PHỤ LỤC
PHONG TRÀO KHÁNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN NAM KỲ
Từ 1859 đến 1885
Phong trào kháng Pháp của nhân dân Nam Kỳ từ 1859 đến 1885 đã diễn biến qua 3 giai đoạn:
I. Giai đoạn 1859-1860Ở Bình Dương đã có hơn 5.000 nông dân sung vào những đoàn nghĩa binh của cựu tri huyện Trần Thiện Chánh và cựu xuất đội Lê Huy chỉ huy. Những đoàn nghĩa binh này đã phối hợp đắc lực với quân của đề đốc Trần Tri chống Pháp. Một sự kiện chiến đấu nổi bật của nghĩa binh lúc bấy giờ là cuộc tấn công vào căn cứ chùa Chợ Rẫy (đêm mồng 3 rạng ngày mồng 4 tháng 7 năm 1860), một vị trí trọng yếu trên tuyến phòng ngự của địch từ Mai Sơn đến Trường Thi. Nghĩa binh đã đánh phá suốt đêm làm cho quân Pháp bị nhiều tổn thất. Tên quan ba Bác-bê bị nghĩa binh phục kích giết chết ở Trường Thi.
Đây có thể coi là giai đoạn mở đầu cuộc chiến đấu của nghĩa binh mới chỉ dấy lên chung quanh đất Sài Gòn. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ mạnh mẽ khi giặc Pháp tiến chiếm Gia Định.
II. Giai đoạn 1861-1867Trong giai đoạn này, cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất mạnh mẽ nhất là của Trương Định (1-1861 đến 20-8-1864); ngoài ra còn có nhiều cuộc khởi nghĩa khác.
1. Cuộc khởi nghĩa của Đỗ Trình Thoại (Gò Công).Đỗ Trình Thoại người làng Tân Long, huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định, đậu cử nhân năm 1843, làm tri huyện. Tháng 6 năm 1861, ông mộ binh đánh Pháp ở vùng Gò Công. Sau khi Mỹ Tho thất thủ, ngày 22 tháng 6 năm 1861, ông lãnh đạo hơn 1.000 nghĩa binh tiến đánh Gò Công, một trong ba căn cứ của giặc ở vùng Tiền Giang và Vàm Cỏ. Cuộc tiến công bị thất bại, Đỗ Trình Thoại bị tử trận. Toàn quân còn lại đã gia nhập vào nghĩa quân Trương Định.
2. Cuộc khởi nghĩa của Phan Văn Đạt và Trịnh Quang Nghi ở vùng Biện Kiều, Biên Hòa.Phan Văn Đạt, tự là Minh Phủ, người thôn Bình Thành, huyện Tân Thịnh, đỗ cử nhân đời Tự Đức, nhưng không ra làm quan. Khi quân triều đình thất bại rút về Biên Hòa, ông cùng Trịnh Quang Nghi mưu tính việc chiêu binh chống Pháp. Nghĩa quân của hai ông đóng ở thôn Bình Thành và Ô Khê, phía nam Biện Kiều. Hai ông chưa kịp tổ chức cuộc tấn công thì ngày 16 tháng 7 năm 1861, giặc Pháp biết tin mang quân đến đánh úp. Nghĩa quân do hai ông chỉ huy đã chiến đấu vô cùng dũng cảm. Phan Văn Đạt tử trận, Trịnh Quang Nghi rút về An Giang, sau này liên kết chiến đấu với Trương Định.
3. Cuộc khởi nghĩa của Phủ Cậu ở vùng Mỹ Tho.Phủ Cậu là người mắc bệnh phong, bán thân bất toại, nhưng do lòng yêu nước nồng nàn, nên ông đã dấy binh chống Pháp vào giữa năm 1861. Ông là người chỉ huy cầm quân rất nghiêm chỉnh, được quần chúng kính phục đặt tên là "Hùm Xám”. Trong lúc đánh Bà Rịa, do lực lượng yếu hơn, ông bị giặc bắt ở Cai Lậy đem về giết tại Mỹ Tho. Nghĩa quân của ông đã về gia nhập với nghĩa quân Trương Định.
4. Cuộc khởi nghĩa của Lưu Tấn Thiện, Lê Quang Quyền đầu năm 1861; khởi nghĩa của Lê Cao Dũng và Hồ Huân Nghiệp năm 1862.Đầu năm 1861, khi Trương Định mới xuống lập căn cứ ở Tân Hòa (Gò Công) tri huyện Lưu Tấn Thiện và Lê Quang Quyền chiêu mộ được hơn 1.000 nghĩa binh đến hợp tác với Trương Định đánh Pháp.
Năm 1862, cùng với Hồ Huân Nghiệp, Lê Cao Dũng dấy binh chống Pháp ở Bình Dương, bị giặc bắt, ông đập đầu vào tường tự tử.
Hồ Huân Nghiệp, người làng Yên Định thuộc Bình Dương, tỉnh Định Tường. Ông đã dấy binh cùng với Lê Cao Dũng. Sau khi Lê Cao Dũng chết, ông đến hợp tác với Trương Định. Trương Định cử Hồ Huân Nghiệp làm tri phủ Tân Bình, điều động binh lương tiếp tế cho nghĩa quân. Ngày 17 tháng 4 năm 1864, ông bị giặc Pháp bắt và sau đó thì bị chúng xử tử.
5. Cuộc khởi nghĩa của Quản Là ở vùng Cần Giuộc.Năm 1861, Quản Là lãnh đạo nghĩa quân ở vùng Cần Giuộc, không chế hoạt động của địch ở vùng phía bắc sông Vàm Cỏ, làm cho địch không ra khỏi Chợ Lớn. Có lúc Quản Là đã tấn công vào Gò Công, phối hợp với nghĩa quân Trương Định rất mạnh mẽ.
6. Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Lịch (tức Nguyễn Trung Trực) ở Nhật Tảo.Nguyễn Trung Trực chính tên là Nguyễn Văn Lịch, người Tân An, nhà nghèo, làm ruộng và chài lưới. Khi giặc Pháp đánh vào Nam Kỳ, ông mộ binh chống giặc được nhiều người tin theo. Chiến công đầu tiên, nổi tiếng là trận đánh tàu "Hy vọng" của Pháp đậu trên sông Nhật Tảo hồi cuối năm 1861. Do đó mới có câu "Hỏa hồng Nhật Tảo kinh thiên địa".
Sau trận này, Nguyễn Trung Trực được triều đình Huế phong chức thành thủ úy, trấn nhậm vùng Hà Tiên. Từ đó, ông đã liên lạc với nghĩa quân Trương Định tổ chức đánh Pháp ở các nơi: Thủ Thừa, Thuộc Nhiêu, Bến Lức, Tây Ninh; có lúc đánh đến tận Long Thành, Phước Lý, Tân Uyên, Biên Hòa. Cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Trung Trực lãnh đạo kéo dài sang giai đoạn III.
7. Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Huân (tức thủ khoa Huân) ở vùng Mỹ Quý, Tam Bình, Rạch Gầm.Thủ khoa Huân người Tĩnh Giang, phủ Kiến Hưng, tỉnh Định Tường, đỗ giải nguyên khoa Nhâm Tý (1852), làm giáo thụ Kiến Hưng, khởi nghĩa ở vùng Mỹ Quý, Tam Bình, Rạch Gầm hồi cuối năm 1862. Ông đã làm cho địch mất ăn mất ngủ ở Mỹ Tho. Tháng 6 năm 1863, sau khi tổ chức đánh Mỹ Tho thất bại, ông chạy về Châu Đốc, bị giặc bắt. Năm 1864, ông bị giặc đem đày ở đảo Rê-uy-ni-ông.
8. Cuộc khởi nghĩa của Thiên Hộ Dương ở Đồng Tháp Mười.Khi nghe Trương Định về lập căn cứ Tân Hòa (Gò Công) Võ Duy Dương đã dấy binh khởi nghĩa ở vùng Gò Công, Tân An, hợp tác với Trương Định trong những năm 1862-1864. Sau khi Trương Định mất, Thiên Hộ Dương (tức Võ Duy Dương) trở về lập căn cứ ở Đồng Tháp Mười.
Lúc đầu địch chưa dám tấn công vào Đồng Tháp Mười. Ngày 22 tháng 7 năm 1865, Thiên Hộ Dương chính thức đem quân đánh phá vùng Mỹ Trà (Sa Đéc). Giặc được tin, đem quân chặn đánh. Ông lại chuyển sang tấn công Cái Bè, Mỹ Quý, đánh tan quân Pháp đóng giữ vùng này. Tháng 3 năm 1866, nghĩa quân ra chiếm Cái Nứa.
Tháng 4 năm 1866, giặc Pháp tổ chức một cuộc tấn công đại quy mô vào Đồng Tháp Mười. Hai bên đánh nhau kịch liệt, nghĩa quân bị thiệt hại nặng. Tuy vậy, Thiên Hộ Dương vẫn còn tiếp tục hoạt động. Ít lâu sau, khi ông chết vì bệnh thì nghĩa quân của ông cũng tan rã.
Ngoài ra còn có các cuộc khởi nghĩa của đốc binh Kiều, Nguyễn Thành Ý, Phan Trung, Trà Quý Bình, Đỗ Quang, Âu Dương Lâu, Phan Văn Trị... Những sĩ phu yêu nước này đã từng liên kết chặt chẽ với Trương Định.
Sau khi Trương Định mất, Trương Quyền kế tục sự nghiệp của cha (1864-1867).
Tóm lại, giai đoạn 1861-1867 là giai đoạn lịch sử mà quân dân Nam Kỳ đã liên tiếp tiến công vào quân giặc ở khắp nơi, khiến giặc Pháp phải kêu lên:
"Người Pháp bị bao vây trong một cái lưới âm mưu, trong đó các tầng lớp nhân dân đều tham gia chống lại ta"