Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 06:58:21 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Quân đồng minh Mỹ trên chiến trường Việt Nam  (Đọc 26202 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #20 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2016, 04:20:22 am »

       
Chương 2

HOẠT ĐỘNG CỦA QUÂN ĐỘI CÁC NƯỚC ĐỒNG MINH MỸ
TRÊN CHIẾN TRƯỜNG MIỀN NAM VIỆT NAM

        I. QUÂN ĐỘI CỘNG HOÀ TRIỀU TIÊN

        1. Quan hệ quân sự Mỹ - Cộng hoà Triều Tiên và quân đội Cộng hoà Triều Tiên từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 60 thế kỷ XX.

        Ngày 15 tháng 8 năm 1945, nước Nhật quân phiệt đầu hàng đồng minh, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Căn cứ vào hiệp định được ký kết giữa Liên Xô và Mỹ trước ngày Nhật Bản đầu hàng, ngày 9 tháng 8 năm 1945, quân Mỹ đã đổ bộ vào Cộng hoà Triều Tiên.

        Sau khi chiếm đóng Cộng hoà Triều Tiên, Mỹ tuyên bố thành lập chính quyền quân quản, giải tán các ủy ban địa phương, cấm tất cả các đảng phái và các tổ chức xã hội hoạt động, thành lập Nghị viện dân chủ với tính chất là một cơ quan tư vấn, do Lý Thừa Vãn đứng đầu. Nguyện vọng hoà bình, thống nhất Tổ quốc của nhân dân Triều Tiên và cam kết của đồng minh tôn trọng chủ quyền độc lập của Triều Tiên đã bị cản trở do ý đồ can thiệp từ bên ngoài.

        Tháng 9 năm 1947, phía Mỹ đơn phương đưa vấn đề Triều Tiên ra thảo luận ở Liên Hợp quốc. Sau các cuộc thảo luận, Liên Hợp quốc đã quyết định thành lập một"ủy ban lâm thời" về vấn đề Triều Tiên, ủy ban này được giao quyền giám sát cuộc bầu cử thành lập Chính phủ toàn Triều Tiên. Trên thực tế, ủy ban lâm thời về vấn đề Triều Tiên của Liên Hợp quốc do Mỹ thao túng. Do vậy, nghị quyết này của Liên Hợp quốc đã bị Liên Xô lên án, các đảng phái dân chủ, đoàn thể xã hội Triều Tiên cũng phản đối. Mặc dù vậy, ngày 10 tháng 5 năm 1948, phía Mỹ đã đơn phương tổ chức bầu cử riêng rẽ ở Cộng hoà Triều Tiên dưới sự giám sát của ủy ban lâm thời Liên Hợp quốc về vấn đề Triều Tiên. Ngày 15 tháng 8, Đại Hàn dân quốc (Cộng hoà Triều Tiên) được thành lập, do Lý Thừa Vãn làm Tổng thống, lấy Hán Thành (Sơun) làm thủ đô.

        Trước tình hình đó, tháng 8 năm 1948, Đảng Lao động cùng các đảng phái dân chủ, đoàn thể xã hội đã tổ chức bầu cử ở Bắc Triều Tiên. Ngày 9 tháng 9 năm 1948, Bắc Triều Tiên tuyên bố thành lập nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, lấy Bình Nhưỡng làm thủ đô.

        Tuân thủ các cam kết đã đạt được trong Hội nghị Yanta giữa các cường quốc Liên Xô, Mỹ và Anh sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tháng 9 năm 1949, quân đội Liên Xô rút khỏi Bắc Triều Tiên. Quân đội Mỹ cũng rút khỏi Cộng hoà Triều Tiên từ tháng 6 năm 1949, nhưng vẫn để lại một đoàn cố vấn quân sự có khoảng 500 sĩ quan và nhân viên quân sự, làm nhiệm vụ kiểm soát và điều hành bộ máy Chính phủ Cộng hoà Triều Tiên, đồng thời nghiên cứu và lên kế hoạch tiến công xâm lược Bắc Triều Tiên. Theo các tài liệu do quân đội Bắc Triều Tiên thu giữ được trong đợt tiến công vào Hán Thành (diễn ra từ ngày 25 đến ngày 28 tháng 6 năm 1950), ngay từ đầu năm 1949, Mỹ và Cộng hoà Triều Tiên đã lên kế hoạch tiến công Bắc Triều Tiên. Phương án đầu tiên của kế hoạch này là dùng lực lượng lục quân đánh qua vĩ tuyến 38, đồng thời tiến hành các chiến dịch đổ bộ vào bờ biển phía Đông và Tây của Bắc Triều Tiên. Phương án này dự định thực hiện vào tháng 7, tháng 8 năm 1949. Đến mùa hè năm 1950, phương án trên bị hủy bỏ, thay vào đó, các cố vấn quân sự Mỹ đưa ra phương án mới với ý đồ tập trung binh lực quân đội Cộng hoà Triều Tiên đột phá toàn bộ tuyến phòng ngự của quân đội Bắc Triều Tiên ở vĩ tuyến 381. Điểm nhấn của phương án mới là quân đội Mỹ sẽ can thiệp mạnh mẽ vào cuộc xung đột.

-----------------
        1. Đấu tranh vũ trang của nhân dân châu Á vì nền độc lập và tự do, Sđd, tr. 130.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #21 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2016, 04:21:29 am »


        Như vậy, cam kết của các nước đồng minh tôn trọng độc lập và thống nhất của Triều Tiên đã không được thực hiện. Đất nước Triều Tiên bị chia cắt. Vì coi Triều Tiên là địa bàn quan trọng của bàn cờ chiến tranh trên phạm vi toàn thế giới, giới cầm quyền Mỹ đã khuyến khích và tài trợ cho các hoạt động chống Cộng ở Cộng hoà Triều Tiên. Ngày 19 tháng 6 năm 1949, trong bài diễn văn đọc trước Quốc hội Cộng hoà Triều Tiên sau chuyến thị sát 2 ngày tại khu vực vĩ tuyến 38, cố vấn Bộ ngoại giao Mỹ Đalét tuyên bố: "Nước Mỹ sẵn sàng cung cấp mọi viện trợ cần thiết về tinh thần và vật chất cho Cộng hoà Triều Tiên đang anh dũng đấu tranh với chủ nghĩa cộng sản"1. Tiếp đó, tháng 1 năm 1950, không giấu giếm tham vọng của Mỹ đối với bán đảo Triều Tiên, Ngoại trưởng Mỹ Đin Akisơn một lần nữa công khai khẳng định "Triều Tiên là một trong những khu vực quan trọng mà Mỹ phải có trách nhiệm trực tiếp, đó không chỉ là nơi cung cấp các nguồn nguyên liệu thiết yếu mà còn là địa bàn quân sự chiến lược, từ đó Mỹ có thể áp đảo, khống chế, thậm chí tiến công Liên Xô và Trung Quốc"2.

        Với ý đồ bao vây, kiềm chế các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khu vực Đông Nam Á và Nam Á, Mỹ đã từng bước biến Triều Tiên thành bàn đạp tiến công, bao vây phong trào cách mạng thế giới, thành một mắt xích trọng yếu trong chiến lược toàn cầu của họ. Quá trình "Mỹ hoá" Cộng hoà Triều Tiên thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai được Nhà Trắng đồng thời thực hiện trên nhiều lĩnh vực, trong đó chính trị và quân sự là 2 mũi đột phá chủ yếu. Trong lĩnh vực quân sự, sau khi dựng lên nước Đại Hàn dân quốc, Mỹ đã bí mật ký với nước này một hiệp ước quân sự. Theo đó, trong thời gian từ 2 đến 3 năm, Mỹ có trách nhiệm sẽ giúp Cộng hoà Triều Tiên xây dựng một đội quân nhà nghề được trang bị và huấn luyện theo mô hình của quân đội Mỹ.

        Trên cơ sở Hiệp ước đã ký, cuối năm 1948, Mỹ mở trường đào tạo sĩ quan cho quân đội Cộng hoà Triều Tiên. Học viên trường này do Mỹ trực tiếp tuyển chọn, chủ yếu là những sĩ quan, quân nhân đã từng phục vụ trong quân đội Nhật, ngụy quân Mãn Châu trong đội quân Quan Đông, hoặc con em của một số công chức Cộng hoà Triều Tiên có quan điểm thân Mỹ. Tháng 3 năm 1949, được Mỹ hậu thuẫn, Quốc hội Cộng hoà Triều Tiên đã ban hành lệnh Tổng động viên, kêu gọi thanh niên nhập ngũ, lấy cớ là để chống lại "Mối hiểm họa quân sự từ phía Bắc". Lệnh tổng động viên thực sự đã góp phần quan trọng biến phần phía Nam bán đảo Triều Tiên thành cỗ máy chiến tranh, lực lượng quân đội vì thế cũng không ngừng gia tăng. Đến giữa năm 1949, chỉ tính riêng lực lượng lục quân, Cộng hoà Triều Tiên đã có tới 8 sư đoàn. Ngoài lực lượng lục quân, Cộng hoà Triều Tiên còn tổ chức thêm 5 lữ đoàn địa phương quân và một số đơn vị đặc nhiệm với tổng số quân là 50.000 người. Cùng với việc tăng nhanh lực lượng lục quân, phòng không - không quân và hải quân Cộng hoà Triều Tiên thời kỳ này cũng có bước gia tăng đột biến. Quân chủng phòng không - không quân có khoảng 3.000 sĩ quan, binh sĩ, 40 máy bay chiến đấu, 3 sư đoàn pháo phòng không. Quân chủng hải quân có 15.000 sĩ quan và thủy thủ, với 71 tàu chiến các loại, 1 trung đoàn thủy quân lục chiến, hàng chục đội tàu tuần tra ven sông và ven biển. Phần lớn vũ khí, khí tài của 2 quân chủng này đều do Mỹ trang bị. Nhiều sĩ quan được đào tạo tại Mỹ hoặc do Mỹ đào tạo tại các căn cứ quân sự của họ ở nước ngoài.

-----------------
        1. Nguyễn Huy Quý, Cuộc chiến tranh Triều Tiên và công cuộc bảo vệ hòa bình ngày nay, tạp chí Lịch sử Quân sự, 3-2003, tr. 62.

         2. Đấu tranh vũ trang của nhân dân châu Á vì nền độc lập và tự do, Sđd, tr. 129.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #22 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2016, 04:22:17 am »


        Cho đến thời điểm trước khi nổ ra cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), quân đội Cộng hoà Triều Tiên đã có tới 168.000 sĩ quan và binh sĩ, hàng chục phi đội máy bay chiến đấu và tàu chiến. Tất cả các đơn vị quân đội Cộng hoà Triều Tiên từ cấp đại đội trở lên, đều được huấn luyện theo điều lệnh và phương thức tác chiến của quân đội Mỹ, chịu sự chỉ huy và điều hành gián tiếp của các cố vấn và chuyên gia quân sự Mỹ.

        Nhằm đảm bảo vũ khí trang bị cho quân đội Cộng hoà Triều Tiên, trong 2 năm (1949-1950), Quốc hội Mỹ đã thông qua khoản viện trợ 185 triệu đô la, cùng hàng nghìn tấn vũ khí, trang bị cho quân đội nước này. Chỉ tính riêng năm 1949, Mỹ đã chuyển giao cho quân đội Cộng hoà Triều Tiên 140.000 súng trường các loại, 2.000 vũ khí chống tăng Badôca, 4.900 xe vận tải quân sự, hàng trăm xe tăng, máy bay, cùng hàng nghìn khẩu pháo, cối từ 38 tới 105mm. Con số này còn tăng lên gấp nhiều lần vào những năm chiến tranh1.

        Kết thúc chiến tranh, phía Bắc Triều Tiên đã thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản của Hiệp định đình chiến Bàn Môn Điếm: thực hiện đình chỉ chiến sự, rút toàn bộ quân đội sang bên kia vĩ tuyến 38 và chờ một hội nghị chính trị để giải quyết vấn đề hoà bình trên bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, do âm mưu chiếm đóng lâu dài của Mỹ, Hội nghị chính trị cấp cao về vấn đề thống nhất hai miền Triều Tiên đã không được thực hiện. Cuối năm 1953, tức là chỉ vài tháng sau khi chiến tranh kết thúc, Mỹ đã ký với Chính phủ của Lý Thừa Vãn "Hiệp ước tương trợ an ninh", cho phép quân đội Mỹ được ở lại lâu dài tại Cộng hoà Triều Tiên. Tiếp đó, nhằm quân phiệt hoá phần phía Nam bán đảo Triều Tiên, từ năm 1954 đến năm 1960, Mỹ đã ký với Cộng hoà Triều Tiên hàng loạt hiệp ước bất bình đẳng phục vụ cho các mục tiêu chính trị, quân sự và kinh tế của Mỹ.

        Năm 1957, Mỹ ký với Cộng hoà Triều Tiên Hiệp định thương mại. Hiệp định này cho phép hàng hoá Mỹ được phép thâm nhập ồ ạt vào thị trường Cộng hoà Triều Tiên với biểu thuế thấp. Năm 1960, ký Hiệp định đầu tư nước ngoài, buộc Cộng hoà Triều Tiên phải dành "đặc quyền" cho các nhà đầu tư Mỹ...

        Với các hiệp định, hiệp ước đã ký, Mỹ từng bước biến Cộng hoà Triều Tiên không chỉ trở thành thị trường tiêu thụ hàng hoá, nơi đầu tư béo bở của các tập đoàn, công ty Mỹ mà còn trở thành địa bàn quân sự chiến lược, từ đó họ không chỉ "khống chế" nước này, mà còn không ngừng mở rộng ảnh hưởng của mình sang khu vực Nam Á và Đông Nam Á.

        Đối với Cộng hoà Triều Tiên, nhờ có các khoản đầu tư và viện trợ (kể cả viện trợ quân sự) của Mỹ, nền kinh tế nước này đã có những bước phát triển. Nếu như vào thời kỳ trước chiến tranh (1950-1953), Cộng hoà Triều Tiên vẫn còn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, thì đến thời kỳ sau chiến tranh, đặc biệt là vào đầu những năm 60, nhờ sự viện trợ của Mỹ, thu nhập đầu người của nước này đã có những bước cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, cái giá phải trả cho sự "phồn thịnh" đó của nền kinh tế nước này là sự phụ thuộc vào cỗ máy chiến tranh xâm lược của Mỹ. Việc quân đội Cộng hoà Triều Tiên tham gia chiến tranh Việt Nam là một minh chứng cho điều đó.

        Về hệ thống tổ chức, biên chế quân đội Cộng hoà Triều Tiên, trước tháng 9 năm 1945, chỉ có Đội cảnh bị quốc gia do thanh niên tổ chức tự phát. Ngày 9 tháng 9 năm 1945, quân Mỹ đổ bộ vào Nhân Xuyên giải tán Đội cảnh bị quốc gia và thành lập các trung tâm huấn luyện quân sự do Mỹ tài trợ và đào tạo. Tháng 4 năm 1946, Mỹ tổ chức các đại đội ở cấp tỉnh do các sĩ quan Cộng hoà Triều Tiên chỉ huy. Đến tháng 12, thành lập Bộ tư lệnh cảnh bị quốc phòng Cộng hoà Triều Tiên (tiền thân của Bộ Quốc phòng). Lấy cớ "tăng cường khả năng phòng thủ" nhằm chống lại âm mưu xâm lược của Bắc Triều Tiên, ngày 12 tháng 8 năm 1948, Bộ tư lệnh các quân chủng trong Bộ Quốc phòng Cộng hoà Triều Tiên được thành lập. Vào thời điểm này, lục quân có 80.000 người, tổ chức thành 5 lữ đoàn, 1 trung đoàn độc lập. Hải quân có khoảng 6.800 người và không quân có hơn 2.000 người. Đến đầu năm 1950, con số này đã tăng lên gần gấp đôi: lục quân 150.000 (kể cả lực lượng đặc nhiệm và lực lượng địa phương), không quân gần 3.000, hải quân 15.000 người.

-----------------
         1. Đấu tranh vũ trang của nhân dân châu Á vì nền độc lập và tự do, Sđd, tr. 130.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #23 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2016, 04:22:59 am »


        Ngày 25 tháng 6 năm 1950, cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Cộng hoà Triều Tiên đã tăng quân ồ ạt nhằm đáp ứng nguồn nhân lực cho cuộc chiến.

        Thời kỳ sau chiến tranh, do bị cuốn vào cuộc chạy đua vũ trang trong chiến lược "Trả đũa ồ ạt" và "Phản ứng linh hoạt" của Mỹ, quân số quân đội Cộng hoà Triều Tiên không những không giảm đi mà còn có chiều hướng gia tăng. Vào thời điểm ngay sau khi Cộng hoà Triều Tiên quyết định đưa quân sang Việt Nam tham chiến (năm 1965), tổng quân số quân đội Cộng hoà Triều Tiên có khoảng 778.497 người2, trong đó lục quân có 729.030, hải quân 18.000; không quân 31.497.

        Trong quân đội Cộng hoà Triều Tiên, binh sĩ thực hiện chế độ nghĩa vụ 3 năm, phần lớn họ đều xuất thân từ gia đình nông dân (70-80%), công nhân và người buôn bán nhỏ ở thành thị (10%). Đối tượng là học sinh phổ thông trung học trở lên và thanh niên ở các thành phố lớn chiếm tỷ lệ rất nhỏ (chủ yếu ở các đơn vị kỹ thuật); binh sĩ có trình độ văn hoá cấp 1 chiếm tỷ lệ cao, số chưa biết đọc, biết viết cũng còn khá nhiều3. Hạ sĩ quan, chủ yếu là những người tình nguyện tham gia quân đội hoặc đã từng phục vụ trong quân đội lâu năm, thường có tuổi đời khá cao, chế độ lương bổng được hưởng gần như sĩ quan cấp thiếu úy, trung úy. Sĩ quan cấp úy có tới 70% xuất thân từ thành phần tiểu tư sản thành thị; một số là sinh viên, trí thức, học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học bị điều động vào quân đội, số còn lại thuộc hệ thống đào tạo sĩ quan chính quy, xuất thân từ các gia đình có thế lực. Sĩ quan cấp tá, có quyền lợi khác hẳn với sĩ quan cấp úy. Phần lớn họ đều xuất thân từ tầng lớp trung lưu thành thị, một số ít xuất thân từ thành phần địa chủ, tư sản mại bản - tầng lớp có đời sống cao nhất ở Cộng hoà Triều Tiên vào thời điểm đó. Một số sĩ quan thậm chí còn có các cơ sở kinh tế lớn như các công ty, tập đoàn... Hầu hết trong số họ đã tốt nghiệp các trường sĩ quan, đại học quân sự tại Cộng hoà Triều Tiên hoặc đã được đào tạo tại Mỹ. Có nhiều người đã từng phục vụ trong quân đội Nhật, quân đội Tưởng Giới Thạch trước đây, quyền lợi của họ gắn chặt với giai cấp thống trị, thân Mỹ và chống Cộng quyết liệt. Sĩ quan cấp tướng chủ yếu xuất thân từ thành phần địa chủ, tư sản mại bản, hầu hết đã phục vụ trong quân đội Nhật, quân đội Tưởng và tham gia quân ngũ từ khi mới thành lập quân đội Cộng hoà Triều Tiên. Tuy đều thân Mỹ và có tư tưởng chống Cộng quyết liệt nhưng cũng có không ít tướng lĩnh có xu hướng chống đối, tranh giành quyền lực với Pắc Chung Hy.

-----------------
         1. The Korean War, Korean Institute of Military History, Republic of Korea, 1999, p. 692.

         2, 3. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Sơ lược tình hình chung về quân đội Nam Triều Tiên năm 1967, Tài liệu Thư viện Trung ương quân đội, tr. 12, 24.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #24 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2016, 04:24:52 am »


        2. Quá trình triển khai và hoạt động của các đơn vị quân đội Cộng hoà Triều Tiên trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam (1964-1973).

        Trong số các nước đồng minh của Mỹ đưa quân sang Việt Nam tham chiến, Cộng hoà Triều Tiên là nước tham gia tích cực nhất, có số quân đông nhất và được Mỹ đánh giá là tác chiến có hiệu quả nhất.

        Không phải đến tận thời điểm Tổng thống Mỹ chính thức phát động chiến dịch "Thêm nhiều ngọn cờ" Cộng hoà Triều Tiên mới có ý định đưa quân sang Việt Nam tham chiến. Đầu năm 1954, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam đang bước vào hồi quyết định nhất, Mỹ bắt đầu tính đến khả năng trực tiếp đưa quân tham gia cuộc chiến tranh Việt Nam. Theo dõi sát những diễn biến tại khu vực Đông Dương, cuối tháng 1 năm 1954, với tư cách là một đồng minh của Mỹ trong "thế giới tự do", Tổng thống Cộng hoà Triều Tiên Lý Thừa Vãn gợi ý với phía Mỹ sẵn sàng đưa một sư đoàn sang Việt Nam nhằm giúp Pháp đẩy lui "thế thượng phong" của lực lượng Việt Minh. Đề nghị trên của Cộng hoà Triều Tiên đã không được chấp nhận. Tổng thống Mỹ Aixenhao lập luận rằng: "Trong khi quân Mỹ đang phải đóng tại Cộng hoà Triều Tiên để bảo vệ phên dậu cho họ, thì quân Cộng hoà Triều Tiên lại bị điều đi khỏi bán đảo Triều Tiên để giải quyết những giao tranh tại nơi khác. Đó là điều không thể chấp nhận được". Kế hoạch đưa quân sang Việt Nam của Cộng hoà Triều Tiên vì thế cũng bị gác lại. Mặc dù vậy, Tổng thống Lý Thừa Vãn vẫn chưa từ bỏ ý định đưa quân sang tham chiến tại Việt Nam. Năm 1955, Cộng hoà Triều Tiên chính thức công nhận Chính phủ Việt Nam cộng hoà và thường xuyên tiến hành các cuộc trao đổi quân sự. Điều đó đã tạo tiền đề thuận lợi để Chính phủ Cộng hoà Triều Tiên thực hiện ý định đưa quân sang tham chiến tại Việt Nam và tích cực ủng hộ cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.

        Năm 1961, Trung tướng Pắc Chung Hy tiến hành đảo chính quân sự lật đổ Chính phủ hiện thời và trở thành Tổng thống Cộng hoà Triều Tiên. Ngay sau đó, Pắc Chung Hy đã vấp phải sự phản đối gay gắt của các đảng phái chính trị và các tầng lớp nhân dân Cộng hoà Triều Tiên về tính hợp hiến của chiếc ghế mà ông đang chiếm giữ. Không những vậy, ông còn phải đối mặt với tình trạng đói nghèo, lạc hậu đã kéo dài nhiều năm tại Cộng hoà Triều Tiên. Tuy nhiên, không phải vì thế mà Tổng thống Pắc Chung Hy từ bỏ ý định đưa quân sang tham chiến tại Nam Việt Nam. Tháng 6 năm 1961, ngay sau khi thành lập chính phủ mới, Pắc Chung Hy đã cử một phái đoàn quân sự do tướng Sim Hông Sơn dẫn đầu, sang miền Nam Việt Nam để tìm hiểu tình hình chiến sự. Tiếp đó, tháng 11 năm 1961, tại Hội nghị cấp bộ trưởng giữa Việt Nam cộng hoà và Cộng hoà Triều Tiên, Lee Hu Rak - Trưởng ban thư ký ủy ban tái thiết quốc gia, chính thức bày tỏ ý định đưa quân Cộng hoà Triều Tiên sang chiến đấu tại Nam Việt Nam. Ông nói: "Chính phủ chúng tôi tuyệt nhiên không bỏ qua khủng hoảng tại Việt Nam. Chúng tôi dự kiến trong thời gian gần nhất sẽ thành lập và đưa sang Việt Nam một đội cố vấn quân sự gồm những tướng lĩnh có kinh nghiệm và đã từng trải qua cuộc chiến tranh Triều Tiên"1.

        Cũng trong tháng 11, Pắc Chung Hy đến thăm Mỹ nhân dịp Tổng thống Kennơđi chính thức nhậm chức. Trong hai phiên hội đàm cấp cao với các quan chức Mỹ, Pắc Chung Hy đã chính thức đề nghị phía Mỹ tăng cường giúp Cộng hoà Triều Tiên phát triển kinh tế, đồng thời dùng các biện pháp để ổn định tình hình trong nước. Trong các cuộc hội đàm đó, ông ta còn nhiều lần đề cập đến việc Cộng hoà Triều Tiên hiện đang có gần 1 triệu quân thiện chiến, nếu Mỹ đồng ý hỗ trợ hậu cần cho quân viễn chinh Cộng hoà Triều Tiên thì nước này sẵn sàng đưa một số đơn vị chiến đấu sang Việt Nam. Kết thúc chuyến thăm, Pắc Chung Hy đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của Tổng thống Kennơđi về kế hoạch phát triển kinh tế và kế hoạch ổn định tình hình chính trị trong nước. Tuy nhiên, đề nghị của Cộng hoà Triều Tiên về việc đưa quân sang tham chiến ở Việt Nam chỉ mới được Mỹ đưa vào các biên bản ghi nhớ. Sở dĩ vào thời điểm đó Mỹ không mấy "mặn mà" với đề nghị này của Cộng hoà Triều Tiên là do cho đến lúc ấy, Tổng thống Kennơđi vẫn đang giữ thái độ dè dặt về việc đưa quân vào Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến. Mặt khác, Mỹ vẫn coi Việt Nam là một vấn đề đơn giản và nếu cần, chỉ một mình Mỹ cũng đủ giành thắng lợi ở Việt Nam.

-----------------
         1. Song Jeong Nam, Hàn Quốc tham chiến tại Việt Nam, động cơ và bối cảnh, Tlđd, tr. 4.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #25 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2016, 04:25:22 am »


        Ba năm sau, khi ảo tưởng về một sức mạnh siêu cường của Mỹ trên chiến trường Việt Nam không còn, ngày 9 tháng 5 năm 1964, Đại sứ Mỹ tại Cộng hoà Triều Tiên đã phải chuyển bức thư của Tổng thống Giônxơn gửi Pắc Chung Hy, yêu cầu Cộng hoà Triều Tiên gửi quân sang Việt Nam giúp Mỹ. Theo yêu cầu của Mỹ, Tổng thống Pắc Chung Hy đã cử một phái đoàn khảo sát gồm 15 người sang Nam Việt Nam để nghiên cứu tình hình. Tiếp đó, đầu tháng 9 năm 1964, sau khi được Quốc hội tán thành với số phiếu 100%, Tổng thống Pắc Chung Hy ra lệnh cho Bộ Quốc phòng xúc tiến kế hoạch đưa một phái bộ viện trợ quân sự Cộng hòa Triều Tiên, thường gọi là "đơn vị Bồ Câu", với hơn 2.000 người, gồm lính công binh, nhân viên y tế, võ sư Taekwondo... sang Việt Nam. Ngày 25 tháng 2 năm 1965, bộ phận đầu tiên của lực lượng này là một bệnh viện dã chiến, với gần 200 nhân viên, cả quân và dân y, đã tới Biên Hoà. Các đơn vị còn lại như: tiểu đoàn công binh, đại đội vận tải, tiểu đoàn an ninh,... lần lượt có mặt tại Nam Việt Nam vào tháng 3 năm 1965. Như vậy, cho đến thời điểm này, Cộng hoà Triều Tiên vẫn chưa đưa các đơn vị chiến đấu sang Nam Việt Nam.

        Sau "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ", để "Mỹ hóa" cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ một mặt ồ ạt đưa quân viễn chinh vào Việt Nam, mặt khác thúc ép các nước đồng minh như: Ôxtrâylia, Niu Dilân, Thái Lan, Philíppin nhanh chóng "thực hiện" các cam kết với Mỹ, đưa quân vào trực tiếp tham chiến tại Việt Nam.

        Với Cộng hoà Triều Tiên, mặc dù trong chuyến thăm Mỹ tháng 5 năm 1965, Tổng thống Pắc Chung Hy đã cơ bản nhất trí việc triển khai một sư đoàn quân Cộng hoà Triều Tiên vào Việt Nam và bản thân ông cũng đã chuẩn bị cho vấn đề này từ nhiều tháng trước đó, nhưng khi biết Mỹ đang "quá cần" sự tham gia của quân đội các nước đồng minh, Pắc Chung Hy đã không ngần ngại đưa ra các điều kiện "mặc cả" với Mỹ. Ngày 23 tháng 6 năm 1965, trong cuộc họp cấp cao giữa Mỹ và Cộng hoà Triều Tiên, Bộ trưởng Quốc phòng Cộng hoà Triều Tiên Kim Sung Eun đã đưa ra bản đề nghị 10 điểm và yêu cầu Mỹ phải đáp ứng trước khi họ đưa sư đoàn lính chiến tới Việt Nam:

        1- Mỹ phải giữ nguyên số quân hiện có của họ đang đóng tại Cộng hoà Triều Tiên.

        2- Trang bị 100% cho 3 sư đoàn dự bị, 17 sư đoàn lính thường trực và sư đoàn lính thủy đánh bộ Cộng hoà Triều Tiên.

        3- Giữ nguyên mức viện trợ của Mỹ cho Cộng hoà Triều Tiên như trước đây.

        4- Mỹ phải thông báo trước cho phía Cộng hoà Triều Tiên về nhiệm vụ, khu vực đảm trách, nguyên tắc đảm bảo hậu cần cho các đơn vị quân Cộng hoà Triều Tiên khi sang Việt Nam.

        5- Thành lập tổ công tác Hàn - Mỹ để xem xét vấn đề tổ chức các đơn vị quân Cộng hoà Triều Tiên tại Việt Nam.

        6- Mỹ có trách nhiệm phải trang bị các phương tiện thông tin liên lạc, phương tiện đi lại cho các đơn vị quân Cộng hoà Triều Tiên tại Việt Nam cũng như giữa Cộng hoà Triều Tiên với Bộ tư lệnh Cộng hoà Triều Tiên tại Nam Việt Nam.

        7- Cung cấp và chi trả đầy đủ các khoản lương, phụ cấp, tiền ốm đau và tử tuất cho sĩ quan và binh sĩ Cộng hoà Triều Tiên giống như cho sĩ quan và binh sĩ Mỹ tham chiến tại Việt Nam. Mỹ có trách nhiệm phải trang bị đầy đủ vũ khí, trang bị cho lực lượng quân Cộng hoà Triều Tiên tham chiến tại Việt Nam.

        9- Cung cấp toàn bộ phương tiện đi lại để đưa lính Cộng hoà Triều Tiên tới Việt Nam cũng như từ Việt Nam về Cộng hoà Triều Tiên sau khi hết thời gian phục vụ.

        10- Cung cấp cho Cộng hoà Triều Tiên 4 máy bay vận tải C-123 để làm nhiệm vụ vận tải giữa Cộng hoà Triều Tiên và Nam Việt Nam1.

----------------
         1. Larsen S.R. and Collins J.L, Allied Participation in Vietnam, Department of Army, Washington D.C 1975, p. 113-115, 118.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #26 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2016, 04:26:42 am »


        Trước những yêu cầu đó, Mỹ không phải không có những "con át chủ bài" để buộc Cộng hoà Triều Tiên phải nhượng bộ. Ngay sau khi Cộng hoà Triều Tiên đưa ra đề nghị 10 điểm, Mỹ đã có phản ứng ngay lập tức bằng việc đe dọa sẽ rút 2 sư đoàn quân Mỹ với gần 50.000 quân đang làm nhiệm vụ bảo vệ "phên dậu" cho Cộng hoà Triều Tiên để đưa tới Việt Nam, với lời giải thích: "Nếu Mỹ phải gửi quân với quy mô lớn sang Việt Nam thì số quân thường trực của họ hiện nay không đủ, vì vậy việc rút toàn bộ lực lượng quân Mỹ đang đóng tại Cộng hoà Triều Tiên để đưa sang Việt Nam là điều không tránh khỏi"1.

        Tuyên bố của Mỹ ngay sau đó đã có tác dụng. Sau nhiều vòng đàm phán, cuối cùng Cộng hoà Triều Tiên đã chấp thuận các yêu cầu của Mỹ. Tháng 8 năm 1965, hai nước đã ký một hiệp ước, theo đó Mỹ chỉ chấp nhận đáp ứng một số yêu cầu trong đề nghị 10 điểm của Cộng hoà Triều Tiên trước đây:

        1- Mỹ có trách nhiệm trang bị đầy đủ cho số lính Cộng hoà Triều Tiên sang tham chiến ở Việt Nam.

        2- Giúp Cộng hoà Triều Tiên về tài chính để hiện đại hoá 18 sư đoàn quân chính quy trên các lĩnh vực: thông tin liên lạc, pháo binh, giao thông vận tải,...

        3- Mỹ sẽ đảm bảo cung cấp và chi trả đầy đủ các khoản lương, phụ cấp, tiền ốm đau, tử tuất cho sĩ quan và binh sĩ Cộng hoà Triều Tiên như cho sĩ quan và binh sĩ các nước châu Á khác tham chiến tại Việt Nam.

        4- Tăng mức viện trợ quân sự của Mỹ cho Cộng hoà Triều Tiên lên 7 triệu đô la so với năm 1964.

        Sau khi ký Hiệp ước, ngày 19 tháng 8 năm 1965, Nghị viện Cộng hoà Triều Tiên đã thông qua đạo luật cho phép triển khai Sư đoàn "Thủ đô" tới miền Nam Việt Nam (khi đến Việt Nam, sư đoàn này có phiên hiệu là Sư đoàn "Mãnh hổ").

        Sư đoàn "Mãnh hổ" thành lập ngày 20 tháng 6 năm 1949, lúc đầu là Sư đoàn phòng vệ Thủ đô Hán Thành, sau đổi thành Sư đoàn Thủ đô. Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, Sư đoàn đã tham gia nhiều chiến dịch lớn tại các khu vực rừng núi Triều Tiên và được coi là một trong những sư đoàn thiện chiến nhất trong chiến tranh Triều Tiên.

        Khi tới Việt Nam, Sư đoàn "Mãnh hổ" có 18.111 quân (nhiều hơn các sư đoàn khác gần 5.000 quân). Sở chỉ huy đóng tại thung lũng Vân Canh, tỉnh Bình Định, do Thiếu tướng Lee Hyung Hyun làm Tư lệnh và Thiếu tướng Lee Pong Joon làm Phó tư lệnh. Theo thoả thuận giữa Bộ Quốc phòng Cộng hoà Triều Tiên và Bộ tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV), khi tới Nam Việt Nam, Sư đoàn "Mãnh hổ" có nhiệm vụ trấn giữ toàn bộ khu vực phía bắc Vùng II chiến thuật, là vùng mà phía Mỹ coi là địa bàn chiến lược quan trọng. Vùng đất này chạy dài từ biển Đông đến giáp với Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia; nếu làm chủ được khu vực này không những sẽ tạo được thế chia cắt, cô lập chiến trường miền Nam Việt Nam với miền Bắc Việt Nam mà còn làm chủ được trục đường 19, bắt đầu từ Quy Nhơn (Bình Định) qua An Khê lên Plâycu (Gia Lai), kéo dài đến biên giới Campuchia. Con đường này không chỉ đóng vai trò như tuyến vận tải huyết mạch nuôi sống toàn bộ tập đoàn phòng ngự của Mỹ - quân đội Sài Gòn ở bắc Tây Nguyên, mà còn là con đường cơ động chiến lược quan trọng bậc nhất ở trung tâm Đông Dương.

        Sư đoàn "Mãnh hổ" có 2 trung đoàn bộ binh số 1 và 26; 1 trung đoàn kỵ binh thiết giáp; 3 tiểu đoàn pháo 105mm; 1 tiểu đoàn pháo 155mm; 1 tiểu đoàn công binh; 7 đại đội yểm trợ gồm: đại đội quân y, trinh sát, thông tin, quân cảnh, hậu cần, thiết giáp, dự bị, ngoài ra còn có một phi đội không quân.

        Trung đoàn kỵ binh thiết giáp gồm 3 tiểu đoàn (2 tiểu đoàn bộ binh và 1 tiểu đoàn cơ giới), do Đại tá Shin Myung Se làm Trung đoàn trưởng, tới miền Nam Việt Nam ngày 14 tháng 10 năm 1965, đóng quân trong 28 đồn tại khu vực Bình Khê, Tuy Phước, Vân Canh, Quy Nhơn (Bình Định). Hầu hết hạ sĩ quan và binh sĩ trong trung đoàn này đều xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản thành thị, có trình độ văn hoá tiểu học hoặc trung học, tuổi trung bình từ 19 đến 21. Sĩ quan trung cấp cao cấp hầu hết đã phục vụ trong các đơn vị thiết giáp của Nhật trước đây. Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, Trung đoàn kỵ binh thiết giáp đã bị đánh thiệt hại nặng, có 1 tiểu đoàn bỏ chạy sang Bắc Triều Tiên.

-----------------
         1. Larsen S.R. and Collins J.L, Allied Participation in Vietnam, op. cit., p. 113-115, 118.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #27 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2016, 04:27:47 am »


        Trung đoàn bộ binh số 1 gồm 3 tiểu đoàn bộ binh, do Đại tá Kim Zeong Yung làm Trung đoàn trưởng, tới Việt Nam ngày 29 tháng 10 năm 1965, đóng quân tại Núi Bà, Phù Cát (Bình Định). Binh sĩ của trung đoàn này phần lớn là con em nông dân, số ít xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản thành thị. Học lực phần lớn là tiểu học. Tuổi đời từ 20 đến 25. Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, trung đoàn này được mệnh danh là "trung đoàn thép".

        Trung đoàn bộ binh 26 gồm 3 tiểu đoàn bộ binh (tổng quân số là 3.731 người), do Đại tá Park Won Shik làm Trung đoàn trưởng, tới Việt Nam vào ngày 16 tháng 4 năm 1966, đóng quân tại Tuy An, Sông Cầu, Đồng Xuân (bắc Phú Yên). Tuổi đời trung bình của hạ sĩ quan và binh sĩ trong trung đoàn là 24.

        Song song với việc triển khai các đơn vị của sư đoàn, nhằm tăng cường lực lượng cho cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất (1965-1966) của Mỹ - quân đội Sài Gòn, tháng 9 năm 1965, Cộng hoà Triều Tiên quyết định đưa thêm Lữ đoàn thủy quân lục chiến "Rồng xanh" tới Việt Nam.

        Lữ đoàn "Rồng xanh" thành lập ngày 14 tháng 2 năm 1951, đến tháng 7 năm 1953 sáp nhập vào Trung đoàn 2 Sư đoàn lính thủy đánh bộ 1 Cộng hoà Triều Tiên. Khi sang Việt Nam, lữ đoàn có hơn 5.000 quân, gồm 4 tiểu đoàn bộ binh (1, 2, 3 và 5), do Thiếu tướng Lee Bong Chool làm Lữ đoàn trưởng và Đại tá Zeung The Sop làm Tham mưu trưởng. Khác với nhiều đơn vị khác trong quân đội Cộng hoà Triều Tiên, Lữ đoàn "Rồng xanh" có thành phần tổ chức khá đặc biệt, toàn bộ binh sĩ của lữ đoàn đều được điều động từ các đơn vị khác tới trước khi đưa sang Việt Nam; đa số binh sĩ đều theo đạo Tin lành, chỉ có không tới 1 phần 10 theo đạo Phật và các đạo khác. Tại Việt Nam, lữ đoàn này được coi là lực lượng "đặc biệt" trong quân đội Nam Triều Tiên bởi tính thiện chiến, sự tàn ác và hung bạo của nó.

        Tháng 10 năm 1965, toàn bộ các đơn vị của Lữ đoàn "Rồng xanh" đã có mặt tại Cam Ranh. Tháng 12 năm 1965, sau khi phát hiện Trung đoàn 95 Quân khu 5 đang hoạt động tại khu vực Tuy Hoà (Phú Yên), Bộ tư lệnh quân Mỹ tại Vùng II chiến thuật và Bộ tư lệnh lâm thời quân đội Nam Triều Tiên tại Nam Việt Nam quyết định điều Lữ đoàn "Rồng xanh" về khu vực này, nhằm "khống chế" ảnh hưởng, tiến tới bao vây và tiêu diệt toàn bộ Trung đoàn 95. Ngoài mục đích trên, việc Lữ đoàn "Rồng xanh" được điều về Tuy Hoà còn nhằm kiểm soát một vùng đất đai rộng lớn, một vựa lúa trọng yếu của khu vực, hiện đang nằm dưới sự kiểm soát của Quân giải phóng,... Tại Tuy Hoà, lực lượng của Lữ đoàn "Rồng xanh" được triển khai trong 12 đồn bốt; mỗi đồn thường là một đại đội, chỉ có vài đồn biên chế 1 hoặc 2 trung đội.

        Cuối năm 1966, bị thiệt hại nặng trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai càng lâm vào thế bị động lúng túng. Chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của quân đội Mỹ nhằm "bẻ gãy xương sống của Việt cộng" không đạt được hiệu quả, đế quốc Mỹ buộc phải thừa nhận "cuộc chiến tranh ở Việt Nam là lâu dài và khó khăn chưa thể lường hết được"1.

        Với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, đế quốc Mỹ tiếp tục tăng quân vào miền Nam, leo thang đánh phá miền Bắc hòng đạt được mục tiêu chiến lược đã đề ra. Trong cuộc họp ở Hônôlulu cuối tháng 4 năm 1966, giới quân sự hàng đầu của Mỹ vẫn quả quyết rằng, muốn đánh bại quân chủ lực "Việt cộng", quân Mỹ và đồng minh cũng như quân đội Sài Gòn phải làm 2 việc: tập trung lực lượng, phương tiện nhiều hơn nữa đánh phá mạnh mẽ, triệt để cơ quan đầu não của Mặt trận dân tộc giải phóng ở miền Đông Nam Bộ và một số tỉnh trọng điểm ở miền Trung Trung Bộ, Tây Nguyên; đồng thời tiến hành đồng bộ, toàn diện "chương trình bình định mới" ở các vùng nông thôn nhằm "tái thiết hương thôn", thực hiện "cuộc cách mạng kinh tế - xã hội", kiên quyết chống "đói nghèo, bệnh tật, dốt nát". Đó chính là chương trình "chiến tranh trên 2 mặt trận" hay còn gọi là chiến lược "hai gọng kìm" mà Lầu Năm Góc vạch ra và được Bộ chỉ huy Mỹ - quân đội Sài Gòn thực hiện triệt để trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai (1966-1967)

        Để thực hiện mưu đồ trên, bên cạnh việc triển khai ồ ạt các đơn vị quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc còn liên tục thúc ép các nước đồng minh nhanh chóng triển khai thêm lực lượng vào chiến trường này nhằm hỗ trợ cho quân đội Mỹ giành lại thế chủ động trong chiến dịch phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai. Dưới sức ép của Mỹ, tháng 9 năm 1966, Cộng hoà Triều Tiên quyết định đưa thêm Sư đoàn 9 (Sư đoàn "Bạch mã") sang Việt Nam.

----------------
         1. Võ Nguyên Giáp, Dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng và Hồ Chủ tịch. Thi đua lập công quyết tâm đánh giặc, tạp chí Quân đội nhân dân, số tháng 8 năm 1966.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #28 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2016, 04:28:18 am »


        Khi sang Việt Nam Sư đoàn Bạch mã (có khoảng 23.000 quân, kể cả các đơn vị yểm trợ) gồm 3 trung đoàn bộ binh (28, 29 và 30). Trung đoàn 28 đóng quân ở Tuy Hoà (Phú Yên), Trung đoàn 29 đóng quân ở Ninh Hoà (Khánh Hoà), Trung đoàn 30 đóng quân ở Nha Trang (Khánh Hoà). Mưu đồ của Mỹ triển khai toàn bộ lực lượng của Sư đoàn "Bạch mã" tại 3 tỉnh duyên hải nam Vùng II chiến thuật, là nhằm không chỉ để khống chế quốc lộ 1 mà còn kiểm soát được toàn bộ dân cư dọc các tuyến quốc lộ chạy dài từ Tuy Hoà xuống đến Phan Rang, từ Tuy Hoà đến Quy Nhơn và cả khu vực miền núi phía nam tỉnh Bình Định. Ngoài 3 trung đoàn kể trên, Sư đoàn "Bạch mã" còn có 4 tiểu đoàn pháo (30, 51, 52 và 966), 1 tiểu đoàn công binh, 7 đại đội (gồm đại đội thiết giáp, trinh sát, thông tin, quân cảnh, quân y, hậu cần, đại đội dự bị và 1 phi đội không quân). Toàn bộ lực lượng của sư đoàn đóng rải rác trên 50 đồn bốt thuộc 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà.

        Đến cuối năm 1966, tổng số quân Nam Triều Tiên có mặt tại Việt Nam đã lên hơn 45.000 quân, một con số vượt xa số quân của các nước đồng minh khác có mặt trên chiến trường Nam Việt Nam.

        Khi các đơn vị đầu tiên quân đội Nam Triều Tiên vừa tới Nam Việt Nam, Thiếu tướng Chae Myung Shin - Tư lệnh lực lượng quân đội Nam Triều Tiên tại Việt Nam, có sở chỉ huy đóng tại số 12 Trần Quốc Toản (Sài Gòn), đã khẳng định với tướng Oétmolen - Tư lệnh lực lượng quân Mỹ tại Việt Nam, rằng: "Trong thời gian chỉ huy lực lượng quân đội Nam Triều Tiên tại Việt Nam, ông không chỉ có trách nhiệm giành thắng lợi trong cuộc chiến đầy cam go với cộng sản, mà còn có nghĩa vụ phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh mọi mệnh lệnh của cấp trên"1. Với cách nói mập mờ và mang tính nước đôi như vậy, Chae Myung Shin đã khiến Oétmolen ngầm hiểu rằng, Cộng hoà Triều Tiên đồng ý để Mỹ điều hành toàn bộ lực lượng của họ tham chiến tại Việt Nam, không chỉ về mặt tác chiến mà cả hành chính. Ngay sau khi nhận được thông điệp miệng của tướng Chae Myung Shin, ngày 2 tháng 7 năm 1965, trong một điện văn gửi Đô đốc U. G Sáp - Tổng tư lệnh lực lượng quân Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương (CINCPAC), Oétmolen đã trình bày rõ quan điểm của mình về cách thức tổ chức, chỉ huy và kiểm soát các đơn vị quân Nam Triều Tiên sau khi họ tới Việt Nam. Theo Oétmolen, nếu vào cuối năm 1965, tức là trước khi thành lập Bộ chỉ huy lực lượng dã chiến I của Mỹ tại Việt Nam (Field Force I Vietnam - FFVI), Cộng hoà Triều Tiên chỉ mới triển khai một trung đoàn của họ vào Việt Nam, thì MACV có quyền điều hành toàn bộ lực lượng này; còn khi lực lượng Nam Triều Tiên tại Việt Nam đã lên tới cấp sư đoàn, thì quyền chỉ huy các trung đoàn sẽ được giao cho các sư đoàn Nam Triều Tiên, nhưng các sư đoàn này vẫn phải nằm dưới sự điều hành trực tiếp của FFVI. Theo Oétmolen, với cách tổ chức và điều hành như vậy, Mỹ sẽ có toàn quyền điều động các sư đoàn Nam Triều Tiên, hoặc bất kỳ một đơn vị trực thuộc nào, khi chiến sự đòi hỏi, mà không cần phải chờ ý kiến hoặc quyết định của phía Cộng hoà Triều Tiên. Như vậy sẽ đảm bảo được tính chính xác và kịp thời trong chiến đấu.

        Cuối năm 1965, với việc Cộng hoà Triều Tiên liên tiếp đưa 2 đơn vị chiến đấu là Sư đoàn "Mãnh hổ" và Lữ đoàn lính thủy đánh bộ "Rồng xanh" sang Việt Nam, tổng quân số lực lượng Cộng hoà Triều Tiên tại Việt Nam đã lên tới hơn 20.000 quân. Trong hai tháng 9 và 10 năm 1965, tướng Chae Myung Shin và Oétmolen đã tiến hành nhiều cuộc hội đàm với sự tham gia của cả Cao Văn Viên - Tổng tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam cộng hoà. Trong các cuộc hội đàm, các bên chỉ chủ yếu tập trung thảo luận các vấn đề có liên quan đến tình hình chiến sự; cách bố trí lực lượng trên các chiến trường,... Cả tướng Chae Myung Shin và Oétmolen đều không một lần đề cập đến việc "phân chia" quyền chỉ huy lực lượng quân đội Nam Triều Tiên tại Việt Nam. Vì thế cũng không có một thoả thuận thành văn nào được đưa ra. Cuối tháng 10 năm 1965, Hội đồng chính sách viện trợ quân sự "thế giới tự do" (cơ quan hành chính lâm thời quân đội các nước đồng minh Mỹ tham chiến tại Việt Nam) đã đưa ra một bản dự thảo quy chế điều hành chung, trong đó nói rõ tướng Oétmolen sẽ nắm quyền điều hành tác chiến đối với tất cả các lực lượng đồng minh Mỹ tham chiến tại Việt Nam, bao gồm cả lực lượng của Cộng hoà Triều Tiên. Ngày 23 tháng 10 năm 1965, Oétmolen đã nêu quy chế trên với Cao Văn Viên và Chae Myung Shin. Ngay lập tức, tướng Chae Myung Shin tuyên bố, ông không thể ký vào bản dự thảo ấy, với lý do chưa được ủy thác và chưa có ý kiến của Bộ Quốc phòng Cộng hoà Triều Tiên. Mặc dù vậy, ông cam kết, trong khi các bên chưa tìm ra được một quy chế thích hợp, ông sẽ tuân thủ nghiêm ngặt các điều khoản của dự thảo. Trong khi phía Mỹ còn đang lúng túng tìm cách giải quyết, thì ngày 16 tháng 11 năm 1965, Cộng hoà Triều Tiên đưa ra một bản dự thảo quy chế riêng của mình, yêu cầu phía Mỹ phải để cho họ được thành lập "Bộ tư lệnh độc lập quân đội Cộng hoà Triều Tiên tại Việt Nam". Ngay sau đó, dự thảo trên đã bị Oétmolen bác bỏ, với lời nhắc nhở tướng Chae rằng, tất cả các thoả thuận miệng trước đây về việc chỉ huy, điều hành quân đội các nước đồng minh vẫn còn nguyên giá trị.

-----------------
         1. Larsen S.R. and Collins J.L, Allied Participation in Vietnam, op.cit, p. 136.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #29 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2016, 04:29:21 am »


        Các cuộc thảo luận nhằm phân định quyền chỉ huy lực lượng Nam Triều Tiên tham chiến tại Việt Nam còn diễn ra nhiều tuần sau đó. Tuy nhiên, cuối cùng, hai bên cũng đã đi đến một thoả thuận chung mang tính dung hoà hơn. Về nội dung, thoả thuận này không khác nhiều so với thoả thuận miệng của tướng Chae trước đây, nghĩa là FFVI vẫn có quyền chỉ huy và điều hành tác chiến lực lượng quân đội Nam Triều Tiên tại Việt Nam. Có điều, trong những trường hợp cụ thể, phía Nam Triều Tiên có quyền được đưa ra và thực hiện các quyết định riêng của mình. Ngoài ra, tướng Chae còn đề nghị phía Mỹ không nên chuẩn hoá vấn đề trên thành các hiệp định, hiệp ước, bởi theo ông, nếu không như vậy, vô hình chung người ta sẽ hiểu Nam Triều Tiên là "nước chư hầu", còn quân đội của họ chỉ là "đội quân đi đánh thuê" cho Mỹ.

        Thực ra, trước khi buộc phải chấp thuận giao quyền chỉ huy lực lượng Nam Triều Tiên tại Nam Việt Nam cho Mỹ, Cộng hoà Triều Tiên rất muốn thành lập một Bộ tư lệnh độc lập vì những lý do:

        Thứ nhất, với một bộ phận không nhỏ người Nam Triều Tiên, họ coi đây là một cơ hội hiếm có được đưa quân "đi giúp" một nước châu Á khác. Nếu thành công, đó sẽ là một minh chứng về sự cao cả và tinh thần thượng võ của dân tộc Đại Hàn.

        Thứ hai, đối với chính quyền Pắc Chung Hy, việc đưa quân sang tham chiến tại miền Nam Việt Nam không chỉ đơn thuần là việc thực hiện nghĩa vụ của một đồng minh đối với Mỹ, họ còn muốn chứng minh với Mỹ và các nước thế giới tự do rằng, đã đến lúc Nam Triều Tiên đủ sức đưa quân đội ra nước ngoài với tư cách là một nước châu Á đi giúp một nước châu Á khác, chứ không phải là sự phụ thuộc hay a dua theo Mỹ. Một số chính trị gia Nam Triều Tiên còn cho rằng, việc Nam Triều Tiên đưa quân sang tham chiến ở Việt Nam đang là một sự kiện chính trị thu hút sự chú ý của nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, với tư cách của một dân tộc đang trỗi dậy, Nam Triều Tiên phải giành thắng lợi tại Việt Nam. Đó không chỉ là trách nhiệm đối với Mỹ, mà còn là danh dự của cả dân tộc Đại Hàn.

        Lý do cuối cùng khiến Nam Triều Tiên không muốn đặt quân đội của mình dưới sự kiểm soát hoặc điều hành của Mỹ là vì ý thức tự tôn dân tộc. Nam Triều Tiên cho rằng, đã nhiều năm họ phải nhận viện trợ của Mỹ, quân đội của họ cũng được xây dựng và tổ chức theo mô hình của Mỹ. Vì vậy, đây chính là cơ hội để chứng minh tính hiệu quả cũng như sự sáng tạo, những gì mà Nam Triều Tiên nhận được từ Mỹ trong mấy chục năm qua.

        Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, địa bàn Khu 5, dải đất chạy dài từ Thừa Thiên - Huế đến tận Nha Trang (Khánh Hoà) ôm trọn cả hai Vùng chiến thuật I và II của địch. Phần lớn đất đai Khu 5 là rừng núi và cao nguyên. Từ dãy Bạch mã kéo dài đến hết cực Nam Trung Bộ là dãy Trường Sơn Nam. Trường Sơn Nam được ví như "cột sống" của toàn bộ Khu 5. Từ "cột sống" đó hình thành hai sườn rõ rệt. Sườn phía Tây gồm nhiều vùng đồi liên kết với nhau thành các cao nguyên. Các cao nguyên này có diện tích bằng một phần hai Khu 5 và bằng một phần năm diện tích của cả nước, độ cao trung bình so với mực nước biển khoảng 700-800 mét, thấp dần qua biên giới Việt Nam - Campuchia - Lào đến hạ lưu sông Mê Công, liên kết các cao nguyên vùng Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia tạo thành một địa bàn rộng lớn, được ví như mái nhà chung của 3 nước Đông Dương. Do có vị thế chiến lược và địa hình đó nên trong lịch sử, cả thực dân Pháp, đế quốc Mỹ cũng như quân đội Sài Gòn đều cho rằng: chiếm được Tây Nguyên là khống chế được cả miền Nam Việt Nam và Đông Dương.

        Trong khi đó, khu vực đồng bằng ven biển Khu 5 tựa lưng vào Tây Nguyên, có nhiều thành phố, thị xã, sân bay, hải cảng với hệ thống giao thông tương đối phát triển, là nơi tập trung nhân lực và vật lực của các địa phương trên địa bàn Khu 5. Đây là nơi có khả năng khai thác tiềm lực tại chỗ phục vụ cho kháng chiến.

        Đối với địch, vùng đồng bằng ven biển Khu 5 là đầu cầu quan trọng để triển khai phương tiện và bảo đảm hậu cần, kỹ thuật chống phá phong trào cách mạng; là bàn đạp tiến công tiêu diệt các cơ quan đầu não và lực lượng vũ trang ta ở các khu căn cứ. Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã thiết lập tại đây hệ thống căn cứ quân sự và hậu cần đảm bảo không chỉ cho Khu 5 mà còn cho cả chiến trường Đông Dương, trong đó có những căn cứ quân sự liên hợp hải - lục - không quân như Đà Nẵng, Cam Ranh. Những căn cứ quân sự ấy còn là bàn đạp để Hạm đội 7 của Mỹ khống chế vùng biển Đông và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM