Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 05:52:14 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 10/5/1972 Ngày dài không chiến  (Đọc 26415 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #20 vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2016, 11:47:51 am »


        Cụ thể, F-104 được khuyến cáo là nên tránh cận chiến kéo dài với MiG-21 mà thay vào đó là nên dùng chiến thuật áp sát và tấn công nhanh rồi sau đó thoát li ngay khỏi cuộc chiến.

        Trong trường hợp gặp bất lợi khi đang giao chiến, F-104 nên tìm cách thoát ra bằng cách hạ độ cao xuống dưới 4.500 mét và tăng tốc độ lên đến 1.200 km/h.

        Còn F-lll, F-105 và F-100 thì được khuyến cáo nên tránh đối đầu trực tiếp với MiG-21 vì khả năng vận động kém hơn nhiều.

        Trong trường hợp buộc phải giao chiến, các phi công được hướng dẫn là nên khai hỏa và sau đó cần tăng tốc độ vượt qua vận tốc giới hạn của MiG-21 và thoát li ngay.

        Loại F-5 là loại chiến đấu cơ của Mỹ có đặc tính gần giống với MiG-21 nhất, đặc biệt là trong cận chiến, nó có thể đóng vai trò mô phỏng MiG-21 trong huấn luyện đến mức vận tốc dưới Mach (M) 1,2.

        Các phi công bay trên loại F-4 thì được khuyến cáo nên giao chiến với MiG-21 ở độ cao dưới 4.500 mét, tiếp cận ở góc mù phía sau của MiG-21 và duy trì tốc độ tối thiểu ở 830 km/h.

        MiG-21 có khả năng ngoặt tức thời nhanh hơn F-4, nhưng cũng nhanh mất tốc độ hơn, vì vậy, theo hướng dẫn, F-4 cần tránh cận chiến kéo dài với MiG-21. Thay vào đó, nên thoát khỏi tình huống cận chiến, duy trì vận tốc và tìm cơ hội khác để tấn công.

        Tuy nhiên, lợi ích lớn nhất chương trình này đem lại cho Mỹ không nằm ở những thông tin họ có được về MiG-21 mà lại là ở việc khiến Không quân và Hải quân Mỹ nhận thức lại tầm quan trọng của việc hiểu rõ vũ khí đối phương và huấn luyện không chiến mô phỏng thực tế.

        Trong thời gian chiến tranh Triều Tiên và trước chiến tranh Việt Nam, huấn luyện không chiến với những máy bay đắt tiền như loại F-4 bị coi là nguy hiểm và phí phạm.

        Những bài tập giao chiến trên không, đặc biệt là cận chiến bị hạn chế và nếu có thì cả "quân xanh" và "quân đỏ" đều tác chiến giống nhau, sử dụng cùng loại phương tiện, cùng chiến thuật.

        Vì vậy, phi công Mỹ gặp rất nhiều khó khăn khi đối đầu với MiG tại Việt Nam, với tính năng và chiến thuật xa lạ đối với họ.

        Kết quả thử nghiệm và đánh giá MiG-21 đã góp phần quan trọng dẫn đến sự ra đời của hai chương trình huấn luyện không chiến nâng cao của Không quân và Hải quân Mỹ.

        Chương trình TOP GUN của Hải quân ra đời vào năm 1969 và Red Flag của Không quân vào năm 1973. Cả hai đều nhấn mạnh việc mô phỏng giống thực tế không chiến nhất có thể.

        Đóng vai trò "quân xanh" là những phi công dày dạn kinh nghiệm, sử dụng máy bay Mỹ nhưng mô phỏng chiến thuật, công nghệ của đối phương nhằm đào tạo cho các phi công cách thức giao chiến với đối phương nếu có chiến tranh nổ ra.

        Những thay đổi triệt để trong công tác huấn luyện này có vai trò quyết định cho việc giành ưu thế trên không của Mỹ trong những cuộc chiến sau đó.

        Tuy nhiên, những nỗ lực như vậy cũng không thể giúp Không quân Mỹ tránh được thất bại đau đớn trước MiG-21 ở Việt Nam.

        Tiêm kích đánh chặn MiG-21 được xem là dòng máy bay chiến đấu thành công nhất của Liên Xô trong Chiến tranh lạnh. Nó được xuất khẩu rộng rãi. Tuy có công nghệ kém hơn so với những máy bay chiến đấu mà nó đối mặt, nhưng giá thành sản xuất rẻ và chi phí bảo dưỡng thấp đã khiến MiG-21 được ưa chuộng trong quân đội của nhiều quốc gia của khối Đông Âu và trên toàn thế giói.

        Nó được hơn 50 quốc gia sử dụng và từng được sử dụng rộng trong các cuộc xung đột ở Trung Đông trong thập niên 1960 và 1970 bởi Không quân các quốc gia Ai Cập, Xi-ri và I-rắc nhằm chống lại Ít-xa-ren. Không quân Ấn Độ cũng sử dụng MiG-21 trong chiến tranh Ấn Độ - Pa-kít-xtan. Trong thời gian 1991 - 1995, Quân đội nhân dân Nam Tư (JNA) và lực lượng người Séc đã sử dụng những chiếc MiG-21M khi diễn ra chiến tranh Slô-vê-ni-a, chiến tranh giành độc lập Croát-ti-a và chiến tranh Bốt-xni-a và lần nữa trong chiến tranh Cô-xô-vô 1999 và Operation Allied Force (Chiến dịch Sức mạnh đồng minh - khi NATO ném bom Nam Tư 1999). Tại châu Phi, MiG-21 cũng đã được sử dụng trong nội chiến Ăng-gô-la. Những phi công của Không quân Cuba đã lái những chiếc MiG-21 tại Ăng-gô-la trong chiến tranh. Những chiếc MiG-21 Ăng-gô-la và Cuba thường chạm trán với những chiếc Mirage của Không quân Nam Phi...

        Tới nay, cho dù ở đâu đó, MiG-21 có thể được xem như đã lỗi thời nhưng thực tế lực lượng Không quân của nhiều nước trên thế giới vẫn còn đang sử dụng loại máy bay này, ví dụ như Ăng-gô-la, Ác-mê-ni-a, A-déc-bai-dan, Croatia, Cuba, Ai Cập, Ê-ti-ô-pi-a, Ấn Độ, I-ran, Lào, Li-bi, Mông cổ, Mô-dăm-bích, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Tuốc-mê-nít-xtan, Y-ê-men ...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #21 vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2016, 04:03:31 pm »

           

Cầu Long Biên - chứng nhân của nhiều trận chiến đấu trong chiến tranh

       
Cây cầu Long Biên được đánh dấu là mục tiêu phá hủy bằng được trong ngày 10.5.1972


Sân bay Yên Bái - một trong những khu vực xảy ra các trận không chiến ác liệt trong ngày 10-5-1972


MiG 17 – một thời oanh liệt
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #22 vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2016, 04:09:06 pm »

         

MiG-19 - xuất quân đánh thẳng trận đầu


Giảng bình sau trận đánh


MiG-21 – huyền thoại trong chiến tranh giải phóng của Việt Nam
        

Mỗi ngôi sao ghi nhận một chiến công

        Cuối năm 2015, MiG-21 chính thức ngừng hoạt động trong Không quân Việt Nam, chấm dứt 50 năm phục vụ của loại máy bay này tại Việt Nam.

        Qua gần bảy năm chiến tranh ở Việt Nam, MiG-21 đã như "thanh gươm báu" trong tay các phi công Việt Nam, đã tung hoành "tả xung hữu đột", giành được thế thượng phong trong hàng trăm trận không chiến lớn nhỏ và đã đem lại chiến thắng huy hoàng rất đỗi tự hào. MiG-21 từng tham chiến trong nhiều cuộc chiến tranh ở nhiều nước trên thế giới, nhưng phải nói rằng, chỉ ở Việt Nam, các phi công Việt Nam với tài năng, với lòng quả cảm phi thường mới viết nên những trang sử chói lọi cho MiG-21, mới biến nó thành huyền thoại của bầu tròi, mới làm cho nó nổi tiếng, rạng danh là máy bay tiêm kích chiến đấu hiệu quả nhất trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh... và cho đến bây giờ, MiG-21 cũng vẫn có thể chiên đấu chống lại các máy bay hiện đại của đối phương mặc dù nó đã lỗi thời.

        Vấn đề quan trọng nhất là nó được nằm trong tay ai và chiến đấu vì cái gì!...

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #23 vào lúc: 07 Tháng Mười Hai, 2016, 11:00:14 am »


NHỮNG NGƯỜI ĐỌ CÁNH

        Số phận của từng con người cũng tựa như những "miếng ghép của cuộc sống". Nó rất đa dạng. Có những "miếng ghép" có thế cảm nhận được ngay. Có những "miếng ghép" tận sau này mới cảm nhận được. Thậm chí, có những "miếng ghép" mãi vẫn là bí ẩn... Và còn biết bao điều bất ngờ khác nữa...

        Phải mất nhiều năm sau chiến tranh tôi mới có cơ hội để được suy ngẫm một cách thấu đáo những gì mình từng trăn trở, và cũng là đến lúc đó mới có cơ hội nắm bắt được những gì mình cần biết qua sự bùng nổ của thông tin, nhất là qua mạng Internet.

        Bao năm rồi, tôi vẫn canh cánh bên lòng về những trận không chiến ngày 10 tháng 5 năm 1972. Tôi cho rằng, một khi mình đã từng là người tham gia chiến đấu trong ngày hôm ấy thì mình phải hiểu rõ hơn về nó. Dần dà, tôi đã tập hợp lại được các tư liệu, các sự kiện liên quan đến ngày hôm đó và muốn trình bày lại một cách tương đối tổng thể, đặc biệt là về những con người cả hai phía trong ngày hôm ấy. Đương nhiên, không thể nào lần tìm được cả hàng trăm con người, nhưng biết được đến đâu cũng là hay đến đó, rồi dần dần sẽ bổ sung sau vậy. Sau đây, tôi sẽ cung cấp một số thông tin về các phi công của cả hai bên trực tiếp tham gia các trận không chiến trong ngày 10-5-1972 để bạn đọc hiểu rõ thêm, dù là chưa đầy đủ.

        Với 414 lần chiếc xuất kích trong ngày của Không quân và Hải quân Mỹ gồm hàng trăm máy bay (22 loại, từ tiêm kích, cường kích, tác chiến điện tử, trực thăng, trinh sát, tiếp dầu trên không... ), tức là hàng trăm phi công tham gia thì quy mô của cuộc không chiến không hề nhỏ. Các máy bay của Không quân Mỹ chủ yếu cất cánh từ Thái Lan, trên các sân bay Ubon, Udon, Ta-khơ-li, Korat và Utapao hướng đánh vào Hà Nội, cầu Long Biên, ga Yên Viên.

        Các máy bay của Hải quân Mỹ thì cất cánh từ bốn tàu sân bay: Kitty Hawk, Constellation, Coral Sea và Okinawa, hướng đánh vào Hải Phòng, Hải Dương và các cây cầu ở các khu vực này.

        Trên tàu sân bay USS Kitty Hawk (CVA-63) có 22 chiếc F-4J, 21 chiếc A-7E, 12 chiếc A-6A và B, ba chiếc KA-6D, bốn chiếc RA-5C, bốn chiếc E-2B, hai chiếc EKA-3B, bốn chiếc SH-3G, năm chiếc HH-3A.

        Tàu sân bay uss Constellation (CVA-64) thì chở 24 chiếc F-4J, 22 chiếc A-7E, 12 chiếc A-6A, bốn KA-6D, bốn chiếc RA-5C, hai chiếc EKA-3B, bốn E-2B, ba chiếc SH-3G.

        Tàu sân bay Uss Coral Sea (CVA-43) chở 23 chiếc F-4B, 22 chiếc A-7E, 13 chiếc A-6A và B, ba chiếc KA-6D, ba chiếc EKA-3B, hai chiếc RF-8G, bốn chiếc SH-3G.

        Tàu sân bay Uss Okinawa (LPH-3) chở ba chiếc HH-3A, 14 chiếc CH-46D, sáu chiếc CH-53D và ba chiếc UH-1E.

        Tổng chỉ huy lực lượng Không quân là Đại tướng Giôn Vốc (John Vogt) - Tư lệnh Tập đoàn Không quân số 7.

        Chỉ huy lực lượng của Hải quân là Chuẩn Đô đốc Uy-li-am Mách ( William Mack).

        Tư lệnh Tập đoàn Không quân số 7, Đại tướng Giôn Vốc sinh ngày 18 tháng 3 năm 1920, gia nhập Không quân Mỹ từ năm 1941, là người trải qua con đường học vấn rất ấn tượng, tốt nghiệp các trường đại học nối tiếng như Yale, Columbia và Harvard. Giôn Vốc đã lấy bằng thạc sĩ tại Đại học Columbia, sau đó theo học chuyên ngành Quan hệ Quốc tế tại Đại học Harvard.

        Từ tháng 4 đến tháng 12 năm 1942, Vốc phục vụ như là một phi công chiến đấu tại Phi đội không quân tiêm kích 63 (Fighter Squadron), thuộc Liên đoàn 56 (Fighter Group). Tháng 1 năm 1943, Vốc đã cùng phi đội của mình đến Anh và hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu với tư cách chỉ huy đội bay. Tháng 5 năm 1944, vốc trở thành Phi đội trưởng Phi đội 360 (Fighter Squadron), thuộc Liên đoàn 356 (Fighter Group) và thực hiện nhiệm vụ chiến đấu thứ hai; tham gia trong các chiến dịch Air Offensive, Europe, Rhineland và Normandy Invasion. Vốc đã bắn rơi tám máy bay đối phương trong chiến đấu trên không.

        Từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 7-1946, Vốc giữ chức Chỉ huy trưởng căn cứ Không quân thứ nhất và căn cứ lục quân Ibura tại Recife, Bra-xin cho đến khi trở về Hoa Kỳ.

        Giôn Vốc phục vụ nhiều năm tại Phân ban tác chiến và kế hoạch, Bộ Tư lệnh Không quân Mỹ.

        Chính Kít-xinh-giơ, người lần đầu tiên gặp tướng Vốc tại Đại học Harvard vào những năm 50 của thế kỷ trước đã tiến cử ông ta với Ních-Xơn.

        Ngay từ năm 1954, khi Pháp có nguy cơ thất thủ tại Điện Biên Phủ, Vốc đã được Bộ Tư lệnh Không quân Mỹ cử sang Pa-ri để bàn bạc với Bộ chỉ huy Không quân Pháp về các kế hoạch can dự của Không quân Mỹ vào Đông Dương.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #24 vào lúc: 07 Tháng Mười Hai, 2016, 11:01:48 am »


        Năm 1965, khi bắt đầu "Chiến dịch Sấm Rền", tướng Vốc lúc đó làm việc trong văn phòng Bộ Quốc phòng, trực tiếp giúp Mắc Na-ma-ra và Pôn Nít-dơ (Paul Nitze) (khi đó là Bộ trưởng Hải quân và Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ) khởi thảo danh mục các mục tiêu đánh phá cho Không quân Mỹ, sau đó một thời gian dài là Phó Tư lệnh Không quân Thái Bình Dương.

        Năm 1972, Tổng thống Ních-Xơn đã bổ nhiệm tướng Giôn Vốc làm Tư lệnh Tập đoàn Không quân số 7, nơi Vốc trực tiếp chỉ huy "Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ 1 và 2", những chiến dịch cuối cùng của Không quân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.

        Trước khi lên đường sang Sài Gòn nhận nhiệm vụ, tướng Vốc đã gặp Tổng thống Ních-Xơn và Cố vấn an ninh Hen-ri Kít-xinh-giơ tại tòa nhà điều hành cạnh Nhà Trắng. Tại cuộc gặp này, Ních-Xơn nhắc lại quyết tâm rút bộ binh Mỹ khỏi Việt Nam như đã hứa với cử tri Mỹ, nhưng yêu cầu tướng Giôn Vốc phải tiến hành mọi biện pháp để giữ được miền Nam Việt Nam. Tướng Vốc hứa sau khi tiếp thu công việc và nắm vững tình hình các đơn vị thì sẽ hành động quyết liệt.

        Sau chiến tranh Việt Nam, vào tháng 10 năm 1973, tướng Vốc được bổ nhiệm làm Tư lệnh Không quân Thái Bình Dương.

        Tháng 6 năm 1974, tướng Giôn Vốc được bổ nhiệm là Tư lệnh Không quân Mỹ ở châu Âu.

        Tướng Giôn Vốc về nghỉ hưu năm 1975 và mất  ngày 16 tháng 4 năm 2010.

        Chuẩn Đô đốc Uy-li-am Pết-đơn Mách (William Paden Mack) sinh ngày 6 tháng 8 năm 1915, từng tốt nghiệp Học viện Hải quân vào năm 1937 và là Chỉ huy trưởng của Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis, Maryland từ 16 tháng 6 năm 1972 cho đến khi nghỉ hưu vào tháng 8 năm 1975.

        Sau này, Uy-li-am Mách đã trở thành một nhà văn và mất ngày 15 tháng 1 năm 2003.

        Để đánh sập cây cầu Long Biên vào ngày này, Mỹ đã sử dụng 20 chiếc F-4, năm chiếc F-105 và Đại tá Không đoàn trưởng Các Min-lơ cùng Đại tá Không đoàn phó Ri-sác Hon trực tiếp bay dẫn đội, chỉ huy việc đánh cầu.

        Đại tá Không đoàn trưởng Các Min-lơ sinh năm 1930 ở Bớc-minh-ham, Alabama, tốt nghiệp trung học vào năm 1948 và tốt nghiệp trường Đại học Alabama năm 1951 với bằng cử nhân quản trị kinh doanh. Các Min-lơ tiếp tục lấy bằng tiến sĩ Luật năm 1961 từ Đại học Saint Mary ở San Antonio, Tếch-dát. Các Min-lơ cũng đã tốt nghiệp Đại học chỉ huy Không quân và Tham mưu cao cấp vào năm 1962 và trường Cao đẳng công nghiệp của các lực lượng trang bị năm 1970.

        Các Min-lơ gia nhập Không quân Hoa Kỳ tháng 6 năm 1951. Sau khi hoàn thành khóa đào tạo cơ bản, Min-lơ tham dự lớp huấn luyện phi công tại Bartow Air Base, Phờ-lo-ri-đa. Tháng 9 năm 1952 tốt nghiệp, nhận quân hàm Trung úy, sau đó tiếp tục hoàn thành lớp đào tạo phi hành đoàn chiến đấu F-84 tại căn cứ Không quân Luke, Arizona.

        Tháng 1 năm 1953, Các Min-lơ được điều về chỉ huy Không đoàn 474 (Tactical Fighter Wing) tại căn cứ Không quân Kunsan, Hàn Quốc và trở thành sĩ quan hoạt động của Không đoàn 430 (Tactical Fighter Wing) tháng 5 năm 1953. Các Min-lơ tham gia chiến tranh Triều Tiên với 57 phi vụ, trước khi tham gia chiến tranh ở Việt Nam.

        Tháng 12 năm 1953, Min-lơ được giao nhiệm vụ chỉ huy đào tạo Không quân và phục vụ tại Phi đoàn đào tạo chiến đấu 3645 tại căn cứ Không quân Laughlin, Tếch-dát. Tháng 2 năm 1957, được điều đến căn cứ Hondo, Tếch-dát, một trường đào tạo phi hợp đồng dân sự và là sĩ quan huấn luyện quân sự cho một phi đội Hàng không thiếu sinh quân.

        Tháng 3 năm 1958, Min-lơ được chuyển đến căn cứ Randolph, Tếch-dát làm Giám đốc của đoàn Tiêu chuẩn T-33. Tháng 8 năm 1961, Min-lơ theo học Đại học Không quân và Tham mưu cao cấp tại căn cứ Maxwell, Alabama.

        Sau khi hoàn thành việc học của mình, Min-lơ tham gia Bộ Tham mưu Không quân đồng minh chiến thuật thứ tư, một tổ chức quân sự của NATO tại căn cứ Ramstein, Đức vào tháng 6 năm 1962, từng là sĩ quan điểu hành các hoạt động cho Phó Tham mưu trưởng.

        Tháng 7 năm 1966, Min-lơ được điều đến Không đoàn chiến thuật 31 tại căn cứ Homestead, Phờ-lo-ri-đa. Không đoàn 31 được triển khai tới căn cứ Không quân Tuy Hòa của quân đội Sài Gòn vào tháng 10 năm 1966. Khi đó, Min-lơ là Giám đốc của các hoạt động và đào tạo.

        Tháng 1 năm 1968, Min-lơ được điều trở lại Ramstein với tư cách là trợ lí Giám đốc đánh giá chiến thuật và sau đó là trợ lí Giám đốc của không lưu tại Bộ chỉ huy Không quân 17.

        Tháng 7 năm 1969, Min-lơ tham gia trường Đại học công nghiệp của các lực lượng trang bị ở Oa-sinh-tơn. Tháng 7 năm 1970, được bổ nhiệm làm Giám đốc điều hành của Không đoàn Vũ khí 57 và là chỉ huy của Trường Vũ khí chiến thuật tại căn cứ Nellis, Nê-va-đa.

        Năm 1971, Min-lơ trở lại Tây Nam Á với cương vị là Phó chỉ huy của Không đoàn chiến thuật số 8 tại căn cứ Không quân Hoàng gia Udon, Thái Lan và trở thành Chỉ huy trưởng vào tháng 2 năm 1972.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #25 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2016, 04:39:45 pm »


        Khi chỉ huy Không đoàn chiến thuật số 8, Min-lơ đã lái máy bay F-4 với nhiệm vụ tấn công trong chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ vào miền Bắc Việt Nam. Min-lơ gia nhập Đồng minh không lực miền Nam châu Âu (AIRSOUTH), một trụ sở quân sự NATO ở Naples, Ý vào tháng 1 năm 1973. Tháng 11 năm 1973, Min-lơ được điều đến Hancock Field làm chỉ huy của vùng NORAD 21 với trách nhiệm bổ sung là chỉ huy Sư đoàn Không quân 21. Cũng trong năm 1973 này, Min-lơ được phong quân hàm Thiếu tướng. Tháng 1 năm 1974, tướng Min-lơ là Tư lệnh phó Không đoàn chiến thuật đồng minh của NATO ở Vicenza, Ý. Tổng cộng, Các Min-lơ đã tham gia 524 trận. Riêng ở chiến tranh Việt Nam là 189 trận bay trên F-4 và 278 trận bay trên F-100.

        Đại tá Không đoàn phó Ri-sác Hon sinh ngày 2 tháng 3 năm 1931, quê ở thành phố Portland, tiểu bang Oregon. Sau khi tốt nghiệp Đại học Oregon, Ri-sác Hon gia nhập Không quân vào năm 1952. Vào ngày 27 tháng 4 năm 1972, trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Hon đã dẫn đầu cuộc oanh kích đánh sập cây cầu Hàm Rồng - cây cầu từng gây tổn thất cho 36 phi công Mỹ trong suốt bốn năm với những cuộc tấn công thất bại. Trong 30 năm cuộc đời binh nghiệp của mình, Hon từng thực hiện 335 phi vụ với máy bay F-4, đã được tặng thưởng bốn huy chương cao quý, mười huy chương Dũng cảm, huân chương ưu tú, huy chương đồng, 23 huy chương Không quân và bảy huy chương đồng khác, trong đó có cả huy chương của quân đội Sài Gòn và Nam Hàn. Trong đợt nhiệm vụ thứ hai của mình tại Việt Nam, Đại tá Hon được bổ nhiệm làm Tư lệnh phó của Không đoàn Không kích Chiến thuật số 8 tại Udon, căn cứ Không quân Hoàng gia Thái Lan. Năm 1982, Đại tá Hon hoàn thành sự nghiệp của mình với tư cách là Phó Tư lệnh thứ ba của Không quân. Đại tá Ri-sác Hon về nghỉ hưu tại Reno, Nê-va-đa và qua đời ngày 3 tháng 1 năm 2015.

        Vào lúc 8 giờ 52 phút ngày 10 tháng 5 năm 1972, khi biên đội hai chiếc MiG-21 của Đặng Ngọc Ngự và Nguyễn Văn Ngãi thuộc Trung đoàn Không quân tiêm kích 921 cất cánh từ sân bay Kép lên thì bị biên đội hai chiếc F-4J (Silver Kite) của Đại úy Ot-xtin Hao-kin (Austin Hawkins) và Đại úy Cơ-títx Đô (Curtis Dose) thuộc Phi đoàn VF-92, tàu sân bay Uss Constellation đang làm nhiệm vụ bay tuần tiễu ngang sân bay Kép ở độ cao 5.000 mét phát hiện, lao xuống tấn công.

        Chiếc F-4 bay số 2 của Đại úy Cơ-títx Đô và Thiếu tá Giêm Mắc Đê-vít (James Mc Devitt) điều khiển đã bám theo máy bay của Nguyễn Văn Ngãi phóng hai quả tên lửa AIM-9G. Quả tên lửa thứ hai đã lao trúng máy bay của Nguyễn Văn Ngãi khi anh mới lên đến độ cao 15-20 mét. Nguyễn Văn Ngãi không kịp nhảy dù, máy hay rơi xuống phía đầu đường băng và đã hy sinh.

        Sau này, tôi được biết, Đại úy Ôt-xtin Hao-kin sinh ngày 8 tháng 8 năm 1942, ở Phờ-lo-ri-đa là một phi công phản lực kỳ cựu, phục vụ trong lực lượng Hải quân Hoa Kỳ 21 năm. Vào ngày 21 tháng 4 năm 1985, Ốt-xtin Hao-kin là sĩ quan điều hành của đơn vị trù bị Không quân của Hải quân tại trạm Point Mugu đã bị thiệt mạng khi chiếc máy bay hạng nhẹ của Ôt-xtin Hao-kin bị rơi ở miền Bắc Xan Đi-ê-gô. Chiếc máy bay một động cơ này bị tai nạn trong lúc trời mưa.

        Cơ-títx Đô hiện đã về hưu với quân hàm Trung tá Hải quân, từng nhận Huân chương Danh dự và 13 Huy chương khác trong Không quân Hải quân Hoa Kỳ. Trung tá Cơ-títx Đô cùng với cha của mình là Đại úy Rô-bớc Đô (Robert G. Dose) là cặp cha con duy nhất ghi được chiến công bắn rơi máy bay đối phương.

        Riêng về phi công Thiếu tá Giêm Mắc Đê-vít thì tôi hoàn toàn không có thông tin.

        Lúc 9 giờ 36 phút ngày 10 tháng 5 năm 1972, biên đội bốn chiếc tiêm kích MiG-19 của Phạm Ngọc Tâm, Phạm Hùng Sơn (C), Nguyễn Văn Phúc, Lê Đức Oánh thuộc Trung đoàn Không quân tiêm kích 925 trực ở đầu nam sân bay Yên Bái đã xuất kích chiến đấu và 20 phút sau, biên đội bốn chiếc tiêm kích MiG-19 của Hoàng Cao Bổng, Phạm Cao Hà, Nguyễn Văn Cương, Lê Văn Tưởng trực ở đầu bắc sân bay Yên Bái cũng xuất kích. Cả hai biên đội cùng vòng trực trên đỉnh sân bay.

        Hai biên đội MiG-19 đã gặp lực lượng 32 chiếc máy bay F-4 của Không đoàn tiêm kích chiến thuật số 432 của Mỹ do Thiếu tá Rô-bớc An-phơ-rết Lót (Robert Alfred Lodge) và Đại úy Râu-gơ Lót-trơ Roger c. Locher) dẫn đầu.

        Các trận tao ngộ chiến đã xảy ra.

        Phi công tiêm kích Nguyễn Văn Phúc đã bám được chiếc F-4D của Thiếu tá Rô-bớc An-phơ-rết Lót, nổ liên tiếp hai loạt đạn. Chiếc F-4D trúng đạn, khựng lại rồi đổ vào xoáy ốc. Nó tiếp tục nhận được loạt đạn thứ ba, bị gãy đôi và bốc cháy.

        Thiếu tá Rô-bóc An-phơ-rết Lót thiệt mạng, còn Đại úy Râu-gơ Lót-trơ kịp nhảy dù.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #26 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2016, 04:40:16 pm »


        Tôi không có được thông tin về Thiếu tá Rô-bớc An-phơ-rết Lót, còn Đại úy Râu-gơ Lót-trơ thì sinh ngày 13 tháng 9 năm 1946 tại Sabetha, bang Kan-dát. Lót-trơ gia nhập lực lượng Không quân năm 1969, tốt nghiệp Trường đào tạo phi công - hoa tiêu, bay trên loại máy bay F-4 tại căn cứ Davis Monthan ở Arizona, sau đó được điều đến Phi đội 555, Không đoàn 432 TFW. Lót và Lót-trơ là những phi công giàu kinh nghiệm trong khu vực Đông Nam Á. Khi máy bay bị bắn, Lót-trơ đã báo cho phi công chính rằng động cơ bên phải của máy bay đã phát nổ. Lót và Lót-trơ đã thảo luận các lựa chọn của họ. Áp suất thủy lực tụt dần. Khi Lót để chế độ lái tự động, máy bay không đáp ứng. Phía sau của máy bay đang bốc cháy, máy bay thì gầm rú, quay cuồng và khói ùa vào đầy buồng lái. Lót-trơ nói với Lót rằng máy bay càng lúc càng nóng và tốt hơn hết là nhảy dù. Lót nhìn qua vai phải của Lót-trơ và nói: "Tại sao không bung dù đi?". Khoảng thời gian ba tuần trước đó, Rô-bóc Lót đã từng nói với các đồng nghiệp trong phi đoàn giống như nhiều lần đã nói trước đây rằng sẽ không cho phép mình bị bắt vì biết quá nhiều về thông tin mật và nhạy cảm. Lót-trơ đã nhảy dù thành công nhưng không bao giờ nhìn thấy chiếc dù của Thiếu tá Rô-bớc Lót. Chiếc dù của Lót-trơ bị mắc kẹt vào cây nên Lót-trơ không thể giấu dù của mình được. Sau khi lấy ra vài vật dụng cần thiết từ gói trang bị sống còn, cho vào áo cứu hộ (gồm súng ngắn, hai lít nước, hộp cứu thương, thuốc chống côn trùng, màn chống muỗi và một con dao) và ngụy trang đường mình đi rồi leo lên phía đông của đỉnh núi và rồi lại trốn trong bụi cây bên sườn phía Tây. Trong ba ngày, Lót-trơ nghe chừng như có một đội tìm kiếm của người địa phương đang đập vào các bụi rậm ở phía đông sườn núi. Lót-trơ chui ẩn vào bụi cây và rồi lại quay trở lại đỉnh núi... Lót-trơ quyết định cơ hội tốt nhất cho mình để được cứu hộ là băng qua rừng, địa hình đồi núi và vùng trồng trọt ở thung lũng sông Hồng, bơi qua sông, tìm cách đến vùng núi thưa thớt dân cư ở phía Nam. Lót-trơ đã lang thang trong rừng 23 ngày. Lót-trơ không dám sử dụng thiết bị cứu hộ phát thanh URC-64 của mình, chỉ dám di chuyển trong khoảng 19 kilômét mỗi ngày vào thời điểm ban đêm và rạng sáng, tránh người địa phương và tránh xa đất liền. Có lần, Lót-trơ suýt chạm trán với một người dân Việt Nam vào buổi sáng tinh mơ, nhưng đã kịp lẩn tránh. Lót-trơ đã phải trốn ngoài cánh đồng, lấy lá cây và rơm rạ phủ kín người, nằm im ở đó cả ngày.

        Suốt 23 ngày lang thang trong rừng, Lót-trơ phải tự tìm lá cây, củ rừng và những thứ có thể ăn được, uống được để nuôi sống mình. Cũng trong 23 ngày ấy, Lót-trơ đã sút 14 kilôgam.

        Ngày 1 tháng 6, Lót-trơ đã liên lạc được với một chiếc F-4 đang bay trên trời, kịp báo vị trí của mình. Một nhiệm vụ cứu nạn được đặt ra cho một số máy bay A-1E HH-53, F-4 và F-105 để giải cứu Lót-trơ nhưng đã bị lực lượng Phòng không và MiG đánh bạt. Sang ngày 2 tháng 6, tướng Giôn Vốc sau khi tham khảo ý kiến với chỉ huy quân đội MACV là tướng Phờ-rê-đê-rích Ưây-an (Frederick c. Weyand), đã hủy bỏ cuộc tấn công Hà Nội, huy động tất cả các nguồn lực sẵn có, với hơn 150 máy bay để giải cứu Đại úy Lót-trơ. Các lực lượng đặc nhiệm trực tiếp của 119 máy bay bao gồm hai chiếc HH-53 - máy bay trực thăng cứu hộ, máy bay ném bom và một số F-4 hộ tông, EB-66s, A-lEs, F-105G và máy bay tiếp dầu KC-135. Đến trưa ngày 2 tháng 6 thì Lót-trơ được cứu thoát ở vị trí cách Yên Bái năm dặm (tám kilômét) bằng máy bay trực thăng HH-53 và được chơ về sân bay Udon.

        Trước đó, tổ bay của Lót-trơ tuyên bố bắn trúng ba chiếc máy bay MiG của đôi phương và Lót-trơ trở thành phi công Mỹ có quãng thòi gian từ khi bị bắn rơi cho đến khi được cứu thoát là dài nhất, với một chiến dịch giải cứu dài nhất.

        Đại úy Lót-trơ đã thực hiện phi vụ thứ 407 trong chiến tranh.

        Sau khi trở về Mỹ, Lót-trơ đã tham dự khóa đào tạo phi công và được giao lái F-4 với vị trí phi công chính. Lót-trơ bay F-4 ở Niu Mê-hi-cô, Mê-hi-cô, A-lát-xca và Phờ-lo-ri-đa trước khi chuyển sang bay huấn luyện trên loại máy bay F-16, giữ chức vụ hướng dẫn và chỉ huy bay. Sau đó, Lót-trơ đóng một vai trò quan trọng trong những ngày đầu của "Chương trình đen" siêu bí mật sản xuất ra các máy bay chiên đấu tàng hình Lockheed F-117 Nighthawk.

        Râu-gơ Lót-trơ nghỉ hưu năm 2010 ở Sabetha, Kan-dát.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #27 vào lúc: 06 Tháng Giêng, 2017, 04:54:40 pm »


        Biên đội bốn chiếc của Hoàng Cao Bổng, Phạm Cao Hà, Nguyễn Văn Cương, Lê Văn Tưởng thì quần nhau với tốp F-4 của Không quân Mỹ đang làm nhiệm vụ yểm hộ tốp cường kích ném bom la-de (mật danh là Cleveland). Số 4 Lê Văn Tưởng đã cắt một đường bay siêu gọn, bám ngay sau chiếc F-4 do Đại úy Giép-phờ-rây Lin-đơn Ha-rít (Jeffrey Lyndon Harris) và Đại úy Đen-nít Et-uôt Uyn-kin-xơn (Dennis Edward Wilkinson) điều khiển, nện hai loạt đạn trúng cánh bên phải của chiếc F-4E này, bắt nó cắm đầu xuống phía tây nam sân bay Yên Bái.

        Cả hai phi công bay trên chiếc F-4 này không nhảy dù được và đã chết trận.

        Giép-phờ-rây Lin-đơn Ha-rít sinh ngày 28 tháng 5 năm 1943 và tử trận ngày 10 tháng 5 năm 1972.

        Đen-nít Ét-uốt Uyn-kin-xơn sinh ngày 23 tháng 7 năm 1944, tử trận ngày 10 tháng 5 năm 1972.

        Lúc 9 giờ 39 phút, biên đội hai chiếc MiG-21 của Nguyễn Công Huy và Cao Sơn Khảo thuộc Trung đoàn Không quản tiêm kích 921 trực ban chiến đấu trên sân bay Đa Phúc nhận lệnh xuất kích chiến đâu, bay về khu vực Tuyên Quang làm nhiệm vụ nghi binh và yểm trợ cho lực lượng MiG-19 đang làm nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu ở Yên Bái, Tuyên Quang, đã gặp địch và trận không chiến không cân sức đã xảy ra.

        Trong trận không chiến này, chiếc F-4 do Trung úy Giôn-Mác-cơ (John D. Markle) và Đại úy Xti-vơn Íp-vơ (Steven D. Eaves) thuộc Phi đội 555, Không đoàn 432 TFW điều khiển đã bắn trúng máy bay của Cao Sơn Khảo.

        Tôi hoàn toàn không có thông tin về hai phi công này.

        12 giờ 55 phút, biên đội bốn chiếc tiêm kích MiG-17 của Nguyễn Văn Thọ, Tạ Đông Trung, Đỗ Hạng, Trà Văn Kiếm thuộc Trung đoàn Không quân tiêm kích 923 xuất kích từ sân bay Kép vòng về phía Hải Dương thi gặp lực lượng lớn máy bay của Hải quân Mỹ gồm A-7 và F-4.

        Trong trận không chiến, sau khi phi công Đỗ Hạng bị bắn rơi, bị bắn rách dù và hy sinh thì phi công Trà Văn Kiếm cũng quần nhau tơi bời với F-4 do Đại úy Ran-đờ Cơn-ninh-ham (Randal H Cunningham) và Trung úy Uy-li-am Đơ-rítx-côn (William p. Drisscoll) thuộc Phi đội VF-96, tàu sân bay Uss Constellation điều khiển.

        Máy bay của Trà Văn Kiếm bị trúng tên lửa A1M-9G, bị thương nhẹ, nhưng do thất tốc, lao xuống đất và Thiếu úy Trà Văn Kiếm đã hy sinh.

        Đại úy Cơn-ninh-ham thì cứ lầm tưởng Trà Văn Kiếm là phi công huyền thoại Nguyễn Tom1 vi các động tác trong không chiến của Trà Văn Kiếm rất điêu luyện. Trên đường trở về tàu sân bay Cơn-ninh-ham đã bị tên lửa Phòng không SAM bắn rơi, cả hai phi công trên chiếc F-4 đều nhảy dù và được cứu thoát.

        Đại úy Cơn-ninh-ham (có biệt danh là Randy "Duke" Cunningham) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1941 tại Lốt Ăng-giơ-lét, bang Ca-li-phoóc-ni-a.

        Sau khi nhận bằng cử nhân vào năm 1964 và thạc sĩ trong ngành giáo dục năm 1965 của trường Đại học Missouri, bang Missouri, Cơn-ninh-ham bắt đầu sự nghiệp của mình như là một nhà giáo dục và một huấn luyện viên tại Trung học Hinsdale. Là một huấn luyện viên bơi lội, Cơn-ninh-ham đã từng đào tạo được hai vận động viên đoạt Huy chương Vàng và Bạc Olympic.

        Cơn-ninh-ham đã tốt nghiệp khóa huấn luyện nâng cao TOP GUN trước khi được điều đến Phi đội VF-96, tàu sân bay Uss Constellation, Hải quân Mỹ. "Duke" Cơn-ninh-ham đã trở thành một trong những phi công Hải quân Mỹ được vinh danh trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

        Trong chiến tranh, Cơn-ninh-ham xuất kích 300 phi vụ, được ghi nhận bắn rơi năm chiếc MiG (bốn chiếc MiG-17 và một chiếc MiG-21), vì vậy, Cơn-ninh-ham cùng với phi công Đò-rítx-côn trở thành cặp phi công Aces (át chủ bài) đầu tiên và duy nhất của Hải quân Mỹ.

        Cơn-ninh-ham đã nhận được Huy chương cao quý của Hải quân Mỹ là Navy Cross, hai Huân chương Danh dự, 15 Huy chương Không quân và Huy chương Dũng cảm.

        Sau chiến tranh Việt Nam, "Duke" Cơn-ninh-ham quay lại làm giáo viên tại Trung tâm huấn luyện phi công TOP GUN, sau đó là với VF-154. Sau đợt nhiệm vụ tại Lầu Năm Góc, Cơn-ninh-ham lại trở về VF-154. Năm 1987, Cơn-ninh-ham được bổ nhiệm làm Tư lệnh một Không đoàn.

---------------------
        1. Nỗi ám ảnh về các phi công xuất sắc của Không quân Việt Nam khiến phi công Mỹ đồn tai nhau về một phi công “át" có tên là Đại tá Toon (có người gọi là Tom) và gán cho cái họ rất phổ biến ở Việt Nam là họ Nguyễn. Trên thực tế, Đại tả Nguyễn Tom chỉ là một nhân vật tưởng tượng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #28 vào lúc: 06 Tháng Giêng, 2017, 05:20:31 pm »


        Trong những năm 1990, Cơn-ninh-ham còn nổi tiếng là một bình luận viên truyền hình trên kênh lịch sử với chương trình "Các trận không chiến nổi tiếng nhất". Thậm chí, trong chiến tranh Vùng Vịnh, Cơn-ninh-ham còn tham gia bình luận trực tiếp trên máy bay của Hải quân Mỹ tham chiến. Sự nghiệp chính trị của Cơn-ninh-ham bắt đầu với việc giành được ghế nghị sĩ của Đảng Cộng hòa quận 44, một trong bốn quận của thành phố Xan Đi-ê-gô vào năm 1990, nhưng rồi vào những năm sau đó không được thuận lợi. Sau khi nghỉ hưu năm 1987 với quân hàm trung tá, Cơn-ninh-ham đã trở thành Hiệu trưởng Trường Quốc gia Hàng không và bắt đầu tiếp thị công ty Hàng không của riêng mình - Doanh nghiệp TOP GUN.

        Phi công ngồi buồng sau trên máy bay của Cơn- ninh-ham là Trung úy nhất Uy-li-am Đò-rítx-côn sinh ngày 5 tháng 3 năm 1947, đã tốt nghiệp ngành kinh tế của Trường Đại học Stonehill, North Easton, Ma-sa-chu-sét năm 1966 và lấy bằng thạc sĩ quản trị tại Đại học Nam Ca-li-phoóc-ni-a. Đờ-rítx-côn gia nhập lực lượng Hải quân Mỹ năm 1968 và trở thành phi công dẫn đường (RIO) trên máy bay F-4. Trong ngày 10-5-1972, sau trận không chiến với MiG-17 của Không quân Việt Nam, khi quay trở về căn cứ của mình, máy bay của Cơn-ninh-ham và Đờ-rítx-côn đã bị bắn rơi trên biển. Cơn-ninh-ham và Đờ-rítx-côn nhảy dù và được cứu thoát. Cùng vói Cơn-ninh-ham, Đờ-rítx-côn đã được công nhận là hai phi công Aces (át chủ bài) duy nhất của Hải quân Mỹ. Uy-li-am Đờ-rítx-côn đã được tặng thưởng Huy chương của Hải quân Mỹ Navy Cross. Sau chiến tranh, Uy-li-am Đờ-rítx-côn trở thành giáo viên bay tại Trường Naval Fighter Weapons, đào tạo phi công chiến đấu của Hải quân (TOP GUN), rồi trở thành giáo viên bay trên F-14 Tomcat của Phi đoàn 124 (VF-124), Phi đoàn thay thế của Hạm đội F-14 cho Hạm đội Thái Bình Dương tại NAS Miramar (hay là MCAS Miramar), ở Xan Đi-ê-gô. Uy-li-am Đờ-rítx-côn về hưu năm 1982 với quân hàm Trung tá, nhưng vẫn trong lực lượng trù bị Hải quân Hoa Kỳ, bay F-4 Phantom II và sau đó là F-14 Tomcat trong Phi đoàn máy bay chiến đấu của trù bị Hải quân tại NAS Miramar. Đờ-rítx-côn hiện đang làm việc trong lĩnh vực bất động sản tại Xan Đi-ê-gô mặc dù vẫn tiếp tục phục vụ trong vai trò một nhà tư vấn về các vấn đề Hàng không quân sự.

        Lúc 12 giờ 57 phút ngày 10 tháng 5 năm 1972, biên đội hai chiếc MiG-21 của Lê Thanh Đạo và Vủ Văn Hợp thuộc Trung đoàn Không quân tiêm kích 927 từ sân bay Kép xuất kích chiến đấu bay về khu vực cầu Lai Vu đã phát hiện được tốp F-4 và hai bên cùng lao vào cuộc không chiến. Trong trận không chiến này, cả Lê Thanh Đạo và Vũ Văn Hợp đều bắn rơi máy bay địch.

        Chiếc F-4 bị Lê Thanh Đạo bắn rơi do Trung tá Ha-ri Li Bơ-lách-bơn (Harry Lee Blackburn) và Trung úy Xtê-phơn An-tô-ni Rút-lóp (Stephen Anthony Rudllof) thuộc Phi đoàn VF-92, tàu sân bay Uss Constellation điều khiển.

        Cả hai phi công này đều nhầy dù và đều bị bắt làm tù binh.

        Trung tá Ha-ri Li Bơ-lách-bơn sinh ngày 28 tháng 12 năm 1935 tại Highland Springs, tiểu bang Vơ-gi-ni-a. Ngày 10 tháng 5 năm 1972, Ha-ri Li Bơ-lách-bơn cùng với phi công dẫn đường X-tê-phơn An-tô-ni Rút-lóp bay trên chiếc F-4J làm nhiệm vụ chế áp pháo Phòng không trên không phận gần Hải Dương thì bị MiG-21 bắn rơi.

        Xtê-phơn An-tô-ni Rút-lóp là Trung úy Hải quân Hoa Kỳ, quê quán tại Brúc-lin, tiểu bang Niu Yoóc, gia nhập lực lượng Hải quân Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 1964. Xtê-phơn An-tô-ni Rút-lóp là phi công dẫn đường cho máy bay F-4J, ngồi buồng sau, bay cùng Ha-ri Li Bơ-lách-bơn vào không phận miền Bắc Việt Nam, bị MiG-21 bắn rơi. Xtê-phơn An-tô-ni Rút-lóp nghỉ hưu vào tháng 11 năm 1984 với cấp bậc trung tá và hiện sống ở Niu Yoóc.

        So sánh về số lần xuất kích của cả hai bên trong ngày 10 tháng 5 năm 1972 có thể thấy: phía Không quân và Hải quân Mỹ có 414 lần chiếc xuất kích, còn phía Không quân Việt Nam thì có 64 lần chiếc xuất kích. Phía Mỹ có hàng trăm phi công của Không quân và Hải quân tham gia. Phía Không quân Việt Nam có 40 phi công của bốn Trung đoàn Không quân tham gia, nhưng lực lượng trực tiếp tham chiến trong các trận không chiến chỉ có 18 phi công. Với sự chênh lệch quá lớn như vậy mà số lượng máy bay bắn hạ của hai bên được coi là như nhau, điều đó đã chứng minh được sự lớn mạnh của Không quân Việt Nam và đặc biệt trong các trận không chiến đã có sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các loại MiG cùng với hỏa lực của lực lượng Phòng không. Đây là ngày có tần suất cất cánh cao nhất của các lực lượng MiG. Nó chứng tỏ sự điều hành, chỉ huy từ các sở chỉ huy rất nhịp nhàng và hiệu quả. Nếu không có sự điều hành, chỉ huy, dẫn dắt từ các Sở chỉ huy với tài năng của những người chỉ huy và dẫn đường cùng tất cả các thành phần khác thì khó có được những chiến công như vậy. Với Không quân, đúng là chỉ có "đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể", mới có thể giành thắng lợi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #29 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2017, 10:59:58 am »


        Nếu không có các đồng chí thợ máy, kỹ thuật chuẩn bị cho máy bay luôn ở trạng thái tốt, sẵn sàng cất cánh chiến đấu, nếu không có các thành phần tham gia thuộc ngành hậu cần đảm bảo các cơ sở vật chất chăm sóc sức khỏe như các bác sĩ, anh chị em nuôi quân, sân đường..., nếu không có các sĩ quan quân báo, tác chiến, dẫn đường, thông tin, báo vụ, tiêu đồ xa, tiêu đồ gần... căng mình suốt đêm ngày hoàn thành tốt nhất công việc của mình thì chúng tôi - những người phi công chiến đấu chắc không thể cất cánh lên trời và lại càng không thể làm nên chiến thắng được.

        Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tất cả các đồng chí trong Trung đoàn, Quân chủng đã góp sức cho chúng tôi vượt qua được mọi gian nguy trong chiến trận và trở về với tư cách người chiến thắng.

        Xin kính cẩn nghiêng mình trước anh linh các phi công đã vĩnh viễn từ giã bầu tròi, đã xếp lại "những đôi cánh của mình" trong các trận không chiến, hy sinh vẻ vang vì sự nghiệp chung, vì sự bình yên của bầu tròi và mặt đất thân yêu. Chúng tôi luôn nhắc và luôn nhớ tới các anh, luôn thấy các anh bay trong đội hình để giữ đất giữ trời, giữ biển đảo của Tổ quốc Việt Nam.

        Các anh là Bất Tử!...

        Những chỉ huy, những phi công tham gia trong ngày 10 tháng 5 năm 1972 ấy sau này đã có nhiều người được phong tặng, truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Rất nhiều người cũng đã từng giữ những vị trí trọng trách trong Quân chủng, trong Quân đội nhân dân Việt Nam và trong các cơ quan dân sự.

        Xin được cung cấp một số thông tin về những người chỉ huy, dẫn đường và một số phi công từng tham gia trong ngày 10 tháng 5 năm 1972 ấy.

        Tư lệnh Đào Đình Luyện sinh ngày 5 tháng 11 năm 1929 tại Quỳnh Hội, Quỳnh Phụ, Thái Bình, nhập ngũ tháng 8 năm 1945. Trong kháng chiến chống Pháp, ông đã tham gia các chiến dịch lớn như Việt Bắc, Điện Biên Phủ. Tháng 2 năm 1956, ông được cử làm Đoàn trưởng Đoàn học viên bay tại Trung Quốc. Tháng 2 năm 1964, khi thành lập Trung đoàn Không quân tiêm kích 921 với biệt danh là "Trung đoàn Sao Đỏ", ông được bổ nhiệm chức vụ Trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn. Với cương vị Trung đoàn trưởng, ông đã tổ chức và dẫn đầu đội hình Trung đoàn 921 chuyển sân từ sân bay Mông Tự, Trung Quốc về hạ cánh tại Nội Bài ngày 6 tháng 8 năm 1964 và ngay sau đó đã tổ chức cho Trung đoàn hoàn thành công tác chuẩn bị chiến đấu, đánh thắng các trận không chiến đầu tiên với Không quân và Hải quân Mỹ, mở "mặt trận trên không" thắng lợi. Trong những năm chiến tranh, ông giữ nhiều cương vị chủ chốt của bộ đội Không quân. Tháng 4 năm 1966, ông được bổ nhiệm là Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Không quân, thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân. Đến tháng 5 năm 1967 là Phó Tư lệnh, tháng 10 năm 1969 là Tư lệnh Binh chủng Không quân thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân .

        Tháng 5 năm 1977, khi Quân chủng Phòng không - Không quân tách thành hai quân chủng, ông được bổ nhiệm là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân chủng Không quân. Tháng 8 năm 1982, ông sang học tại Học viện Bộ Tổng tham mưu Hồng quân Liên Xô mang tên Nguyên soái Cờ-li-ment Vô-rô-si-lôp (Kliment Voroshilov). Tháng 3 năm 1986 là Phó Tổng Tham mưu trưởng. Tháng 4 năm 1989 là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông nghỉ hưu năm 1996 với quân hàm thượng tướng và là Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Ông từ trần năm 1999. Ngày 1 tháng 12 năm 2014, ông được truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

        Phó Tư lệnh Trần Mạnh sinh ngày 1 tháng 5 năm 1928 tại xã Vĩnh Lai, An Nhơn, Bình Định, nhập ngũ tháng 12 năm 1946. Trong kháng chiến chống Pháp, ông từng là Chính trị viên Tiểu đoàn 308 lừng danh (như Tiểu đoàn 307) rồi trở thành Chính ủy Trung đoàn Bộ binh thuộc Sư đoàn 330. Năm 1954, ông tập kết ra miền Bắc và được chọn đi học lái máy bay MiG-17 tại Trung Quốc. Khi thành lập Trung đoàn Không quân tiêm kích 921, ông được bổ nhiệm là Trung đoàn phó. Tháng 6 năm 1966, ông được bổ nhiệm Trung đoàn trưởng thay cho Đào Đình Luyện. Năm 1969, ông được bổ nhiệm là Phó Tư lệnh Binh chủng Không quân. Năm 1974 là Tham mưu phó Quân chủng Phòng không - Không quân. Năm 1976 là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Năm 1977 là Phó Tư lệnh Quân chủng Không quân.

        Trên cương vị chỉ huy các cấp của Không quân, ông thể hiện là vị chỉ huy Không quân tài năng. Bên cạnh công tác chỉ huy chiến đấu thắng lợi, ông còn có nhiều đóng góp trong xây dựng lực lượng, tổng kết về lí luận. Nhiều phi công ưu tú đã đánh giá cao sự đóng góp của ông trong công tác tổng kết, hình thành chiến thuật, cách đánh của MiG-21 trong điều kiện của Việt Nam. Năm 1981, ông được bổ nhiệm là Tổng cục trưởng Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam, là một trong những người đặt viên gạch đầu tiên hình thành Hàng không Quốc gia Việt Nam. (Chi tiết về cuộc đời ông đã được tác giả Nguyễn Công Huy viết trong cuốn "Người tìm chìa khóa vàng", Nhà xuất bản Văn học, 2015). Ông về hưu năm 1990 với quân hàm Thiếu tướng. Ông mất năm 1992.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM