Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:02:52 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn  (Đọc 39419 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #110 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 11:34:22 pm »


g) Nguyễn Huệ luôn tin dùng người dưới, trọng dụng nhân tài

Sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam như trên là một sự nghiệp vô cùng to lớn. Dù tài giỏi đến đâu, Nguyễn Huệ cũng không thể một mình làm sự nghiệp ấy được. Trong tờ chiếu cầu hiền, chính Nguyễn Huệ cũng thấy rằng "nghĩ đến cái nhà to, không phải sức một cây gỗ mà có thể chống đỡ được; thái bình không phải mưu lược một kẻ sĩ mà có thể làm nên". Trong tờ chiếu lên ngôi, ông cũng tuyên bố: "Ta tự nghĩ đức bạc, tài đức không bằng cổ nhân, mà đất đai rộng như thế, nhân dân đông như thế, yên lặng mà nghỉ để thống nhiếp, run sợ như cầm cái roi mục kìm sáu con ngựa vậy". Nguyễn Huệ đã thấy rõ rằng muốn đem hoài bão của ông làm thành sự thật, ông cần phải có nhiều nhân tài giúp sức. Cho nên suốt quá trình hoạt động quân sự và chính trị, Nguyễn Huệ luôn luôn chú ý đến việc thu dụng và bồi dưỡng nhân tài. Nhân tài hồi cuối thế kỷ XVIII cũng như ở các thời kỳ lịch sử khác nói chung bị cột chặt vào tư tưởng trung với một dòng họ: ở Đàng Ngoài là trung với họ Lê, họ Trịnh, ở Đàng Trong là trung với họ Nguyễn. Điển hình loại nhân tài này là Nguyễn Đăng Trường ở Đàng Trong và Trần Công Xán, Phạm Thái ở Đàng Ngoài. Những kẻ sĩ loại này không phải là những người hèn hạ, họ khảng khái, bất khuất, nhưng họ chỉ biết có vua chúa mà không biết đến nhân dân, đến Tổ quốc. Họ đã hy sinh thân thế họ cho những vua chúa ngu muội, ích kỷ, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Trong một thời gian dài, Nguyễn Huệ khá phiền vì những kẻ sĩ ấy. Vì những kẻ sĩ ấy chính là những người đã đứng ra chiêu mộ "nghĩa binh" chống lại triều đại Tây Sơn. Loại kẻ sĩ thứ hai là những người chán ngán vì tình hình xã hội rối ren, họ không tin họ Nguyễn, họ Trịnh, họ Lê nữa. Nhưng họ không đủ can đảm đoạn tuyệt với các dòng họ này để đi với triều đại Tây Sơn, vì họ không muốn mang tiếng là những kẻ bất trung. Tiêu biểu cho loại kẻ sĩ này là Nguyễn Thiếp. Nguyễn Thiếp chỉ làm quan với họ Trịnh trong một thời gian ngắn, rồi đến năm 1768 ông từ quan lui về ở ẩn tại núi Thiên Nhẫn - là một dãy núi ở vào chỗ giáp giới hai huyện Hương Sơn và Thanh Chương. Năm 1780, Trịnh Sâm mời ông về Thăng Long để hỏi về việc chính trị, ông khuyên Trịnh Sâm không nên cướp ngôi vua Lê rồi lại trở về vui với cỏ cây ở núi Thiên Nhẫn, mà không nhận của Trịnh Sâm một tước vị gì. Biết tiếng Nguyễn Thiếp, cuối năm 1786 Nguyễn Huệ cho người mang vàng bạc lên núi Thiên Nhẫn mời Nguyễn Thiếp xuống núi giúp mình. Nhà ẩn sĩ từ chối. Tháng 8 năm 1787, Nguyễn Huệ lại sai người mang lễ vật lên núi mời Nguyễn Thiếp, Nguyễn Thiếp lại từ chối. Cuối năm 1787, Nguyễn Huệ viết một bức thư dài trận trọng mời Nguyễn Thiếp một lần nữa. Nguyễn Thiếp vẫn khước từ. Cũng cuối năm 1787 trên đường ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huệ lại viết thư mời Nguyễn Thiếp xuống Phù Thạch nói chuyện với ông. Nguyễn Thiếp nhận lời, nhưng khi gặp Nguyễn Huệ, ông chỉ hứa sẽ chọn đất làm kinh đô cho Nguyễn Huệ mà thôi. Năm 1789 sau khi lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Huệ lại càng tỏ ra tôn kính Nguyễn Thiếp và vẫn kiên trì cố mời ông ra giúp mình. Lúc này tình hình đã rõ ràng, Lê Chiêu Thống đã lộ ra bộ mặt bán nước, cõng rắn cắn gà nhà, Nguyễn Huệ đã cả phá 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh bảo vệ độc lập cho dân tộc. Nguyễn Thiếp vui lòng xuống núi, nhận chức Viện trưởng Viện Sùng chính của Nguyễn Huệ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #111 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 11:35:13 pm »


Tiêu biểu cho loại kẻ sĩ thứ ba là bọn Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ, Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng... Những người này đã dứt khoát đi theo quân Tây Sơn và hết sức phục vụ Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ đã nhận thấy chế độ của ông rất cần có sự cộng tác của những người này và ông đã tin dùng họ đến mức tối đa. Trần Văn Kỷ là một danh sĩ quê ở Thanh Hóa theo Nguyễn Huệ từ năm ông đánh Phú Xuân (1786). Biết Kỷ là kẻ sĩ có tài, Nguyễn Huệ sau khi đã làm chủ Phú Xuân, cho người mời Kỷ đến để hỏi về việc nước. Kỷ đối đáp đâu ra đấy và được Nguyễn Huệ rất tin yêu, cho dự vào việc tìm mưu vạch kế. Từ ngày được Kỷ, Nguyễn Huệ luôn luôn giữ Kỷ ở bên mình để hỏi han mọi việc. Chính Trần Văn Kỷ đã cứu Ngô Thì Nhậm để khỏi bị Võ Văn Ước làm hại. Khi gặp Ngô Thì Nhậm, chính Kỷ bảo Thì Nhậm: "Nghe ông là bậc kỳ tài, không may bị tiếng gièm pha, trốn tránh hơn năm, sáu năm, sự tích lũy càng thêm tinh tuý. Nay ra ứng dụng với đời chính là hợp thời. Tôi đã đem tên ông trình với chúa thượng, chúa thượng khen tài ông có thể dùng làm việc lớn. May mắn nay được chúa thượng rủ lòng yêu mến, đã sai tôi tìm ông, vậy không phải cần gì đến ông Ước!"1. Rồi Kỷ đưa Thì Nhậm vào yết kiến Nguyễn Huệ, Nguyễn Huệ nói: "Ngày trước, ngươi vì chúa Trịnh không dong, một mình bỏ nước mà đi. Nếu ta không đến đây, ngươi làm sao được thấy bóng mặt trời? Có lẽ đó là ý trời muốn để dành người tài cho ta dùng. Vậy ngươi hãy cố gắng mà lo việc báo đáp, thế là được!". Nguyễn Huệ lại bảo Trần Văn Kỷ: "Đây là người do ta gây dựng lại, nên thảo ngay tờ chế phong làm chức Tả thị lang bộ Lại, tước Tình phái hầu cùng với Vũ Văn Ước coi tất cả các quan văn võ của nhà Lê". Từ đấy, Nguyễn Huệ hết sức tin dùng Ngô Thì Nhậm. Trước khi rời Bắc Hà để trở về Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã giao cho bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Ngô Thì Nhậm... coi quản tất cả các việc quân dân ở mười một trấn toàn hạt Bắc Hà. Ngô Thì Nhậm đã xứng đáng với nhiệm vụ mà Nguyễn Huệ đã trao cho. Khi quân Mãn Thanh vượt ải Nam Quan tiến vào xâm lược Việt Nam, chính Ngô Thì Nhậm đã khuyên Ngô Văn Sở cho quân thuỷ bộ Tây Sơn rút về dãy Tam Điệp và cửa Biện Sơn "để trong thì khích lệ lòng căm tức của quân sĩ, ngoài thì làm tăng lòng kiêu căng của giặc". Kế này đã được Nguyễn Huệ khen và đã đem lại kết quả đúng như lời đoán của Nguyễn Huệ. Ngay từ khi còn ở dãy Tam Điệp, Nguyễn Huệ đã biết trước rằng thế nào ông cũng đánh bại quân Thanh và ông đã tuyên bố: "... chỉ trong mười ngày nữa, thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh. Nhưng nước Thanh lớn hơn nước ta đến mười lần. Bị thua tất Thanh lấy làm thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa liên miên, thật không phải là phúc của nhân dân, lòng ta sao nỡ. Vì vậy, sau khi thắng trận phải khéo dùng từ lệnh thì mới dập tắt được lửa binh. Việc từ lệnh đó ta sẽ giao cho Ngô Thì Nhậm". Sự thật chứng minh: Ngô Thì Nhậm đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ của ông. Ông thực sự là bộ trưởng bộ ngoại giao của Nguyễn Huệ trong việc giao thiệp với nhà Thanh. Văn từ ngoại giao của ông vừa đủ mềm mỏng để có thể thuyết phục được đối phương, dành cho đối phương một lối thoát khiến cho họ có thể nhận điều kiện giảng hoà mà không sợ mất thể diện, lại vừa cương quyết để cho đối phương biết rằng lực lượng nhà Tây Sơn không phải là yếu. Sau một thời gian giao thiệp, vua Càn Long nhà Thanh đã nhận tất cả các điều kiện giảng hòa do Nguyễn Huệ đề ra. Sở dĩ được như vậy, một phần là nhờ có văn từ ngoại giao khéo léo và cương quyết của Ngô Thì Nhậm vậy.

Bản thân Nguyễn Huệ còn đào tạo ra một loạt nhân tài quân sự mà tiêu biểu là Ngô Văn Sở, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Phan Văn Lân, Đô đốc Tuyết, Đô đốc Bảo, Đô đốc Long, Đô đốc Lộc... Đây là những tướng lĩnh có tài của Nguyễn Huệ. Họ đã có nhiều cống hiến quan trọng cho sự nghiệp của nghĩa quân Tây Sơn. Về quân sự, Nguyễn Huệ sở dĩ đánh đâu thắng đấy là vì ông biết dùng các tướng lĩnh có tài. Ngô Văn Sở đã đánh bại quân Lê - Trịnh nhiều lần, đã cùng với Nguyễn Huệ thân chỉ huy trận tấn công đồn Ngọc Hồi nổi tiếng vào sáng ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789). Trần Quang Diệu đã lập được nhiều chiến công trong việc đánh đổ chế độ chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Phan Văn Lân, Đô đốc Long, Đô đốc Bảo, Đô đốc Tuyết, Đô đốc Lộc đều là những người có chiến công trong trận đại phá quân xâm lược Mãn Thanh. Đặc biệt, trong các tướng lĩnh của quân Tây Sơn có Bùi Thị Xuân, bà là vợ Thiếu phó Trần Quang Diệu, bà đã cùng chồng xông pha chiến trận và lập được nhiều chiến công. Năm 1791 khi Trần Quang Diệu làm trấn thủ Nghệ An, Bùi Thị Xuân đã đem quân đi đánh bọn Lê Duy Chi và đã bắt được tướng giặc là Hoàng Văn Đồng và Nùng Phúc Tấn. Năm 1802, sau khi lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Ánh mang quân ra Bắc. Bùi Thị Xuân cùng chồng mang quân từ Nam qua Lào để về Nghệ An. Bùi Thị Xuân đã đem năm  nghìn quân công phá rất dữ đồn Đâu Mâu...

Nguyễn Huệ là một vị vua đã dám dùng một phụ nữ làm tướng, và vị nữ tướng Bùi Thị Xuân ấy tỏ ra rất có tài năng. "Quân của bà Thiếu phó" (tức quân của Bùi Thị Xuân) là quân đã gây nhiều nỗi khiếp sợ cho quân Nguyễn. Chỗ khéo của Nguyễn Huệ là ông tin dùng các tướng lĩnh và các quan lại của ông. Ông có can đảm giao cho họ nhiều chức trách trọng yếu, và để cho họ được tự do hành động khiến cho họ có điều kiện để phát huy đầy đủ sáng kiến, tài năng. Do đó, các tướng lĩnh và quan lại của Nguyễn Huệ đều tận tụy với ông, đều vì ông mà trổ hết tài năng.
__________________________________________
1. Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #112 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 11:36:01 pm »


h) Nguyễn Huệ là người có đầu óc thực tế đến cao độ

Nguyễn Huệ là "một người áo vải nổi lên ở ấp Tây Sơn”. Bản thân Nguyễn Huệ cũng luôn luôn nhận ông là "một người áo vải". Nói người áo vải là nói người dân thường trong xã hội phong kiến. Trong khuôn khổ xã hội này, người áo vải luôn luôn phải đối mặt với nhiều thực tế khó khăn: Thực tế của chế độ áp bức phong kiến như sưu cao thuế nặng; sự bóc lột của địa chủ; của sản xuất và trong từng thời kỳ lịch sử lại còn của ách ngoại xâm nữa... Muốn sông còn, người áo vải phải có khả năng giải quyết các vấn đề ấy. Đất nước Việt Nam tuy giàu có nhưng khí hậu của Việt Nam lại khắc nghiệt như lụt lội, hạn hán, gió bão lớn luôn luôn xảy ra. Đất nước Việt Nam lại luôn luôn bị ngoại xâm giày xéo và đe dọa. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam đã bị phong kiến phương Bắc đô hộ đến hơn mười thế kỷ, vậy mà vẫn giữ được tính dân tộc của mình, vẫn tồn tại và phát triển. Được như thế, một phần là vì dân tộc Việt Nam có đầu óc thực tế.

Nguyễn Huệ là một người áo vải, ông đã sống giữa những người áo vải. Ông tiếp thu được tinh hoa đầu óc thực tế của những người này. Nhờ có một đầu óc thực tế cao, mỗi khi nhìn sự vật, Nguyễn Huệ luôn luôn nắm được chỗ cốt yếu của nó. Đối với Nguyễn Huệ, cái thước để đo giá trị của người và việc là tác dụng thực tế của người hay việc đó đối với đời sống xã hội.

Năm 1787, khi ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huệ có tiếp các cựu thần nhà Lê ở điện Chính Trung. Ông liếc mắt nhìn khắp mọi người, rồi hỏi một người: Ông làm chi? - Viên quan kia đáp: Thưa, tôi đỗ thám hoa. Nguyễn Huệ nói: - Thám hoa là cái chi? Đỗ thám hoa có làm được chánh tổng không?

Câu nói này đã minh hoạ khá rõ ràng quan niệm của Nguyễn Huệ đối với khoa cử: Khoa cử không phải là để tạo ra một bọn người thoát ly thực tế, chỉ biết làm thơ làm phú, mà phải là tạo ra những người có khả năng gánh vác công việc xã hội. Do có lối nhìn sự vật trước hết chú ý đến tác dụng thực tế của nó đối với đời sống xã hội, Nguyễn Huệ đã ra lệnh biến các đền từ ở các phủ thành trường học của phủ, và đã tìm biện pháp hạn chế sự mê tín trong nhân dân. Do có đầu óc thực tế, Nguyễn Huệ đã trọng dụng chữ Nôm, và dịch các sách Tứ thư, Ngủ kinh ra chữ Nôm để làm sách giáo khoa ở nhà trường. Dưới thời phong kiến, người ta có thói quen trọng nam khinh nữ, nhưng do có đầu óc thực tế, Nguyễn Huệ đã có can đảm dùng bà Bùi Thị Xuân làm tướng chỉ huy đến năm nghìn quân đi đánh dẹp các nơi. Đầu óc thực tế còn khiến Nguyễn Huệ dám cử ngay Ngô Thì Nhậm làm Tả thị lang bộ Lại, tước Tình phái hầu ngay khi Ngô Thì Nhậm mới về với ông.

Với đầu óc thực tế cao độ của Nguyễn Huệ đã khiến ông tự gạt được nhiều thành kiến và mê tín, để ra được nhiều biện pháp táo bạo có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #113 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 11:37:48 pm »


*
*   *

Khi nghiên cứu về Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ, một nhà sử học đã nhận định rất đúng rằng:

"Xét về các chủ trương, chính sách và hành động của Nguyễn Huệ, chúng ta thấy ông là một nhân vật thông, minh, nhân, trí, hùng, lược rất hiếm có trong lịch sử Việt Nam...

Thông, minh, nhân, trí, hùng, lược đã hoà hợp và gắn chặt với nhau để cùng với các tính tình vui vẻ, lòng yêu văn học, yêu nhân tài, tạo thành cơ sở của con người Nguyễn Huệ"1.

Chính vì bản lĩnh và trí tuệ như vậy, nên trong 21 năm, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã tung hoành suốt dải đất Việt Nam từ đồng bằng sông Cửu Long đến vùng châu thổ sông Hồng. Trong lịch sử Việt Nam, chưa có quân đội nào lại chiến thắng liên tiếp trong một thời gian dài như thế. Trong thời gian đó Nguyễn Huệ đã làm nên một sự nghiệp cực kỳ hiển hách. "Nguyễn Huệ đã ở vào cái thế muốn gì được nấy, đánh đâu thắng đấy. Lá cờ đỏ của quân Tây Sơn chỉ về đâu, thì tình hình nơi ấy nhất định phải thay đổi một phen"2.

Sự nghiệp của Nguyễn Huệ gắn chặt với nguyện vọng của dân tộc Việt Nam hồi cuối thế kỷ XVIII: Thống nhất và bảo vệ đất nước. Nguyễn Huệ đã nhìn thấy nguyện vọng tha thiết của nhân dân, nhiệm vụ lịch sử của dân tộc và ông đã đề ra nhiều biện pháp nhằm thỏa mãn nguyện vọng cũng như hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ ấy.
________________________________________
1, 2. Văn Tân, Con người Nguyễn Huệ, Tạp chí "Nghiên cứu lịch sử” số 72 tháng 3 năm 1965.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #114 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 11:51:58 am »


Câu hỏi 19: Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mãn Thanh kết thúc với thắng lợi rực rỡ, một triều đại mới - triều đại Quang Trung ra đời, hoàn toàn thay thế cho Nhà nước Lê - Trịnh trước đó. Hãy cho biết vua Quang Trung đã tiến hành xây dựng chính quyền, thực thi các chính sách phục hồi và phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp văn hóa, giáo dục như thế nào?
Trả lời:


Từ cuối năm 1788, nhận tước Bắc Bình Vương do Nguyễn Nhạc phong, Nguyễn Huệ trở thành người cai quản thực sự vùng đất từ Quảng Nam trở ra Bắc mặc dầu Bắc Hà còn tồn tại chính quyền của vua Lê. Năm 1788 khi quân Mãn Thanh vào Thăng Long, Nguyễn Huệ đã lập đàn tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Quang Trung. Cuộc kháng chiến kết thúc với thắng lợi rực rỡ của dân tộc, triều đại Quang Trung ra đời, hoàn toàn thay thế cho Nhà nước Lê - Trịnh trước đó. Trong bối cảnh của xã hội Đại Việt ở cuối thế kỷ XVIII, việc lên ngôi của Nguyễn Huệ, xây dựng triều đại mới là điều tất yếu. Sự kiện này cũng đánh dấu sự kết thúc của phong trào nông dân.

a) Về tổ chức chính quyền:

Từ năm 1788, sau khi tiêu diệt lực lượng của Nguyễn Hữu Chỉnh, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã cử các võ tướng của mình cai quản các trấn ở Bắc Hà. Năm 1789, triều đình mới được tổ chức quy củ. Hoàng đế nắm mọi quyền hành. Công chúa Ngọc Hân (con vua Lê Hiển Tông) được phong làm Bắc cung hoàng hậu. Nguyễn Quang Toản được lập làm thái tử. Bên dưới hình thành một lớp quan cao cấp, bao gồm các chức tam Thái, tam Thiếu, tam Tư, đại tổng quản, đại đổng lý... Công việc nhà nước được phân cho 6 bộ do thượng thư đứng đầu, viện Hàn lâm, Ngự sử đài, viện Sùng chính... Các đơn vị hành chính địa phương vẫn giữ như cũ. Trấn do trấn thủ là võ quan đứng thứ đầu, giúp việc có hiệp trấn là văn quan. Các huyện đều đặt 2 chức văn phân tri và võ phân suất trông coi. Tổng có tổng trưởng, xã có xã trưởng.

Quang Trung cũng thực hiện chế độ phân phong các con trấn trị các khu vực quan trọng như Quang Thùy phụ trách Bắc thành tiết chế, Quang Bàn đốc trấn Thanh Hoa.

Hàng ngũ quan lại bao gồm thân thuộc của nhà vua (như Bùi Đắc Tuyên), các võ tướng Tây Sơn và các cựu thần nhà Lê tự nguyện hợp tác với triều Tây Sơn (như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Thế Lịch, Trần Bá Lãm, Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Thiếp, Bùi Dương Lịch, v.v...). Quang Trung rất trận trọng những nho sĩ này và thường giao cho các chức vụ quan trọng.

Các quan lại đều được bổng lộc theo chế độ hưởng tô thuế một hay vài xã, một số quan chức cao cấp, có công thì được cấp thêm ruộng đất (như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, v.v...), tuy không nhiều (25 - 30 mẫu).

Để tiện việc điều hành, Quang Trung quyết định chọn đất thành lập kinh đô mới. Việc xây dựng được xúc tiến ngay sau khi chọn vùng chân núi Dũng Quyết (gần Bến Thủy - Nghệ An) làm trung tâm với tên gọi Phượng Hoàng trung đô.

Quân đội được kiện toàn và củng cố, bao gồm thủy binh, bộ binh, tượng binh, kỵ binh và pháo binh. Chiến thuyền có nhiều loại, có loại lớn chở được voi chiến, trang bị 50, 60 đại bác, chở được 500 - 700 quân. Vũ khí có giáo mác, cung tên, súng trường, đại bác, hỏa hổ. Để huy động lực lượng nhân dân, Quang Trung đã tiến hành việc lập lại sổ hộ ở các xã.

Nhân đinh được chia làm 3 hạng:
9-17 tuổi: vi cập cách.
18-55 tuổi: tráng hạng.
56-60 tuổi: lão hạng.
Trên 60 tuổi: lão nhiêu.

Tất cả trai tráng, không phân biệt sang hèn, xuất thân đều phải ghi tên vào sổ hộ. Để tránh tình trạng ẩn lậu, trốn tránh, nhà nước phát thẻ tín bài trên khắc 4 chữ "Thiên hạ đại tín" cho mọi dân đinh, đi đâu đều phải mang theo vì có ghi họ tên, quê quán và điểm chỉ.

Về luật pháp, Quang Trung đã có dự kiến cho người soạn thảo một bộ luật mới cho triều đại mình, song không làm được. Thời Quang Toản đã có một bộ Hình thư mới, nhưng nay không còn nữa.

Trên cơ sở bộ máy nhà nước mới, Quang Trung cố gắng củng cố trật tự, an ninh đất nước. Bấy giờ, mặc dầu phần lớn nhân dân đã hướng về triều vua mới, không ít cựu thần nhà Lê, hào lý địa phương vẫn chưa chịu từ bỏ mưu đồ phục hồi nhà Lê và chế độ cũ. Một số người được sử dụng, giao nhiều trọng trách ở địa phương đã không chịu nhìn nhận tính tiến bộ của triều vua mới, nên tìm cách xuyên tạc, phá hoại các chính sách của nhà nước. Năm 1789, một số thổ tù vùng Tuyên Quang, Cao Bằng đã tôn Lê Duy Chi (em ruột Chiêu Thống) làm minh chủ, mộ quân đánh Cao Bằng, Tuyên Quang và mưu kéo xuống đánh úp thành Nghệ An. Đốc trấn Nghệ An là Trần Quang Diệu đã đánh tan âm mưu đó, truy đuổi chúng và bắt sống Lê Duy Chi. Các cuộc bạo động ở Nghệ An, Hải Dương, Bắc Giang cũng nhanh chóng bị đàn áp. Tình hình dần dần tạm ổn định.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #115 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 11:53:13 am »


b) Phục hồi và phát triển kinh tế:

Tình hình Bắc Hà những năm 1788-1789 hết sức khó khăn, sử cũ đã viết: "Luôn năm mất mùa đói kém, dân gian trôi dạt lưu ly, cha con không thể nuôi nhau, anh em không thể nương nhau"; ở Thanh Hóa thì "một hạt thóc cũng không có... sau cuộc binh hỏa, dịch tật thịnh hành, chết không biết bao nhiêu mà kể", còn ở Nghệ An thì theo Nguyễn Thiếp: "Mất mùa, dịch tễ, kẻ thì chết đói, người thì phiêu bạt", ruộng đất bỏ hoang hóa khắp nơi.

- Nông nghiệp: Một trong những việc làm đầu tiên của triều vua Quang Trung là nhanh chóng phục hồi sản xuất nông nghiệp. Năm 1789, “chiếu khuyến nông" được ban bố: "Đạo lo cho dân không gì bằng hồi phục dân lưu tán, khai khẩn ruộng bỏ hóa...", "... từ lúc trải qua loạn lạc đến nay, binh lửa liên miên bận rộn, lại thêm đói kém, nhân khẩu lưu tán, đồng ruộng bỏ hoang. Số đinh điền thực trưng mười phần không còn được 4 - 5..." và quy định:

    + Dân lưu tán phải nhanh chóng trở về quê cũ, xã nào chứa chấp người trốn tránh phải bị trừng phạt. Làng xã phải cung cấp ruộng đất công cho họ cày cấy, nộp thuế.

    + Hạn đến tháng Chín năm Kỷ Dậu (tức tháng 10 năm 1789) xã phải làm xong sổ ruộng nộp lên.

    + Hạn trong 3 năm, ruộng đất trong xã đều phải được cày cấy. "Ruộng hoang xã nào đến hạn mà không có người nhận khai khẩn, nếu là ruộng công thì sắc mục xã ấy phải theo mức thuế mà nộp gấp đôi, nếu là ruộng tư thì sung công, nộp thuế như ruộng công".

Mặc dầu chính quyền Quang Trung chưa có những chính sách nhằm giải quyết vấn đề ruộng đất cuối thế kỷ XVIII ở Đàng Ngoài, "chiếu khuyên nông" với tính cưỡng bức của nó đã có những hiệu quả đáng kể. Theo sử cũ, trong vòng 3 - 4 năm sau "mùa màng trở lại phong đăng, năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình". Chính bài phú Tụng Tây hồ của Nguyễn Huy Lượng cũng nói lên điều này:

      "Qua Canh Tuất (1790) lại tưới cơn thời vũ, cỏ cây đều gội đức chiêm nhu”.

Tuy nhiên, việc giữ nguyên tình trạng chiếm hữu ruộng đất đã có trong hàng chục năm tiếp theo không phải không hạn chế dần những thành quả của phong trào Tây Sơn. Cuộc sống của người nông dân trở lại với trạng thái cũ, cuối thời Lê - Trịnh.

- Công thương nghiệp: Với mong muốn xây dựng một nền kinh tế công thương nghiệp phát triển, chính quyền Quang Trung chủ trương khuyến khích phục hồi và mở rộng các làng thủ công cũng như việc trao đổi buôn bán trong nước và với nước ngoài.

Bài phú Tụng Tây hồ đã có những câu: "Lò Thạch Khôi khói tuôn nghi ngút", "Thoi oanh nọ ghẹo hai phường dệt gấm, lửa đóm nhen năm xã gây lò" hoặc "Yên Thái nện trong sương chểnh choảng", v.v... Nhà thơ Phan Huy Diệu cũng thừa nhận ở vùng Bát Tràng "chợ phố đông đúc, hàng bày đầy ắp, mái chèo đi lại tới tấp". Đối với thương nhân nước ngoài, Quang Trung khuyến khích họ chở hàng hóa đến trao đổi, tránh việc chở vũ khí viện trợ cho nhóm Nguyễn Ánh. Ở vùng biên giới Việt - Trung, Quang Trung cũng đề nghị nhà Thanh cho thương nhân hai nước được qua lại buôn bán ở vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Nam Ninh...

- Tài chính: Chính quyền Quang Trung cho đúc tiền mới để tiêu dùng. Thuế khóa được định lại từ thuế ruộng đất các loại đến thuế thân, phụ thu, các loại thuế công thương nghiệp...

Nhìn chung, sau một thời gian thực hiện khẩn trương các chính sách kinh tế, cuộc sống của nhân dân ở vùng đất của triều đại Quang Trung trở lại ổn định với một số biểu hiện mở rộng về mặt công thương nghiệp.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #116 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 11:53:41 am »


c) Văn hóa, giáo dục:

Cũng như các triều đại phong kiến trước, chính quyền Quang Trung vẫn tôn sùng Nho giáo nhưng tỏ ra rất rộng rãi với các tôn giáo khác. Một số chùa được phục hồi, tu bổ. Những nhà sư có đạo đức, sùng đạo đều được phép trụ trì ở các chùa, tiếp tục giảng đạo hàng năm, những kẻ "trốn việc quan đi ở chùa", "sư hổ mang" đều bị bắt hoàn tục. Các giáo sĩ đạo Kitô được tự do truyền đạo và được tôn trọng nếu họ chỉ làm việc tôn giáo của mình.

Chữ Nôm được đề cao lên vị trí chữ viết chính thức của dân tộc. Theo quy định của Quang Trung, mọi chiếu chỉ, mệnh lệnh, văn tế, thư từ của nhà nước đều phải viết bằng chữ Nôm. Nhờ đó, chữ Nôm ngày càng được sử dụng rộng rãi trong giới trí thức, trong nhân dân. Nhiều nhà thơ Nôm nổi tiếng xuất hiện (như Nguyễn Huy Lượng, Lê Ngọc Hân, Hồ Xuân Hương...).

Quang Trung cũng chủ trương đưa chữ Nôm vào giáo dục và khoa cử. Năm 1791, ông cho thành lập viện Sùng chính, mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp làm viện trưởng. Một số nhà nho giỏi cũng được đưa vào đây để chuyên dịch các sách thi, thư ra chữ Nôm chuẩn bị làm tài liệu giáo dục cho nhân dân cả nước. Quang Trung cũng ban "chiếu lập học" lệnh cho các xã thành lập nhà xã học, chọn ngươi hay chữ và có đức hạnh làm thầy  giáo. Một số chùa cũng được dùng làm chỗ dạy học. Phương pháp học tập của người học cũng được chấn chỉnh theo đúng tinh thần kết hợp học với hành như đề nghị của Nguyễn Thiếp "theo điều học biết mà làm, họa may nhân tài mới có thể thành tựu, nhà nước nhờ đó mà được vững yên". Những "sinh đồ 3 quan" thời Lê - Trịnh, sau khi thi lại mà không đạt bị thải về quê. Năm 1789, kỳ thi Hương đầu tiên được tổ chức ở Nghệ An. Thí sinh phải thi thơ phú bằng chữ Nôm.

Chính sách văn hóa, giáo dục cũng như thực trạng tôn giáo, học hành thi cử thời Nguyễn - Quang Trung đã thể hiện rõ sự bùng lên của ý thức dân tộc, của mong muốn vươn lên tiên tiến của người dân đương thời.

Triều đại Quang Trung đang đi dần vào thế ổn định với xu thế tiến bộ, cuộc sống của nhân dân cũng đang hồi phục, thì tháng 9 năm 1792, Quang Trung mất đột ngột (40 tuổi). Hơn 4 năm cầm quyền trong bối cảnh một đất nước vừa thoát ra khỏi cảnh suy thoái, loạn lạc, chiến tranh ác liệt, người anh hùng "áo vải" Quang Trung chưa thể làm gì hơn để đưa xã hội phong kiến Đại Việt vượt qua được cuộc khủng hoảng, vươn mình lên cùng thế giới tiên tiến.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #117 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 11:54:29 am »


Câu hỏi 20: Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự, một trong những tướng lĩnh tài giỏi bậc nhất của dân tộc Việt Nam. Hãy cho biết một số nét cơ bản về thiên tài quân sự của ông?
Trả lời:


Từ tính cách và con người của Nguyễn Huệ cùng với những chiến công rực rỡ của ông, chúng ta thấy Nguvễn Huệ là một thiên tài quân sự. Nhìn bao quát toàn bộ các hoạt động quân sự của ông, nổi bật là: thường hành quân rất nhanh chóng, tấn công táo bạo và thắng rất nhanh. Để tìm hiểu thiên tài quân sự của ông, chúng ta có thể thấy một số nét cơ bản sau đây:

Một là, kết hợp quân sự và chính trị:

Nguyễn Huệ cũng như anh là Nguyễn Nhạc, là một nhà quân sự biết kết hợp khéo léo chính trị và quân sự, coi chính trị và quân sự là hai bộ phận hữu cơ của một nhiệm vụ: Đánh đổ chế độ áp bức Nguyễn - Trịnh. Mọi người đều biết rằng năm 1771 khi dựng cờ nghĩa ở ấp Tây Sơn, các lãnh tụ của nghĩa quân tuyên bố: Nghĩa quân phải đứng lên là để đánh đổ hà chính của Trương Phúc Loan và tôn phù hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương lên làm chúa. Thái độ của nghĩa quân Tây Sơn kết quả đã phân hóa sâu sắc hàng ngũ chúa Nguyễn, làm cho nội bộ chúa Nguyễn chia ra làm hai phái lớn: Phái cố bám lấy Trương Phúc Loan và phái ủng hộ Nguyễn Phúc Dương chống lại Trương Phúc Loan, ủng hộ Nguyễn Phúc Dương về danh nghĩa là ủng hộ một phe phái của chúa Nguyễn, nhưng về thực tế là ủng hộ nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đứng đầu. Lực lượng của chúa Nguyễn (cũng tức là lực lượng của Trương Phúc Loan) vốn đang yếu, vì vậy lại càng thêm yếu, và lực lượng của nghĩa quân Tây Sơn vốn đang phát triển, vì vậy lại càng có điều kiện phát triển thuận lợi. Năm 1786, Nguyễn Huệ mang quân ra đánh Bắc Hà, ông đưa ra khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh". Sự thực thì vua Lê lúc này cũng thời nát như chúa Trịnh. Nhưng khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh" đã chia rẽ đối phương, trung lập được họ Lê và cô lập họ Trịnh đến triệt để. Nhờ vậy, khi tiến quân ra Bắc, Nguyễn Huệ đã đánh bại quân Trịnh một cách khá dễ dàng. Sau khi đánh đổ họ Trịnh, Nguyễn Huệ thực sự làm chủ Bắc Hà. Khi Nguyễn Huệ bảo Nguyễn Hữu Chỉnh: "Ta mang vài vạn quân ra đây, đánh một trận lấy được Bắc Hà. Vậy thì một thước đất, một người dân bây giờ không phải của ta thì của ai vào đấy nữa? Dẫu ta muốn xưng đế, xưng vương chi chi, ai còn dám làm gì ta đặng?" là ông đã nói ra một sự thật. Nguyễn Huệ đánh chiếm được Bắc Hà, nhưng về mặt pháp lý, ông vẫn chưa dám tự nhận là chủ Bắc Hà, là vì ông biết ở Bắc Hà, trong nhân dân và nho sĩ vẫn còn có nhiều người luyến tiếc nhà Lê. Năm 1787 sau khi sai Vũ Văn Nhậm đem quân Tây Sơn ra Bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ vẫn để cho Lê Duy Cẩn làm giám quốc bù nhìn. Nguyễn Huệ chỉ chính thức lên ngôi hoàng đế thay nhà Lê làm chủ Bắc Hà khi Lê Chiêu Thống đã công nhiên rước quân Thanh vào xâm lược Việt Nam, khi nhân dân đã chán ghét nhà Lê. Nguyễn Huệ quả là nhà quân sự biết chú ý đến chính trị, biết kết hợp tài tình chính trị và quân sự, biết đem chính trị phục vụ quân sự, biết dùng quân sự để đạt mục đích chính trị. Ông đánh đâu thắng đấy, và thường rất nhanh, một phần là vì ông khéo kết hợp chính trị và quân sự vậy.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #118 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 11:54:57 am »


Hai là, đánh vào mục tiêu chiến lược trọng yếu nhất:

Trong các hoạt động quân sự của ông, Nguyễn Huệ biết tập trung lực lượng đánh vào chỗ trọng yếu nhất của đối phương, do đó ông giải quyết chiến dịch rất gọn gàng, nhanh chóng. Năm 1777, Nguyễn Huệ mang quân vào Gia Định, chỉ một trận ông đã đánh tan quân của Lý Tài, đuổi Nguyễn Phúc Dương chạy về Trà Tân. Cũng năm 1777, chỉ một trận, Nguyễn Huệ hạ được Ba Vạc, bắt sống được Duệ Tôn và Nguyễn Phúc Dương ở Long Xuyên. Năm 1784, 300 chiến thuyền và 50.000 quân Xiêm đã bị Nguyễn Huệ phá gọn trong một trận ở Rạch Gầm - Xoài Mút. Đến trận đại phá 29 vạn quân Thanh hồi đầu năm 1789 thì thật là kỳ lạ. Cuối năm 1788 lộ quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy đã chiếm Thăng Long. Tiền đội quân Thanh thọc sâu đến tận Hà Nam, còn ở Hà Hồi, Ngọc Hồi, Nhân Mục, Khương Thượng, Đại Áng, Yên Quyết, quân Thanh đều dựng nên những đồn rất kiên cố để che chở cho Thăng Long tại mặt nam và mặt tây. Đạo quân Vân Quý do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy cũng đã vượt Tuyên Quang và đến cuối năm 1788 đã đến đóng ở Phú Thọ, Sơn Tây... Để phá 29 vạn quân xâm lược, Nguyễn Huệ đã vận dụng một chiến lược khác hẳn chiến lược của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi. Chiến lược của Nguyễn Huệ không phải là chiến lược phòng ngự tích cực của Lý Thường Kiệt, cũng không phải là chiến lược kháng chiến lâu dài của Trần Hưng Đạo hay của Lê Lợi, mà là chiến lược đánh nhanh thắng nhanh. Đây là một chiến lược được vận dụng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đối với quân xâm lược phương Bắc. Tình thế buộc Nguyễn Huệ phải đánh nhanh thắng nhanh. Sau khi cho Tôn Sĩ Nghị thống suất 29 vạn quân theo đường bộ sang đánh Việt Nam, vua Càn Long nhà Thanh còn định cho thủy quân ở Phúc Kiến và Quảng Đông vượt biển đánh vào Thuận Hóa và Quảng Nam. Hồi cuối năm 1788 và đầu năm 1789, thủy quân Thanh chưa xuất phát. Nếu thủy quân Thanh xuất phát đánh vào Thuận Quảng thì quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ bị kẹp vào giữa. Lúc ấy những kẻ theo chúa Nguyễn ở Đàng Trong và những kẻ theo vua Lê ở Đàng Ngoài sẽ nổi lên làm nội ứng cho quân Thanh, lúc ấy quân Tây Sơn sẽ bị hãm vào một tình thế rất gay go, phức tạp: Nếu không sớm bị tiêu diệt, thì cũng phải rút về thủ hiểm ở núi rừng. Muốn khỏi phải đối phó một lúc với hai mặt trận (mặt trận quân bộ của Tôn Sĩ Nghị ở Bắc và mặt trận do thủy quân Mân Việt tạo ra ở miền Nam). Nguyễn Huệ phải dốc lực lượng tiêu diệt 29 vạn quân của Tôn Sĩ Nghị cho nhanh. 29 vạn quân này không phải đóng ở một nơi, mà đóng ở nhiều nơi: Chúng đóng ở Hải Dương, ở Thị Cầu, ở Phú Thọ, ở Sơn Tây, ở Thăng Long, ở Phú Xuyên, ở Hà Nam. Tiêu diệt các đạo quân Vân Quý đóng ở Sơn Tây, Phú Thọ thì tương đối dễ dàng. Tiêu diệt cánh quân Thanh đóng ở Hải Dương cũng không có gì khó khăn cho lắm. Nhưng tiêu diệt được các căn cứ quân Thanh ở Phú Thọ, Sơn Tây, Hải Dương, chưa phải là đã lay chuyển nổi căn cứ quân Thanh ở Thăng Long. Căn cứ chính của quân Thanh còn, thì từ đây Tôn Sĩ Nghị vẫn có thể tung quân đi cứu viện các nơi. Chiến tranh như vậy sẽ kéo dài. Và hễ chiến tranh kéo dài, thì thủy quân Mân Việt của nhà Thanh vẫn có đủ thì giờ đổ bộ vào Thuận Quảng, quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ vẫn có thể bị kẹp vào hai gọng kìm nguy hiểm... Nguyễn Huệ đã chọn Thăng Long làm mục tiêu cuộc tấn công lớn và vô cùng táo bạo của ông. Vì hễ thanh toán xong quân Thanh ở Thăng Long là ông thanh toán được toàn bộ quân Thanh ở Bắc Hà, các cánh quân Thanh đóng ở các nơi như: Phú Thọ, Sơn Tây, Tuyên Quang, Thị Cầu, Việt Trì, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương sẽ buộc phải rút lui cho sớm để tránh khỏi bị tiêu diệt. Đánh vào căn cứ chính của quân Thanh ở Thăng Long và chung quanh Thăng Long là đánh vào đầu quân địch khiến cho toàn bộ thân thể và chân tay của chúng rã rời. Muốn đánh vào Thăng Long và giành được thắng lợi phải có chí ít hai điều kiện: Một là những tin tức tình báo rất đầy đủ về quân Thanh, hai là quyết tâm chiến đấu của quân đội đến cao độ. Hai điều kiện này, cuối năm 1788, Nguyễn Huệ có đầy đủ cả. Khi gặp bọn Ngô Thì Nhậm ở núi Tam Điệp, Nguyễn Huệ có nói: "Nay ta đến đây, tự đốc việc quân, đánh hay giữ đã có kế cả rồi, chỉ trong mười ngày nữa, thế nào ta cũng quét sạch quân Thanh...". Khi cho ba quân ăn tết trước ở núi Tam Điệp, Nguyễn Huệ lại tuyên bố: "Nay hãy tạm ăn Tết Nguyên đán trước. Đợi đến sang xuân ngày mồng 7 vào Thăng Long lại mở tiệc ăn mừng. Các ngươi cứ ghi lấy lời nói của ta xem có sai không?". Với những câu này, Nguyễn Huệ tỏ ra nắm rất vững tình hình quân địch, vì chỉ có nắm vững tình hình quân địch mới dám quả quyết rằng đến ngày mồng 7 tháng Giêng sẽ ăn Tết khai hạ ở Thăng Long. Thực tế đã chứng minh lời vua Quang Trung là hoàn toàn chính xác.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #119 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2016, 11:55:20 am »


Ba là, hành động bất ngờ:

Trong các hoạt động quân sự của ông, Nguyễn Huệ luôn luôn giữ vững nguyên tắc là không bao giờ làm cái gì mà quân địch có thể nghĩ là mình định làm như thế. Có nghĩa là đối với quân địch phải luôn luôn có hành động bất ngờ, đừng để cho quân địch có thể đoán trước được hành động của mình. Đối với quân địch càng hành động bất ngờ được bao nhiêu thì càng có điều kiện thắng lợi bấy nhiêu. Nguyên tắc này không những ăn sâu vào Nguyễn Huệ mà còn ăn sâu vào các tướng lĩnh khác của quân đội Tây Sơn. Năm 1787, quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy ra Bắc đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Tướng của Nguyễn Hữu Chỉnh là Nguyễn Như Thái và Ninh Tôn đem quân tiến vào Thanh Hóa đón đánh quân Tây Sơn. Qua bên đò Gián Khẩu, Nguyễn Như Thái sai quân đóng giữ bến Gián, rồi tự dẫn đại quân theo đường tắt đến bến đò Nghệ (thuộc trại Nghệ, làng Đại Hữu, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình) để đánh vào lưng quân Tây Sơn. Quân của Như Thái mới đến làng Điểm Xá (thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) thì gặp quân Tây Sơn. Như Thái bị quân Tây Sơn đánh bại phải quay trở lại. Trong khi Như Thái hành quân, thì quân của Vũ Văn Nhậm đã vượt núi Tam Điệp. Quân của Như Thái chưa đến núi Tam Điệp đã thấy quân Tây Sơn hiện ra trước mặt. Hoảng sợ, Như Thái vỗ ngựa kêu to: "Chết rồi! Sao chúng nó nhanh như thế?!". Quân Tây Sơn vượt dãy Tam Điệp vào lúc Nguyễn Như Thái không ngờ, cho nên quân của Như Thái bị quân Tây Sơn đánh bại và Như Thái bị quân Tây Sơn bắn chết ngay tại trận. Cuối năm Mậu Thân (1788) và đầu năm Kỷ Dậu (1789), Tôn Sĩ Nghị bố trí sự phòng thủ Thăng Long khá cẩn thận. Ở gần huyện Phú Xuyên, trên đường Hà Nội - Hà Nam, quân Thanh có đồn Hà Hồi, sau đồn Hà Hồi có đồn Ngọc Hồi cách Hà Nội mười hai cây số. Đồn Ngọc Hồi là một vị trí rất kiên cố, có một lực lượng quan trọng đóng giữ. Sau đồn Ngọc Hồi còn có đồn Văn Điển, Khương Thượng, đồn Nhân Mục, Yên Quyết. Như vậy là ở phía tây và phía nam thành Thăng Long, quân Thanh đã phòng thủ khá vững vàng. Trái lại, ở phía đông và phía bắc thành Thăng Long, quân Thanh hình như không lập phòng tuyến nào, hay có lập phòng tuyến, nhưng không đáng kể. Tôn Sĩ Nghị cho phòng thủ ở phía tây và phía nam, mà ít chú ý phòng thủ ở phía bắc và phía đông thành Thăng Long, vì y cho rằng nếu quân Tây Sơn có ra đánh Thăng Long, thì họ cũng chỉ có thể đánh ở phía tây và phía nam mà thôi. Vì vậy, Tôn Sĩ Nghị bố trí phòng thủ rất kiên cố ở phía tây và phía nam. Do đã bố trí phòng thủ cẩn thận ở phía tây và phía nam, Tôn Sĩ Nghị lại nghĩ rằng quân Tây Sơn không thể đánh vào Thăng Long từ phía tây và phía nam nhất là trong dịp Tết Nguyên đán năm Kỷ Dậu. Cuối năm Mậu Thân khi các quan nhà Lê xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân đánh quân Tây Sơn, Sĩ Nghị cười và nói: "Hết năm đến nơi rồi. Việc gì phải hấp tấp như thế. Không cần phải đánh vội. Quân giặc đang gầy, ta đang nuôi cho chúng béo để cho chúng tự đến dâng thịt". Khi nói câu này, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra không tin rằng quân Tây Sơn lại có thể cất quân vào dịp Tết Nguyên đán để đánh vào một hệ thống đồn lũy phòng thủ rất kiên cố mà quân Thanh đã dựng lên ở phía tây và phía nam thành Thăng Long. Cho nên, trong lúc quân Tây Sơn đã hạ đồn Hà Hồi, rầm rộ tiến đánh đồn Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị vẫn ung dung ngồi thưởng xuân ở Tây Long cung cùng với một bầy tướng lĩnh cũng chủ quan khinh địch như Tôn Sĩ Nghị. Đầu năm 1789, Nguyễn Huệ đã đại phá 29 vạn quân Thanh trong một trận, một phần là vì ông đã biết triệt để vận dụng nhân tố bất ngờ khiến cho quân Thanh trở tay không kịp.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM