Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 01:00:19 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đại thắng mùa xuân  (Đọc 23920 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #10 vào lúc: 24 Tháng Mười, 2016, 11:02:41 pm »

        Lúc này tại Tây Nguyên ta đã có các sư đoàn 320, 10 và 968 là những sư đoàn có rất nhiều kinh nghiệm chiến đấu ở chiến trường rừng núi và Tây Nguyên. Cuối tháng 12 năm 1974, Bộ Tổng tư lệnh quyết định điều thêm Sư đoàn 316 vào Tây Nguyên. Đây là sư đoàn có truyền thống vẻ vang, chiến đấu từ 20 năm nay, từng đi nhiều và đi xa, đánh thắng trong kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ và tay sai, sư đoàn đi làm nhiệm vụ quốc tế trong một thời gian dài. Trước ngày sư đoàn lên đường vào Tây Nguyên, tôi và đồng chí Thiếu tướng Đàm Quang Trung, Tư lệnh Quân khu 4 đến thăm và nói chuyện với sư đoàn lúc đó đang trú quân ở tây Nghệ An.

        Tôi nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ sư đoàn sau khi phổ biến tình hình và quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương: "Có hai câu thơ luôn luôn nung nấu trong lòng mà trước đây tôi không nhớ tên tác giả, đã nói lên mối hận chung và chua xótmà mọi người Việt Nam cần phải thanh toán: "Đất nước 30 năm cầm súng mà vầng trăng còn xẻ làm đôi". Chiến trường, thời cơ, nhiệm vụ, lúc này chính là lúc chúng ta lên đường để cùng toàn dân đưa vầng trăng trở lại ngày rằm trọn vẹn. Kẻ địch mà chúng ta đã gặp có nhiều cái khác hơn kẻ địch các đồng chí đã gặp trước đây: ngoan cố, tinh ma, có nhiều kinh nghiệm hơn, vũ khí, trang bị nhiều hơn, thủ đoạn tác chiến xảo quyệt hơn. Nhưng vẫn là kẻ địch phi nghĩa có truyền thống bại trận, đang gặp khó khăn về mọi mặt, đang nghèo dần cả về tinh thần và vật chất, đang suy yếu cả về thế và lực. Không có lý gì mà Sư đoàn 316 không đánh thắng được bọn nguỵ đang trong cái thế suy yếu chung của chúng và giữa cái thế đang lên của cách mạng miền Nam".

        Cán bộ, chiến sĩ sư đoàn giơ cao tay hô căng lồng ngực: "Quyết thắng, quyết thắng" và hứa: "Đi xa, đi cho đến, đánh cho thắng".

        Theo quyết định của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, bộ phận đại diện của Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh tại Mặt trận Tây Nguyên được thành lập gồm có: tôi và các đồng chí Trung tướng Đinh Đức Thiện, chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, Phó Tổng Tham mưu trưởng, cùng một số cán bộ có nhiều kinh nghiệm của cơ quan Bộ Tổng Tham mưu và các quân chủng, binh chủng.

        Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí Đinh Đức Thiện đã có nhiều kinh nghiệm về tổ chức vận tải bảo đảm cho tiền tuyến, đặc biệt là trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí đã chỉ đạo ngành hậu cần vượt mọi khó khăn, ác liệt, bảo đảm vận chuyển, đáp ứng mọi nhu cầu cho bộ đội đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch ở miền Bắc và chi viện cho các chiến trường miền Nam, đặc biệt là bảo đảm thắng lợi cho Chiến dịch Đường 9 mùa Xuân năm 1971 và Chiến dịch giải phóng Quảng Trị năm 1972. Đồng chí là một cán bộ tích cực cách mạng, không bao giờ bàn lùi, vui tính, xông xáo, dám làm và biết làm ăn lớn, nhưng do tuổi đã ngoài "lục tuần" dễ xúc động, cho nên việc gì không hài lòng thường hay nổi nóng. Chúng tôi biết nhau và hiểu nhau từ ngày ở trong tù của thực dân Pháp, trước Cách mạng Tháng Tám. Tôi vỗ vai đồng chí Đinh Đức Thiện: "Thời cơ tới rồi, Bộ Chính trị đã phân công, làm trận này thắng lợi thì cái thân già này sau có nhắm mắt cũng yên tâm".

        Đồng chí Lê Ngọc Hiền đã cùng chiến đấu với chúng tôi từ hồi mới Tổng khởi nghĩa ở Chiến khu 2 năm 1945 và ở Đại đoàn 320 (Đại đoàn Đồng bằng) đến cuối năm 1953. Đồng chí đã đi nhiều chiến trường đánh Mỹ rồi lại về Bộ Tổng Tham mưu.

        Sau khi đã được hướng dẫn và nhận nhiệm vụ, đồng chí Lê Ngọc Hiền lên đường vào Tây Nguyên trước để nghiên cứu chiến trường và chuẩn bị kế hoạch tác chiến.

        Các đồng chí cán bộ cơ quan Bộ Tổng Tham mưu và các quân chủng, binh chủng là những đồng chí đã cùng đi với tôi trong các chiến dịch năm 1971, năm 1972, là những cán bộ có kinh nghiệm công tác tham mưu binh chủng hợp thành, năng nổ, tháo vát. Được đi chiến dịch lần này, đồng chí nào cũng hớn hở, phấn chấn.

        Đánh giặc, các cán bộ chỉ huy của ta đều theo những nguyên tắc chung. Nhưng mỗi người thường có một cách đánh riêng của mình. Tôi được Đảng cho đi học một lớp quân sự 15 ngày trước Cách mạng Tháng Tám và chỉ sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, tôi mới được đi học tại một học viện quân sự nước ngoài. Nhưng do được Đảng rèn luyện và được trưởng thành trong đấu tranh từ một đảng viên trong chi bộ độc lập thời bí mật, và đã từng chủ động hoạt động cách mạng suốt thời gian đứt liên lạc với Đảng, cho nên quá trình ấy tạo cho tôi tính độc lập và tính táo bạo.

        Đầu năm 1952, làm Tư lệnh Đại đoàn 320, tôi cùng các đồng chí trong Bộ Tư lệnh tổ chức và thực hiện trận tập kích vào Phát Diệm, đưa bộ đội luồn qua các vị trí địch ở vòng ngoài trên một chặng đường dài 20km, bất ngờ đánh thẳng vào thị trấn, tiêu diệt đầu não chỉ huy địch, chiếm giữ thị trấn một ngày rồi mới đưa bộ đội trở ra tiêu diệt các vị trí địch ở vòng ngoài. Anh em gọi đấy là lối đánh "Nhảy dù" hoặc "Hoa sen nở".
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Mười Một, 2016, 09:55:44 am gửi bởi macbupda » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #11 vào lúc: 24 Tháng Mười, 2016, 11:04:53 pm »

        Chúng tôi suy nghĩ nhiều về chiến trường sắp đến: Tây Nguyên, vùng đất nên thơ và kiên cường, bất khuất của tổ quốc trung thành đi theo Đảng, Bác Hồ và cách mạng từ những ngày chống Pháp, chống Mỹ đầu tiên, cống hiến tất cả cho sự thắng lợi của cách mạng. Tây Nguyên, quê hương của những trường ca bất hủ và của những anh hùng N Trang Lơng, Núp, liệt sỹ Vưu. Phải giải phóng Tây Nguyên và trước mắt là Buôn Ma Thuột, thị xã lớn nhất Tây Nguyên. Nhưng đánh Buôn Ma Thuột như thế nào để thắng nhanh nhất, gọn nhất, bất ngờ nhất. Chiến thắng Phước Long cho thấy năm 1975 ta có nhiều khả năng giải phóng thị xã và thành phố. Chắc chắn là các thị xã ở Tây Nguyên khó đánh hơn so với thị xã Phước Long.

        Tây Nguyên hồi đó gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Phú Bổn, Đắk Lắk và Quảng Đức, là một chiến trường rừng núi nối liền với vùng ven hiểm trở. Khi ta chuẩn bị đánh Tây Nguyên thì địch ở đây có một sư đoàn chủ lực, 7 liên đoàn biệt động quân (tương đương 10 trung đoàn) và 4 thiết đoàn xe tăng, thiết giáp. Chúng đã bố trí trong thế phòng ngự hoàn chỉnh. Nhưng do phán đoán sai ý định của ta, cho rằng nếu đánh Tây Nguyên ta sẽ đánh phía bắc, nên chúng tập trung lực lượng giữ lấy Pleiku, Kon Tum; ở nam Tây Nguyên, cụ thể là ở Đắk Lắk, chúng để lực lượng ít hơn. Thị xã Buôn Ma Thuột, tỉnh lỵ Đắk Lắk, với 150.000 dân là một trung tâm chính trị và kinh tế của địch, là nơi đóng sở chỉ huy của Sư đoàn 23. Ở đây địch cũng có sai lầm trong việc đánh giá ta. Chúng cho rằng, năm 1975 ta chưa đủ sức đánh thị xã lớn và thành phố, dù có đánh cũng không giữ được khi chúng phản kích lại. Vì vậy, tuy Buôn Ma Thuột là một vị trí xung yếu, nhưng trước khi ta đánh, địch bố trí lực lượng không mạnh lắm, có nhiều sơ hở, càng vào bên trong thị xã, lực lượng càng mỏng.

        Giải phóng được Buôn Ma Thuột thì đập vỡ được hệ thống phòng ngự của địch ở Tây Nguyên, tạo ra một thế trận hiểm và cơ động có thể làm thay đổi nhanh cục diện chiến trường.

        Khi quyết định về đánh Buôn Ma Thuột đã dứt khoát, tôi vội điện vào Tây Nguyên dặn đồng chí Lê Ngọc Hiền không cần ra Hà Nội để báo cáo nữa mà ở lại nghiên cứu thêm tình hình thị xã Buôn Ma Thuột rồi trở ra, đến Sở chỉ huy của đồng chí Đồng Sĩ Nguyên, Bộ Tư lệnh 559, tức là bộ đội Trường Sơn, gặp tôi trên đường vào Tây Nguyên.

        Tôi đến chào đồng chí Trường Chinh trước khi lên đường. Đồng chí hỏi thăm tình hình bộ đội, công việc chuẩn bị và chúc ra đi mang thắng lợi về.

        Những lời dặn dò công việc chỉ đạo chiến dịch của đồng chí lúc chia tay nhắc tôi quán triệt đầy đủ nội dung những ý kiến sâu sắc mà đồng chí đã phát biểu trong cuộc họp của Bộ Chính trị. Tôi nhớ lại lời khẳng định và dự kiến sáng suốt của đồng chí về chiều hướng phát triển tất yếu của cuộc chiến tranh cách mạng. Đồng chí Trường Chinh nói: "Phải có những đòn tiêu diệt chiến lược lớn như Điện Biên Phủ, và cũng chỉ cần vài ba đòn như vậy, kẻ địch sẽ sụp đổ ngay. Phải nắm chắc quyền chủ động, đánh vào những chỗ buộc địch phải đỡ, khi đỡ thì chúng sẽ rơi vào cạm bẫy của ta".

        Đồng chí Lê Đức Thọ gặp tôi, bắt tay và nói: "Trận đánh lớn này mà ta thắng thì nhất định sẽ tạo ra một thế mới rất lợi cho ta. Cậu chú ý giữ sức khỏe".

        Một ngày cuối tháng 1-1975, tôi đến chào đồng chí Lê Duẩn. Đồng chí nhắc lại tầm quan trọng của trận đánh Buôn Ma Thuột và của cả Tây Nguyên là để tạo ra thời cơ mới, rồi hỏi tôi:

        - Lực lượng đã đủ chưa?

        Tôi đáp:

        - Quân của ta như vậy là được, biết dùng thì tạo ra được ưu thế.

        Đồng chí hỏi lại:

        - Có cần đưa thêm lực lượng vào nữa không?

        Những lần tôi đi chiến dịch mấy năm trước cũng thế, đồng chí Lê Duẩn thường chú ý hỏi việc chuẩn bị lực lượng còn thiếu những gì, cần Trung ương giúp những gì.

        Đồng chí Lê Duẩn dặn thêm:

        - Nên suy nghĩ nhiều và có cách đánh đúng. Chiến trường Tây Nguyên có thể làm ăn to được, đánh thắng có thể dẫn đến khả năng ta dự kiến là trong năm nay giải phóng miền Nam.

        Tôi lần lượt đi thăm và bắt tay tạm biệt các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Song Hào, Hoàng Văn Thái, Lê Quang Đạo trong Quân uỷ Trung ương. Ý đã đồng, tâm đã nhất, chúng tôi không nói nhiều với nhau lúc chia tay, nhưng người đi chiến trường và người ở nhà đều tâm đắc một điều là lần này nhất định phải tạo nên một biến chuyển khác hẳn những chiến dịch trước.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Mười Một, 2016, 09:56:21 am gửi bởi macbupda » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #12 vào lúc: 25 Tháng Mười, 2016, 12:10:26 am »

Chương 4

ĐƯỜNG RA TRẬN

        Chúng tôi vào Mặt trận Tây Nguyên, mang bí danh: "Đoàn A.75".

        Theo quy định, khi giao dịch, thông tin liên lạc và thảo luận với nhau trong chiến dịch này, đồng chí Võ Nguyên Giáp mang bí danh Chiến, còn tôi mang bí danh Tuấn.

        Năm nào cũng vậy, cứ vào những ngày giáp Tết, tôi lại chuẩn bị một ít quà nhỏ và thư chúc mừng năm mới gửi đến các gia đình cơ sở cách mạng đã giúp đỡ tôi trong những năm hoạt động bí mật trước đây. Lần này tôi cũng chuẩn bị sẵn quà và thư chúc Tết như thế để khi tôi lên đường rồi, người nhà gửi đi như thường lệ.

        Tôi ký sẵn các bức điện mừng nhân ngày kỷ niệm thành lập Quân đội Liên Xô và Cộng hoà dân chủ Đức tháng 2, và Quân đội Mông Cổ tháng 3 năm 1975 để đúng ngày gửi đi.

        Sáng ngày 5-2-1975, tức là ngày 25 Tết âm lịch, chúng tôi sang sân bay Gia Lâm để đáp máy bay vào Đồng Hới. Ra tiễn chúng tôi chỉ có các đồng chí Thiếu tướng Phùng Thế Tài, Phó Tổng Tham mưu trưởng và Thiếu tướng Lê Văn Tri, Tư lệnh bộ đội Phòng không - Không quân.

        Đúng 10 giờ rưỡi sáng, chiếc máy bay AN 24 cất cánh.

        Hà Nội rợp hoa chuẩn bị đón xuân. Hà Nội, trái tim của cả nước, nơi phát ra quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, Hà Nội anh hùng và mến yêu hôm nay đẹp vô cùng. Trên máy bay chúng tôi nhớ đến lời dặn của các đồng chí trong Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, nghĩ đến trách nhiệm lớn lao của Đảng giao phó và đến cách đánh sắp tới của ta ở Tây Nguyên như đồng chí Lê Duẩn đã dặn: "Nên suy nghĩ nhiều và có cách đánh đúng".

        Đi vào chiến dịch này, ở đâu cũng thế, từ cán bộ lãnh đạo đến từng chiến sĩ, ai cũng lạc quan và sôi nổi khí thế lập công. Chúng tôi nóng ruột muốn tới chiến trường ngay trong ngày để hoàn chỉnh cách đánh đang ấp ủ và chăm chú theo dõi từng hành động của địch.

        Theo tin tình báo của ta, trong hai ngày 9 và 10-12-1974, trong "Dinh Độc lập", Thiệu họp với bọn tư lệnh các quân đoàn, quân khu nguỵ để phán đoán hoạt động của ta trong năm 1975. Bọn chúng nhận định:

        - Trong năm 1975, ta có thể đánh với quy mô lớn hơn năm 1974 nhưng không như năm 1968 và không bằng năm 1972. Ta chưa có khả năng đánh thị xã lớn hoặc thành phố, dù có đánh cũng không giữ được. Ta chỉ có thể đánh loại thị xã nhỏ và cô lập như Phước Long, Gia Nghĩa.

        Yêu cầu chủ yếu của ta năm 1975 là giành 2 triệu dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và mở rộng vùng giải phóng ở miền núi. Mục đích của ta là giành thắng lợi để thúc ép chúng thi hành Hiệp định Paris về Việt Nam.

        Chúng cho rằng đầu năm 1975, phương hướng tiến công của ta là đánh Quân khu 3, chủ yếu là Tây Ninh, nhằm lấy Tây Ninh làm thủ đô của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Về thời gian tiến công, địch phán đoán ta sẽ đánh trước hoặc sau Tết cho đến tháng 6-1975, tới lúc đó là mùa mưa thì dừng lại nghỉ. Do nhận định về ta như thế, Thiệu ra lệnh cho bọn tướng nguỵ ráo riết đánh ta trước để phá vỡ kế hoạch chuẩn bị của ta. Trần Thiện Khiêm, thủ tướng nguỵ, họp với các trưởng quân khu, trưởng tiểu khu để mở chiến dịch "bình định cấp tốc lập tức", trong 3 tháng, kể từ ngày 1-1-1975, để "ngăn chặn Chiến dịch Đông Xuân của Việt cộng". Do nhận định như vậy, chúng không thay đổi thế bố trí chiến lược mạnh hai đầu (Quân khu 1 và Quân khu 3) và chúng cũng chưa có sự tăng cường lực lượng gì lớn ở Quân khu 2, trong đó có Tây Nguyên.

        Đầu năm 1975, chúng có 1.351.000 quân, trong đó có 495.000 quân chủ lực, 475.000 quân địa phương, 381.000 quân "phòng vệ dân sự" có vũ trang, gồm 13 sư đoàn chủ lực, 18 liên đoàn biệt động quân. Chúng bố trí lực lượng như sau:

        Ở Quân khu 1, chúng để 5 sư đoàn chủ lực (trong đó có 2 sư đoàn tổng dự bị) và 4 liên đoàn biệt động quân, 21 tiểu đoàn và một số đại đội, trung đội pháo gồm 418 khẩu, 5 thiết đoàn và 6 chi đội xe tăng, thiết giáp gồm 449 xe, 1 sư đoàn không quân trong đó có 96 máy bay chiến đấu. Phần lớn lực lượng quân chủ lực địch giữ Huế và Đà Nẵng.

        Ở Quân khu 2, chúng để 2 sư đoàn chủ lực và 7 liên đoàn biệt động quân, 14 tiểu đoàn và một số đại đội, trung đội pháo gồm 382 khẩu, 5 thiết đoàn và 13 chi đội xe tăng, thiết giáp gồm 477 xe, 2 sư đoàn không quân, trong đó có 138 máy bay chiến đấu. Phần lớn quân chủ lực địch rải ra giữ Tây Nguyên, đồng bằng và ven biển.

        Ở Quân khu 3, chúng để 3 sư đoàn chủ lực và 7 liên đoàn biệt động quân, 14 tiểu đoàn và một số đại đội, trung đội pháo gồm 376 khẩu, 7 thiết đoàn và 15 chi đội xe tăng, thiết giáp gồm 655 xe, 2 sư đoàn không quân, trong đó có hơn 250 máy bay chiến đấu. Toàn bộ quân chủ lực địch triển khai theo hình vòng cung từ tây bắc, bắc và đông bắc bảo vệ thành phố Sài Gòn từ xa trên dưới 50km.

        Ở Quân khu 4, chúng để 3 sư đoàn chủ lực, 18 liên đoàn bảo an, 15 tiểu đoàn và 55 đại đội pháo gồm 380 khẩu, 5 thiết đoàn và 17 chi đữi thiết giáp gồm 493 xe, 1 sư đoàn không quân, trong đó có 72 máy bay chiến đấu, 580 tàu, xuồng các loại. Quân chủ lực địch giữ khu vực Cẩn Thơ, Chương Thiện, đường số 4 và tuyến biên giới.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Mười Một, 2016, 09:57:14 am gửi bởi macbupda » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #13 vào lúc: 25 Tháng Mười, 2016, 12:12:11 am »

        Thế địch đã suy yếu, chúng lại phạm sai lầm lớn về chiến lược trong việc đánh giá ta, dẫn tới những kế hoạch bố trí lực lượng sai và chủ trương tác chiến sai, báo hiệu một thất bại lớn đang đến với chúng.

        Máy bay đỗ xuống Đồng Hới, đồng chí Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên cùng một đoàn xe của Bộ Tư lệnh 559 từ Quảng Trị ra, đã chờ đón chúng tôi ở sân bay.

        Chúng tôi lên xe vào Quảng Trị. Đường qua Lệ Thuỷ, Hồ Xá gồ ghề do nhiều năm địch đánh phá dữ dội cho nên xe chạy xóc nhiều, nhưng đây cũng là một trong những đoạn đường kiên cường, anh hùng trên đất nước ta góp phần vào việc chi viện cho miền Nam đánh thắng.

        Tới sông Bến Hải, chúng tôi xuống thuyền gắn máy chạy ngược sông. Trời nắng nhưng mát một cách lạ lùng.

        Xế chiều, chúng tôi đổ bộ lên một bến phía nam sông để đi vào Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh 559, ở phía tây Gio Linh.

        Bộ đội 559, như tên gọi của nó, ra đời tháng 5-1959, thuộc Tổng cục Hậu cần. Bộ đội 559 cũng như ngành Hậu cần của quân đội ta là lịch sử của một quá trình xây dựng, chiến đấu và phát triển, là sự thể hiện tư tưởng cách mạng tiến công, quan điểm bạo lực cách mạng, sự nhìn xa thấy trước để phục vụ chiến đấu. Tất cả những gì mà bộ đội 559 đã làm đều là những kỳ công.

        Đồng chí Trần Đăng Ninh, uỷ viên Trung ương Đảng, một chiến sĩ cách mạng kiên cường đã hai lần vượt khỏi nhà tù của thực dân Pháp, là người có công lớn xây dựng ngành Hậu cần của quân đội ta từ những năm 1950 trở đi trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nếu đồng chí còn sống thì sẽ rất mừng được thấy lực lượng hậu cần hùng mạnh của quân đội ta hôm nay mà ngày trước đồng chí từng mong ước.

        Lúc này hơn 10.000 xe tải lên mặt đường, bao gồm một số xe của các quân khu, các địa phương và của Bộ Giao thông vận tải điều tới tăng cường. Như một người nội trợ đảm đang, ngành Hậu cần vừa phục vụ kế hoạch hàng năm của quân đội, vừa tần tảo, chắt chiu dự trữ lực lượng từng ngày, từng tháng trên toàn chiến trường miền Nam để chờ thời cơ lớn đến, vừa làm nhiệm vụ đối với bộ đội trong nước, vừa làm nghĩa vụ quốc tế đối với các nước anh em. Và một điều hết sức phấn khởi là thấy các chiến sĩ ta đi vào chiến dịch bằng cơ giới, ngoài mặt trận ăn uống no đủ, ngay đến lương khô của ta như loại A72 cũng khá là ngon.

        Cũng từ chiến dịch này, các chiến sĩ ngoài mặt trận đã nhận được một số súng lớn và đạn lớn do công nhân quốc phòng của ta sản xuất trong nước bắt đầu từ năm 1973.

        Đây cũng là bước đầu của cuộc cách mạng kỹ thuật trong ngành công nghiệp quốc phòng.

        Càng đi ra mặt trận, càng thấy sức mạnh to lớn của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hậu phương là một trong những nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Nhân dân anh hùng của hậu phương anh hùng, chịu đựng hy sinh và gian khổ làm tất cả mọi việc, gửi ra mọi thứ cần thiết để phục vụ tiền tuyến, kể cả những người chồng, những người con yêu quý nhất của mình.

        Khi đến Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh 559, chúng tôi đã thấy đồng chí Lê Ngọc Hiền vừa từ Tây Nguyên đi xe hơi ra theo như đã hẹn.

        Trong căn nhà mái tranh, đêm xuống từ lâu, nhưng chúng tôi chưa ngủ được vì những suy nghĩ về chiến dịch sắp đến. Làm thế nào để thực hiện bằng được quyết tâm của Bộ Chính trị về giải phồng miền Nam. Giành thắng lợi ở Tây Nguyên, đặc biệt đánh Buôn Ma Thuột bằng cách nào? đánh như thế nào để địch phải sụp đổ nhanh chóng?

        Tôi nhớ đến kiểu đánh truyền thống của dân tộc ta, kiểu đánh độc đáo của quân đội ta hơn 30 năm qua. Kiểu đánh quen thuộc của tôi cũng lại trở lại trong óc. Bất ngờ và bất ngờ đối với địch, đánh như sét giáng, đập nát ngay đầu não chỉ huy của chúng. Nhưng thực tế có cho phép không?

        Sáng hôm sau, chúng tôi dậy sớm làm việc. Đồng chí Lê Ngọc Hiền báo cáo tình hình Mặt trận Tây Nguyên và dự kiến kế hoạch tác chiến. Các đồng chí Đinh Đức Thiện và Đồng Sĩ Nguyên báo cáo tình hình chuẩn bị của Hậu cẩn, cho biết đã đưa vào mặt trận đầy đủ mọi thứ phục vụ chiến đấu, đề nghị đã đánh là đánh lớn, cần bao nhiêu gạo, đạn, xăng và xe để chở quân, cũng có đủ. Điều đó làm chúng tôi rất yên tâm. Đối với Hậu cần, đánh to, đánh thắng lớn, thắng nhanh thì càng giảm bớt mức tiếp tế mà lại còn lấy được những phương tiện vật chất, kỹ thuật của địch để bổ sung cho ta.

        Ngay hôm sau, đồng chí Đinh Đức Thiện quay lại Quảng Bình đôn đốc việc dồn kho đạn ở đây ra mặt trận bổ sung cho Tây Nguyên, chỉ đạo việc lấy loại đạn nào trước, loại đạn nào sau, còn chúng tôi tiếp tục đi vào phía trong. Biển số xe chúng tôi được sơn lại, thêm chữ TS và con số 50, có nghĩa là xe được quyền ưu tiên số 1 của bộ đội Trường Sơn. Đồng chí Đại tá Phan Khắc Hy, Phó Tư lệnh 559, được phân công đi cùng với đoàn, phòng những trắc trở dọc đường để bảo đảm cho chúng tôi sớm vào tới Sở chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên.

        Trên đường chiến lược, các chiến sĩ ta tấp nập làm đường, chữa đường. Các cô thanh niên xung phong vừa lao động vừa hát, vừa cười nói ríu rít, vẫy theo xe:

        - Thủ trưởng ơi, gần Tết rồi mà chúng em chưa nhận được thư nhà.

        Chúng tôi tặng các cô mấy trăm chiếc cặp tóc để chia nhau làm quà.

        Từng đoàn xe lớn sau khi chở đạn vào mặt trận quay ra Bắc, chạy rầm rập trên đường. Anh em lái xe với tay ra ngoài buồng lái:

        - Thủ trưởng ơi, 30 Tết rồi mà anh em không còn một điếu thuốc hút.

        Chúng tôi tặng anh em lái xe một số thuốc lá để làm quà Tết.

        Giữa đường, chúng tôi gặp Sư đoàn 316 đang hành quân. Lần đầu tiên toàn Sư đoàn hành quân bằng cơ giới ra mặt trận trên 500 chiếc xe lớn. Sư đoàn được lệnh từ khi lên đường đến lúc nổ súng, tuyệt đối không được mở máy thông tin liên lạc để giữ bí mật. Ta bắt được điện của địch đang gọi nhau kêu mất hút Sư đoàn 316, không biết Sư đoàn này đang di chuyển đi đâu. Chiến sĩ ta ngồi trên xe sung sức, khỏe mạnh, tươi vui, vẫy mũ, vẫy tay, reo hát trong tiếng gầm của xe tăng, xe bọc thép, xe kéo pháo tầm xa, kéo pháo cao xạ, xe tải các loại nối đuôi nhau thành dãy dài vô tận như một dòng thác lớn chảy ra tiền tuyến.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Mười Một, 2016, 09:58:09 am gửi bởi macbupda » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #14 vào lúc: 25 Tháng Mười, 2016, 12:20:15 am »

Chương 5

CÀI THẾ

        Tối 30 Tết, chúng tôi nghỉ lại ở Sở chỉ huy Sư đoàn Công binh 470 đóng tại I-a Đrăng. Vài ngày trước, máy bay A.37 của địch ném bom gần chỗ này làm cháy hai xe của ta. Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn bộ vẫn đón Tết đàng hoàng. Khắp nơi trong cơ quan dùng đèn điện có chụp phòng không. Sáng Mồng một Tết, chúng tôi vui Tết và chúc nhau Năm mới lập chiến công mới. Vào tới Tây Nguyên, chúng tôi lập Sở chỉ huy ở phía tây Buôn Ma Thuột, gần Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh Mặt trận. Chỗ chúng tôi ở là rừng xanh, cạnh một rừng khoọc, lá khô rụng, phủ mặt đất như một thảm vàng. Mỗi lần có người đi giẫm lên, lá dưới chân như tấm bánh đa giòn vỡ làm cả một khoảng rừng xào xạc. Ở đây chỉ một tàn lửa nhỏ có thể gây cháy rừng. Vất vả nhất là các chiến sĩ thông tin.

        Mỗi lần cháy, dây thông tin đứt, anh em đi chữa về người đen nhẻm như vừa ở hầm than ra. Lại còn nạn voi đi từng đàn 40-50 con kéo đứt các mạng dây thông tin mắc đã khá cao vắt qua các cây.

        Trong cuộc họp với các đồng chí phụ trách Mặt trận, thay mặt Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, theo quyết định, tôi tuyên bố việc thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên gồm các đồng chí:

        Trung tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh.

        Đại tá Nguyễn Hiệp (Đặng Vũ Hiệp), Chính uỷ.

        Thiếu tướng Vũ Lăng và các đại tá Phan Hàm, Nguyễn Lang, Nguyễn Năng, Phó tư lệnh.

        Đại tá Phí Triệu Hàm, Phó Chính uỷ.

        Chúng tôi điểm lại tình hình mặt trận. Cho đến lúc này, quân chủ lực địch ở Tây Nguyên vẫn gồm có 1 sư đoàn và 7 liên đoàn biệt động quân (tương đương 10 trung đoàn), 4 thiết đoàn, 8 tiểu đoàn pháo và 1 sư đoàn không quân, tập trung giữ bắc Tây Nguyên là chính. Ở bắc Tây Nguyên, chúng để 8 trung đoàn bộ binh, 4 thiết đoàn, còn ở nam Tây Nguyên chúng chỉ để có 2 trung đoàn bộ binh.

        Chúng bố trí như thế vì tên Thiếu tướng nguỵ Phạm Văn Phú, chỉ huy Quân khu 2 và Quân đoàn 2, nhận định như sau: nhất định Pleiku sẽ bị đánh vì nó là địa đầu quan trọng nhất của Tây Nguyên, ở đó có Sở chỉ huy Quân đoàn, là bàn đạp thuận tiện để đánh xuống Bình Định, hơn nữa lại gần đường hành lang tiếp tế, gần các căn cứ phía sau của Quân giải phóng. Tên Phú thường bị ám ảnh bởi câu: "Ai làm chủ Tây Nguyên sẽ làm chủ cả miền Nam" và hắn cho rằng đòn quyết định của Quân giải phóng ở Tây Nguyên phải là Pleiku - Kon Tum. Mất Pleiku - Kon Tum thì Buôn Ma Thuột cũng mất.

        Tuy địch ở Tây Nguyên phải căng ra phòng giữ nhiều mục tiêu, lực lượng cơ động của chúng trong quân khu có hạn, nhưng chúng vẫn có thể huy động một lực lượng nhất định để đối phó với ta bằng cách điều thêm ở Quân khu 1 và Quân khu 3 đến, nếu ở những chiến trường đó ta không thực hiện được đánh phối hợp chặt chẽ với Tây Nguyên hoặc những điều kiện tăng viện của địch để giữ Tây Nguyên vẫn còn. Chúng rất tin vào khả năng cơ động bằng đường không.

        Lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm các đơn vị chủ lực của Tây Nguyên, của Bộ Tổng tư lệnh, và của Quân khu 5, được chuẩn bị tương đối tốt, có quyết tâm cao và khí thế sôi nổi, được bổ sung quân số tương đối đầy đủ: Nhiều đơn vị quen thuộc chiến trường và có nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Hệ thống đường sá phục vụ việc cơ động trong chiến dịch đã làm xong, bộ đội được tiếp tế về vật chất tương đối tốt, sở chỉ huy các cấp đã lập xong và ổn định. So sánh với địch trên toàn bộ khu vực chiến dịch thì về bộ binh ta không hơn địch nhiều, nhưng, do ta tập trung phần lớn lực lượng trên khu vực chủ yếu của chiến dịch, cho nên trên khu vực này ta đã có được ưu thế so với địch. Về bộ binh, ta 5,5, địch chỉ có l; về xe tăng, xe bọc thép, ta 1,2, địch có 1; về pháo lớn, ta 2,1, địch 1. Tuy nhiên, bộ đội ta vẫn còn một số nhược điểm như trình độ tác chiến tập trung chưa đều, còn ít kinh nghiệm đánh thành phố và tác chiến hợp đồng binh chủng quy mô lớn cũng còn mới đối với một vài binh đoàn.

        Khi chúng tôi bàn ở Bộ Tư lệnh Mặt trận, mọi người nhanh chóng thống nhất ý kiến về nhiệm vụ và mục tiêu chủ yéu của chiến dịch, nhưng về cách đánh thì mất nhiều thời giờ thảo luận hơn, cuối cùng nhất trí và có những sự phát triển mới. Trong cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968, ta chủ yếu sử dụng lực lượng tinh nhuệ đánh vào tất cả các thành phố và thị xã trong điều kiện so sánh lực lượng quân sự chúng ta còn kém hơn địch, do đó ta không giữ trọn được thành phố, thị xã nào. Năm 1972, ta tiến công trong một tháng tiêụ diệt Sư đoàn 3 nguỵ, giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị đúng vào ngày 1 tháng 5.

        Sau đó, vào mùa mưa, các chiến trường của ta trên toàn miền Nam giảm hoạt động, địch tập trung các sư đoàn dù, thuỷ quân lục chiến và một số đơn vị khác phản kích với sự chi viện của không quân và hải quân Mỹ để chiếm lại Quảng Trị.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Mười Một, 2016, 09:59:20 am gửi bởi macbupda » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #15 vào lúc: 25 Tháng Mười, 2016, 12:21:32 am »


        Sau những đợt đánh bại liên tiếp các cuộc phản kích của địch và qua 86 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành cổ và thị xã, cuối cùng ta chỉ giữ được phía bắc sông Thạch Hãn. Địch chiếm lại quận Hải Lăng, một phần quận Triệu Phong, Thành cổ và thị xã đổ nát: Lần này ta có rút kinh nghiệm những chiến dịch trước, nhưng chủ yếu là xuất phát từ nhiệm vụ, yêu cầu chiến lược, đặc điểm tình hình ta và điều kiện chiến trường cụ thể. Do đó, cách đánh trong Chiến dịch Tây Nguyên là:

        Một mặt, phải sử dụng lực lượng tương đối lớn, cỡ trung đoàn và sư đoàn để cắt các đường giao thông số 19, số 14, số 21, tạo ra thế chia cắt địch, về chiến lược tách rời Tây Nguyên với đồng bằng ven biển và về chiến dịch cô lập Buôn Ma Thuột với Pleiku và Pleiku với Kon Tum. Đồng thời tích cực hoạt động nghi binh giam chân địch, thu hút sự chú ý và lực lượng của chúng về phía bắc Tây Nguyên, tạo điều kiện cho ta có thể giữ bí mật bất ngờ ở phía nam cho đến khi nổ súng đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột.

        Mặt khác và là mặt chủ yếu, thực hiện trận then chốt mở đầu chiến dịch đánh chiếm Buôn Ma Thuột, bằng cách tổ chức lực lượng đột kích binh chủng hợp thành tương đối mạnh cỡ trung đoàn, không để sẵn ở vị trí xuất phát tiến công mà tập kết từ xa vận động đến, bỏ qua các mục tiêu của địch bảo vệ vòng ngoài, bất ngờ thọc sâu vào bên trong thị xã, phối hợp với các đơn vị đặc công và bộ binh đã bí mật bố trí sẵn từ trước, nhanh chóng tiêu diệt ngay các mục tiêu chỉ huy đầu não và vị trí xung yếu, đánh chiếm vững chắc các bàn đạp bên trong xong, mới từ trong thị xã đánh ra ngoài tiêu diệt những cứ điểm cô lập đã mất chỉ huy, đang hoảng hốt. Trong quá trình đó, nhanh chóng hình thành ngay một lực lượng dự bị binh chủng hợp thành rất mạnh sẵn sàng đánh bại các cuộc phản kích của địch hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột.

        Riêng kế hoạch đánh thẳng vào thị xã Buôn Ma Thuột, ngay từ đầu chiến dịch không thực hiện được vì khi chúng tôi vào đến mặt trận, các đồng chí tại chỗ đã bố trí lực lượng mạnh từ trước ở quanh Đức Lập tới Đắc Soong rồi, nhằm tiêu diệt địch và giải phóng đoạn đường số 14, mở thông hành lang chỉến lược vào Nam Bộ. Điều động quân trở lại vừa mất thời giờ vừa gây thêm nhiều khó khăn, nhất là về giữ bí mật. Cho nên phải quyết định cứ đánh Đức Lập trước rồi đánh tiếp Buôn Ma Thuột ngay ngày hôm sau, khi đã cô lập Buôn Ma Thuột và triển khai lực lượng cài thế bao vây chặt quanh thị xã này.

        Chúng tôi tiếp tục nghiên cứu kỹ hơn tình hình thị xã Buôn Ma Thuột. Một cán bộ dẫn đoàn trinh sát đột nhập thị xã Buôn Ma Thuột về báo cáo: "Thị xã này to lắm, to gần như thành phố Hải Phòng". Chúng tôi biết Buôn Ma Thuột không to như Hải Phòng, nhưng là thị xã lớn, bao gồm cả ngoại vi rộng, có nhiều nhà cao, ban đêm đèn nê-ông sáng trưng cho nên anh em đi trinh sát lại càng thấy nó lớn. Một số cơ sở cách mạng trong thị xã được mời ra báo cáo tình hình. Đồng chí Bùi San (Đặng Trần Thi), uỷ viên thường vụ Khu uỷ Khu 5, và đồng chí Huỳnh Văn Mẫn (Cần), Bí thư tỉnh uỷ Đắk Lắk, cũng đến Sở chỉ huy chúng tôi cho, biết tình hình chính trị và phong trào của địa phương, tình hình các cơ sở của ta trong thị xã. Khi gặp đồng chí Võ Chí Công ở Hội nghị Quân uỷ Trung ương ngoài Hà Nội, chúng tôi đã đề nghị Khu 5 cho người đi chuẩn bị trước nắm tình hình để vào Tây Nguyên cùng gặp nhau làm việc cho nhanh. Ta lại vừa bắt được một thám báo của Trung đoàn nguỵ 45, qua khai thác cũng biết thêm được một số tình hình. Trong suốt thời gian chuẩn bị, ta bám sát, nắm vững tình hình đóng quân và chuyển quân của địch từng giờ một. Theo dõi điện đài của địch, chúng tôi bìết bọn chỉ huy của chúng ra lệnh cho trinh sát phải tìm bằng được Sư đoàn 10 của ta. Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh phải giữ kín hơn nữa lực lượng của ta; cán bộ, trinh sát viên có lệnh mới được đi và tiếp tục nghi binh để địch cho rằng Sư đoàn 10 vẫn còn đóng ở phía bắc Tây Nguyên.

        Suốt mấy ngày liền, địch bắn đại bác quanh khu vực Buôn Ma Thuột yểm trợ cho các toán thám báo, biệt kích hoạt động sâu về phía ta. Máy bay địch ném bom xuống các chốt phòng thủ của ta ở bắc Kon Tum. Máy bay trinh sát địch hàng ngày bay trên Đức Cơ và đông bắc Kon Tum. Chúng lại điều thêm quân tới Pleiku.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #16 vào lúc: 25 Tháng Mười, 2016, 12:22:42 am »


        Tối ngày 25-2-1975, trong một cánh rừng của Đắk Lắk, giữa tiếng đại bác địch bắn cầm canh, chúng tôi và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên họp thông qua phương án đánh chiếm Buôn Ma Thuột gồm phương án đánh địch có tăng cường thêm lực lượng phòng ngự và phương án đánh địch như hiện nay. Tôi thay mặt Bộ Tổng tư lệnh phê chuẩn và ký tên lên bản đồ quyết tâm ghi nhiệm vụ, lực lượng tham gia và các đường tiến quân của ta vào Buôn Ma Thuột, đồng chí Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh, và đồng chí Nguyễn Hiệp, Chính uỷ, ký bên cạnh.

        Chúng tôi bắt tay nhau, chúc thắng lợi. Tôi phát biểu ý kiến sau khi ký:

        - Đánh địch bằng cách và vào lúc mà địch không thể nào nghĩ tới, hết sức bất ngờ là nguy hiểm vô cùng cho chúng. Ta phải bằng mọi biện pháp, mọi hình thức, tập trung suy nghĩ ra sức giữ bí mật, bất ngờ để tranh thủ đánh theo phương án địch chưa có tăng cường thêm lực lượng. Nếu địch đã tăng thêm được lực lượng và đề phòng rồi thì ta sẽ đánh theo phương án thứ hai. Như vậy, có thể có khó khăn hơn nhưng nhất định cũng phải thắng.

        Cho đến nay, địch vẫn chưa nghĩ đến việc ta có thể tổ chức tiến công bằng lực lượng quy mô lớn và cũng chưa biết vào thời gian nào. Phía Buôn Ma Thuột này địch chưa biết rõ lực lượng ta, trừ trường hợp ta di chuyển bị lộ. Trong những ngày tới phải tiếp tục làm cho địch vẫn yên trí hướng tiến công chính của ta là Kon Tum, Pleiku. Vấn đề thời cơ là ở chỗ này. Phải đẩy mạnh hoạt động sắp tới ở Kon Tum và Pleiku để củng cố thêm sai lầm của địch.

        Bây giờ có mấy vấn đề đặt ra:

        - Một là, các hình thức đánh vào thị xã lớn và thành phố thế nào? Thời kỳ cuối của chiến tranh cách mạng, trong điều kiện ta đã mạnh hơn địch, nhất định phải thực hiện đánh tiêu diệt lớn và giải phóng thị xã, thành phố, không có con đường nào khác. Vì vậy, cách đánh vào Buôn Ma Thuột, nói về ưu thế thì ta cũng mạnh hơn địch. Ta có gần 3 sư đoàn, địch chỉ có một trung đoàn chủ lực của Sư đoàn 23 và 3 liên đoàn bảo an, cho nên địch yếu, cô lập. Nhưng địch ở trong thị xã rộng, kiến trúc rất phức tạp, có tổ chức phòng ngự sẵn. Đánh vào thị xã lớn, dùng lực lượng lớn hiệp đồng binh chủng cũng lại là mới đối với ta.

        Đó là những điều cần chú ý.

        Tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột, ta lấy lực lượng mạnh gấp nhiều lần hơn địch, tổ chức các đội đột kích binh chủng hợp thành mạnh kết hợp với các tiểu đoàn đặc công và bộ binh bí mật triển khai trước, đánh thẳng ngay vào trung tâm thị xã, chiếm hai sân bay, nhanh chóng diệt đầu não chỉ huy của địch rồi mới phát triển trở ra tiêu diệt địch bên ngoài thị xã. Cách đánh này có hai vấn đề khó: một là tổ chức chiến đấu hợp đồng và chỉ huy các cánh thống nhất thời gian và hành động theo kế hoạch, vượt sông, vượt qua được các chốt phòng ngự của địch từ xa đến sát thị xã. Có một điểm nữa là phải giữ được bí mật, làm cho địch bị bất ngờ đến lúc ta nổ súng. Thực hiện được tốt hai vấn đề trên thì địch sẽ bị đánh ngã rất nhanh, không phải từ 7 đến 10 ngày như các đồng chí dự kiến lúc đầu.

        So sánh lực lượng ở đây cho phép ta không những tiêu diệt được địch, chiếm giữ được thị xã mà còn có lực lượng dự bị mạnh tiêu diệt các đơn vị quân địch tới phản kích, giữ vững thắng lợi và phát triển tiến công, vì cả Tây Nguyên đã bị cô lập với toàn chiến trường miền Nam, chứ không nêng ở Buôn Ma Thuột. Đấy là chưa nói sự phối hợp hoạt động trên các chiến trường khác của ta với Tây Nguyên càng hạn chế khả năng của địch điều động lực lượng lớn tăng viện cho chiến trường Tây Nguyên.

        Cần nói thêm là, trong các trận chiến đấu, tốt nhất là phá được cơ quan chỉ huy, bắt được chỉ huy đầu sỏ của địch thì giải quyết trận đánh nhanh hơn. Dĩ nhiên, việc đó là khó, vì chỉ huy đầu não của địch bao giờ cũng ở trong sâu và được bảo vệ chắc chắn. Chúng ta đã thảo luận kỹ và nhất trí cách đánh mới, táo bạo, bất ngờ trên cơ sở phân tích tình hình một cách khoa học này. Cũng cần phải thấy trận Buôn Ma Thuột là trận then chốt mở đầu chiến dịch, nhanh chóng đánh ngã địch, tiêu diệt nó, giải phóng và giữ vững thị xã, đánh bại quân địch phản kích và phát triển là những mặt rất gắn bó với nhau không phải riêng cho Buôn Ma Thuột mà là cho cả Chiến dịch Tây Nguyên. Giữ được bất ngờ về mục tiêu, về thời gian, về lực lượng, về cách đánh, cô lập được thị xã rồi lại có sức mạnh hơn hẳn địch mà địch không phát hiện được thì càng bảo đảm cho trận đánh ta tổn thất ít hơn, thắng lợi lại nhanh hơn. Thời gian mùa khô của ta rất quan trọng, không được để phí một ngày, một giờ, phải tranh thủ thời gian để liên tục tiến công, liên tục giành thắng lợi. Tóm lại, đây là cách đánh của ta nhằm tiết kiệm thời gian, nhanh chóng tiêu diệt địch và giải phóng thị xã lớn như Buôn Ma Thuột, tạo ra một biến động trên chiến trường, một cách đánh rất sáng tạo, thể hiện tư tưởng và tình thần tích cực tiến công của quân đội cách mạng. Nó lâ kết quả của quá trình điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng, xem xét mọi vấn đề một cách công phu và khoa học để đi đến một quyết tâm chính xác và thể hiện một nghệ thuật chiến dịch phát triển cao. Thực hiện được quyết tâm nói trên thì ta càng có thêm kinh nghiệm để tiếp tục giải phóng các thị xã khác ở Tây Nguyên như Phú Bổn, Gia Nghĩa, Pleiku, Kon Tum.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #17 vào lúc: 25 Tháng Mười, 2016, 12:23:23 am »


        Hai là, có cách đánh đúng rồi bây giờ phải tổ chức các trận chiến đấu: phải tổ chức cụ thể, chặt chẽ từ trung đoàn, tiểu đoàn đến đơn vị thấp nhất, tổ chức cụ thể cho từng cánh, từng mũi, từng binh chủng, nhất là tổ chức các đơn vị cơ giới đột kích thọc sâu và tổ chức hiệp đồng đánh trong thị xã. Có quyết tâm cao, có tư tưởng mạnh dạn nhưng tổ chức hiệp đồng chiến đấu kém, không chặt chẽ, phân công không rõ ràng thì khi đánh có thể không thắng, dây dưa, bị tiêu hao.

        Ba là, thực hiện các chính sách: thị xã Buôn Ma Thuột là trung tâm chính trị, kinh tế, dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên, có đồng bào người Thượng, đồng bào Thiên chúa giáo, Tin lành, Phật giáo, lại có những nhà tư sản, các chủ đồn điền, các ngoại kiều sống dưới chủ nghĩa thực dân mới mấy chục năm, cho nên rất phức tạp. Bộ đội vào thị xã phải có thái độ, tác phong đúng, phải chấp hành nghiêm các chính sách và kỷ luật đề ra, giúp đơ cấp uỷ địa phương xây dựng chính quyền cách mạng ở cơ sở, tranh thủ lòng dân và mau chóng ổn định đời sống nhân dân sau khi giải phóng.

        Bôn là, phải tổ chức quân quản sau khi giải phóng. Có công việc, có cơ quan phải có người đứng đầu, công việc quân quản sẽ rất nhiều, lại mới mẻ, sẽ bàn chuyên vấn đề này với đồng chí Bùi San và Tỉnh uỷ Đắk Lắk, nhưng vấn đề chủ yếu là có tổ chức, có người phụ trách, có quân đội tham gia thì sẽ làm được. Ở đây đồng chí Thượng tá Y Blốc là người dân tộc, vốn có uy tín trong nhân dân, được bà con địa phương yêu mến, kính trọng. Chúng tôi trao đổi ý kiến với Bộ Tư lệnh Khu 5 đề nghị với Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, nếu giải phóng xong thị xã sẽ xin thăng cấp đồng chí Y Blốc lên đại tá và cử làm Chủ tịch Uỷ ban quân quản Buôn Ma Thuột.

        Năm là, thị xã Buôn Ma Thuột là hậu cứ của Sư đoàn 23, có đủ hậu cứ các trung đoàn, có hệ thống kho lớn, ngoài ra có nhiều xí nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp của tư sản. Phải bảo vệ tốt và đưa các cơ sở hoạt động trở lại.

        Tổ chức việc này rất phức tạp. Cái gì là tài sản của công phải thu, tài sản của nhân dân không được đụng tới, tài sản của tư sản phải làm theo đúng chính sách. Đồng chí Nguyễn Năng, Phó Tư lệnh, phụ trách về hậu cần, phải giúp địa phương làm việc này. Xe cộ, phương tiện, trang bị vũ khí, phải thu thập. Lương thực, thực phẩm cái gì dùng được cho quân đội, phải giữ và bảo quản tốt.

        Sáu là cần phải vận dụng kinh nghiệm của Phước Long, sau khi giải phóng có thể sử dụng ngay tù binh bắt được nhất là lính các binh chủng như lái xe hơi, xe tăng, xe bọc thép, pháo binh, xe công trình sửa đường. Thế ta mạnh, ta thắng, ta làm được. Tóm lại, chiến lợi phẩm, tù binh phải hết sức chú ý sử dụng ngay cho chiến đấu, tất nhiên phải cảnh giác, có giám sát.

        Vấn đề cuối cùng tôi muốn nói với các đồng chí là thời gian để chúng ta bắt đầu đánh Buôn Ma Thuột không còn nhiều: nếu kéo dài công việc chuẩn bị có thể sẽ bị lộ. Phải đánh cho kịp thời gian đã dự kiến, bởi vì các chiến trường khác đều lấy thời gian của ta làm chuẩn để hiệp đồng.

        Cần thấy rằng nếu địch phải đối phó trên toàn mặt trận miền Nam là điều sẽ rất khó cho chúng. Buôn Ma Thuột là thị xã quan trọng nhất ở Tây Nguyên, nhưng các nơi khác cũng quan trọng đối với địch vì gần Sài Gòn, gần Đà Nắng hơn. Cho nên, một khi đã bị đánh đồng loạt ở nhiều chiến trường, địch bắt buộc phải nhìn chung, phải xem xét hướng tiến công chiến lược chính của ta là ở đâu. Do đó, chúng chưa tung ngay lực lượng tổng dự bị ra. Trước mắt, đìch sẽ đối phó bằng lực lượng của quân đoàn, mà lực lượng của Quân đoàn 2 thì không nhiều: các đường bộ đến Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột đã bị cắt, có đổ bộ bằng đường không cũng hạn chế và càng dễ bị tiêu diệt.

        Vì vậy, công việc của chúng ta rất khẩn trương và phải hết sức giữ cho được bí mật. Các đồng chí trên mặt trận phải xuống tận nơi giúp các đơn vị, nhất là Sư đoàn 316, anh em mới vào, chiến trường chưa quen, đánh sớm quá không được, nhưng nếu không khẩn trương chuẩn bị, thời gian kéo dài thì không được.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #18 vào lúc: 25 Tháng Mười, 2016, 12:24:59 am »


        Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh nhận định rằng đánh Buôn Ma Thuột thì sẽ làm rung động mạnh toàn bộ thế địch. Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên cùng với thắng lợi toàn chiến trường có thể tạo nên một chuyển biến lớn đẩy địch vào thế có đột biến khá lớn. Không có con đường nào khác, địch dùng chiến tranh phản cách mạng, ta phải dùng chiến tranh cách mạng. Địch tiếp tục chiến tranh thì càng suy yếu đi, ta tiến hành chiến tranh cách mạng như thế này thì sẽ càng đánh càng mạnh.

        Tôi nghĩ rằng các đồng chí còn rất nhiều công việc. Những ý kiến bàn với nhau như thế này nhất trí rồi, kết luận rồi, trở thành nghị quyết rồi thì hết sức cộng tác với nhau để thực hiện nhiệm vụ cho tốt. Tức là làm sao tiêu diệt được địch, giải phóng được thị xã Buôn Ma Thuột, phát triển tiến công để giải phóng Tây Nguyên, giải phóng toàn miền Nam yêu quý của chúng ta.

        Trong Bộ Tư lệnh Mặt trận cần phân công có đồng chí chuyên lo việc chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột, có đồng chí chuyên lo đôn đốc, giúp đỡ chỉ đạo các đơn vị triển khai lực lượng gài thế chia cắt, bao vây chiến dịch theo đúng kế hoạch.

        Hôm nay, họp tương đối đông đủ, có đại diện các sư đoàn, các binh chủng, các cơ quan, tôi xin thay mặt Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh phê chuẩn quyết tâm và Phương án tác chiến của Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Bằng mọi nỗ lực và mưu trí của mình, chúng ta phải làm nhiều việc cho đến khi những quả đạn đại bác tầm xa của ta nổ trên đầu địch ở thị xã Buôn Ma Thuột mà ta vẫn giữ được bất ngờ, đánh nhanh, giải quyết nhanh. Bằng mọi biện pháp và hình thức cần làm cho các cấp uỷ Đảng, tất cả cán bộ và chiến sĩ thấy hết ý nghĩa quan trọng của trận đánh này, nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu, hiểu và làm đúng cách đánh ta đã bàn, thì nhất định sẽ giành được thắng lợi giòn giã".

        Địch vẫn chú ý phòng thủ bắc Tây Nguyên nhiều hơn.

        Ta lại tăng cường hoạt động nghi binh: huy động nhân dân vùng giải phóng ở Kon Tum và Pleiku rầm rập kéo đi làm đường, chữa đường, vận tải, bộ đội kết hợp với địa phương tổ chức nhiều cuộc míttình hoan nghênh bộ đội về giải phóng Pleiku, Kon Tum.

        Ngày 1 tháng 3, Sư đoàn 968 diệt hai đồn trên đường số 19, phía tây Pleiku, áp sát vào quận Thanh An. Địch lại càng khẳng định ta chuẩn bị địa bàn để đánh Pleiku.

        Chúng vội điều Trung đoàn 45 từ Thuần Mẫn (ngã ba đường số 14 đi Phú Bổn) lên Thanh An ngày 3 tháng 3.

        Thấy địch đã "mắc câu", tôi nhắc đồng chí Hoàng Minh Thảo chỉ thị cho Sư đoàn 968 đánh mạnh hơn nữa, tăng thêm đạn lớn cho sư đoàn bắn vào sân bay Cù Hanh và dặn đồng chí Thanh Sơn, Sư đoàn trưởng, là phải thực hiện "đánh một, la mười".

        Ngày 4 tháng 3, Trung đoàn 95 và Sư đoàn 3 của Quân khu 5 tiêu diệt một loạt vị trí và cắt đứt đường số 19 trên hai đoạn ở phía đông và ở phía tây An Khê. Địch điều 2 trung đoàn của Sư đoàn 22 từ Bình Định lên giải toả đông An Khê và lữ kỵ binh 2 từ Pleiku xuống giải toả tây An Khê. Phạm Văn Phú càng cố sống cố chết tăng cường phòng thủ bắc Tây Nguyên, chủ yếu là Pleiku. Hắn tung các liên đoàn biệt động quân 4 và 6 thọc ra phía tây bắc Kon Tum và tây bắc Pleiku để tìm Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 là hai sư đoàn đã từng giáng cho địch những đòn đau trong những năm từ 1972 đến 1974. Pháo binh và máy bay địch tập trung đánh vào bất cứ chỗ nào chúng nghi ta trú quân hoặc đặt trận địa pháo.

        Trong khi đó Sư đoàn 320 vẫn nằm im ở phía tây đường số 14 chỉ cách đường 5 km, đoạn từ cầu I-a Leo đến Chư Xê và ngay ngày 3 tháng 3, sư đoàn đã cho Tiểu đoàn 9 vượt đường số 14 vòng sang phía đông quận ly Thuần Mẫn, sẵn sàng khi có lệnh sẽ ra chốt trên đường từ Thuần Mẫn đi Cheo Reo, không cho địch từ Phú Bổn lên tăng cường cho đường số 14 hoặc từ Thuần Mẫn tháo chạy về Cheo Reo. Phải nói rằng hành động của Tiểu đoàn này rất tích cực, khôn khéo và kín đáo, tách ra hoạt động độc lập xa trung đoàn nhưng vẫn kéo dây điện thoại bí mật chui qua đường số 14 để giữ vững liên lạc với trung đoàn ở cách xa hơn 20 km. Và chính Tiểu đoàn 9 sau này đã là đơn vị đầu tiên của Sư đoàn 320 ra chặn đội hình địch ở phía đông Phú Bổn khi chúng tháo chạy từ Pleiku về Phú Yên theo đường số 7.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #19 vào lúc: 25 Tháng Mười, 2016, 12:28:39 am »


        Còn Sư đoàn 10 thì đang bí mật dồn binh lực, hoả lực vào sát Đức Lập và Đắc Soong ở phía tây nam Buôn Ma Thuột, khẩn trương chuẩn bị mọi mặt để nổ súng đúng ngày giờ theo kế hoạch.

        Ngày 5 tháng 3, Trung đoàn 25 ra cắt đứt đường số 21 trên đoạn phía đông Chư Cúc, diệt một đoàn xe hơn 80 chiếc.

        Thế là đến ngày 5 tháng 3, địch ở Tây Nguyên đã bị cô lập với đồng bằng. Nhưng giữa nam Tây Nguyên và bắc Tây Nguyên địch vẫn đi lại được với nhau, vì ta chưa chủ trương cắt đường số 14.

        Hàng ngày khoảng 60-80 xe quân sự và dân sự của địch vẫn đi lại bình thường.

        Ở đây cần nói rõ một điều: Vì sao ta không cắt đường số 14 cùng một lúc với cắt các đường số 19 và số 21? Trong kế hoạch cài thế, ngoài việc chia cắt chiến lược thì chia cắt chiến dịch có nhiệm vụ chốt chặn đường số 14 để cắt rời Buôn Ma Thuột với Pleiku. Nhưng nên thực hiện vào lúc nào? Nếu cắt đường số 14 sớm thì sẽ có thể bị lộ ý định đánh Buôn Ma Thuột. Và muốn cắt đường số 14 trên hai đoạn phía bắc và phía nam quận ly Thuần Mẫn thì phải đánh chiếm quận lỵ này. Mà đã đánh chiếm thì địch sẽ biết ta có một sư đoàn đứng ở bắc Buôn Ma Thuột. Trong trường hợp đó, địch sẽ tìm cách đưa thêm lực lượng về tăng cường Buôn Ma Thuột và giải toả đường bằng dùng máy bay lên thẳng đổ bộ hoặc đánh thông đường số 14.

        Cuộc chiến đấu ở đây có thể sẽ sớm "cộm lên", yếu tố bí mật trước khi đánh Buôn Ma Thuột sẽ không còn.

        Ta chủ trương bắt đầu đánh Buôn Ma Thuột thì đồng thời đánh quận lỵ Thuần Mẫn và cắt đường số 14. Nhưng mặt khác lại phải sẵn sàng một lực lượng lớn để trong khi ta chưa cắt đường mà địch đã phát hiện ý định ta đánh Buôn Ma Thuột, tăng cường lực lượng cỡ trung đoàn trở lên từ Pleiku theo đường số 14 xuống, thì lập tức thực hành một trận vận động phục kích tiêu diệt lực lượng này, đồng thời chốt luôn đường số 14. Do có ý định đó, ta đã bố trí ở khu vực này Sư đoàn 320, một sư đoàn quen đánh vận động và có nhiều kinh nghiệm cắt và chốt giữ đường.

        Nhưng thực hiện được đúng ý định này không đơn giản, luôn luôn phải theo dõi tình hình, suy nghĩ căng thẳng, nhất là người chỉ huy trực tiếp ở đây là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320. Lúc này trên đường xe cộ của địch vẫn lên xuống bình thường. Trong chiến đấu không phải lúc nào ta cũng nắm chắc được ý định và hành động của địch. Hơn nữa, kẻ địch cũng xảo quyệt và mạnh, chúng còn sử dụng được sức mạnh không quân của chúng. Cho nên thời cơ nào hạ lệnh cho Sư đoàn 320 ra đánh địch và cắt đường là phải cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng, nhạy bén lắm.

         Một tình huống xảy ra: trưa ngày 5 tháng 3, Sư đoàn 320 dùng một tiểu đoàn diệt một đoàn xe quân sự 14 chiếc và thu 2 khẩu pháo 105 milimét trên đường số 14, đoạn bắc Thuần Mẫn đi Buôn Ma Thuột, thu toàn bộ vũ khí, bắt tù binh, trong đó có vợ chồng viên trung uý pháo binh, và báo cáo lên Mặt trận: hai hôm nay địch tăng thêm một tiểu đoàn của Trung đoàn 45 về Thuần Mẫn, thường xuyên lùng sục phía tây đường số 14 để phát hiện ta. Ta vẫn tránh không nổ súng và vẫn giữ được bí mật. Hàng ngày cường độ vận chuyển trên đường số 14 của địch tăng lên. Chủ trương đánh trận hôm nay là vì phán đoán địch đưa dần Trung đoàn 45 về tăng cường cho Buôn Ma Thuột. Đề nghị cho Sư đoàn ra chiếm lĩnh trận địa chốt chặn trên đường số 14 đánh Thuần Mẫn và diệt luôn cả một tiểu đoàn của Trung đoàn 45 hiện đang tăng cừờng ở đó.

        Đồng chí Vũ Lăng báo cáo với tôi tình hình đó và xin chỉ thị. Tôi thông cảm sự lo lắng về trách nhiệm của Sư đoàn 320 và cũng thông cảm sự căng thẳng của một đơn vị lớn buộc phải im lặng để chờ thời cơ phục vụ cho lợi ích chung của toàn Mặt trận, giấu mình tránh những loạt pháo địch bắn thăm dò, những tên thám báo và những đơn vị nhỏ của địch đổ xuống gần khu vực bố trí của bộ đội bằng máy bay lên thẳng hoặc đi bộ. Chúng vừa lùng sục vừa lo sợ.

        Nhưng điểm lại tình hình hoạt động mấy ngày gần đây của địch thì thấy chúng đối phó dè dặt, chưa có ý đồ rõ ràng. Chúng vẫn tập trung sự chú ý vào bắc Tây Nguyên và lo giải toả đường số 19, chưa thay đổi nhận định cũ. Ta vẫn giữ được bí mật, cần tiếp tục giữ bí mật nữa, đánh lừa địch thêm để tranh thủ, khẩn trương chuẩn bị cho trận then chốt mở đầu.

        Sau khi trao đổi ý kiến thêm với đồng chí Lê Ngọc Hiền, tôi chỉ thị cho Mặt trận: "Sư đoàn 320 tiếp tục im lặng, tránh nổ súng với bọn thám báo lùng sục, không có lệnh không được đánh trên đường số 14, giữ vững quyết tâm đã xác định". Đồng thời tôi lệnh cho Mặt trận cử cán bộ xuống hỏi cung ngay tên Trung uý pháo binh nguỵ vừa bị bắt.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM