Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:02:29 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn  (Đọc 39412 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #120 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 11:57:43 am »


Bốn là, chọn thời gian và không gian thích hợp:

Trong các hoạt động quân sự, Nguyễn Huệ tỏ ra là một nhà quân sự thiên tài biết chọn thời gian và không gian thuận lợi nhất để đánh địch. Năm 1784, theo yêu cầu của Nguyễn Phúc Ánh, vua Xiêm là Chất Tri cho tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương mang 50.000 quân và 300 chiến thuyền sang Gia Định giúp Phúc Ánh. Quân Xiêm đánh chiếm Rạch Giá, Ba Thác, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc. Phò mã Tây Sơn là Trương Văn Đa mang quân đón đánh, bị quân Xiêm đánh cho đại bại. Được tin quân Xiêm vào xâm lược Gia Định, Nguyễn Huệ từ Quy Nhơn lại mang quân vào Nam. Huệ biết rằng phải làm cho quân Xiêm lộ rõ bộ mặt xâm lược của chúng, khiến cho nhân dân chán ghét chúng, thì mới có thể tiêu diệt chúng được. Vì vậy, Huệ không đánh quân Xiêm, mà chỉ vừa đánh vừa lùi. Quân Xiêm thấy chúng đánh đâu thắng đấy, sinh ra kiêu ngạo. Chúng ỷ thế cậy đông đi đến đâu cướp bóc của nhân dân đến đấy. Chúng gây nhiều sự tàn ác làm cho nhân dân đều oán giận chúng, và chỉ chờ mong quân Tây Sơn đến để tiêu diệt chúng. Khi nhân dân chán ghét và căm thù quân Xiêm, Nguyễn Huệ mới nhử chúng vào Rạch Gầm rồi thả phục binh ra tiêu diệt chúng. Chỉ một trận Rạch Gầm, năm vạn quân Xiêm và 300 chiến thuyền bị quân Tây Sơn phá sạch. Quân Xiêm vẻn vẹn chỉ còn lại vài nghìn tên nhịn đói nhịn khát theo đường rừng chạy trốn về nước. Cuối năm Mậu Thân (1788), quân Thanh tiến vào Việt Nam xâm lược. Các cựu thần nhà Lê và nhiều nho sĩ chạy theo giặc, chỉ đường cho giặc đánh quân Tây Sơn. Trước tình hình này Ngô Thì Nhậm chủ trương phải rút lui về giữ dãy Tam Điệp chờ Nguyễn Huệ ra sẽ đối phó với quân Thanh. Tướng Phan Văn Lân khinh suất, nhất định đòi mang quân ra chặn đánh quân Thanh. Một buổi tối, Văn Lân đem mấy nghìn quân tinh nhuệ vượt sông Nguyệt Đức định sang bên kia sông đánh quân Thanh. Kết quả mấy nghìn quân của Văn Lân đều bị quân Thanh tiêu diệt, Văn Lân chỉ còn một người một ngựa chạy trốn về Thăng Long. Khi Văn Lân về Thăng Long, bọn Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm một mặt cho người phi ngựa về Phú Xuân cáo cấp với Nguyễn Huệ, một mặt ra lệnh cho toàn bộ quân đội rút lui về dãy Tam Điệp. Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788), đại quân Tây Sơn do vua Quang Trung chỉ huy đến dãy Tam Điệp. Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân phủ phục ở vệ đường xin chịu tội. Vua Quang Trung bảo bọn Sở và Lân: "Các ngươi theo ta làm đến chủ soái. Ta đem mười một trấn ủy cho các ngươi, cho các ngươi tự tiện hành động. Thấy giặc đến các ngươi chưa đánh trận nào đã chạy trốn. Tội các ngươi thật đáng chết. Các ngươi chỉ giỏi nghề võ, gặp giặc thì đánh khỏe. Còn tìm cơ chế thắng thì không phải ngón sở trường. Cho nên trước khi về Nam ta đã để Ngô Thì Nhậm ở lại làm việc với các ngươi, vả lại Bắc Hà mới yên, lòng ngươi chưa theo phục. Thành Thăng Long bốn mặt đều là chiến trường, không có chỗ nào hiểm trở có thể giữ vững được. Các ngươi đóng quân ở đấy, ngoài thì giặc Thanh xâm lấn, trong thì người Bắc làm nội ứng, các ngươi xoay xở làm sao cho được. Các ngươi đem toàn quân tạm tránh mũi nhọn của giặc để trong thì khích lệ lòng căm tức của quân sĩ, ngoài thì làm tăng lòng kiêu của giặc. Mới nghe ta đã đoán là kế của Ngô Thì Ngậm, đến khi hỏi Văn Tuyết thì quả nhiên là đúng". Khi nói những câu trên, vua Quang Trung tỏ ra đã thấy trước cuối năm Mậu Thân chưa phải là lúc đánh quân Thanh, và Thăng Long cũng không phải là nơi có thể dựa vào để chống đỡ các cuộc tấn công của quân Thanh. Tại sao trước cuối năm Mậu Thân chưa phải là lúc đánh quân Thanh? Chúng ta đếu biết rằng âm mưu của quân Thanh là xâm lược nước Việt Nam, biến nước Việt Nam thành quận huyện của nước Đại Thanh, nhưng quân Thanh lại xảo quyệt tuyên bố rằng chúng kéo vào Việt Nam là để đánh bọn "phản nghịch Tây Sơn" trả lại nước cho Lê Chiêu Thống. Cựu thần nhà Lê và nhiều nho sĩ đã mắc mưu quân Thanh và làm tay sai cho quân Thanh. Những "người Bắc làm nội ứng" mà Nguyễn Huệ nói với Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân chính là cựu thần nhà Lê và nho sĩ. Hồi đầu thế kỷ XV, bọn người "làm nội ứng" ấy là bọn quý tộc và quan lại nhà Trần, bọn này vì quyền lợi ích kỷ đã làm tay sai cho quân Minh đánh lại quân đội của Hồ Quý Ly. Hồi cuối năm Mậu Thân (1788), khi quân Thanh sang xâm lược, một số cựu thần nhà Lê đã mộ quân "dấy nghĩa" đánh lại quân đội Tây Sơn như trường hợp Hoàng Phùng Nghĩa ở Nam Định. Những kẻ như Hoàng Phùng Nghĩa này sẵn sàng chỉ vạch cho quân Thanh chỗ đồn trú của quân Tây Sơn, hay chỗ mai phục của quân Tây Sơn. Tình hình lại nguy hiểm hơn cho quân Tây Sơn khi một phần quân dân bị cám dỗ, phỉnh phờ, lúc đầu cũng theo các cận thần kia chống lại quân đội Tây Sơn. Ở Lạng Sơn, tướng Tây Sơn là Phan Khải Đức sở dĩ phải hàng quân Thanh ngay từ ngày đầu chủ yếu là vì binh lính địa phương đã bỏ trốn đi quá nửa khi thấy quân Thanh tiến vào đất Việt Nam. Từ Lạng Sơn, Nguyễn Văn Diễm vội mang quân chạy về xuôi, vì Diễm thấy nhiều người mắc mưu tuyên truyền của giặc và đã làm tay sai cho giặc. Trong tình hình như thế mà mang quân đánh quân Thanh là tự mua lấy cái chết cho mình. Quân Tây Sơn hành quân ra sao, đóng ở đâu, mai phục ở đâu, sẽ có người báo cho quân Thanh biết hết; quân Thanh sẽ biến mưu của quân Tây Sơn thành mưu của chúng, như vậy quân Tây Sơn sẽ bị tiêu diệt dễ dàng. Muốn đánh quân Thanh phải chờ cho đến ngày chúng tự phơi bộ mặt xâm lược của chúng trước nhân dân Việt Nam. Ngày đó chính là ngày quân Thanh đã vào Thăng Long, đã làm chủ Thăng Long, đã công nhiên đi cướp bóc, hà hiếp nhân dân Việt Nam. Ngày đó cũng là ngày Lê Chiêu Thống đã lộ mặt nạ bán nước "cõng rắn cắn gà nhà" bị quân Thanh khinh bỉ và bị nhân dân căm giận. Chỉ ngày đó tiến quân ra Thăng Long đánh quân Thanh mới giữ được bí mật. Đứng về mặt chính trị mà nói, "giữ được bí mật" đó là được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân. Chỉ khi được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân mới giữ được các cuộc hành quân, và mới biết rõ được tình hình quân địch. Đến Phú Xuyên sở dĩ quân Tây Sơn bắt được toàn bộ quân do thám của Tôn Sĩ Nghị chính là vì quân Tây Sơn được nhân dân ủng hộ. Chính nghĩa ở về phía quân Tây Sơn làm cho quân Tây Sơn giữ được bí mật các cuộc hành quân, biết được tình hình quân Thanh mà trái lại quân Thanh không biết tình hình quân Tây Sơn. Và chính nghĩa của quân Tây Sơn chỉ phát huy tác dụng khi quân Thanh đã chiếm đóng Thăng Long. Nếu đánh quân Thanh ngay khi chúng mới chiếm đóng Thăng Long thì về chủ quan cũng như về khách quan, quân Tây Sơn chưa đủ điều kiện chín muồi. Về chủ quan, quân Tây Sơn còn phải lấy thêm quân ở Nghệ An mới đủ lực lượng đương đầu thắng lợi với quân Thanh. Về khách quan nhân dân Việt Nam đã căm giận quân Thanh và vua tôi bọn Lê Chiêu Thống, nhưng chưa căm giận đến cao độ, chưa nhận thấy là không đi với quân Tây Sơn thì không những mất nước mà nhà cũng không còn. Nửa cuối tháng Chạp năm Mậu Thân có thể nói là thời gian nhân dân ở Thăng Long và xung quanh Thăng Long khổ sở bởi quân Thanh nhất. Thời gian này là thời gian quân Thanh chuẩn bị ăn Tết Nguyên đán. Chúng cần có nhiều rượu, nhiều gạo, nhiều gà vịt, nhiều lợn bò để ăn tết. Chúng đã bắt nhân dân phải nộp cho chúng những thứ ấy, hay chúng sai vua tôi nhà Lê bắt nhân dân phải cung đốn cho chúng những thứ ấy. Nhân dân bị cướp đoạt hết lương thực để nuôi quân Thanh, đã bị dồn đến bên bờ vực thẳm, họ chỉ còn có một lối thoát là đi với quân Tây Sơn, ủng hộ quân Tây Sơn đánh đuổi quân Thanh cướp nước và bọn Lê Chiêu Thống bán nước mà thôi. Hành động cướp nước của quân Thanh đã làm cho nhiều cựu thần nhà Lê mở mắt ra. Những người này đã thấy rõ quân Thanh chỉ là bọn cướp nước không hơn không kém. Thời gian thuận lợi nhất để đánh quân Thanh là thời gian từ ngày 30 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788) đến ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789). Lúc này nhân dân đã căm giận quân Thanh và bọn Lê Chiêu Thống đến cực độ. Lúc này cũng là lúc quân Tây Sơn đã chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng chiến đấu. Lúc này còn là lúc quân Thanh đang say sưa ăn tết để ngoài khai hạ mới xuất quân đánh quân Tây Sơn, để đến sau ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu mới đánh quân Thanh là bỏ mất thời cơ thuận lợi nhất. Vì đến sau ngày 7 tháng Giêng không phải là lúc quân Tây Sơn tấn công quân Thanh nữa mà chính là quân Thanh đi tìm quân Tây Sơn để đánh. Thế chủ động của quân Tây Sơn nếu không bị mất đi, thì ít nhất cũng bị giằng co. Những đòn bất ngờ sẽ khó thực hiện, thậm chí là không thực hiện được. Chiến tranh giữa quân Tây Sơn và quân Thanh sẽ kéo dài. Các cựu thần nhà Lê sẽ có đủ thì giờ tổ chức "nghĩa binh" ở các địa phương. Thủy quân nhà Thanh từ Phúc Kiến, Quảng Đông sẽ tiến đánh Thuận Hoá, Quảng Nam. Quân đội của vua Quang Trung sẽ bị kẹp vào giữa hai gọng kìm. Quân Tây Sơn nếu không bị tiêu diệt, thì cũng phải chiến đấu trong những điều kiện gay go, phức tạp.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #121 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 11:58:04 am »


Trên đây là vấn đề thời gian, thời cơ đánh quân Thanh. Bây giờ chúng ta xét về mặt không gian của cuộc tấn công quân Thanh hồi cuối năm 1789. Muốn tiêu diệt thuận lợi quân Thanh không thể tấn công chúng ở Bắc Giang, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Phú Thọ hay Sơn Tây được. Tại các miền này hồi cuối năm Mậu Thân và đầu năm Kỷ Dậu đều có quân Thanh chiếm đóng, nhưng số lượng quân Thanh ở các nơi ấy không tập trung. Đã thế, quân Thanh ở các nơi ấy có thể dựa vào địa thế hiểm trở của núi rừng để chống lại quân Tây Sơn. Cuộc tấn công của quân Tây Sơn như vậy sẽ gặp nhiều khó khăn. Quân Tây Sơn sẽ phải chia sẻ lực lượng để đánh nhiều vị trí mà chưa chắc đã đoạt được phần thắng về mình. Tình hình sẽ phức tạp. Chiến lược đánh nhanh thắng nhanh sẽ thất bại. Thủy quân của nhà Thanh sẽ có thì giờ đổ bộ vào Thuận Quảng. Chiến tranh sẽ kéo dài... Muốn tiêu diệt gọn quân Thanh, tốt nhất là đánh thẳng vào căn cứ chính của chúng ở Thăng Long. Thăng Long là nơi tập trung đại bộ phận quân Thanh, nhưng Thăng Long lại là nơi "bốn mặt đều là chiến trường, không có chỗ nào hiểm trở" đúng như vua Quang Trung đã nói với Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở dãy Tam Điệp. Nếu Thăng Long đã không phải là căn cứ tốt để quân Tây Sơn dựa vào đấy mà đánh quân Thanh, thì nó càng không thể là căn cứ tốt để quân Thanh dựa vào đấy mà chống quân Tây Sơn. Về mặt không gian, chỗ tốt nhất để tiêu diệt quân Thanh là Thăng Long, một căn cứ trống trải không có núi non che chở. Thăng Long là nơi tập trung đại bộ phận quân Thanh, và là nơi có cơ quan đầu não của quân Thanh - Bộ tổng chỉ huy của Tôn Sĩ Nghị. Đánh Thăng Long là đánh vào đầu quân địch khiến cho toàn bộ cơ thể của chúng bị rã rời, tê liệt. Đánh Thăng Long sẽ gây ra tác dụng làm cho các toán quân Thanh đóng ở các nơi khác phải tháo chạy cho nhanh, nếu không sẽ bị tiêu diệt. Việc chọn Thăng Long làm mục tiêu chiến lược của cuộc tấn công hồi năm 1789 là hoàn toàn phù hợp với chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của Nguyễn Huệ. Việc tấn công vào căn cứ chính của quân Thanh ở Thăng Long cuối năm Mậu Thân và đầu năm Kỷ Dậu tỏ ra Nguyễn Huệ là nhà quân sự thiên tài đã biết tranh thủ thời cơ thuận lợi tập trung lực lượng đánh vào cơ quan đầu não của địch rồi từ đấy mà tiêu diệt tất cả quân địch ở các nơi. Không có một thiên tài kiệt xuất như Nguyễn Huệ thì đầu năm Kỷ Dậu không thể có trận thắng chớp nhoáng và kinh thiên động địa ở Thăng Long được.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #122 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 11:58:22 am »


Năm là, làm cho địch chủ quan, kiêu ngạo. Tuyệt đối giữ bí mật kế hoạch tấn công:

Vua Quang Trung là một nhà quân sự thiên tài rất tin ở năng lực của mình. Ngày 24 tháng Mười một năm Mậu Thân (1788), sau khi xem bức thư cáo cấp của Ngô Văn Sở do Nguyễn Văn Tuyết phi ngựa trạm đem về Phú Xuân, nhà vua quát lớn: "Đàn chó Ngô kia sao dám rông rỡ?". Gặp Ngô Thì Nhậm ở dãy Tam Điệp, nhà vua lại tuyên bố: "Nay ta đến đây tự đốc việc quân, đánh hay giữ đã có kế cả rồi, chỉ trong mười ngày nữa, thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh". Tuy đã nắm chắc phần thắng, vua Quang Trung vẫn tìm cách làm kiêu lòng địch. Sau khi từ Nghệ An ra đi, nhà vua sai Trần Danh Bính cầm đầu tám viên sứ thần đưa đến cho Tôn Sĩ Nghị ba đạo bẩm văn nói rõ về việc ông phải lên thay thế nhà Lê, và khẩn khoản xin Tôn Sĩ Nghị hãy cho đóng quân ngoài cửa ải, tra hỏi nội tình nước Nam cho rõ rồi hãy hành động. Huệ lại cho đem trả nhà Thanh bọn tuần dương binh là bọn Hác Thiên Tôn do tướng Tây Sơn là Ngô Hồng Chấn bắt từ trước. Nhận được bẩm văn của vua Quang Trung, Tôn Sĩ Nghị vứt xuống đất, sai chém đầu Trần Danh Bính và bắt các sứ thần Tây Sơn giam vào ngục. Tôn Sĩ Nghị lại càng tin rằng lực lượng quân Tây Sơn không có gì đáng sợ. Sau khi vào Thăng Long, Sĩ Nghị ngạo nghễ tự coi y là chủ nước Việt Nam, y coi Lê Chiêu Thống và bọn triều thần như cỏ rác. Ngày đêm y mải miết với gái đẹp rượu nồng. Khi có người báo cho y biết quân Tây Sơn đã kéo ra dãy Tam Điệp, Tôn Sĩ Nghị vẫn tự đắc bảo Lê Chiêu Thống: "Không cần đánh vội, ta cứ lấy thế nhàn rỗi mà đợi quân nhọc mệt". Nhưng đến sáng sớm ngày 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), khi nghe thấy tiếng súng nổ liên hồi ở phía tây bắc thành Thăng Long và khi được tin quân Tây Sơn đã hạ đồn Điền Châu ở làng Khương Thượng, Nghị sợ hết hồn vía, chỉ còn kịp nhảy lên ngựa không yên cùng với mấy tên quân kỵ chạy ra bờ sông Hồng vượt cầu phao chạy sang Kinh Bắc...

Trong các hoạt động quân sự của ông, Nguyễn Huệ không có thói quen vạch ra trước một kế hoạch tấn công tỉ mỉ. Năm 1786, khi ra Bắc lần thứ nhất "phù Lê diệt Trịnh”, Nguyễn Huệ không hề cho mọi người biết kế hoạch diệt Trịnh của ông. Đến Nguyễn Hữu Chỉnh cũng không biết ông sẽ diệt Trịnh ra sao. Mọi người chỉ biết kế hoạch tấn công của quân Tây Sơn khi Nguyễn Huệ đã vào Thăng Long, đóng đại bản doanh ở phủ chúa Trịnh. Cuối năm Mậu Thân (ngày 25 tháng 11 năm 1788), khi cất quân từ Phú Xuân ra Bắc, Nguyễn Huệ chỉ cho mọi người biết là ông ra Bắc chuyến này là để diệt quân Thanh xâm lược. Đến Nghệ An gặp Nguyễn Thiếp và nói chuyện với Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ mới cho hay là chỉ trong mười ngày là ông sẽ phá xong 29 vạn quân Thanh xâm lược. Khi ra đến dãy núi Tam Điệp, do tin tức tình báo đã nhận được đầy đủ, Nguyễn Huệ mới công bố kế hoạch đánh quân Thanh cho mọi người biết. Kế hoạch này sở dĩ được thi hành tài tình và đầy đủ, chủ yếu vì nó đã được vạch ra trên cơ sở tình hình thực tế của quân Thanh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #123 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 11:58:44 am »


Sáu là, không coi thường địch:

Ở Phú Xuân, khi được tin quân Thanh xâm lược Việt Nam, Nguyễn Huệ quát lớn: "Đàn chó Ngô kia sao dám rông rỡ". Ở dãy Tam Điệp, ông cho mọi người biết chỉ trong mười ngày là ông phá sạch quân Thanh. Tuy vậy ông không hề coi thường quân Thanh. Ông đã thi hành tất cả các biện pháp nhằm đi đến việc đánh bại quân Thanh. Rạng sáng ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ thân tự chỉ huy đánh đồn Ngọc Hồi, một đồn kiên cố nhất của quân Thanh. Nguyễn Huệ cho dồn quân lương vào một chỗ rồi truyền cho đốt sạch. Ông lại lấy khăn vàng buộc vào cổ để cho mọi người biết rằng trong trận quyết liệt này, quân Tây Sơn chỉ còn có hai con đường: một là thắng hai là chết. Khi quân Tây Sơn bắt đầu công đồn Ngọc Hồi, thì quân Thanh từ trong đồn bắn súng ra như mưa. Các phương tiện chống lại súng địch đã được chuẩn bị sẵn sàng: Quân Tây Sơn đã mang sẵn sáu mươi tấm ván gỗ, Nguyễn Huệ cho lấy ba tấm ghép lại thành một lá chắn lớn, ngoài phủ rơm đã tẩm nước. Như vậy là quân Tây Sơn có tất cả hai mươi tấm lá chắn lớn. Nguyễn Huệ sai mười người khỏe lưng đeo đoản đao, khiêng một lá chắn, nấp sau lá chắn có hai mươi khinh binh cầm vũ khí xếp hàng hình chữ nhất tiến theo sau. Thế rồi quân Tây Sơn vừa hô vừa tiến. Súng quân Thanh trong đồn cứ bắn ra, nhưng đều trúng vào những tấm lá chắn có phủ rơm tẩm nước. Khi đã giáp lá cà, quân Tây Sơn bỏ lá chắn xuống, rút dao ra nhảy bổ vào chém quân Thanh. Quân Thanh không kịp trở tay, bị quân Tây Sơn giết hại nhiều vô kể. Để mở đường cho quân đội tiến, Nguyễn Huệ lại cho hơn một trăm voi thật khỏe xông lên trước đánh vào kỵ binh của quân Thanh. Hạ xong đồn Ngọc Hồi quân Tây Sơn rầm rộ kéo đến phá đồn Văn Điển và đồn Yên Quyết. Chỉ huy quân Thanh là đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Triều Long, tả dực Thượng Duy Thăng đều tử trận...

Bảy là, giáo dục lòng yêu nước cho quân đội:

Muốn đánh thắng quân địch, phải có chiến thuật, chiến lược đúng đắn, phải biết chỉ đạo việc thực hiện chiến lược, chiến thuật. Nhưng chưa đủ. Muốn thắng quân địch, còn cần có một đội quân có tinh thần chiến đấu cao. Đội quân có tinh thần chiến đấu cao là đội quân chiến đấu cho chính nghĩa, tức đội quân biết chiến đấu vì ai, vì mục đích gì. Nguyễn Huệ là nhà quân sự biết đem tư tưởng yêu nước, tinh thần bất khuất giáo dục cho binh sĩ, khiến cho binh sĩ hiểu rõ họ chiến đấu vì ai. Quân đội Tây Sơn đi theo Nguyễn Huệ đã từng được Nguyễn Huệ nhiều lần đưa đến những thắng lợi vẻ vang. Họ đã đánh đổ chế độ phong kiến phản động ở Đàng Trong và Đàng Ngoài. Họ còn đánh đuổi 5 vạn quân Xiêm xâm lược. Thực tế họ đã hiểu vì sao họ chiến đấu. Đến khi phải đương đầu với 29 vạn quân Thanh, Nguyễn Huệ lại giáo dục thêm cho quân đội lòng yêu nước. Khi duyệt binh ở Nghệ An, Nguyễn Huệ một lần nữa lại đem tinh thần yêu nước quạt vào lòng tướng sĩ: "Quân Thanh kéo sang xâm lược, hiện đương chiếm cứ Thăng Long, các ngươi đã biết hay chưa? Trong vòng trời đất chia theo phận sao Dực, sao Chẩn, Nam Bắc vẫn riêng một non sông. Người Bắc không phải nòi giống ta thì tất khác lòng khác dạ. Từ nhà Hán về sau, họ cướp đất đai ta, cá thịt nhân dân, vơ vét của cải, nông nỗi ấy thật là khổ sở! Người trong nước ai cũng phải nghĩ đánh đuổi đi. Đời Hán có Trưng nữ vương, đời Tống có Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ. Các ngài không chịu bó tay ngồi nhìn quân ngoài tàn bạo, nên phải thuận lòng người, dấy quân nghĩa, đánh thắng rồi đuổi chúng về. Trong những khi ấy, Nam Bắc đâu lại phận đó, bờ cõi yên ổn, vận nước lâu dài. Từ nhà Đinh đến nay, chúng ta không đến nỗi phải cái khổ Bắc thuộc. Đó lợi hại, được thua, chuyện cũ đã rành rành là thế. Nay người Thanh không soi gương Tống, Nguyên, Minh, lại sang mưu chiếm nước Nam ta, đặt làm quận huyện. Vậy ta phải vùng lên mà đuổi đi!". Trong trận tiến đánh quân Thanh năm 1789, quân đội Tây Sơn đã được bồi dưỡng thêm về tinh thần yêu nước, chí quật cường, bất khuất, họ hiểu họ đấu tranh không những để bảo vệ những thành quả do khởi nghĩa nông dân (mà họ là đại biểu) đã đem lại mà còn để bảo vệ đất nước bờ cõi nữa. Họ đấu tranh cho chính nghĩa, cho Tổ quốc, cho dân tộc, cho quyền lợi những người bị áp bức, cho nên họ sẵn sàng hy sinh tính mạng. Về mặt tư tưởng, họ ở vào cái thế áp đảo quân Thanh, cho nên quân Thanh đã bị họ đánh cho đại bại.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #124 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 11:59:15 am »


Tám là, phân tán và tập trung lực lượng nhanh chóng:

Tài liệu lịch sử không cho phép chúng ta biết Nguyễn Huệ đã phân tán lực lượng và tập trung lực lượng cụ thể ra sao, nhưng chúng ta có ấn tượng rằng ông có phương pháp phân tán và tập trung quân đội rất thần diệu. Từ dãy Tam Điệp, gần mười vạn quân được lệnh tiến ra Bắc. Chúng ta có thể nghĩ rằng cánh quân do Nguyễn Huệ thân tự chỉ huy chí ít phải có đến năm vạn. Năm vạn người này nhất định phải chia làm nhiều toán, thì qua sông mới có thuyền bè, khi nghỉ mới có nhà cửa và mới có thức ăn. Tình thế bắt buộc Nguyễn Huệ phải phân tán lực lượng trong khi hành quân. Nhưng khi đến Nam Định gặp quân của Hoàng Phùng Nghĩa, quân Tây Sơn lập tức lại tập trung ngay để tiêu diệt quân của Hoàng Phùng Nghĩa. Gặp quân do thám của Tôn Sĩ Nghị ở huyện Thanh Liêm, quân Tây Sơn truy kích quân Thanh đến Phú Xuyên thì bắt được toàn bộ quân do thám của Tôn Sĩ Nghị. Đến đồn Hà Hồi, quân Tây Sơn cũng phải tập trung nhanh chóng thì mới giải quyết đồn này nhanh chóng được. Đến đồn Ngọc Hồi, mức độ và nhịp điệu tập trung của quân Tây Sơn lại cao và nhanh hơn một bực, thì mới có đủ điều kiện để công đồn thắng lợi. Tóm lại trên một con đường dài 76 cây số từ bến Gián Khẩu đến Hà Nội, quân Tây Sơn ở vào một tình trạng luôn luôn phân tán và luôn luôn tập trung để làm nhiệm vụ. Vậy mà trên đường tiến quân, quân Tây Sơn đi đến đâu đều thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ chiến thuật và nhiệm vụ chiến lược của mình. Chỉ một việc này cũng đủ nói lên tài năng tổ chức kiệt xuất của Nguyễn Huệ.

Chín là, tập hợp được nhiều tướng lĩnh có tài, quan tâm đến đời sống của binh sĩ:

Trong quá trình lãnh đạo khởi nghĩa Tây Sơn, Nguyễn Huệ đã tạo ra được nhiều tướng lĩnh có tài như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết, đô đốc Mưu (hay Long), đô đốc Bảo, đô đốc Lộc, v.v... Mức độ tài năng những người này cũng khác nhau. Nhưng tất cả đều rất mực can đảm. Mọi người đều biết thái độ dũng cảm của bà Bùi Thị Xuân, khi bà bị Nguyễn Phúc Ánh thiêu chết ở cửa Đông - Hà Nội. Các tướng lĩnh nói trên theo Nguyễn Huệ từ lâu và đều lập được công to. Phan Văn Lân, Ngô Văn Sở đã cùng với Nguyễn Huệ chỉ huy trận đánh đồn Ngọc Hồi. Đô đốc Long đã đem quân Tây Sơn vào Thăng Long trước nhất. Các tướng lĩnh của Nguyễn Huệ đều được ông tin cẩn và đều là những người thực hành tốt các chủ trương của ông. Cái khéo của Nguyễn Huệ là ông giao nhiệm vụ cho họ nhưng không hề hạn chế sáng kiến hay tính chủ động của họ. Sau khi diệt Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huệ giao Bắc Hà cho bọn Ngô Văn Sở. Ông nói: "Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân là nanh vuốt của ta; Nguyễn Văn Dụng, Trần Thuận Ngôn là tâm phúc của ta; Ngô Thì Nhậm tuy là người mới, nhưng là bậc tân thần, ta coi như khách. Nay ta giao cho các khanh hết thảy mọi việc quân quốc, coi quản mười một trấn trong toàn hạt. Hễ có điều chi, ta cho cứ được tiện nghi làm việc. Song các khanh cần phải họp bàn với nhau, chứ đừng phân bì kẻ mới người cũ, miễn sao làm cho được việc, ta mới yên lòng". Nguyễn Huệ tỏ ra rất tin cẩn các tướng lĩnh của ông. Thái độ của ông làm cho các tướng lĩnh phấn khởi và có điều kiện để phát huy đầy đủ sáng kiến của họ.

Nguyễn Huệ còn là nhà quân sự có thói quen đồng cam cộng khổ với binh sĩ của ông. Tài liệu lịch sử cho chúng ta biết quân Tây Sơn thường lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo. Năm 1786, sau khi đánh đổ họ Trịnh, kéo quân vào chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ cho đem tất cả gấm vóc, vàng bạc, châu báu ở trong kho phủ chúa Trịnh chia cho các tướng sĩ. Tướng sĩ Tây Sơn thường có nhiều vàng bạc mang ở trong mình. Những vàng bạc này là những vàng bạc tịch thu của bọn phong kiến Nguyễn - Trịnh mà Nguyễn Huệ đem phân phát cho mọi người trong quân đội. Việc Nguyễn Huệ cho quân đội ăn Tết Nguyên đán vào ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân tỏ ra ông hiểu rõ tâm lý của binh sĩ và chú ý đến đời sống của binh sĩ. Ngươi dân Việt Nam rất tha thiết với Tết Nguyên đán. Nhiều người làm ăn quanh năm dành dụm để rồi đến cuối năm ăn tết. Do yêu cầu của sự nghiệp đánh giặc cứu nước, cuối năm Mậu Thân, Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc đánh Tôn Sĩ Nghị. Chiến dịch diễn ra vào đúng dịp tết. Hiểu rõ thắc mắc của mọi người, Nguyễn Huệ hạ lệnh cho mọi người ăn tết trước ở dãy Tam Điệp rồi mới xuất quân. Ông tuyên bố: "Nay hãy tạm ăn Tết Nguyên đán trước. Đợi đến sang xuân ngày mồng 7 vào Thăng Long lại mở tiệc ăn mừng. Các ngươi cứ ghi lấy lời của ta xem có đúng không?". Thế nghĩa là quân Tây Sơn được ăn hai cái tết: Cái tết ngày 20 tháng Chạp ở dãy Tam Điệp và cái tết vào ngày mồng 7 tháng Giêng ở Thăng Long. Ngày mồng 7 tháng Giêng, khi quét sạch quân Thanh và làm chủ Thăng Long, Nguyễn Huệ cho mổ rất nhiều bò lợn để khao thưởng ba quân. Quân Tây Sơn lại ăn một cái tết nữa đúng như Nguyễn Huệ đã hẹn ở dãy Tam Điệp.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #125 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 11:59:41 am »


Mười là, chú ý đến tình báo, tập trung binh chủng quan trọng:

Tôn Vũ có nói: Biết mình biết người, trăm trận đánh trăm trận được. Biết người nói đây là nắm được đầy đủ những tin tức tình báo về quân địch. Trong các hoạt động quân sự của ông, Nguyễn Huệ rất chú ý đến công tác tình báo. Tháng Năm năm Bính Ngọ (1786) Nguyễn Huệ khi đem quân ra đánh Thuận Hoá mà trấn thủ là Phạm Ngô Cầu. Nhờ có tình báo, Nguyễn Huệ biết Phạm Văn Cầu là kẻ mê tín và đa nghi, Nguyễn Huệ đã dùng mưu khiến cho Phạm Ngô Cầu chúi đầu vào việc lập đàn chay, rồi Nguyễn Huệ lại dùng mưu ly gián làm cho Ngô Cầu nghi ngờ Hoàng Đình Thể, và cuối cùng không tiếp ứng cho Hoàng Đình Thể, để mặc cho quân Tây Sơn đánh giết cha con Đình Thể. Năm 1788, khi mang quân ra đánh quân Thanh ở Thăng Long, Nguyễn Huệ dám cho đô đốc Bảo, đô đốc Long mang voi chiến, ngựa chiến đi đường tắt lẻn vào lòng địch để đánh địch, là vì ông đã nắm được đầy đủ tin tức về quân địch ở chung quanh Thăng Long.

Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tượng binh (voi chiến) cũng giữ vai trò quan trọng trong các trận đánh. Hồi đầu thế kỷ XV, Hồ Quý Ly cũng có một đội tượng binh quan trọng. Khi quân Minh đánh thành Đa Bang, Quý Ly cho tượng binh ra đánh quân Minh. Trương Phụ dùng lốt sư tử khoác vào mình ngựa, rồi thúc ngựa ra giao chiến. Voi tưởng là sư tử thật, sợ quay lại chạy, quân Minh thừa thắng đuổi theo, quân Hồ đại bại. Tượng binh của quân đội Nguyễn Huệ khác hẳn tượng binh của Hồ Quý Ly. Trên các voi chiến của Nguyễn Huệ đều có quân sĩ cầm hoả hổ. Khi gặp quân địch, quân sĩ vừa thúc voi tiến, vừa dùng hỏa hổ bắn vào quân địch. Voi chiến của Nguyễn Huệ như vậy khác nào một thứ chiến xa tiến đến đâu quân địch tan vỡ đến đấy.

Sáng sớm ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, gặp tượng binh của Nguyễn Huệ, kỵ binh của quân Thanh hoảng sợ vội quay lại chạy. Chúng ta không rõ quân đội của Nguyễn Huệ được tổ chức cụ thể như thế nào. Chúng ta chỉ biết ở dãy núi Tam Điệp, khi đô đốc Lộc xuất quân tiến về miền Phượng Nhỡn (Bắc Giang) và đô đốc Tuyết xuất quân tiến về miền Hải Dương, thì hai cánh quân này không có tượng binh. Do đó chúng ta nghĩ rằng Nguyễn Huệ đã tập trung tất cả tượng binh cho lộ quân thứ nhất tức lộ quân có nhiệm vụ đánh vào Thăng Long. Trong lộ quân thứ nhất, có ba cánh quân là cánh quân của đô đốc Bảo, cánh quân của đô đốc Long và cánh quân chủ lực do Nguyễn Huệ thân tự chỉ huy. Cả ba cánh quân đều có tượng binh, nhưng hình như cánh quân chủ lực có nhiều tượng binh nhất. Vì trong trận đánh đồn Ngọc Hồi, chúng ta thấy tượng binh xuất hiện từ đầu đến cuối và tượng binh đã góp phần quan trọng vào trận hạ đồn Ngọc Hồi, một trận có tính chất quyết định toàn bộ chiến dịch cả phá 29 vạn quân Thanh hồi đầu năm 1789.


*
*   *

Thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ thể hiện trên nhiều mặt, tựu trung lại là về tổ chức, xây dựng quân đội và chỉ huy tác chiến. Trên đây chỉ là những nét cơ bản, bởi vì thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ vô cùng rực rỡ và phong phú, đòi hỏi phải có nhiều công trình nghiên cứu công phu và kỹ lưỡng hơn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #126 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 08:15:13 pm »


Câu hỏi 21: Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, giỏi văn thơ. Sau khi vua Quang Trung mất, bà đã làm bài thơ "Ai tư vãn" rất thảm thiết để khóc chồng. "Ai tư vãn" nói lên mối tình sâu nặng giữa Quang Trung và Ngọc Hân. Đó thật là một khúc đoạn trường. Hãy cho biết đôi nét về con người và cuộc đời của Hoàng hậu Lê Ngọc Hân; nội dung của bài "Ai tư vãn"?
Trả lời:


Lê Ngọc Hân là con gái thứ 21 của vua Lê Hiển Tông và Từ cung Chiêu nghi Hoàng hậu Nguyễn Thị Huyền. Bà Nguyễn Thị Huyền quê ở làng Phù Ninh, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Bà là trưởng nữ của Hiển Khảo Nguyễn tướng công, tự Phúc Duệ, tước Tuân Trung hầu. Sau khi lấy vua Hiển Tông, Hoàng hậu Nguyễn Thị Huyền sinh hoàng tử Lê Duy Vĩ (bố vua Lê Chiêu Thống) và công chúa Ngọc Hân.

Công chúa Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng Tư năm Canh Dần (ngày 22 tháng 5 năm 1770).

Năm Bính Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng 47 (1786), công chúa Ngọc Hân vừa tròn 16 tuổi, biết suy nghĩ về tình người thế nước và cũng là lúc cả Thăng Long rung chuyển bởi cuộc tiến công thần tốc nhằm diệt họ Trịnh của lãnh tụ Tây Sơn Nguyễn Huệ. Chỉ trong mấy ngày, tất cả các trận địa xung quanh Thăng Long cùng các danh tướng Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ, Trịnh Tự Quyền... của chúa Trịnh đều lần lượt bị đánh bại. Quân Tây Sơn ào ạt tiến vào Thăng Long, lật đổ cơ nghiệp họ Trịnh.

Ngay sau khi đến Thăng Long, Nguyễn Huệ đã dẫn các tướng lĩnh đến yết kiến vua Lê Hiển Tông ở điện Vạn Thọ tỏ ý muốn tôn phò nhà Lê. Ông còn xin vua Hiển Tông thiết đại triều ở điện Kính Thiên. Nguyễn Huệ dẫn đầu các tướng lĩnh Tây Sơn và các quan văn võ Bắc Hà vào triều chúc mừng và đem sổ sách dâng lên vua Lê. Vua tiếp nhận rồi ban chiếu, cho yết ở cửa Đại Hưng. Vua Lê sắc phong Nguyễn Huệ làm Nguyên soái phù chính Dực vũ, Uy Quốc công và trao binh quyền Bắc Hà cho vị tướng trẻ này. Tuy được phong chức tước, Nguyễn Huệ vẫn có ý không hài lòng, cho rằng vua Lê dùng cái danh hão ấy để lung lạc mình.

Nguyễn Hữu Chỉnh biết chủ tướng của mình không vui, bèn bịa ra lời vua Lê nói với Nguyễn Huệ:

- Bản ý của hoàng thượng cho rằng mình tuổi cao, sau này không biết nương tựa vào ai, nên muốn kết liên hai họ làm một nhà, cùng chắp mối hôn nhân, rể hiền hơn con trai, nhưng không biết chúa công có ý thế chăng, nên chưa dám đường đột nói ra.

Nguyễn Huệ nói:

- Ta thực hẹp lòng vụng nghĩ, không hiểu hết tấm thịnh tình của hoàng thượng.

Thực ra Nguyễn Huệ đã có vợ rồi (bà thứ nhất là người họ Bùi, em gái cùng cha khác mẹ với Hình bộ Thượng thư Bùi Văn Nhật và Thái sư Bùi Đắc Tuyên), nhưng thấy Hữu Chỉnh ngỏ ý như vậy, Nguyễn Huệ liền đáp:

- Nay ta là em trai vua Tây Sơn, làm rể vua Bắc Hà, cũng là cành vàng lá ngọc, môn đăng hộ đối, như thế trong đời dễ có mấy ai!

Biết Nguyễn Huệ đã bằng lòng, Nguyễn Hữu Chỉnh liền vào cung tâu với vua Lê Hiển Tống. Lúc đó vua Hiển Tông đã 70 tuổi, còn năm, sáu công chúa chưa chồng nhưng chỉ có Ngọc Hân là người có nhan sắc, giỏi thơ phú và nết na hơn cả, được nhà vua rất cưng chiều và yêu quý. Được Hữu Chỉnh nói lại, vua Hiển Tông bằng lòng chọn Ngọc Hân gả cho Nguyễn Huệ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #127 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 08:16:13 pm »


Khi được Nguyễn Hữu Chỉnh nói ý kiến của vua Hiển Tông về nàng công chúa tuổi vừa đôi tám, xinh đẹp tuyệt trần, xin cho được nương bóng nhà sau hầu hạ cho người dũng tướng, thì Nguyễn Huệ rất vui và thật thà nói với giọng khôi hài:

- Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về; bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng yêu thử xem có tốt không?

Rồi Nguyễn Huệ lại nói với giọng nghiêm túc và cảm động:

- Tôi xin kính lạy hoàng thượng vạn tuế! Ở khe núi hẻo lánh xa xôi tới đây, há dám đường đột như vậy? Bây giờ may sao lại được bám vào cành vàng lá ngọc, thật là mốì nhân duyên kỳ ngộ ngàn năm mới có. Kẻ ở khe núi này xiết bao mừng rỡ.

Về phía Ngọc Hân, nghe tin ấy nàng cồn cào lo lắng đến mất ăn mất ngủ. Bởi vì Nguyễn Huệ là tướng tài, nhưng từ xa đến, biết bụng dạ người ta thế nào. Nhưng khi biết vua cha thật khéo lồng chuyện tình trong việc nghĩa, bắc chiếc cầu giao hảo, trấn an xã tắc thì Ngọc Hân vui lòng ngay.

Ngày 10 tháng Bảy âm lịch, Nguyễn Huệ sai viên Thị lang Bộ hình đem sính lễ gồm 200 lạng vàng, 2.000 lạng bạc, 100.000 quan tiền và một tờ tâu vào điện Vạn Thọ dâng lên vua Hiển Tông theo nghi lễ rất long trọng. Vua sai hoàng tử Sùng Nhượng Công tiếp nhận lễ phẩm rồi xuống chỉ ngày hôm sau làm lễ đưa dâu.

Sáng ngày 11 tháng Bảy, lễ cưới Nguyễn Huệ - Ngọc Hân được cử hành. Con đường từ hoàng cung về đến soái phủ, cờ, lọng, tàn, quạt nối nhau cắm suốt hai bên đường. Trong hoàng cung, các vị hoàng thân, quốc thích, hầu hết văn võ bá quan đều áo mũ chỉnh tề, xe ngựa sẵn sàng đưa công chúa về soái phủ. Dân chúng kinh thành bồng bế, dắt díu nhau, chen chân đứng đặc hai bên đường xem đám cưới sang trọng chưa từng có này. Về nghi thức, khi xe loan về đến soái phủ, Nguyễn Huệ trong bộ nhung phục trắng, cưỡi ngựa hồng, hai bên đều có quan hầu cưỡi ngựa ra đón. Xe loan dừng lại, Nguyễn Huệ xuống ngựa mở màn the cúi chào. Tiếp đó, hai bà mệnh phụ dẫn công chúa Ngọc Hân và Nguyễn Huệ vào nơi làm lễ giao bái. Tại đây đã để sẵn hai chiếc kiệu rồng cho Nguyễn Huệ và Ngọc Hân đi hàng đôi vào phủ đường làm lễ thành hôn. Nguyễn Huệ đặt tiệc thết đãi các vị hoàng phi, hoàng hậu, công chúa và các quan văn võ cùng đi đưa dâu.

Hôm vào làm lễ yết kiến các vị tiên đế ở thái miếu, Nguyễn Huệ và công chúa Ngọc Hân gióng kiệu cùng đi, lễ xong lại gióng kiệu cùng về, Nguyễn Huệ tự hào nói với công chúa:

- Con trai con gái nhà vua, đã có mấy người được vẻ vang như nàng?

Ngọc Hân e lệ:

- Nhà vua ít lộc, các con trai con gái ai cũng thanh bạch nghèo khó, chỉ riêng thiếp có duyên, lấy được lệnh công, ví như hạt mưa, bụi ngọc bay ở giữa trời được sa vào chốn này, là sự may mắn của thiếp mà thôi.

Nghe Ngọc Hân nói vậy, Nguyễn Huệ rất hài lòng và càng thêm yêu quý nàng hơn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #128 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 08:17:06 pm »


Nói về mối nhân duyên của công chúa Ngọc Hân, ông Nguyễn Thì Thấu (là người đương thời, từng làm quân sự cho hai ông hoàng Duy Chúc, Duy Mật, dấy quân ở Ninh Trấn chống lại họ Trịnh), có thơ rằng:

”... Ngựa thồ thay mối xích thằng
Ông Tơ, bà Nguyệt dẫu giằng chẳng ra!
Một ngày một vắng quê nhà,
Sáng từng từng nhớ, tối tà tà trông...”

Hôm làm lễ cưới, vua Lê Hiển Tông đang bị ốm, cũng phải gắng bệnh thiết triều nhận mừng.

Qua bữa sau, bệnh tình nhà vua quá nặng. Công chúa Ngọc Hân giục phò mã Nguyễn Huệ vào hỏi thăm, song ông từ chối:

- Tôi chẳng sớm thì chầy rồi cũng về Nam, việc nước không dám dự đến. Vả, tôi từ xa đến đây, chắc người ngoài Bắc còn chưa tin mấy. Nếu vô nội thăm hỏi vua cha, muôn một xa giá chầu trời, chẳng hóa ra tự mình chuốc lấy cái tiếng hiềm nghi không bao giờ giãi tỏ được?

Suốt đêm 17 tháng Bảy năm Bính Ngọ (1786), trời mưa to, gió dữ, thành Thăng Long nước ngập đến một thước, thì cũng là lúc vua Lê Hiển Tông băng hà, thọ 70 tuổi. Trước khi nhắm mắt, ông còn kịp trối lại cho hoàng tôn Duy Kỳ:

- Khách binh đang đóng ở đây; truyền nối là việc quan trọng, cháu nên bàn cùng Nguyên súy (chỉ Nguyễn Huệ), chứ đừng tự tiện làm một mình.

Trái với những người muốn lập hoàng tôn Duy Kỳ, công chúa Ngọc Hân khi được chồng hỏi nên lập ai lên ngôi báu, đã nghiêng về Lê Duy Cận (Ngọc Hân phản đối Duy Kỳ, vì cho rằng Duy Kỳ không đủ tư cách). Nghe lời vợ, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đăng quang của Duy Kỳ. Cả triều đình nao núng ngờ vực. Các tôn thất nhà Lê đổ riết cho công chúa Ngọc Hân cái tội "làm lỡ việc lớn" của triều đình và đòi gạch tên Ngọc Hân khỏi sổ họ. Ngọc Hân cả sợ, vội nhân nhượng mà nói lại với Nguyễn Huệ thu xếp cho Duy Kỳ được nối ngôi ngay.

Làm lễ đăng quang, Duy Kỳ lấy niên hiệu là Chiêu Thống, vì có tang vua Hiển Tông nên mọi việc đều tinh giảm cả.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #129 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 08:17:41 pm »


Hôm làm lễ tế thành phục vua Lê Hiển Tông ở nội điện, chủ súy Tây Sơn lấy tư cách là con rể, mặc áo tang trắng, đứng ở nơi điện tả dự lễ. Thấy một viên tiểu lại có cử chỉ bất kính trong lúc làm lễ, Nguyễn Huệ liếc mắt bắt gặp, liền truyền lính lôi ra chém ngay. Triều thần từ đó khiếp sợ và nghi lễ được cử hành hết sức tôn nghiêm. Sau buổi lễ, Nguyễn Huệ thân tự cưỡi voi, đem ba ngàn quân hộ tống linh cữu vua Lê Hiển Tông xuống đò đưa về an táng tại Thanh Hóa, ông lại tự hào nói với Ngọc Hân:

- Tiên đế có hơn ba mươi người con trai, ngày nay báo hiếu lại chỉ có một người con gái, nào có ai giúp đỡ cho được mảy may? Người xưa thường bảo: Con gái làm rạng rỡ cho nhà cửa, quả cũng đúng thật!

Ngọc Hân nhỏ nhẹ đáp:

- Nhờ công đức của thượng công, thiếp được báo hiếu với hoàng khảo, mở mặt với anh em. Tục ngữ vẫn nói: Trai không ăn mày vợ, gái phải ăn mày chồng, chính là thế đó!

Khi Ngọc Hân theo Nguyễn Huệ về Nam, Nguyễn Huệ được Nguyễn Nhạc phong làm Bắc Bình Vương ra trấn giữ đất Thuận Hóa.

Đối với Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đã yêu vì nết lại trọng vì tài, nên giao cho coi giữ các văn thư trọng yếu, phong cho chức Nữ học sĩ, dạy dỗ các con cái và các cung nữ. Trong thực tế, Ngọc Hân trở thành người cộng sự đắc lực và tin cẩn về một số vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa, giáo dục cho chồng.

Ngoài việc giúp chồng như một cố vấn, Ngọc Hân còn khuyên giải chồng trong nhiều việc hệ trọng khác, như khuyên chồng chấm dứt xung đột với Nguyễn Nhạc.

Sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi vua, lấy hiệu là Quang Trung, Ngọc Hân được phong là Bắc cung Hoàng hậu. Ngọc Hân có hai người con là hoàng tử Nguyễn Văn Đức và công chúa Nguyễn Thị Ngọc.

Một buổi chiều, sau khi đã đại phá 29 vạn quân Thanh và đang chuẩn bị tiến binh vào Gia Định diệt Nguyễn Ánh, vua Quang Trung đang ngồi bên cạnh Ngọc Hân bỗng hoa mắt, mặt mũi tối sầm rồi mê man bất tỉnh.

Bệnh vua mỗi ngày một nặng. Vua dặn các tướng Tây Sơn:

- Nay ta đau ốm không dậy được. Thái tử (Quang Toản) có chút tài, nhưng tuổi còn nhỏ. Trong có quân Gia Định là quốc thù, mà Thái Đức (Nguyễn Nhạc) thì tuổi già cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm giản tiện thôi...

Bên giường ngự của vua, các văn quan, võ tướng nước mắt chan hòa, đứng lặng như hóa đá. Bắc cung Hoàng hậu Ngọc Hân vật mình than khóc chết đi, sống lại.

Ngày 29 tháng Bảy năm Nhâm Tý (tức ngày 6 tháng 9 năm 1792), vào khoảng 11 giờ đêm, vua Quang Trung băng hà, thọ 40 tuổi, để lại mối tình dang dở với Hoàng hậu Ngọc Hân mới 22 tuổi. Họ chỉ sống hạnh phúc bên nhau được 6 năm tròn.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM