Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 06:37:40 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn  (Đọc 39638 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #100 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 08:51:55 am »


Câu hỏi 17: Nguyễn Nhạc (Nguyễn Văn Nhạc), người khởi xướng và là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, vua đầu tiên của triều Tây Sơn. Hãy cho biết đôi nét về thân thế và sự nghiêp của ông?
Trả lời:


Nguyễn Nhạc (Nguyễn Văn Nhạc, chưa rõ năm sinh, mất năm 1793), quê gốc Nghệ An, sinh tại Kiên Mỹ, phủ Quy Nhơn (nay thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định).

Từ nhỏ, anh em Nguyễn Nhạc được đi học và có thời gian đã theo học thầy giáo Hiến. Giáo Hiến nguyên là môn khách của Trương Văn Hạnh, ngoại hữu dưới thời Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777). Sau vì Hạnh bị Trương Phúc Loan giết, giáo Hiến sợ bị liên lụy phải chạy vào Quy Nhơn, mở trường dạy học ở ấp Yên Thái. Lúc đó quyền thần Trương Phúc Loan tác oai tác quái, lòng người ai cũng căm ghét. Hàng ngày được học với giáo Hiến, anh em Tây Sơn lại được thúc giục bởi những câu sấm đầy khích lệ: "Tây khởi nghĩa, Bắc thụ công". Giáo Hiến còn nói cụ thể hơn:

- Anh là người Tây Sơn, hãy cố đi!

Nguyễn Nhạc xuất thân làm biện lại (thu thuế ở một trạm thuế trong vùng) nhưng vụ thuế năm Tân Mão (1771), thu được bao nhiêu Nguyễn Nhạc đánh bạc hết sạch. Để tránh sự truy tố của nhà cầm quyền, Nhạc bỏ trốn cùng hai em vào ở núi Thượng Đạo, ấp Tây Sơn, dựng trại, lập đồn, xưng hùng khởi nghĩa. Cơ nghiệp triều Tây Sơn bắt đầu từ đây.

Theo anh em Tây Sơn là những người can đảm đã từng bôn ba, bị cuộc sống dồn nén, xô đẩy đến bước đường cùng phải cầm vũ khí; lại có cả những người thuộc các dân tộc miền thượng du vùng nam Trường Sơn... Bước đầu nghĩa quân đã có vài nghìn người. Anh em Tây Sơn thường sai quân đi cướp của những nhà giàu trong vùng rồi phân phát cho dân nghèo. Lúc bấy giờ trong vùng Quy Nhơn có Huyền Khê là một tay giàu có, ngầm giúp họ về tài chính. Nhờ đó Tây Sơn mộ lính sắm khí giới và theo đuổi mục tiêu cao hơn: lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ Hoàng Tôn Dương.

Mùa thu năm Quý Tỵ (1773), Tây Sơn đem quân ra đánh ấp Kiên Thành, chia đặt cơ quan cai quản trong vùng họ kiểm soát: Chúa trại nhất Nguyễn Nhạc kiểm soát hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn; Chúa trại nhì Nguyễn Thung phụ trách huyện Tuy Viền; còn Chúa trại ba Huyền Khê cung cấp lương thực quân nhu... Họ không chỉ mở rộng vây cánh ở trong vùng như chiêu dụ những tay lục lâm Nhưng Huy và Tứ Linh mà còn liên lạc với nước ngoài, mật ước với nữ chúa Chiêm Thành đem quân sang đóng ở trại Thạch Thành làm thế ỷ giốc. Công việc sắp đặt và mưu mô ban đầu đều do Nguyễn Nhạc, một con người cơ trí và đóng vai trò chủ động. Bằng mưu kế trá hàng của Nguyễn Nhạc, quân Tây Sơn chỉ trong một đêm đã lấy được thành Quy Nhơn, sau đó tiến đánh Quảng Ngãi. Dưới chiêu bài tôn phò Đông Cung Dương, họ đánh chiếm được Phú Yên. Năm Bính Thân (1776), Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn Vương, đúc ấn vàng, phong cho hai em: Nguyễn Huệ làm Phụ chính, Nguyễn Lữ làm Thiến phó. Những người có công theo giúp cũng theo thứ bực ban thưởng. Tây Sơn Vương đóng đô tại thành Đồ Bàn, trữ lương thực, luyện binh lính, điểm duyệt tướng sĩ, thu dùng những tay hào kiệt, lực lượng phát triển nhanh chóng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #101 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 08:53:19 am »


Giảng hòa với quân Trịnh, năm Đinh Dậu (1777) Nguyễn Nhạc được phong làm Quảng Nam trấn thủ tuyên úy Đại sứ cung quốc công. Từ đó quân Tây Sơn dốc toàn lực tấn công quân Nguyễn ở phía nam. Hai đạo quân thủy bộ do Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cầm đầu rầm rộ tiến vào Gia Định: Nguyễn Phúc Thuần và Đông Cung Dương đều bị chết trong trận đánh ở Long Xuyên, chỉ còn Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo Thổ Châu, sau chạy sang Xiêm ẩn náu.

Năm Mậu Tuất (1778), sau khi đã giết được chúa Nguyễn, đánh tan lực lượng của chúa Nguyễn ra khỏi cõi, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, thành lập một vương triều mới, đặt niên hiệu là Thái Đức, phong Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân.

Bấy giờ thấy vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc lấy hiệu bằng hai chữ "Thái Đức", có người hiếu sự, đoán chiết tự hai chữ "Thái" và chữ "Đức" mà phán rằng: "Ba người tranh một nước", "mười bốn năm nữa sẽ mất". Có người còn đoán định mệnh nhà Tây Sơn bằng câu: "Thập nhị niên cường, kỳ cường mạc ngự" (Mạnh mười hai năm, cái mạnh ấy không ai chống nổi).

Từ lúc khởi binh năm Tân Mão (1771) đến năm Nguyễn Nhạc lên ngôi năm Mậu Tuất (1778) anh em nhà Tây Sơn đã phải chiến đấu trong 8 năm trường.

Năm Giáp Thìn (1784), quân đội Tây Sơn đã đánh tan 5 vạn quân với 300 chiến thuyền giặc Xiêm do Nguyễn Ánh cầu viện về để cứu giúp mình ở Rạch Gầm - Xoài Mút. Năm Bính Ngọ (1786), theo lệnh của Hoàng đế Nguyễn Nhạc, Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem đại quân ra hạ thành Thuận Hóa của quân Trịnh tháng 5 năm Bính Ngọ (1786) và một tháng sau - ngày 25 tháng 6 quân đội Tây Sơn đã tiến vào cố đô Thăng Long, thực hiện khẩu hiệu "phù Lê diệt Trịnh".

Sau nhiều chiến thắng lẫy lừng, uy danh của Nguyễn Huệ ngày càng vang dội. Nghe tin Nguyễn Huệ đã lấy được thành Thăng Long, Nguyễn Nhạc cả sợ, cho rằng Nguyễn Huệ giữ quân ở ngoài, khó bề kiềm chế nổi, liền lấy 500 thân binh ra Phú Xuân chọn thêm quân tinh nhuệ đi gấp ra Bắc. Vua Lê biết tin vua Tây Sơn thân hành ra Thăng Long, đem trăm quan ra ngoài cõi để đón. Nguyễn Nhạc thúc quân đi mau, sai người đến hẹn với vua Lê hôm khác sẽ đến ra mắt. Còn Nguyễn Huệ ra tận ngoại ô đón tiếp và tạ tội tự chuyên của mình. Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc nói:

- Tướng ở bên ngoài, nếu gặp việc biến thì cứ tự ý mà làm cũng được. Bắc Hà có thể lấy được, mà chú lấy ngay được, đó là nhờ thần diệu trong phép dùng binh... Nhưng mà mình đi đánh nước khác, kéo quân vào sâu trong xứ sở của người ta, một chốc làm thay đổi hết nền nếp cũ của họ như thế, tránh sao khỏi sự thù oán của muôn họ. Anh luôn luôn lo ngại đến những việc bất ngờ có thể xảy ra, vì vậy phải lật đật ra ngay đây để nghĩ kế đỡ chú.

Tới phủ, Nguyễn Huệ dắt công chúa Ngọc Hân ra chào và nói hết cả sự thật với anh. Vua Tây Sơn khen:

- Chà, em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam, "môn đăng hộ đối", mối nhân duyên thật đẹp!

Rồi lại bảo công chúa rằng:

- Người quý giá như thế này, thực không hổ là cô em dâu của nhà ta.

Hai anh em ôn tồn trò chuyện thân mật như anh em nhà thường dân vậy. Hồi lâu, công chúa cáo từ lui ra, Nguyễn Huệ sai quây màn ở cung chính tẩm, mời anh vào nghỉ; còn tự mình thì chuyển ra ngủ ở Gác Kỳ Lân.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #102 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 08:54:01 am »


Quân lính của Nguyễn Huệ đem đi trước đây, các đội ngũ đều đã thay đổi. Nay Nguyễn Huệ đem binh phù nộp cả lại cho anh. Vua Tây Sơn nắm được binh quyền trong tay rồi, bèn bố trí lại đội ngũ y như cũ. Từ đó tướng sĩ chỉ tuân theo mệnh lệnh của nhà vua.

Buổi lễ gặp mặt hai vua diễn ra ngay sau đó tại bản doanh của vua Tây Sơn: Nguyễn Nhạc đứng chắp tay trên thềm, sai Nguyễn Huệ ra đón rước vua Lê. Vì là nghi lễ "hai vua gặp nhau" cho nên không ai phải lạy ai. Khi mọi người đã an tọa, vua Tây Sơn liền hỏi:

- Hoàng thượng năm nay xuân thu độ bao nhiêu?

Viên quan đi theo đáp thay vua Lê, rồi nhân đó tiếp rằng:

- Quốc quân họ Lê chúng tôi gặp phải họ Trịnh lấn quyền lộng thổ, mũ dép đảo lộn đã lâu. May nhờ thánh thượng là bậc chí nhân đại nghĩa, sai tướng ra quân, vì quốc quân chúng tôi mà chỉnh đốn lại cơ đồ... rồi xin cắt mấy quận ấp khao thưởng quân sĩ.

Vua Tây Sơn đáp rằng:

- Vốn vì họ Trịnh chuyên chế, cho nên mới làm việc tôn phò nhà Lê; nếu là đất của họ Trịnh thì một tấc tôi cũng không để; còn như đất của nhà Lê thì một tấc tôi cũng không dám lấy, chỉ mong tự hoàng phân phát rường mối nhà vua, giữ yên trong cõi, đời đời hòa mục, giao hảo với nước láng giềng, như thế là phúc đức cho cả hai nước vậy.

Từ sau cuộc tiếp kiến đó, lòng người Bắc Hà mới yên, hết ngờ sợ quân Nguyễn Nhạc.

Sau khi từ Bắc Hà trở về, tháng Tư năm Đinh Mùi (1787) Nguyễn Nhạc chia vùng đất phía Nam ra làm ba: từ đèo Hải Vân trở ra Bắc thuộc về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ; đất Gia Định thuộc về Đông Định Vương Nguyễn Lữ; Nguyễn Nhạc đóng ở Quy Nhơn tự xưng là Trung ương Hoàng đế.

Từ đó Nguyễn Nhạc tự mãn với sự giàu sang phú quý đã đạt được, không lo gì đến thời cuộc, chỉ lao vào con đường hưởng lạc; anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ mâu thuẫn trong việc chia của, chia đất, đem binh đánh lẫn nhau. Nguyễn Huệ cho quân bao vây thành Quy Nhơn trong vài tháng, Nguyễn Nhạc đóng chặt thành cố giữ và cầu viện Đặng Văn Trấn từ Gia Định về giải vây. Nhưng mới đi đến Phú Yên, Đặng Văn Trấn bị quân Nguyễn Huệ bắt được. Nguyễn Nhạc bèn ở trên thành gọi Nguyễn Huệ mà bảo rằng:

- Nồi da nấu thịt, lòng em sao nỡ làm thế?

Rồi hai anh em cùng hướng vào nhau mà khóc, giảng hòa, lấy Bản Tân làm giới hạn: từ Quảng Ngãi trở vào Nam do Nguyễn Nhạc làm chủ; từ phủ Thăng, phủ Điện trở ra Bắc do Nguyễn Huệ làm chủ. Từ đấy anh em phòng bị lẫn nhau, không còn để ý đến miền Nam nữa. Nguyễn Lữ tài hèn sức yếu bỏ thành Gia Định chạy về Quy Nhơn, rồi mất. Trong khi Nguyễn Huệ phải đem quân ra đánh quân xâm lược Thanh, Nguyễn Nhạc ở phía Nam không lo phòng bị, để quân Nguyễn Ánh lấy Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh... Thế của Nguyễn Nhạc ngày càng yếu, chỉ bo bo giữ được các thành Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Phú Yên mà thôi.

Khi vua Quang Trung mất năm Nhâm Tý (1792). Nguyễn Nhạc cũng không thể ra viếng em trai được vì quân đội của Nguyễn Quang Toản ngăn cản và lo phòng bị tấn công.

Một năm sau khi Nguyễn Huệ - Quang Trung từ trần, năm Quý Sửu (1793), quân Nguyễn Ánh vây thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc đang ốm, sai con là Bảo đem quân chống giữ, tình hình rất nguy ngập, Nguyễn Nhạc viết thư cầu cứu Quang Toản. Quang Toản sai các tướng Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn, Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh, 80 thớt voi và 30 chiếc thuyền chiến chia đường tiến vào cứu viện. Quân Nguyễn Ánh phải rút lui. Các tướng của Quang Toản vào thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc sai đem vàng bạc mỗi thứ một mâm khao quân. Thái úy của Quang Toản là Phạm Công Hưng bèn biên kê kho tàng, thu lấy giáp đinh và giữ thành. Trước việc làm đó, Nguyễn Nhạc uất quá thổ ra máu mà chết, Quang Toản phong cho con Nguyễn Nhạc là Bảo làm hiếu công cắt cho huyện Phù Ly để làm ấp ăn lộc, gọi là Tiểu Triều. Mẹ Bảo nói với con rằng: "Khai thác cõi đất đều là công của cha mày, nay chỉ ăn lộc có một huyện, nếu sống mà chịu nhục chẳng thà chết còn hơn".

Từ đó Bảo có chí muôn hàng quân Nguyễn Ánh, bị quân của Quang Toản bắt được, cho uống thuốc độc chết.

Như vậy Nguyễn Nhạc làm vua được 15 năm.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #103 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 11:26:14 pm »


Câu hỏi 18: Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ - anh hùng dân tộc, nhà quân sự kiệt xuất, danh tướng bách chiến bách thắng. Hãy cho biết đôi nét về tính cách và con người của ông?
Trả lời:


Nguyễn Huệ (có tên húy khác là Hồ Thơm) sau đổi là Nguyễn Quang Bình, là em trai của Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Nguyễn Huệ sinh năm Quý Mùi (1753).

Từ một thủ lĩnh chiến đấu dưới cờ của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đã trở thành lãnh tụ kiệt xuất của phong trào Tây Sơn, chăm lo xây dựng quân đội Tây Sơn thành quân đội tinh nhuệ, thiện chiến. Qua 21 năm chiến đấu, Nguyễn Huệ đã lập nên những kỳ tích oanh liệt: Chiến thắng Phú Yên (1775), ba lần đánh tan quân Nguyễn ở Gia Định (1777, 1782 và 1783), thắng trận Rạch Gầm - Xoài Mút (19-1-1785); đánh đổ các tập đoàn phong kiến: chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chấm dứt cảnh đất nước bị chia cắt trên 200 năm; quét sạch hơn 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh (1789). Sau thắng lợi, Nguyễn Huệ chủ trương lập lại quan hệ bang giao với nhà Thanh để tranh thủ xây dựng lại đất nước ban hành "Chiếu khuyên nông", "Chiếu cầu hiền", "Chiếu lập học"...

Đã có rất nhiều người, nhiều công trình nghiên cứu về Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ. Qua những tài liệu đã công bố, ta có thể thấy một số nét lớn về tính cách và con người của Nguyễn Huệ như sau:

a) Về hình dung, dáng mạo của Nguyễn Huệ

Theo Hoa Bằng trong Quang Trung anh hùng dân tộc, thì "Nguyễn Huệ tóc quăn, da sần"1. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập quyển 30, thì Nguyễn Huệ tiếng nói sang sảng như tiếng chuông, cặp mắt sáng như chớp. Theo một cung nhân cũ nói với bà thái hậu - mẹ Lê Chiêu Thống lúc quân Mãn Thanh đang chiếm đóng Thăng Long thì "Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trở tay đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét...”2, Theo các tài liệu lịch sử cũ, thì Nguyễn Huệ còn nhanh nhẹn, khỏe mạnh và can đảm nữa. Căn cứ như trên, chúng ta có thể thấy rằng Nguyễn Huệ có một thanh âm, một vẻ mặt, đôi mắt làm cho mọi người phải kính trọng. Theo người cung nhân của nhà Lê, thì hình như Nguyễn Huệ có vẻ mặt hung dữ làm cho mọi người phải khiếp sợ. Thật ra thì không phải như thế. Người cung nhân sở dĩ cho rằng "không một người nào dám nhìn thẳng" vào mặt Nguyễn Huệ, "thấy hắn trở tay đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét”, là vì người cung nhân ấy tuy không phải là kẻ thù của Nguyễn Huệ, nhưng đã phục vụ những kẻ thù đã bại trận của Nguyễn Huệ, vốn đã khiếp đảm về các việc làm của Nguyễn Huệ. Lẽ đương nhiên là vẻ mặt Nguyễn Huệ có cái gì khiến cho người ta phải sợ thật, nhưng đó chỉ là đối với kẻ thù của ông mà thôi. Còn đối với bạn bè, đối với nhân dân, vẻ mặt của ông chỉ gây ra cái gì làm cho người ta phải tin phục. Chứng cớ là giáo Hiến chỉ "thấy Nguyễn Huệ nhanh nhẹn, khỏe mạnh, can đảm, mắt như chớp sáng, tiếng như chuông vang" và biết ngay Nguyễn Huệ "là một thanh niên lỗi lạc có cái tương lai phi thường"3.
____________________________________
1, 3. Hoa Bằng, Quang Trung anh hùng dân tộc.
2. Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #104 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 11:28:18 pm »


Các sách sử của ta nói Nguyễn Huệ nhanh nhẹn, khỏe mạnh. Với phương tiện giao thông vận tải hồi thế kỷ XVIII, Nguyễn Huệ đã mang quân tiến vào Nam đánh quân chúa Nguyễn đến năm lần1, và đã mang quân ra Bắc đến ba lần2. Không nhanh nhẹn cả về cách đi lại và cả về phép hành quân, và không khỏe mạnh, thì không thể đi Nam về Bắc luôn luôn và nhanh chóng như vậy. Sự đi lại của Nguyễn Huệ nhanh chóng nổi tiếng trong lịch sử. Người cung nhân của vua Lê đã phải than: "Xem hắn (Nguyễn Huệ) ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết". Còn sự can đảm của Nguyễn Huệ, thì đó là điều không cần phải bàn cãi nữa. Để động viên tướng sĩ mỗi khi ra trận, Nguyễn Huệ thường đi đầu. Sáng ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) trong trận Ngọc Hồi, ông đã thân ra đốc chiến. Sự can đảm của ông làm nức lòng tướng sĩ, khiến cho tướng sĩ hăng hái ồ ạt tiến vào diệt quân Thanh ở Ngọc Hồi.

Sử sách cũ của ta nói Nguyễn Huệ có "tiếng nói sang sảng như tiếng chuông". Nếu Nguyễn Huệ có một thứ "tiếng nói sang sảng như tiếng chuông" thì ông có phải là một nhà hùng biện hay không? Ta có thể nghĩ rằng Nguyễn Huệ cũng là một người nói giỏi, và tiếng nói của ông có sức thuyết phục khá mạnh. Cuối năm 1788 khi duyệt binh ở Nghệ An, Nguyễn Huệ đã dõng dạc tuyên bố trước ba quân: "Quân Thanh kéo sang xâm lược, hiện đang chiếm cứ Thăng Long các ngươi đã biết tin ấy hay chưa?".

"Trong vòng trời đất, chia theo phận sao Dực sao Chẩn, Nam Bắc vẫn riêng một non sông... Từ nhà Hán về sau, chúng cướp đất đai của ta, cá thịt nhân dân ta, vơ vét của cải của ta, nông nỗi ấy thật là khó chịu. Người nước ai cũng nghĩ phải đánh đuổi chúng đi".

"Đời Hán có Trưng nữ vương; đời Tống có Lê Đại Hành; đời Nguyên có Trần Hưng Đạo; đời Minh có có Lê Thái Tổ. Các ngài không chịu bó tay ngồi nhìn quân ngoài tàn bạo, nên phải thuận lòng người, dấy quân nghĩa, đánh thắng rồi đuổi chúng về. Trong những khi ấy, Nam Bắc đâu lại phận đó, bờ cõi yên ổn, vận nước lâu dài. Từ nhà Đinh tới nay, chúng ta không phải cái khổ Bắc thuộc. Đó lợi hại, được thua, chuyện cũ rành rành là thế".

"Nay người Thanh không noi gương Tống, Nguyên, Minh lại sang mưu chiếm nước ta, đặt làm quận huyện. Vậy ta phải vùng lên mà đuổi chúng đi".

"Các anh em, hạng người có trí thức, có tài năng, phải cùng ta đồng lòng gắng sức, khiến cho việc lớn được nên, chớ đừng giở thói hai lòng. Hễ việc phản trắc lộ ra, thì ta quyết giết không tha một ai. Bấy giờ đừng trách rằng không bảo trước".

Những lời nói trên là những lời nói của một nhà hùng biện biết cách làm bùng lên lửa căm thù quân cướp nước. Bằng mấy lời giản dị, Nguyễn Huệ đã nói lên được tất cả lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập của dân tộc. Ngoài ra, ông còn vạch ra được tất cả nguyên nhân của các việc lợi hại được thua trong lịch sử. Kẻ được là kẻ đấu tranh bảo vệ đất nước; kẻ thua là kẻ cướp nước. Sự thật của lịch sử rõ ràng là như vậy. Qua đó, ta thấy Nguyễn Huệ là người có tinh thần dân tộc rất cao.

Trong buổi thệ sư ở Thọ Hạc (Thanh Hóa), Nguyễn Huệ ngồi trên mình voi tuyên bố: "Phàm chư quân, ai muốn đánh, phải vì ta mà giết hết quân giặc; ai không muốn đánh thì cũng xem ta đánh một trận giết mấy vạn người không phải là chuyện hiếm lạ đâu". Chép việc này, sách Lê Quý kỷ sự có viết thêm: Huệ nói xong, chư quân dạ ran như sấm, hang núi vang động, trời đất đổi màu. Như vậy là tác giả Lê Quý kỷ sự đã gián tiếp thừa nhận rằng Nguyễn Huệ là nhà hùng biện vậy.

Thật vậy, nếu Nguyễn Huệ không có tài hùng biện thì ông làm sao có thể động viên được hàng vạn, hàng triệu người đứng dậy đánh đổ chế độ thối nát Nguyễn - Trịnh và sau đó động viên cả dân tộc đứng lên đại phá quân xâm lược Xiêm La và quân xâm lược Mãn Thanh?
______________________________________
1. Lần thứ nhất vào Nam hạ Phú Yên, lần thứ hai vào Gia Định đánh Lý Tài, lần thứ ba vào Cần Giờ và Ngã Bảy đánh Nguyễn Ánh (1780), lần thứ tư vào Gia Định đánh Chu Văn Tiếp, lần thứ năm (1785) vào Gia Định đánh quân Xiêm.
2. Lần thứ nhất ra Bắc diệt chúa Trịnh (1786), lần thứ hai ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm, lần thứ ba ra Bắc phá quân Thanh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #105 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 11:29:53 pm »


b) Nguyễn Huệ hay làm thơ văn, thích ca hát

Theo sử cũ, gia đình Nguyễn Huệ có bốn anh em: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ và một người con gái. Cả ba anh em Nguyễn Huệ đều theo học giáo Hiến, một nhà nho bất đắc chí với chính trị bạo ngược của Trương Phúc Loan, bỏ trốn vào Quy Nhơn rồi mở trường dạy học ở ấp Yên Thái. Nguyễn Huệ đã được ăn học ít nhất là năm bảy năm. Ông chưa làm được văn thơ bằng chữ Hán. Xem các thư mà ông viết cho La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, thì thấy ông viết thơ văn bằng chữ Nôm; chữ ông viết coi chân phương và dễ đọc. Đó là thứ chữ của những người mới học đến trình độ trung bình, chưa đi sâu vào cái học cử nghiệp. Nguyễn Huệ thích viết văn làm thơ. Sau khi đánh đổ họ Trịnh làm chủ cả một dải đất từ Bắc Hà vào đất Gia Định, Nguyễn Huệ vẫn tự viết thư cho Nguyễn Thiếp, mặc dầu dưới tay ông có rất nhiều nho sĩ giỏi hơn ông. Việc này không những chứng tỏ Nguyễn Huệ quan tâm đến La Sơn phu tử, mà còn nói lên rằng Nguyễn Huệ là người rất thích viết văn. Lối văn trong các thư viết cho Nguyễn Thiếp là lối văn bán Nôm bán tự (nửa chữ Nôm và nửa chữ Hán) tức thứ văn xuôi hồi thế kỷ XVIII. Trong thư viết cho Nguyễn Thiếp có những câu đại loại như: "Vậy chiếu ban hạ phu tử tảo nghi dữ trấn thủ Thận cộng sự kinh chi dinh chi", nghĩa là: "Vậy hạ chiếu cho phu tử nên sớm cùng hợp sức với trấn thủ Thận kinh doanh (việc đó)". Nhưng Nguyễn Huệ không viết như dưới mà lại viết nửa chữ Nôm nửa chữ Hán như trên, như vậy phải chăng vị anh hùng dân tộc của chúng ta cũng muốn tỏ ra với Nguyễn Thiếp là chính mình cũng là người cũng biết nhiều chữ?

Khi Nguyễn Huệ đem quân Tây Sơn ra Bắc lần thứ nhất đánh đổ họ Trịnh, thì Văn Miếu Hà Nội bị đốt phá. Năm 1789, sau khi đã đại phá quân xâm lược Mãn Thanh, nhân dân làng Văn Chương có nhờ Tam Nông tiên sinh là Hà Năng Ngôn, một cố vấn của Nguyễn Huệ, làm một bài sớ xin Nguyễn Huệ cho dựng lại bia tiến sĩ đề danh trong Văn Miếu. Chính Nguyễn Huệ đã đọc bài sớ nói trên và ông đã phê:

      Ta không trách nông phu.
      Ta chỉ gớm thày Nho
      Cả gan to mật dám kêu vua bằng Ngài.
      Thày Nho là ai?
      Sắc cho Bộ hỏi, dân khai.
      …
      Thôi, thôi, thôi việc đã rồi
      Trăm nghìn hãy cứ trách bồi vào ta.
      Nay mai dọn lại nước nhà,
      Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian.
      Cơ đồ họ Trịnh đã tan,
      Việc này cũng đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải.


Đọc những câu trên, chúng ta thấy Nguyễn Huệ có một lối văn trôi chảy, rõ ràng, bình dị, cực kỳ bình dân, dễ làm cho quần chúng nhân dân ưa thích. Lối văn nôm na dễ hiểu trên không mâu thuẫn với lối văn bán Nôm bán tự của bức thư viết cho La Sơn phu tử, mà chỉ cho chúng ta biết rõ thêm rằng khi nói với quần chúng nhân dân, thì Nguyễn Huệ dùng lối văn nôm na bình dị như lời văn, những câu văn vần phê vào tờ sớ của dân làng Văn Chương xin dựng lại bia tiến sĩ đề danh, nhưng khi nói với một nhà học giả uyên thâm như Nguyễn Thiếp thì Nguyễn Huệ lại hay nói chữ.

Với những câu nói với tướng sĩ ở Nghệ An hồi cuối năm 1788 khi mang quân ra Bắc đánh đuổi quân xâm lược Mãn Thanh, Nguyễn Huệ tỏ thông hiểu lịch sử Việt Nam. Chỉ bằng vài lời vắn tắt, ông đã nêu lên được tất cả những nét cốt yếu của toàn bộ lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc.

Nguyễn Huệ rất chú ý đến việc học. Ngay sau khi ra Bắc diệt họ Trịnh trở về đến Nghệ An, ông đã mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp ra giúp ông để tổ chức việc học. Lên ngôi hoàng đế, ông lập tức xuống chiếu cho các xã dân lập trường xã học, tìm các nho sĩ trong xã đặt làm chức xã giảng để dạy con em trong xã. Theo Hàn các anh hoa của Ngô Thì Nhậm, thì chính Nguyễn Huệ đã đích thân đến thăm nhà thái học nhằm khuyến khích việc học và kiểm tra việc học của các học sĩ.

Ngoài ra, căn cứ vào một số tài liệu ít ỏi, chúng ta biết rằng Nguyễn Huệ thích ca hát. Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy mỗi khi hành quân thường ca hát ở dọc đường. Chúng ta đã biết rằng, trước ngày dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Huệ đã từng làm nghề hát chèo, hát tuồng. Vì vậy, khi làm thủ lĩnh nghĩa quân Tây Sơn, ông hay cho quân đội ca hát, nhất là trong các cuộc hành quân để cho vui và quên sự mệt nhọc ở dọc đường.

Nguyễn Huệ là người ưa màu đỏ, coi màu đỏ như là cái gì tượng trưng được chí khí và hoài bão của mình. Trong bài "Ai tư vãn", Lê Ngọc Hân cũng cho biết lá cờ của quân Tây Sơn là cờ đỏ (mà nay áo vải cờ đào). Bộ Minh đô sử cũng cho biết rằng trong trận đại phá quân Thanh ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), quân đội của đô đốc Long đã kéo vào Thăng Long và cắm cờ đỏ lên thành trước nhất. Giáo sĩ Đi-ê-gô đơ Giu-mi-la cho biết mỗi toán nghĩa quân Tây Sơn có một cái cờ bằng lụa đỏ dài chín thước (cổ). Theo các tài liệu dã sử, thì quân đội Tây Sơn do Bùi Thị Xuân chỉ huy mặc quần áo màu đỏ. Về đời tư, Nguyễn Huệ yêu quý Lê Ngọc Hân một phần là vì bà đẹp, nhưng một phần nữa có lẽ là vì Bắc cung hoàng hậu là một nhân vật có tài, ít nhất là về văn học. Nguyễn Huệ là người yêu văn học, chính ông cũng hay làm thơ làm văn, cho nên ông dễ yêu Lê Ngọc Hân khi thấy bà có tài văn học.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #106 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 11:31:17 pm »


c) Nguyễn Huệ là người hay khôi hài và cương nghị

Nguyễn Huệ là người vui tính, hay khôi hài. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh ngỏ ý muốn làm mối cho ông lấy công chúa Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đã làm cho mọi người phải bật cười: "Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về; bọn trẻ nó cười cho thì sao? Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng yêu thử một chuyến xem có tốt không?"1. Những câu Nguyễn Huệ phê vào đơn của dân làng Văn Chương xin cho dựng lại bia tiến sĩ đề danh ở Văn Miếu cũng có tính cách làm cho người ta phải bật cười:

      Ta không trách nông phu
      Ta chỉ gớm thày Nho
      Cả gan to mật dám kêu vua bằng Ngài.


Nguyễn Huệ nói trách "thày Nho", nhưng thật ra ông chẳng trách ai cả. Không những ông không trách ai, mà ông còn cho dân làng Văn Chương một con rùa vàng để bán đi lấy tiền xây dựng lại bia tiến sĩ đề danh ở Văn Miếu bị phá nữa.

Nhưng con người vui tính hay khôi hài ấy lại là người vô cùng cương nghị mà mỗi lời nói là một mệnh lệnh buộc kẻ khác phải thi hành cho kỳ được. Sách Hoàng Lê nhất thống chí cho biết khi cử hành lễ tế vua Lê Hiển Tông: "Huệ mặc đồ tang đứng trên điện tế, coi xét lễ nghi hết sức chu đáo. Lúc đang tế, có viên tả phiên lại có vẻ cười, Huệ sai lôi ngay ra chém. Đại khái đối với việc tang lễ, Huệ hết sức kính cẩn như vậy".

Nguyễn Huệ biết Nguyễn Hữu Chỉnh tất có ngày phản lại mình, nhưng ông vẫn dùng Chỉnh, vì ông biết dùng Chỉnh có lợi cho quân Tây Sơn. Sau khi bỏ Chỉnh ở Thăng Long để cho nhân dân Bắc Hà giết Chỉnh đi, nhưng rồi Chỉnh vẫn cứ đuổi theo quân Tây Sơn đến Nghệ An, Nguyễn Huệ vẫn lại thu dùng Chỉnh một lần nữa. Đến khi âm mưu phản phúc của Chỉnh đã rõ ràng, lập tức Nguyễn Huệ không dung thứ, và ông cho ngay Vũ Văn Nhậm mang quân ra Bắc giết Chỉnh. Nguyễn Huệ cũng lại biết Vũ Văn Nhậm tất có ngày phản lại mình, nhưng ông cứ dùng Nhậm, vì ông biết Nhậm là một nhân vật có tài. Khi Vũ Văn Nhậm để lộ âm mưu chống lại ông, thì Nguyễn Huệ lập tức kéo quân ra Bắc và ông đã giết Nhậm "như giết một con lợn vậy".

Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ bảo bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lâu, Ngô Thì Nhậm và các tướng lĩnh khác rằng: "Nay ta ra tới đây, thân đốc việc binh, chiến thủ ra sao đã có phương lược định sẵn. Chỉ trong mười ngày thế nào ta cũng phá sạch quân Thanh". Từ khi quân Mãn Thanh tiến vào đất nước Việt Nam cho đến khi bọn Ngô Văn Sở bỏ Thăng Long rút về dãy Tam Điệp, quân Tây Sơn ở trong một tình thế khá hoang mang: Hơn một tháng trời, họ chỉ bại trận, và chỉ nhận được những tin tức có tính cách làm nản chí mọi người. Nhưng sau khi nghe những lời cứng cỏi của Nguyễn Huệ, họ đã thấy hết hoang mang. Kinh nghiệm chiến đấu đã cho biết thủ lĩnh của họ luôn luôn đưa họ đến những thắng lợi vẻ vang. Nguyễn Huệ là người muốn gì là được nấy. Nhưng đến khi Nguyễn Huệ ra lệnh mở tiệc khao quân và bảo các tướng sĩ rằng: "Bữa nay ta hãy ăn Tết Nguyên đán trước, sang xuân ngày mồng bảy, ta sẽ vào Thăng Long, mở tiệc ăn Tết khai hạ. Các ngươi cứ nhớ lấy lời ta xem có đúng hay không?", thì tất cả các tướng sĩ và quân lính đã trông thấy cái thắng lợi ở trước mắt rồi, họ chỉ còn việc tiến lên giành lấy thắng lợi mà thôi.

Thái độ cương nghị của Nguyễn Huệ có hai tác dụng: Đối với kẻ thù, thì nó làm cho chúng khiếp đảm, mất hết tinh thần đến nỗi Nguyễn Huệ chỉ trở tay đưa mắt là cũng đủ làm cho tên nào tên nấy phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét; nhưng đối với quân Tây Sơn, thì thái độ cương nghị của Nguyễn Huệ có tác dụng làm kiên định lòng tin của mọi người. Còn tính vui vẻ, hay khôi hài của Nguyễn Huệ, nó làm cho ông dễ gần gụi nhân dân và quân lính, do đó ông lại có điều kiện thuyết phục nhân dân và quân lính đi theo ông để làm việc nghĩa. Đó cũng là một trong những bí quyết khiến cho Nguyễn Huệ đoàn kết được các tầng lớp xã hội để đánh đổ chế độ phản động Nguyễn - Trịnh và đánh đuổi bọn ngoại xâm.
___________________________________
1. Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #107 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 11:31:55 pm »


d) Nguyễn Huệ là người khoan hồng và nghiêm khắc

Thời Nguyễn Huệ hoạt động là thời nhân dân Việt Nam vùng đứng lên vừa đánh đổ chế độ phong kiến phản động và thối nát, vừa đánh đuổi ngoại xâm. Nhiều cuộc giết chóc đã xảy ra. Quân Tây Sơn đã giết khá nhiều bọn phong kiến Đàng Trong và quân đội của chúa Nguyễn. Đầu năm 1785 quân Tây Sơn đã đại phá năm vạn quân Xiêm và quân bản bộ của Nguyễn Ánh bằng trận phục kích quy mô ở Rạch Gầm - Xoài Mút. Đầu năm 1786, khi hạ thành Phú Xuân, quân Tây Sơn đã giết quân Trịnh rất nhiều. Cuối năm 1788 và đầu năm 1789, khi đánh quân Thanh xâm lược, quân Tây Sơn cũng giết quân Thanh ít nhất là đến năm, bảy vạn. Ở đâu quân Tây Sơn cũng tỏ ra rất nghiêm khắc với những ai chống đối lại họ, hay là thù địch của họ. Giáo sĩ phương Tây Đi-ê-gô đơ Giu-mi-la thuật lại việc quân Tây Sơn đối xử với những người là kẻ thù của họ cũng tức là kẻ thù của nhân dân: "Đến tháng 8 năm 1773, quân Tây Sơn đi ngựa và cầm vũ khí tiến vào các thành thị, họ giương cờ khởi loạn lên. Họ xông vào cung vua, chiếm lấy tất cả các tài liệu rồi đem đốt. Họ ban bố một đạo sắc lệnh cấm không được nộp thuế cho nhà vua. Họ thả tất cả tù tội, tín đồ Thiên Chúa giáo hay không Thiên Chúa giáo. Họ bắt giam các quan lại và quân sĩ trung thành; vì cớ những người này là những kẻ áp bức nhân dân khổ sở". Đi-ê-gô đơ Giu-mi-la còn viết: "Sau quân nổi loạn cho lính đi bắt các quan lại nhỏ. Họ chú ý bắt những kẻ tỏ ra tàn ác với kẻ dưới. Họ thả tất cả tù tội và những người vì lẽ này hay lẽ khác, bị giam cầm. Họ phái quân lính đến các làng để buộc các làng phải tuyên bố tuân theo họ. Họ giết các lý trưởng chống lại họ, và đốt nhà của các lý trưởng ấy. Trong những làng nhỏ nhất, họ cũng đòi các công văn rồi đem ra đốt hết ở chỗ công cộng cùng với các sổ thuế khác do vua và quan định ra. Họ ban bố một sắc lệnh bãi bỏ tất cả các thuế má...".

Những dòng trên của giáo sĩ phương Tây đã bác bỏ luận điệu vu khống của vua quan nhà Nguyễn đổi với Nguyễn Huệ, thủ lĩnh số 1 của quân Tây Sơn. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập quyển 30 của Quốc sử quán triều Nguyễn cho "Nguyễn Huệ là người tàn ngược vô đạo". Nếu giết những kẻ thù của giai cấp, của nhân dân, nếu giết những kẻ phản dân phản nước là "tàn ngược vô đạo", thì Nguyễn Huệ quả là người "tàn ngược, vô đạo". Nhưng đối với nhân dân, đối với những người không phải là kẻ thù của nhân dân, thì Nguyễn Huệ không những không "tàn ngược, vô đạo", mà còn là ân nhân là đằng khác nữa. Dưới chế độ phong kiến Nguyễn - Trịnh, nhân dân khổ sở vì tham quan ô lại và các thứ thuế má. Đi đến đâu, quân Tây Sơn giết quan lại và bãi bỏ các thứ thuế má đến đấy. Việc làm này là nguồn gốc mọi sức mạnh của quân Tây Sơn. Quân Tây Sơn đánh đâu được đấy chính là vì vậy. Có nhiều trường hợp Nguyễn Huệ khoan dung cả đối với những người đã từng chống đối lại ông nữa. Trong tờ chiêu dụ các quan văn võ cựu triều (triều Lê), Nguyễn Huệ trịnh trọng tuyên bố trên giấy trắng mực đen: "Ta một lòng yêu tiếc nhân tài, không thể quên đi được. Nay đặc ban tha tội cho các người. Phàm những người bị giam cầm đều tha cho hết; những người đã trốn tránh đi, thì thôi không truy nã nữa". Sau khi quân Thanh bị đánh bại, Tôn Sĩ Nghị ôm đầu chạy về Trung Quốc, Lê Chiêu Thống và nhiều triều thần cũng chạy theo; Nguyễn Huệ tuyên bố: "Các văn võ cựu triều hoặc theo đi (sang Trung Quốc với Lê Chiêu Thống) hoặc đang trốn tránh, nay đều cho về nguyên quán. Còn ai không muốn ra làm quan thì cho tùy theo chí của mình" (Chiếu lên ngôi). Năm 1775, khi cầm quân đánh Tống Phúc Hiệp ở Quy Nhơn, Nguyễn Huệ bắt được viên tham tán của Nguyễn Phúc Thuần là Nguyễn Đăng Trường. Không những Nguyễn Huệ không giết Trường, mà ông lại lấy lễ tân sư để đãi Trường. Tuy vậy, Trường vẫn nhất định không chịu theo Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ có hỏi Trường: "Thày đi chuyến này liệu có xoay lại nổi trời đất không? Sau này có hối e muộn mất rồi!", Trường ngang nhiên đáp: "Tài trai ở đời lấy trung hiếu làm đầu. Tôi nay dắt mẹ đi tìm chúa, đối với đại nghĩa rất là quang minh. Còn cùng hay thông, hỏng hay được, là do số chứ có gì hối hận!". Nguyễn Huệ không những không giận Trường, mà còn khen Trường là khảng khái rồi tha cho đi với Nguyễn Phúc Thuần. Năm 1777, quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ lại bắt được Nguyễn Đăng Trường. Huệ hỏi Trường: "Lần này thì thày định liệu sao?". Trường trả lời: "Bây giờ chỉ còn có chết thôi, cần gì phải hỏi nữa". Đến lúc này, Nguyễn Huệ mới cho đem giết Trường.

Việc đối xử với Nguyễn Đăng Trường chứng minh rằng Nguyễn Huệ không hề giết bừa bãi, mà chỉ trừng trị những kẻ cần trừng trị và chỉ trừng trị khi đã ở vào cái thế không thể đừng được mà thôi.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #108 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 11:32:32 pm »


e) Nguyễn Huệ là một con người có chí lớn khác người

Nguyễn Nhạc là người cầu an hưởng lạc. Sau khi đánh đổ chế độ phản động và thối nát của chúa Nguyễn ở Đàng Trong và của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, Nguyễn Nhạc không còn chí tiến thủ nữa. Ông muốn nghỉ ngơi để an hưởng phú quý. Vì vậy cho nên năm 1788 trong khi Nguyễn Huệ đang bận rộn đối phó với bọn cựu thần nhà Lê và âm mưu xâm lược của quân Thanh, thì Nguyễn Nhạc cứ để mặc cho bọn Nguyễn Ánh phát triển lực lượng ở Gia Định, đánh chiếm hết nơi này đến nơi khác. Năm 1792, khi Nguyễn Huệ ốm nặng ở Phú Xuân, thì quân đội của Nguyễn Ánh không những đã đánh chiếm được toàn bộ đất Gia Định, mà còn tiến ra đánh chiếm Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh nữa. Trong bài chiếu lên ngôi, Nguyễn Huệ cũng nhận thấy Nguyễn Nhạc "vì khó nhọc thành ra mỏi mệt, chỉ giữ một phủ Quy Nhơn, tự giáng mình làm Tây chúa". Thế là trung ương hoàng đế Nguyễn Nhạc thật ra chỉ là hoàng đế của một miền đất ngày nay là tỉnh Bình Định mà thôi. Nguyễn Nhạc vui lòng với các "đế quốc" nhỏ xíu của mình, không những không nghĩ đến bành trướng ra Bắc là đất của em, mà còn không muốn tiến vào Nam là nơi mà bọn quốc thù Nguyễn Ánh đang hoạt động ráo riết để không những tiêu diệt Nguyễn Huệ, mà còn tiêu diệt cả ông nữa.

Nguyễn Huệ thì khác hẳn. Hoài bão của Nguyễn Huệ không phải chỉ là quét sạch bọn phong kiến Nguyễn - Trịnh rồi làm chủ dải đất từ đèo Hải Vân ra đến hết đất Bắc Hà, mà còn muốn thu phục cả miền Gia Định để dựng ra một nước Việt Nam thống nhất bao gồm tất cả đất đai của nước Việt Nam. Năm 1786, sau khi đem quân ra Bắc Hà diệt họ Trịnh, Nguyễn Huệ đã bước đầu thực hiện được giấc mộng của ông: ông đã thống nhất được nước Việt Nam trên thực tế. Miền đất Gia Định thực sự đã về tay ông từ năm 1784 khi ông tiêu diệt hơn năm vạn quân xâm lược của bọn phong kiến Xiêm La. Cái "đế quốc" cỏn con của ông anh Nguyễn Nhạc bao gồm phủ Quy Nhơn thật ra đối với ông không phải là một trở ngại nghiêm trọng, sở dĩ ông để cho cái "đế quốc" ấy tồn tại, vì ông thấy "đế quốc" ấy không ngăn cản gì chính sách thống nhất đất nước của ông. Cái "đế quốc" của Trung ương hoàng đế Nguyễn Nhạc đối với ông khác nào như một thái ấp để cho ông anh an dưỡng tuổi già. Năm 1786, trên thực tế Nguyễn Huệ đã thống nhất được đất nước rồi, cho nên trong tờ chiếu lên ngôi viết năm 1789, ông đã chính thức tuyên bố "vài nghìn dặm đất ở cõi Nam đều thuộc về ta hết".

Không những Nguyễn Huệ muốn có một nước Việt Nam thống nhất, mà ông còn muốn xây dựng một nước Việt Nam với một kỷ cương mới mẻ khác nước Việt Nam các triều đại trước về nhiều phương diện. Dĩ nhiên là nước Việt Nam này cũng vẫn nằm trong phạm trù chế độ phong kiến, nhưng so với nước Việt Nam thời Lê - Trịnh, thì nó tiến bộ hơn nhiều. Nước Việt Nam mà Nguyễn Huệ muốn xây dựng là nước Việt Nam có một nền kinh tế độc lập đối với nước ngoài. Trong nước Việt Nam ấy, công nghiệp, nông nghiệp được khuyến khích, việc buôn bán với các nước ngoài cũng được dễ dàng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #109 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2016, 11:32:50 pm »


Nguyễn Huệ bắt các nhà sư không xứng đáng phải hoàn tục, ông bắt phá các chùa nhỏ ở các làng để tập trung gỗ, gạch làm một ngôi chùa lớn ở phủ hay ở huyện. Nguyễn Huệ tuy có hạn chế sự phát triển của Phật giáo nhưng ông không hề cấm Phật giáo. Đáng chú ý là đối với các giáo sĩ phương Tây, ông để cho họ tự do truyền giáo. Chính giáo sĩ Đi-ê-gô đơ Giu-mi-la đã viết về sự kiện ấy như sau: "Nhiều quan lại của quân nổi loạn (tức nghĩa quân) đến xin tôi thuốc. Tôi chịu ơn họ rất nhiều. Họ cho phép tôi được truyền giáo công khai và xây dựng nhà thờ. Họ thêm rằng nếu ai dám ngăn cản hay làm phiền nhiễu một tín đồ Thiên chúa giáo hay không Thiên chúa giáo, thì tôi báo cho họ biết, họ sẽ ném kẻ ấy xuống sông. Không ai được làm cái gì hại cho tôi hay lấy cái gì ở trong nhà tôi hoặc trong nhà thờ của chúng tôi. Mười ba người lính có vũ khí ngày đêm canh gác cho chúng tôi".

Nguyễn Huệ khác các triều đại phong kiến trước ở chỗ ông dám để cho việc buôn bán với nước ngoài được dễ dàng và dám để cho các giáo sĩ phương Tây được tự do truyền bá Thiên chúa giáo. Ông sở dĩ làm như vậy là vì ông tin chắc rằng đằng sau ông tất cả nhân dân lúc nào cũng sẵn sàng ủng hộ ông. Trong tờ chiếu lên ngôi ông cũng cho biết rằng nhân dân Bắc Hà không theo nhà Lê nữa và chỉ ủng hộ ông thôi.

Đáng chú ý nhất là nước Việt Nam của Nguyễn Huệ muốn xây dựng là nước Việt Nam có chữ viết dân tộc và có một nền học thuật dân tộc. Trong lịch sử dân tộc, Nguyễn Huệ là người đầu tiên dám dùng chữ Nôm viết chiếu cho La Sơn phu tử. Nguyễn Huệ cũng là người đầu tiên tổ chức quy mô việc dịch các sách Tứ thư Ngũ kinh ra chữ Nôm. Việc làm này nếu được tiếp tục thực hiện sẽ có tác dụng cực kỳ to lớn đối với nền văn hóa Việt Nam: Văn học dân tộc Việt Nam sẽ có điều kiện phát triển nhanh chóng, học thuật dân tộc sẽ hình thành nhanh chóng, và sẽ đi sâu vào quảng đại quần chúng nhân dân.

Nguyễn Huệ cũng là người đầu tiên tổ chức việc học đến tận xã nhằm làm cho tất cả con em trong xã đều có điều kiện học hành.

Sống dưới chế độ phong kiến, bị điều kiện lịch sử hạn chế, cụ thể là điều kiện lịch sử của thế kỷ XVIII hạn chế, Nguyễn Huệ không thể không tranh bá đồ vương như các nhân vật lịch sử khác. Nhưng cái ước mơ của Nguyễn Huệ không phải chỉ luẩn quẩn ở bên cái ngai vàng, mà là muốn xây dựng một nước Việt Nam thống nhất với một nền nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp phát triển, với một nền văn hóa, học thuật thật sự dân tộc. Cái mộng của Nguyễn Huệ nếu được tiếp tục thực hiện sẽ tạo điều kiện làm cho xã hội Việt Nam phát triển nhanh, nước Việt Nam sẽ trở thành giàu mạnh bậc nhất ở Đông Nam châu Á.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM