng chiến căn bản hoàn thành. Quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng sẵn sàng đợi lệnh của Trung ương và Chính phủ để trút căm thù lên đầu giặc Pháp.

        Ở Quảng Nam - Đà Nẵng, 20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946, Ban chỉ huy mặt trận nhận được mệnh lệnh nổ súng đánh địch. Lập tức Ban chỉ huy mặt trận họp và ra lệnh:

        - Đúng 2 giờ sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946, tiểu đoàn 19 nổ súng đánh địch tại sân bay.

        - Các đơn vị đã bố trí nhanh chóng bám mục tiêu theo kế hoạch đã định, sẵn sàng khi nghe tiếng súng phát hỏa ở sân bay, coi đó là hiệu lệnh, các đơn vị đồng loạt nổ súng tấn công địch.

        - Đồng thời cũng là mệnh lệnh phá sập các cầu Thủy Tú, Cẩm Lệ, Phong Lệ, phá nhà máy đèn, chặt cây cản đường, ra lệnh đồng bào thành phố tản cư triệt để.

        - Dời trung đoàn bộ trung đoàn 96 lên Khánh Sơn, rút phái đoàn ta ra khỏi Ủy ban liên kiểm quân sự Việt - Pháp.

        - Trung đoàn 93 báo động sẵn sàng chuẩn bị đưa một bộ phận lực lượng vào Đà Nẵng chiến đấu.

        Các mệnh lệnh trên nhanh chóng chuyển đến các đơn vị trực thuộc. Tất cả các đơn vị, các lực lượng vào vị trí chiến đấu sẵn sàng nổ súng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #64 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:25:57 pm »


        Các cơ quan lãnh đạo của thành Đà Nẵng rút ra khỏi thành phố vào đóng ở Túy Loan (Hòa Vang) theo dõi, lãnh đạo nhân dân tản cư và phục vụ chiến đấu. Đồng bào Đà Nẵng sẵn sàng hiến dâng tất cả của cải, nhà cửa, báu vật để phục vụ kháng chiến, đánh giặc, cứu nước, cùng với toàn quốc thực hiện lời thề độc lập “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”.

        Tuy kế hoạch nổ súng đồng loạt tiến công địch trong đêm 19 tháng 12 năm 1946 không thực hiện được, nhưng các đơn vị bố trí trên các đường phố, các điểm cao, ngã ba, ngã tư, chiếm lĩnh các vị trí chiến đấu quan trọng vẫn giữ vững thế trận và sẵn sàng chiến đấu. Tiếng bom nổ phá sập nhà máy đèn, tiếng địa lôi nổ đánh gãy cầu Thủy Tú, cầu Cẩm Lệ trở thành hiệu lệnh chiến đấu của quân dân trong tỉnh.

        Từ các vị trí đứng chân, ngày 20 tháng 12 năm 1946 giặc Pháp tổ chức nhiều mũi tấn công nhằm vào hai hướng chủ yếu: hướng từ nhà Bưu điện, Cổ Viện Chàm, Chợ Mới nhằm mục tiêu giải vây cho bọn Pháp ở sân bay. Hướng đường Nguyễn Hoàng (nay là đường Lê Duẩn) nhằm chiếm nhà Ga, ngã ba Cai Lang, ngã tư Yên Khê...

        Các mũi tiến quân của địch đều bị quân ta chặn đánh quyết liệt ngay từ khi chúng xuất phát và từng bước chúng tiến quân, trên từng căn nhà, từng con đường, từng góc phố, nhà ga, bến chợ. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng quyết liệt tại ty Bưu Điện, nhà sách Thái Thị Bôi, nhà Thông tin tuyên truyền, Cổ Viện Chàm, bót Đội Cung... Nhiều nơi, để địch tới gần quân ta đồng loạt nổ súng, tung lựu đạn vào đội hình chúng. Bắn hết đạn, chiến sĩ ta rút lên gác, địch xông vào nhà, quân ta tung lựu đạn, xô cánh cửa, vứt bàn ghế, gạch ngói, đồ vật xuống, địch chết chẹt ở cầu thang (bót Đội Cung).

        Mũi quân giặc phía đường Phan Chu Trinh tiến về Ngã Năm, suốt 5 tiếng đồng hồ, bị quân ta chặn đánh tiêu diệt hàng mấy chục tên. Địch dùng mũi đánh thọc sườn từ đường Triệu Nữ Vương vào Ngã Năm, quân ta phục kích vùng Mã Tây quần đánh suốt ngày, chúng phải tháo lui.

        Ở hướng tây, quân địch không sao vượt qua được khu Cầu Vồng. Chúng dùng lực lượng lớn quân lê dương, có xe tăng hỗ trợ, mở nhiều đợt tấn công suốt ngày tại khu vực nhà Ga. Bộ đội ta đặt trung liên vào thùng thiếc bắn nổ vang như đại liên, uy hiếp tinh thần địch.

        Tờ mờ sáng hôm sau, địch dùng pháo lớn từ hạm tàu, tập kích dữ dội vào ngã tư Yên Khê, Xuân Hòa, Xuân Đán, Liêu Trì, chặn đường tiếp tế của quân ta, yểm trợ cho bộ binh chúng mở đợt tấn công. Quân ta chiến đấu liên tục cả ngày.

        Sáng 22 tháng 12 năm 1946, địch tập trung lực lượng đánh giải vây cho đại đội quân Pháp đang cố thủ ở sân bay. Các đơn vị bộ đội, dân quân du kích Hòa Vang chặn đánh quyết liệt ở khu Chợ Mới, bẻ gãy nhiều đợt tiến quân của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Một đại đội địch từ nhà Ga tiến về Chợ Mới, bộ đội tiểu đoàn 19 chặn đánh diệt hơn một trung đội.

        Cuộc chiến đấu diễn ra ở Đà Nẵng không cân sức, về binh khí và kỹ thuật, bộ đội ta kém hơn địch, nhưng tinh thần dũng cảm hy sinh của bộ đội ta thật phi thường.

        Khi chiến đấu hết đạn, chiến sĩ ta mưu trí, đốt khói mù trời rồi xung phong dùng chai cháy đốt xe địch, dùng dao đánh giáp lá cà với lính lê dương. Nhiều nơi bộ đội ta đánh đến viên đạn cuối cùng, chờ địch đến dùng bàn ghế, gạch đá cánh cửa đánh địch. Quân ta xông ra vật lộn và cắn vào cổ giặc, làm cho chúng phải khiếp sợ trước tinh thần chiến đấu quả cảm của quân ta.

        Tuy có bị động lúc ban đầu, nhưng khi đã nổ súng, quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng nhanh chóng biến thế bị động nổ súng thành thế chủ động, đánh địch trên mảnh đất làm chủ của mình. Vì thế trong ngày đầu ta đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, mưu trí, quyết tâm, phát huy tác dụng vũ khí có trong tay, bẻ gãy các đợt tấn công, đánh hơn ba mươi trận, diệt hơn ba trăm tên và làm bị thương hàng trăm tên khác, hầu hết là lính lê dương mũ đỏ. Đó là thành tích đầu tiên, có ý nghĩa của quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng mà bọn Pháp hết sức bất ngờ.

        Trong ba ngày chiến đấu sống mái với quân thù, đồng bào Đà Nẵng ai ai cũng nguyện làm hết sức mình, đóng góp hết thảy để giết giặc, cứu nước. Đồng bào khoét nhà đục tường làm chiến hào từ phố này sang phố khác để bộ đội và dân quân luồn lách chiến đấu, hiến dâng nhà cửa, giường tủ, bàn ghế và mọi thứ dụng cụ sẵn có để bộ đội làm công sự chiến đấu, vứt ra đường làm vật chướng ngại cản bước quân thù, thực hiện tiêu thổ kháng chiến.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #65 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:26:22 pm »


        Bộ đội và dân quân tự vệ đã thực hiện được yêu cầu giam chân địch trong thành phố để các cơ quan rút ra khỏi Đà Nẵng, đồng bào tản cư ra khỏi thành phố, bảo tồn lực lượng cách mạng để kháng chiến lâu dài. Chiều ngày 22 tháng 12 năm 1946, Ban chỉ huy mặt trận ra lệnh cho các đơn vị rút khỏi trung tâm thành phố.

        Bộ đội cùng với nhân dân tổ chức tuyến phòng thủ mới ở tây bắc từ Phong Lệ, Nghi An, Hòa Mỹ, Đa Phước đến ngã tư Yên Khê. Ở phía nam sông Cẩm Lệ, từ Phong Lệ đến Non Nước, trung đoàn 93 cùng dân quân và đồng bào Hòa Vang sẵn sàng đánh địch khi chúng tràn qua sông. Đồng bào sát cánh cùng bộ đội ngày đêm củng cố tuyến phòng thủ mới.

        Ngày 23 tháng 12 năm 1946 đến ngày 7 tháng 1 năm 1947, quân địch tập trung các lực lượng chủ yếu đánh ra hướng tây Đà Nẵng, ngã tư Yên Khê đến chân đèo Hải Vân.

        Ngày 25 địch tấn công ngã tư Yên Khê.

        Ngày 26, 27 tấn công Thanh Khê, Hòa Mỹ, Yên Khê.

        Ngày 28 tấn công Phước Tường, Nghi An, Cẩm Lệ.

        Ngày 29 đổ quân bãi Thanh Khê, tiến quân theo đường sắt và quốc lộ 1.

        Ngày 30 tấn công Hòa Mỹ, Đò Xu.

        Ngày 31 tấn công Nghi An, Đò Xu, đánh bom Đà Sơn.

        Ngày 1 tháng 1 năm 1947 tấn công Cẩm Lệ, Đò Xu.

        Ngày 2 và 3 tháng 1 pháo kích đại bác, moóc-chi-ê vào Đà Sơn, Hòa Mỹ, Nghi An, đổ quân vào Mỹ Khê.

        Ngày 4 tháng 1 dùng tàu thủy uy hiếp vùng Sơn Trà. Non Nước, dùng phi cơ bắn phá bừa bãi dọc quốc lộ 1 sâu vào hậu phương ta...

        Tiểu đoàn 19 cùng các đơn vị bộ đội, dân quân tổ chức phòng ngự, chiến đấu kiên cường, tiêu hao nhiều địch, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của chúng.

        Ở phía đông Đà Nẵng, Ban chỉ huy mặt trận chỉ thị cho tiểu đoàn 100 (trung đoàn 93) tập kích đêm 31 tháng 1 vào Mỹ Thị diệt hơn một trung đội địch. Bộ đội tổ chức nhiều mũi nhọn đột nhập vào nội thành hoạt động quấy rối, phá hoại, đốt kho tàng, dựng chướng ngại vật, đánh mìn bãi để xe, phục kích diệt bọn tuần tiễu, cắt dây điện, diệt trừ việt gian... gây cho địch nhiều thiệt hại, mất ăn, mất ngủ và hoang mang dao động ngay tại hậu phương chúng.

        Lực lượng dân quân tự vệ Đà Nẵng, sau khi rút ra khỏi thành phố, Thành ủy chủ trương tập trung biên chế thành một tiểu đoàn, gia nhập bộ đội, đột nhập vào thành phố hoạt động vũ trang đánh phá hậu phương địch, diệt trừ Việt gian. Lực lượng dân quân du kích Hòa Vang sát cánh cùng bộ đội chiến đấu và phục vụ chiến đấu khắp trên các tuyến dài của mặt trận, tiến hành gìn giữ trật tự an ninh, bảo vệ tài sản cho đồng bào tản cư, giúp đỡ những người già yếu, tàn tật và trẻ em. Tình quân dân ngày càng thân thiết. Qua thử thách chiến tranh, bộ đội, dân quân thực sự được nhân dân tín nhiệm và yêu mến.

        Ngày 15 tháng 1 năm 1947, địch đổ bộ 2.000 quân nghi binh ở phía đông Đà Nẵng. Trong khi đó chúng tập trung lực lượng đánh chiếm đèo Hải Vân. Đây là con đường nối liền Đà Nẵng - Huế, là mạch máu giao thông chiến lược từ cửa biển vào sân bay Đà Nẵng tỏa khắp để tiếp tế các chiến trường Trung Đông Dương. Ngày 16 tháng 1 năm 1947, Ban chỉ huy mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng ra lệnh cho các đơn vị ở phía đông nam Đà Nẵng “phải hoạt động mạnh, tập trung hỏa lực tiêu diệt một vị trí của địch để kìm chế sức tiến công của chúng, phối hợp với mặt trận phía tây”.

        Địch đã huy động 8.000 quân, 12 tàu thủy, 8 máy bay, quyết diệt quân ta, chiếm lĩnh đường đèo Hải Vân. Từ 4 giờ sáng ngày 17 tháng 1 năm 1947, địch dùng 2 tiểu đoàn bộ binh từ Nam Ô đánh qua sông Thủy Tú. Tàu thủy đổ quân lên Lăng Cô (Thừa Thiên) đánh vào đèo Hải Vân. Nhiều cánh quân đổ vào chân đèo, cắt phòng tuyến quân ta làm nhiều đoạn. Máy bay và pháo địch bắn rung chuyển cả đường đèo.

        Ở mặt trận Thủy Tú cũng như trên đèo Hải Vân, quân ta chiến đấu vô cùng dũng cảm, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch. Sau 3 ngày chiến đấu, quân ta tiêu diệt một đoàn xe địch, 200 lính Âu Phi và làm bị thương hàng trăm tên khác. Không chủ trương giữ đèo, các đơn vị được lệnh rút lui.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #66 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:26:49 pm »


        Chiếm được đèo, liên lạc được với quân ở Huế, nhưng địch không thực hiện được âm mưu tiêu diệt chủ lực ta. Trái lại, từ đây quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng biến đường đèo Hải Vân - một thắng cảnh nổi tiếng - thành mồ chôn hàng trăm quân xâm lược Pháp và tiêu diệt nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.

        Những ngày quân dân Đà Nẵng Hòa Vang trực tiếp chiến đấu với quân thù, Tỉnh ủy chủ trương lãnh đạo nhân dân các huyện chuẩn bị sẵn sàng đối phó với chiến tranh mở rộng. Đồng thời vận động đồng bào hướng về Đà Nẵng, Hòa Vang bằng những tình cảm và trách nhiệm, sẵn sàng đón tiếp, sắp xếp nơi ăn, chốn ở cho đồng bào tản cư, giúp đồng bào di chuyển và bảo vệ tài sản không để mất mát, tương trợ người nghèo, trẻ em và những người tàn tật gặp khó khăn, thiếu thốn...

        Các trường học, nhà thờ, đình chùa và nhà dân đã trở thành trạm cứu thương. Thanh niên trai tráng tổ chức chuyển thương binh về Điện Bàn, Duy Xuyên... Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc thương binh, quyên góp quà bánh, thực phẩm, tiền bạc, nuôi dưỡng và cung cấp cho bộ đội ở chiến trường. Đảng, chính quyền đoàn thể và Mặt trận Liên Việt thường xuyên cử người đại diện đến thăm hỏi thương binh, động viên tinh thần bộ đội giải quyết những khó khăn tại chỗ. Thể hiện tình cảm thắm thiết với chiến sĩ ngoài mặt trận, phong trào “Mùa đông binh sĩ” được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Nhiều áo, chăn, tơi, nón, góp lại đưa ra phòng tuyến cho chiến sĩ ta đỡ phần lạnh lẽo. Một đợt quyên góp quà bánh nhân Tết âm lịch 1947, được nhân dân ủng hộ rất nhiều, phụ nữ tổ chức từng đoàn gồng gánh đưa đến tận tay chiến sĩ.

        Ròng rã hơn một tháng chiến đấu kiên cường, liên tục, quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng cùng với cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cấp trên đề ra, vây hãm tiêu hao một bộ phận địch, giam chân chúng lại trong thành phố, góp phần làm thất bại kế hoạch tốc chiến, tốc thắng của giặc Pháp, tạo điều kiện cho cả nước có thời gian chuyển vào chiến tranh, bảo tồn được các cơ quan lãnh đạo và lực lượng chủ lực của ta.

        Sau khi chiếm được Đà Nẵng và một phần bắc Hòa Vang, đánh thông đèo Hải Vân, liên lạc được với Huế, quân Pháp ra sức củng cố các vị trí phòng thủ ở Đà Nẵng và dọc theo đèo Hải Vân, tiếp tế phương tiện phục vụ âm mưu mở rộng chiến tranh đánh chiếm Bình Trị Thiên và Hạ Lào.

        Từ sông Cẩm Lệ trở vào phía nam, quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng ra sức ổn định tình hình, sắp xếp nơi ăn, ở cho đồng bào Đà Nẵng tản cư, và nhất là ra sức bố phòng, chuẩn bị đối phó với những trận tấn công sắp tới của địch. Tỉnh ủy và các cơ quan tỉnh lúc này chuyển vào đóng tại Duy Xuyên.

        Tháng 1 năm 1947, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng họp mở rộng tại Ái Nghĩa (Đại Lộc), Hội nghị Tỉnh ủy nhận định tình hình cuộc kháng chiến vô cùng khẩn trương, phải liên lạc với các cơ quan tản cư, động viên sự đoàn kết và nỗ lực của toàn dân, vượt mọi khó khăn gian khổ, động viên hết thảy mọi phương tiện, tranh thủ khi địch đang còn ở phía bắc sông Cẩm Lệ mà củng cố hệ thống phòng tuyến chống giặc ở phía nam sông. Ra lệnh cho toàn dân các huyện kế cận tham gia triệt để phá hoại giao thông, làm chướng ngại vật, không cho địch tiến nhanh, không để một thứ gì địch đến có thể lợi dụng làm nơi đồn trú, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, làm vườn không nhà trống, bất hợp tác triệt để với giặc khi chúng đến. Hội nghị chủ trương, khi có lệnh tản cư, đảng viên, cán bộ phải đi theo đồng bào, hướng dẫn nhân dân tản cư theo đúng hướng. Tổ chức giữ vững đường dây liên lạc giữa tỉnh với khu, giữa tỉnh với các huyện, nhất là các huyện đang tản cư và với các tỉnh bạn Quảng Ngãi, Thừa Thiên. Củng cố lại Ban chấp hành Tỉnh ủy.

        Thấm nhuần chủ trương phá hoại giao thông để kháng chiến của Đảng và Hồ Chủ tịch, thực hiện nghị quyết Tỉnh ủy mở rộng, quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã tháo gỡ 40km đường ray xe lửa. Đào hào chữ chi, đắp ụ làm chướng ngại, trồng cọc chi chít trên quốc lộ 1, trên các đường tỉnh lộ, đường công hương và các con đường rẽ... Đánh sập các cầu xe lửa và cầu đường bộ: Nam Ô, Phong Lệ, Bích Trâm, Cẩm Lệ, Quá Giáng, Ngũ Giáp, Vĩnh Điện. Chuẩn bị phương tiện sẵn sàng phá 25 cầu nữa khi có lệnh. Các cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện, đền chùa, nhà dân kiên cố, ở các thị xã Hội An, thị trấn Vĩnh Điện được lệnh đập phá tiêu thổ, thực hiện “Lúc kháng chiến phá nhà là kháng chiến”. Trụ sở Ủy ban hành chính tỉnh đánh sập bằng 3 quả mìn lớn. Sau 2 tuần thành cổ đã được san bằng. Đồng bào chặt tre từng đoạn dài 2 mét, vót nhọn chôn cọc ở những bãi trống chống giặc nhảy dù. Làm nỏ, đắp kè ở các cửa sông dọc theo bờ biển, ngăn canô địch vào sông.

        Phòng tuyến ngăn địch của bộ đội ta bố trí dọc phía nam sông Cẩm Lệ: Trung đoàn 93 từ Non Nước, Đò Xu, Cẩm Lệ, trung đoàn 96 từ tây quốc lộ đến đèo Đại La. Tiểu đoàn 19 đánh địch trên đèo Hải Vân. Dân quân tự vệ sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên vị trí được phân công.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #67 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:27:07 pm »


        Ngày 28 tháng 2 năm 1947, tiểu đoàn 19 phục kích đánh trận giao thông chiến đầu tiên trên đèo Hải Vân, phá hủy 8 xe quân sự, tiêu diệt 1 đại đội địch (có tên trung úy) thu 2 trung liên, 4 tiểu liên và 10 súng trường. Trận đánh táo bạo, bất ngờ ta thu thắng lợi mở đầu, chứng tỏ với binh khí kỹ thuật kém hơn địch, bộ đội ta với lối đánh vận động chiến, lợi dụng địa hình, có quyết tâm cao, nắm vững quy luật của địch, vẫn có thể tiêu diệt chúng.

        Chiến thắng Hải Vân làm nức lòng phấn khởi, tin tưởng của quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng.

        Nhân cơ hội, các đội biệt động, công an xung phong đột nhập thành phố Đà Nẵng, trừng trị những tên Việt gian, bắt sống Tôn Thất Dật, mật thám mang lon quan ba Pháp, và tên Mo-ro người Pháp đi dò la căn cứ Sơn Trà.

        Đến tháng 3 năm 1947, được viện binh, tại Quảng Nam - Đà Nẵng, giặc Pháp mở rộng cuộc tiến công lớn phối hợp cả hải, lục, không quân đồng loạt bằng nhiều mũi, trên trận tuyến từ Non Nước đến chân núi Bà Nà - tây bắc Hòa Vang, ồ ạt vượt sông Cẩm Lệ, chiếm vùng đồng bằng trù phú hạ lưu giữa hai con sông Cẩm Lệ và Thu Bồn.

        Ngày 3 tháng 3 năm 1947, chúng mở đầu cuộc tấn công. Trong các mũi có hai gọng kìm mạnh nhất. Gọng kìm ở phía tây bắc Hòa Vang dọc theo chân núi Bà Nà và đường 14B đi Ái Nghĩa. Một gọng kìm khác chiếm Non Nước, Hội An, Vĩnh Điện tiến dọc theo sông Thu Bồn lên Ái Nghĩa. Hai cánh quân của địch hình thành một vòng cung lớn hòng bao vây tiêu diệt quân ta.

        Tất cả các mũi tiến công của địch đều bị quân dân ta chặn đánh làm chúng bị tiêu hao sinh lực, kịch chiến nhất là hai gọng kìm chính tây và đông. Tại Trường Định, Quan Nam, đồng bào cùng bộ đội đánh địch rất kiên cường. Các cụ già, phụ nữ lên chiến hào tiếp tế cho bộ đội, băng bó thương binh. Du kích tự vệ sát cánh cùng bộ đội đánh giặc, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của 5 tiểu đoàn địch, làm 50 tên chết, 40 tên khác bị thương, 1 số xe bị bắn hỏng. Quân địch phải dừng lại tổ chức thành nhiều mũi đánh vào sườn quân ta. Tiểu đoàn 19 lùi về chiến khu tây bắc Hòa Vang. Tại khu vực Non Nước, tiểu đoàn 102 được đồng bào giúp sức phối hợp với tự vệ dân quân đánh địch liên tiếp, tiêu diệt hơn 100 tên, bắn cháy 2 xe cơ giới.

        Đến sáng ngày 13 tháng 3 năm 1947, kẻ địch xảo quyệt đổ bộ một cánh quân lớn lên phía nam Non Nước, đánh qua Khái Đông chiếm Hà My, tiến dọc theo bờ biển. Bộ đội ta đặt mìn và bắn tỉa diệt hơn 40 tên. Vì mặt trận mở ra quá rộng, bị chia cắt, thiếu phương tiện liên lạc, sợ bị bọc hậu, bộ đội ta rút lui. Trưa ngày 14 tháng 3 năm 1947, địch chiếm thị xã Hội An.

        Từ Hội An địch đánh lên Vĩnh Điện, Phong Thử, hợp điểm với gọng kìm phía tây tại Ái Nghĩa và tiến theo đường 14.

        Tiểu đoàn 17 đoán đúng âm mưu địch, chặn đánh liên tục, tiêu hao sinh lực địch trên tuyến đường 14. Trận phục kích xuất sắc tại Ba Khe (Đại Lộc) ngày 26 tháng 3 năm 1947, đã diệt gọn hơn hai trung đội địch, thu vũ khí, khiến giặc Pháp gờm sợ lui về Ái Nghĩa. Đến ngày 4 tháng 4 năm 1947, có Việt gian dẫn đường, quân Pháp mở tiến công, một mũi thọc sâu lên đến Bến Giằng và gặp được cánh quân của chúng ở bắc Kon Tum xuống trong vòng 15 phút. Tiểu đoàn 17 và trung đội vũ trang ta đóng giữ đồn Giằng bám đánh quyết liệt, chỉ trong một ngày, chúng phải lui về Ái Nghĩa và bắc Kon Tum, bỏ dở kế hoạch đánh chiếm đường 14 nối liền Đà Nẵng với Tây Nguyên nhằm chia cắt làm đôi tỉnh Quảng Nam, lập hành lang ngăn chặn ta chi viện tiếp tế cho chiến trường bắc Tây Nguyên và liên lạc Bắc Nam.

        Qua đợt tấn công lớn nhất, ồ ạt nhất ở Quảng Nam - Đà Nẵng, địch đã chiếm được vùng đồng bằng bắc sông Thu Bồn từ Hội An đến Ái Nghĩa. Việc chuẩn bị đối phó với địch đánh chiếm vùng này đã được Đảng bộ lãnh đạo và nhân dân chuẩn bị từ trước, có kế hoạch cho đồng bào di tản, tản cư tương đối cụ thể. Khi quân Pháp tấn công, đồng bào Hòa Vang, Hội An và một số nơi tản cư theo kế hoạch, bảo vệ được tài sản, trâu bò và tính mạng nhân dân. Song qua thực tế cũng chứng tỏ ta chưa phán đoán được quy mô, tốc độ và những thủ đoạn tấn công của địch, lại thiếu các phương tiện thông tin liên lạc trong khi tác chiến. Phòng tuyến sông Cẩm Lệ vỡ, trung đoàn 93 lui về nam sông Thu Bồn, địch tiến quá nhanh, một số cơ quan hành chính, quân sự và đoàn thể không kịp liên hệ với nhau để có biện pháp đối phó và hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân tản cư. Lại phải vượt qua sông Thu Bồn, đồng bào Điện Bàn tản cư mang theo tài sản bị nghẽn lại. Trongcảnh vô cùng lộn xộn dưới làn bom đạn của máy bay địch, nhiều đồng bào bị mất tài sản, hoặc bỏ lại cho địch cướp phá, ảnh hưởng đến đời sống và sức khỏe. Hàng vạn đồng bào đã vượt sông tản cư vào Duy Xuyên, Thăng Bình, Quế Sơn, Tam Kỳ, một phần lên các vùng núi Hòa Vang, Đại Lộc. Các cơ quan cấp xã, cấp huyện ở vùng bị địch đánh chiếm lúc đầu không liên lạc được với cấp trên, mất phương hướng hành động, đa số tản cư theo gia đình. Sau thời gian ngắn bị động, lúng túng, cán bộ huyện, xã đã liên lạc với đồng bào mình trên từng địa bàn và liên lạc được với cấp trên.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #68 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:27:38 pm »


        Mặc dù có sự chuẩn bị trước, các huyện Duy Xuyên, Thăng Bình, Quế Sơn, Tam Kỳ, Tiên Phước tổ chức nhiều trạm đón tiếp, nhưng không đáp ứng nổi hàng chục vạn người tản cư cùng một lúc, công tác tản cư gặp nhiều khó khăn.

        Đồng bào tản cư một số đã trở về kiếm lương thực và bám ruộng sản xuất sinh sống. Khi quân giặc tràn qua nhanh trên một vùng rộng lớn, một số đồng bào và du kích tìm cách ẩn nấp, vòng lại phía sau lưng địch, vừa tự tổ chức cảnh giới địch, vừa tăng gia sản xuất. Lúc này địch tập trung xây đồn bốt, phục hồi giao thông tiếp tế, chưa tiến hành các cuộc càn quét lớn.

        Cuối tháng 3 năm 1947, Tỉnh ủy họp hội nghị tại Quế Sơn. Dựa trên những văn bản của Trung ương và ý kiến truyền đạt của Phái viên đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ, hội nghị quán triệt hơn nữa các quan điểm kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài. Trên cơ sở đó, hội nghị nhận định tình hình trong tỉnh như sau:

        - Sau khi chiếm vùng đông dân nhất của tỉnh nhà, giặc Pháp sẽ rải quân đóng vị trí, xây cứ điểm, tiến hành các biện pháp củng cố vùng chiếm đóng, chiêu an, lập tề, bổ sung lực lượng.

        - Không bao lâu, địch sẽ tấn công qua Duy Xuyên lấn chiếm vùng tự do còn lại của ta.

        - Đồng bào tản cư thì một số bị đói và đau; một số đã hồi cư, đảng viên, du kích bám về được.

        Hội nghị đề ra các chủ trương:

        - Vận động đồng bào hồi cư. Các huyện, thị, thành tổ chức những đội công tác bám theo dân trở về từng vùng địch tạm chiếm để hoạt động. Dân về thì tổ chức sản xuất ngay để ổn định đời sống, đồng thời phát triển các tổ du kích cảnh giới và đánh địch đi lùng, bảo vệ dân.

        - Chống phá địch tập trung dân lập tề, bình định vùng bị chiếm bằng mọi cách. Tổ chức cơ sở mật trong thành phố, thị trấn chuẩn bị hoạt động trong vùng địch.

        - Đảng viên, cán bộ xây dựng phát triển cơ sở, gây lại phong trào các giới. Củng cố các ủy ban, gây uy tín và phát huy tác dụng chính quyền cách mạng trong nhân dân vùng bị chiếm.

        - Gấp rút dùng các biện pháp tích cực bố phòng vùng tự do, củng cố tuyến phòng thủ nam sông Thu Bồn, tăng cường phòng gian bảo mật, giúp đỡ những đồng bào tản cư ở hẳn lại địa phương có công ăn việc làm ổn định.

        - Củng cố lại bộ máy đảng, chính quyền, đoàn thể bị chệch choạc qua đợt tiến công lớn của địch; thay số cán bộ bỏ việc chạy dài theo gia đình và có mức độ xử lý, giáo dục họ.

        Hội nghị cán bộ tỉnh mở rộng tháng 1 và tháng 3 năng 1947 đã vạch ra các chủ trương công tác, đặt cơ sở có ý nghĩa cho phong trào vùng địch chiếm cũng như vùng tự do còn lại của tỉnh. Hội nghị đánh dấu bước chuyển hướng mọi mặt công tác và tổ chức, thật sự đi vào chiến tranh.

        Các chủ trương công tác của hội nghị được triển khai nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu chờ đợi của các huyện trước tình hình mới. Các đồng chí tỉnh ủy viên được phân công chỉ đạo trực tiếp từng vùng (tự do và bị chiếm) và các ngành chính quyền, đoàn thể, quân sự, xây dựng Đảng, đào tạo cán bộ, huấn luyện đảng viên, củng cố phong trào quần chúng, tăng gia sản xuất, ổn định đời sống đồng bào...

        Đến cuối tháng 4, đầu tháng 5 năm 1947, ở tất cả các huyện vùng bị chiếm, cán bộ và lực lượng vũ trang đã trở về bám địa bàn hoạt động. Lực lượng du kích và tự vệ phát triển tổ chức từ thôn, xã đến từng khu, đã hoạt động phục kích đánh địch đi lùng, diệt tề, trừ gian, chống chính sách chiêu an, dồn dân, lập tề của địch. Uy tín chính quyền cách mạng được phục hồi và có nơi phát triển. Có nơi đồng bào đi lại thì xin giấy thông hành của ủy ban xã.

        Tháng 3 năm 1947, Chính phủ quyết định thành lập các ban chỉ huy tỉnh đội, huyện đội, xã đội trực thuộc Ủy ban kháng chiến các cấp. Dân quân tự vệ đã trở thành một lực lượng vũ trang của Nhà nước. Bộ Quốc phòng ra thông tư quy định mọi công dân từ 18 đến 45 tuổi vào dân quân, quy định nhiệm vụ của dân quân tự vệ và đội du kích địa phương. Nam nữ thanh niên hăng hái gia nhập dân quân tự vệ và vào các đội du kích tập trung.

        Từ các đội du kích xã, du kích các khu Điện Bàn, Hòa Vang và Đà Nẵng đã tập hợp tổ chức thành đội biệt động vũ trang huyện, vũ trang tuyên truyền gây cơ sở lưu động, phục kích đánh địch đi lùng, hỗ trợ cho phong trào các xã trong huyện phát triển đồng đều. Hệ thống xã đội, huyện đội, tỉnh đội dân quân trong tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ở các vùng bị chiếm lẫn vùng tự do được phục hồi. Các hình thức đánh địch đi lùng, đánh địch trên các trục giao thông phát triển phong phú, nhất là lối đặt mìn, đạp lôi, ném lựu đạn, hầm chông... gây cho địch nhiều thiệt hại.

        Trải qua 8 tháng trực tiếp chiến đấu với giặc Pháp xâm lăng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ, quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng không tiếc của cải, máu xương. Bộ đội, du kích ngoan cường, dũng cảm, chặn đánh giam chân địch trong thành phố, cản từng bước tiến của chúng để bảo toàn các cơ quan lãnh đạo, hướng dẫn đồng bào tản cư, giữ gìn được lực lượng chủ lực để chiến đấu lâu dài, bảo vệ được một vùng rộng lớn làm hậu phương, căn cứ kháng chiến. Trong thực tế, hầu hết các chiến khu chuẩn bị kháng chiến từ trước đều được bảo vệ (Nghi Sơn, Trung Phước, Đồng Xanh, Đồng Nghệ, Phú Túc, Phò Nam Yên), tạo điều kiện cho cả tỉnh chuyển vào kháng chiến lâu dài.

        Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, do tương quan lực lượng của những ngày đầu kháng chiến, và khi các yêu cầu của những ngày đầu kháng chiến đề ra đã đạt được, ta chủ trương lập những phòng tuyến mới và chọn cách đánh thích hợp, đến đây tình hình trong tỉnh diễn ra hình thái chia làm hai vùng: Đà Nẵng, Hội An, Hòa Vang, Điện Bàn và một phần lớn Duy Xuyên, Đại Lộc bị thực dân Pháp tạm thời chiếm đóng. Phần còn lại của tỉnh là vùng tự do. Kể từ đây, mỗi vùng có đặc điểm khác nhau: Vùng bị chiếm trực tiếp chiến đấu với kẻ thù. Vùng tự do là vùng hậu phương của cuộc kháng chiến. Nhưng cả hai vùng chung một nhiệm vụ: kháng chiến trường kỳ, nhất định thắng lợi1.

        Đó là các địa phương tiêu biểu trong cả nước. Quân dân các địa phương khác cũng đã chiến đấu anh dũng, ngăn chặn các cuộc tiến công mở rộng chiếm đóng của địch, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, góp phần vào thắng lợi chung mở đầu Toàn quốc kháng chiến.

-------------
       1. Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng, tập 2 (1945-1954), Nxb Đà Nẵng, 1990.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #69 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2016, 08:29:17 pm »

       
*

*      *

        Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược cửa nhân dân Việt Nam kéo dài gần một thập kỷ, từ ngày 23 tháng 9 năm 1945 - đặc biệt từ ngày mở đầu Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) đến 20 tháng 7 năm 1954. Quân và dân ta đã hy sinh hàng chục vạn người, đất nước Việt Nam bị tàn phá nặng nề. Hậu quả của nó còn kéo dài hàng chục năm sau. Chính nước Pháp và nhân dân Pháp cũng gánh chịu những thiệt hại to lớn, hàng chục vạn thanh niên Pháp chết trận, hoặc mang thương tật suốt đời. Ngay hai viên đại tướng - Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương Lơ-cléc và Đờ-lát Đờ Tát-xi-nhi cũng đều là nạn nhân của chiến tranh: mỗi người đều có 1 con trai tử trận ở Việt Nam. Mặc cho các chính khách và giới báo chí thực dân Pháp cố tình bóp méo sự thật về sự kiện bùng nổ cuộc chiến tranh trên cả nước Việt Nam vào ngày 19 tháng 12 năm 1946, chúng vu cáo cuộc chiến tranh xảy ra là do “Người Việt Nam tấn công trước”, “Việt Minh gây xung đột chống nước Pháp”... thực tế lịch sử ngày càng được minh chứng: nguyên nhân xảy ra cuộc chiến tranh hoàn toàn do bọn thực dân hiếu chiến Pháp chuẩn bị và cố tình khởi hấn.

        Các nhà sử học Pháp, cả những người đã từng là quan lại thực dân, là sĩ quan trong quân đội viễn chinh Pháp như Xanh-tơ-ny, Đờ-vi-le... đều thừa nhận cuộc chiến tranh xảy ra không phải do ngẫu nhiên, thực tế là một “hành động vũ lực đã được phía Pháp mưu tính từ nhiều tháng nay”, nếu phía Việt Nam không chịu cung cấp cho họ “cái cớ mong đợi”, thì họ cũng sẽ chủ động tiến hành kế hoạch tác chiến. Lê-ô Phi-ghe, một nhà sử học chân chính của nước pháp đã viết: “Cuộc chiến đấu nổ bùng ở Hà Nội ngày 19 tháng Chạp 1946, là một hành động chính đáng của một chính phủ biết rõ rằng nếu còn nhượng bộ các nhà quân sự Pháp thì trước hết họ sẽ mất danh dự trước nhân dân mà không sớm thì muộn cũng sẽ bị giải tán...

        Quyết định chiến đấu với những lực lượng kém hơn hay bị tiêu diệt, đó là hai ngả đường, trong đó, ngày 19 tháng Chạp 1946, các nhà ái quốc Việt Nam phải chọn một”1.

        Đờ-vi-le viết:

        “Trong khi máy bay, xe tăng và binh lính Pháp ùn ùn kéo đến Việt Nam để chuẩn bị xâm lược, thì chỉ có một dân tộc chịu để cho mình bị cắt cổ, chỉ có một dân tộc ươn hèn, thực sự phản bội dân tộc mình mới không chuẩn bị gì, không hành động gì để chống lại”2.

        Tổng thống Pháp Ph. Mít-tơ-răng trong dịp sang thăm chính thức Việt Nam tháng 2 năm 1993 đã trả lời phỏng vấn của các nhà báo rằng:

        “Ông Hồ Chí Minh đã tìm kiếm những người đối thoại, nhưng không tìm được. Dù rất mong muốn đàm phán để hướng tới độc lập, ông Hồ Chí Minh đã bị đẩy vào cuộc chiến tranh”.

        Xem xét cả quá trình quan hệ Việt - Pháp từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946, chúng ta thấy rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn tranh thủ khả năng giải quyết mối quan hệ với Pháp bằng con đường hoà bình, con đường đáp ứng lợi ích, nguyện vọng của nhân dân hai nước. Chúng ta đã nhân nhượng về nhiều mặt với Pháp để thực hiện con đường ấy. Nguyện vọng thiết tha của toàn Đảng, toàn dân ta là độc lập, thống nhất hoàn toàn. Nhưng hoàn cảnh lịch sử chưa cho phép chúng ta đạt ngay tới mục tiêu đó. Tương quan lực lượng buộc chúng ta phải nhân nhượng. Đó là những nhân nhượng cần thiết, đúng đắn và sáng suốt. Ký Hiệp định Sơ bộ là một nhân nhượng của ta. Tạm ước 14 tháng 9 lại là một bước nhân nhượng nữa để cố cứu vãn nền hoà bình mỏng manh. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Nhân dân ta thiết tha với hoà bình, nhưng đó là nền hoà bình trong độc lập tự do, chứ không phải hoà bình trong nô lệ. Khi thực dân Pháp nhất định dùng chiến tranh cướp nước ta một lần nữa, thì cả dân tộc ta “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, cả dân tộc đứng lên đánh giặc ngoại xâm, giữ gìn đất nước.

        Vấn đề chọn thời cơ mở đầu Toàn quốc kháng chiến. Vấn đề chọn thời cơ, chủ động phát động cuộc Toàn quốc kháng chiến có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ tiến trình cuộc kháng chiến. Thế, lực và thời cơ của cách mạng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Thế có lợi, thực lực mạnh nhưng thời cơ không đúng, sẽ không phát huy được sức mạnh, hạn chế kết quả, thậm chí tổn thất, làm thay đổi so sánh lực lượng, chuyển từ thế có lợi sang thế bất lợi. Ngược lại, thế, lực không mạnh, thậm chí yếu hơn địch nhưng biết chọn đúng thời cơ, sẽ hạn chế sức mạnh của địch, phát huy thế lực của ta, đem lại kết quả lớn, thậm chí làm thay đổi thế lực, tạo tiền đề thắng lợi cho cách mạng.

---------------
        1. Theo Nguyễn Kiến Giang, Sđd, tr. 15.

        2. Phi-líp Đờ-vi-le, Cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Tạp chí Quốc tế, xuất bản ở Pa-ri, tháng 2-1949, tr. 37, 38.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM