Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 07:58:06 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn  (Đọc 39426 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #30 vào lúc: 10 Tháng Mười, 2016, 09:52:08 pm »


Nguyễn Ánh chạy về Ba Giòng. Sang tháng Tư năm Quý Mão, tàn quân các nơi cũng về tập hợp ở Ba Giòng. Nguyễn Ánh tổ chức lại quân đội, cử Nguyễn Kim Phẩm làm tiên phong; Tôn Thất Dụ, Nguyên Đình Thuyền, Trần Đại Thể, Trần Đại Huề, Hồ Đồng và Minh làm trung quân, Hoảng làm tả chi, Nguyễn Văn Quý làm hữu chi, Nguyễn Hoàng Đức đem 500 quân làm hậu ứng. Tất cả đều cùng tiến lên đóng quân ở Đồng Tuyên để chống chọi với quân Tây Sơn.

Được tin Nguyễn Ánh đang củng cố lực lượng và bố trí phòng ngự ở Đồng Tuyên, Nguyễn Huệ liền đem một lực lượng bộ binh và tượng binh khá lớn tiến công mạnh vào Đồng Tuyên. Quân Nguyễn không chống cự nổi và bị thiệt hại rất nặng. Các tướng Nguyễn Đình Thuyền, Nguyễn Văn Quý, Trần Đại Huề và binh bộ Minh đều tử trận. Hồ Đồng và Nguyễn Hoàng Đức cùng 500 quân hậu ứng đều bị bắt sống tại trận. Tiên phong Nguyễn Kim Phẩm bị đánh bạt đi, không liên lạc được với Nguyễn Ánh, phải chạy trốn vào Hà Tiên rồi bị bắt tại đây.

Nguyễn Ánh đem tàn quân cùng 50 thuyền chiến chạy đi Lật Giang. Quân Tây Sơn truy kích ráo riết. Nguyễn Ánh phải ngày đêm chạy đi Mỹ Tho, rồi chạy ra vùng cửa biển Ba Thắc và gặp Bá Đa Lộc. Trước đây, Bá Đa Lộc vẫn ở Gia Định với Nguyễn Ánh. Nhưng từ đầu tháng 3 năm 1783, khi được tin Nguyễn Huệ sắp tiến đánh Gia Định, Bá Đa Lộc vội vàng đem lương thực, tiền bạc, thuyền bè chạy trước vào Mạc Bắc (ở Trà Vinh) là nơi có trường đạo do giáo sĩ Li-ô (Liot) quản đốc. Ngày 9 tháng 3 năm 1783, được tin Nguyễn Huệ đã đánh vào Gia Định, Bá Đa Lộc và Li-ô cùng hai giáo sĩ Tây Ban Nha, Ca-xtu-ơ-ra (Castuera) và Gi-nét-xta (Ginestar) đem bọn tùy tùng và các học sinh trường đạo Mạc Bắc chạy ra vùng cửa biển Ba Thắc. Bá Đa Lộc đến đây được 8 ngày thì Nguyễn Ánh cũng chạy tới. Sợ ở cùng một chỗ thì nguy hiểm cho mình, Bá Đa Lộc đem đồng bọn chạy đi nơi khác.

Thấy Bá Đa Lộc chạy, Nguyễn Ánh cũng chạy ra Hà Tiên, rồi chạy thẳng ra đảo Phú Quốc. Khi tới Hà Tiên Nguyễn Ánh có thêm được một tướng Xiêm là Vinh-li-ma đem 200 quân đến xin gia nhập. Vinh-li-ma tránh nội biến ở Xiêm, chạy ra vùng hải đảo. Cùng ở trong cảnh như Nguyễn Ánh, Vinh-li-ma đã sẵn sàng đi theo Nguyễn Ánh.

Mặc dầu Nguyễn Ánh chạy ra tận Phú Quốc, Nguyễn Huệ vẫn không ngừng truy kích. Ngày 12 tháng Bảy năm Quý Mão (tức ngày 9 tháng 8 năm 1783), tướng Tây Sơn là Phan Tiến Thận đem quân tiến đánh Nguyễn Ánh ở hòn đảo Điệp Thạch. Tàn quân Nguyễn Ánh bị thiệt hại nặng. Các tướng Tôn Thất Cốc, chưởng cơ Hoảng, Vinh-li-ma và Tôn Thất Điển (em Nguyễn Ánh) đều bị quân Tây Sơn bắt sống. Nguyễn Ánh khiếp sợ phải cởi áo ngự cho Lê Phúc Điển mặc để lẩn trốn cho dễ và Nguyễn Ánh cùng một số tướng sĩ đã chạy thoát được ra đảo Cổ Long1
__________________________________________
1. Tức đảo Koh Rong.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #31 vào lúc: 10 Tháng Mười, 2016, 09:53:58 pm »


Lẩn lút tại đây, Nguyễn Ánh lại mưu cầu ngoại viện. Nguyễn Ánh định cho người sang Ma-ni (Manille), do hai giáo sĩ Tây Ban Nha dẫn đường, để mua lương thực và cầu viện người Tây Ban Nha lúc ấy đương thống trị Phi-líp-pin. Nhưng Nguyễn Ánh chưa kịp cho người đi Ma-ni1 thì Nguyễn Huệ đã cử phò mã Trương Văn Đa đem một lực lượng thủy quân lớn tới đánh. Trương Văn Đa dàn thuyền chiến thành ba vòng, vây chặt đảo Cổ Long. Bấy giờ là ngày 18 tháng 8 năm 1783, quân Tây Sơn tiến công rất dữ dội. Nhưng gặp phải ngày mưa bão lớn thuyền chiến Tây Sơn không thể dàn ra để bao vây mà phải dồn lại ghì chặt vào nhau để chống đỡ với gió to sóng lớn. Do đó, vòng vây giãn ra. Nguyễn Ánh nhân cơ hội, đem tàn quân chạy thoát trốn sang đảo Cổ Cốt (Koh Kut), rồi lại chạy về Phú Quốc. Tại đây, không có gì ăn, lương thực hết, bọn Nguyễn Ánh phải hái cỏ, đào củ để sống.

Không thể ở yên Phú Quốc để chết đói, Nguyễn Ánh lại đem tàn quân về cửa biển Ma-ni. Nhưng vừa tới nơi, quân Tây Sơn đã đem hơn 20 thuyền chiến đến vây bắt. Nguyễn Ánh bỏ chạy ra khơi. Quân Tây Sơn truy kích. Nguyễn Ánh chạy trốn, 7 ngày, 7 đêm lênh đênh trên mặt biển. Sau mấy ngày truy kích, quân Tây Sơn quay về, Nguyễn Ánh mới chạy thoát trở lại Phú Quốc.

Nhưng cũng như lần trước, không thể ở Phú Quốc để chờ chết, Nguyễn Ánh lại mò về cửa biển Ông Đốc để kiếm ăn và định tiến vào Long Xuyên.

Được tin ấy, tướng Tây Sơn là Nguyễn Hóa đem hơn 50 thuyền chiến ra phục ngầm ở cửa biển Ông Đốc để đón đánh. Thấy nguy cơ bị tiêu diệt, bọn Nguyễn Ánh quay thuyền chạy nhanh ra biển. Chuyến này, Nguyễn Ánh phải bỏ Phú Quốc, chạy qua Hòn Chông, rồi chạy thẳng ra đảo Thổ Châu, cách đất liền khoảng 200 kilômét. Không có lương ăn, bọn Nguyễn Ánh phải nhịn đói, chèo thuyền mấy ngày đêm liền để trốn thoát sự truy kích của quân Tây Sơn.

Tình hình Gia Định tới đây đã tương đối ổn định, nhiệm vụ giải phóng Gia Định đã hoàn thành, Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Lữ đem đại quân trở về Quy Nhơn, lưu phò mã Trương Văn Đa và chưởng tiền Bảo ở lại giữ Gia Định.

Khác với những lần trước, lần này, trước khi trở về Quy Nhơn, Nguyễn Huệ bố trí phòng thủ Gia Định chu đáo hơn. Lơ-gờ-răng đơ la Li-re (Legrand de la Liraye), tác giả cuốn "Bút ký lịch sử về dân tộc An-nam" đã dựa theo dã sử, nhận định về việc Nguyễn Huệ tổ chức phòng thủ Gia Định lần này như sau:

"Với việc chiếm đóng Gia Định, Long Nhương2 đã hoàn toàn làm chủ cả Đường Trong. Ông này không phải chỉ là một người cầm quân mà còn là một nhà cai trị rất giỏi và khác với những tướng lĩnh mà Nguyễn Nhạc đã cử vào lần đầu ông nắm được cả miền Gia Định trong tay, bằng những đồn binh vững vàng ở khắp các đường bộ, đường sông cửa biển và bằng một kỷ luật nghiêm minh, đồng thời lại nhân từ với nhân dân...”.

Quân Tây Sơn ở lại Gia Định lần này không những đủ sức phòng thủ lãnh thổ của mình, mà còn có khả năng đi dẹp loạn giúp nước láng giềng Chân Lạp. Số là trong mấy tháng cuối năm 1783, một số người Mã Lai đem quân sang đánh chiếm Chân Lạp. Nước Chân Lạp cầu viện nghĩa quân Tây Sơn. Tháng 12 năm 1783, tướng Tây Sơn Trương Văn Đa đem quân sang Chân Lạp đánh đuổi quân Mã Lai giải phóng đất nước Chân Lạp. Quân Mã Lai chạy trốn sang Xiêm. Nghĩa quân Tây Sơn rút về Gia Định.
__________________________________________
1. Nguyễn Ánh đương chuẩn bị ghe thuyền cho bọn chân tay đi Ma-ni thì được tin quân Tây Sơn sắp đánh tới. Nguyễn Ánh và tàn quân nhốn nháo lo sợ. Hai giáo sĩ Tây Ban Nha, Ca-xtu-ơ-ra và Gi-nét-xta, vội bỏ đảo Cổ Long, xuống một chiếc "ghe bầu" chạy vào đất liền. Nhưng cả hai đều bị quân Tây Sơn bắt đưa về Gia Định. Nguyễn Huệ đã cho thả hai giáo sĩ này và cho phép họ tự do đi lại truyền đạo.
2. Long Nhương tướng quân là chức tước mà Nguyễn Nhạc đã phong cho Nguyễn Huệ khi Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế vào năm 1778, đặt niên hiệu là Thái Đức.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #32 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2016, 08:51:11 am »


Câu hỏi 7: Chiến thắng Rach Gầm - Xoài Mút (ngày 19 tháng 1 năm 1785) thể hiện tài năng quân sự kiệt xuất của vị chủ soái Nguyễn Huệ và tinh thần chiến đấu anh dũng, quyết liệt của quân đội Tây Sơn. Với trận quyết chiến chiến lược này, Nguyễn Huệ đã đập tan ý đồ bán nước của Nguyễn Ánh cùng âm mưu xâm lược của quân Xiêm. Hãy trình bày diễn biến của trận Rạch Gầm - Xoài Mút?
Trả lời:


Trong khoảng 12 năm (từ 1771-1783), nghĩa quân Tây Sơn đã giáng những đòn liên tục vào chế độ phong kiến ở Đàng Trong, quật ngã nền thống trị xây dựng trên 200 năm của tập đoàn phong kiến họ Nguyễn, giải phóng phần lớn đất Đàng Trong.

Trong bước đường cùng, bọn phong kiến phản động ở Đàng Trong đứng đầu là Nguyễn Ánh, đã điên cuồng tìm mọi cách chống lại phong trào nông dân Tây Sơn. Nhưng mọi cố gắng của bọn chúng đều bị đập tan, Nguyễn Ánh nhiều lần bị đánh đuổi ra khỏi đất Gia Định (Nam Bộ) phải trốn tránh trên các hải đảo. Cuối năm 1783, Nguyễn Ánh đã phải nhờ một số giáo sĩ Pháp giúp đỡ lương thực để sống qua những ngày túng thiếu, đói khổ và đầu năm sau (năm 1784) chạy sang cầu cứu vua Xiêm.

Lúc bấy giờ nước Xiêm (từ năm 1945 gọi là Thái Lan) dưới triều vua Cha-kri (Chakkri, sử ta chép là Chất-tri) đang lúc thịnh đạt và đang thi hành chính sách bành trướng mạnh mẽ. Phong kiến Xiêm nuôi tham vọng lớn đối với nước Chân Lạp (ngày nay là Campuchia) và đất Gia Định của ta. Lợi dụng cơ hội này, vua Xiêm là Cha-kri I, dưới danh nghĩa cứu giúp Nguyễn Ánh, âm mưu chiếm đóng nước Chân Lạp và xâm lấn miền đất cực Nam nước ta.

Sau khi nhận lời với Nguyễn Ánh, tháng 4 năm 1784, vua Xiêm phái hai tướng Lục Côn và Sa Uyển cùng với Chiêu Thùy Biện là một cựu thần Chân Lạp thân Xiêm, đem hai đạo bộ binh tiến sang Chân Lạp rồi từ đó, mở một mũi tiến công đánh xuống Gia Định phối hợp với thủy binh sẽ vượt biển đổ bộ lên. Ngoài số quân Xiêm, Chiêu Thùy Biện còn ra sắc chiêu tập thêm quân lính để thực hiện mưu đồ của vua Xiêm. Ngày 25 tháng 7 năm 1784, vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng làm chủ tướng và Chiêu Sương làm tướng tiên phong, thống lĩnh 2 vạn quân và 300 chiến thuyền, từ Vọng Các (Băng Cốc) vượt lên đánh chiếm Gia Định. Nguyễn Ánh cũng tập hợp bọn tàn quân giao cho Chu Văn Tiếp chỉ huy với chức Bình Tây đại đô đốc và Mạc Tử Sinh làm tham tướng, dẫn đường cho quân Xiêm. Nguyễn Ánh đã cam tâm bán rẻ quyền lợi dân tộc, dựa vào thế lực nước ngoài để hòng khôi phục nền thống trị của một tập đoàn phong kiến phản động đã bị nhân dân đánh đổ. Nguyễn Ánh đã tạo cơ hội và dẫn đường cho quân Xiêm xâm chiếm đất Gia Định.

Tháng 8, thủy quân Xiêm cùng với quân bản bộ của Nguyễn Ánh đổ bộ lên Kiên Giang, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược miền đất cực Nam của nước ta. Sau đó, 3 vạn bộ binh của địch do Sa Uyển và Chiêu Thùy Biện chỉ huy, từ Chân Lạp tiến xuống phối hợp với thủy binh đánh chiếm Trấn Giang (Cần Thơ) là một vị trí chiến lược quan trọng của miền tây Gia Định. Tổng số quân xâm lược Xiêm lên đến 5 vạn, kể cả quân thủy và quân bộ. Đó là chưa tính số quân bản bộ của Nguyễn Ánh. Số quân này lúc lưu vong ở Xiêm không có bao nhiêu, nhưng sau khi về nước có được tăng cường thêm về số lượng do sự nổi dậy của bọn đại địa chủ phản động ở Gia Định.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #33 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2016, 08:51:47 am »


Cuộc kháng chiến của nghĩa quân Tây Sơn chống quân xâm lược Xiêm buổi đầu diễn ra trong tương quan lực lượng hết sức chênh lệch. Bộ chỉ huy tối cao và đại bộ phận quân Tây Sơn lúc bấy giờ đóng ở Quy Nhơn (Bình Định, Plây Cu, Kon Tum), để sẵn sàng ứng phó với mọi hoạt động của kẻ thù trong Nam, ngoài Bắc. Số quân Tây Sơn đóng giữ đất Gia Định do phò mã Trương Văn Đa chỉ huy chỉ độ mấy nghìn người. Nhưng đó là một đội quân nông dân dày dạn kinh nghiệm, có tinh thần chiến đấu cao. Năm 1783, trước khi rút quân về Quy Nhơn, Nguyễn Huệ đã lập "nhiều đồn binh vững vàng ở khắp các đường bộ, đường sông, cửa biển" và đề ra một kế hoạch phòng thủ Gia Định khá chu đáo.

Trước cuộc tiến công của quân Xiêm, quân Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của tướng Trương Văn Đa, vừa chặn đánh quyết liệt ở một số vị trí vừa rút lui từng bước để bảo toàn lực lượng và kiềm chế đến mức tối đa bước tiến của quân thù, đồng thời tiêu hao một phần sinh lực địch. Quân địch tuy có ưu thế hơn hẳn về quân số, nhưng cuộc chiến tranh xâm lược tiến triển rất chậm. Sau gần 4 tháng, cho đến cuối năm 1784, quân Xiêm chỉ chiếm được Kiên Giang, Trấn Giang (Cần Thơ), Ba Xắc (Sóc Trăng), Trà Ôn, Sa Đéc, Mân Thít (Vĩnh Long), Ba Lai (Bến Tre), Trà Tân (Mỹ Tho)... và kiểm soát nửa đất phía tây Gia Định về bên hữu ngạn Tiền Giang (tức ba tỉnh miền Tây: Hà Tiên, An Giang, Vĩnh Long). Quân Tây Sơn vẫn làm chủ miền đất phía đông Gia Định và giữ vững những vị trí quan trọng như Mỹ Tho, Gia Định. Trong một số trận đánh, tuy cuối cùng phải rút lui, nhưng quân Tây Sơn đã chiến đấu dũng cảm, gây cho quân địch những tổn thất đáng kể. Trong trận Mân Thít ngày 30 tháng 11 năm 1784, quân Tây Sơn do Trương Văn Đa trực tiếp chỉ huy, đã giết chết viên tướng cầm đầu quân bản bộ của Nguyễn Ánh là Bình Tây đại đô đốc Chu Văn Tiếp. Một tướng Xiêm là Thát Xỉ Đa (có tài liệu chép là Chất Xi Đa) cũng bị thương trong trận này. Sau đó, Nguyễn Ánh cử Lê Văn Quân làm khâm sai tổng nhung chưởng cơ thay Chu Văn Tiếp. Tháng 12 năm 1787, trong trận đánh đồn Ba Lai và Trà Tân một viên tướng nữa của Nguyễn Ánh là chưởng cơ Đăng Văn Lượng cũng bị giết chết.

Bảo toàn được lực lượng, giữ vững được nửa đất Gia Đinh gây cho địch một số thiệt hại, và làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của chúng, đó là thắng lợi về mặt quân sự của cuộc rút lui chiến lược do Trương Văn Đa tiến hành. Về mặt chính trị, cuộc rút lui chiến lược có tổ chức của quân Tây Sơn còn có tác dụng khoét sâu những nhược điểm cơ bản của quân địch, làm cho bọn cướp nước và bán nước bị lột mặt nạ trước nhân dân Gia Định và càng ngày càng bị cô lập nghiêm trọng.

Sau khi chiếm được một phần đất Gia Định, quân Xiêm sinh ra kiêu căng, chủ quan. Chúng coi thường quân Tây Sơn, khinh mạn Nguyễn Ánh. Chúng không lo chiến đấu mà chỉ tìm mọi cách cướp bóc của cải của nhân dân để gửi về nước, hãm hiếp phụ nữ, giết hại dân chúng. Bản thân tướng Xiêm là Chiêu Tăng, Chiêu Sương khi đánh Ba Lai đã từng "giết hại nhân dân và cướp bóc vàng bạc, của cải không biết bao nhiêu mà kể". Bọn tướng giặc còn "dung túng quân Xiêm cướp bóc và giết chóc nhân dân". Vua Xiêm về sau này cũng phải thừa nhận: "Hai tên súc sinh Chiêu Tăng và Chiêu Sương làm việc kiêu căng, hung hãn, vào sâu đất giặc, không tuân lệnh quốc vương (chỉ Nguyễn Ánh), tàn hại nhân dân nước ấy...". Theo lời vua Xiêm thì bọn chúng đã dùng chiến thuyền chở về nước rất nhiều con gái, vàng bạc, của cải cướp được ở nước ta.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #34 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2016, 08:53:06 am »


Hành động bạo ngược của quân giặc đã khơi sâu lòng căm thù sâu sắc trong mọi tầng lớp nhân dân yêu nước ở Gia Định. Càng căm ghét quân Xiêm tàn bạo, nhân dân Gia Định càng oán giận bè lũ Nguyễn Ánh rước quân giặc vào giày xéo quê hương, đất nước. Chính Nguyễn Ánh cũng nhận thấy rõ lòng thù oán của nhân dân. Trong bức thư gửi cho một giáo sĩ người Pháp là Li-ô (J. Liot) Nguyễn Ánh đã tỏ ra lo lắng: bọn lính Xiêm chạy theo cái cuồng vọng của chúng: cướp bóc, hãm hiếp đàn bà, con gái, vơ vét của cải, giết hại bất kỳ già trẻ. Vì vậy sức mạnh của quân "phiến loạn" (chỉ quân Tây Sơn) càng ngày càng tăng lên trong khi quân Xiêm càng ngày càng yếu đi”1. Sử nhà Nguyễn chỉ ghi lại một số cuộc nổi dậy của bọn phong kiến phản động theo Nguyễn Ánh và cố tình che giấu những hành động yêu nước, sự ủng hộ của nhân dân đối với Tây Sơn. Những lời thú nhận trên đây của Nguyễn Ánh chứng tỏ tội ác tày trời của quân giặc và lòng phẫn nộ cao độ của nhân dân. Từ đó bùng lên ngọn lửa yêu nước, căm thù của nhân dân Gia Định với nhiều hình thức tham gia ủng hộ có hiệu quả đối với quân Tây Sơn. Có như vậy, mấy nghìn quân Tây Sơn do Trương Văn Đa chỉ huy mới có thể đương đầu với hơn 5 vạn quân Xiêm - Nguyễn Ánh, làm thất bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của bọn chúng. Và có như vậy, sức mạnh của quân Tây Sơn mới "càng ngày càng tăng lên trong khi quân Xiêm càng ngày càng yếu đi" như Nguyễn Ánh phải thừa nhận.

Lực lượng của Nguyễn Ánh không có bao nhiêu, tất cả đều phải dựa vào quân Xiêm. Do những hành động tàn bạo của quân Xiêm và cơn phẫn nộ đang dâng cao của nhân dân, Nguyễn Ánh mất dần tin tưởng vào sự cứu giúp của phong kiến Xiêm và cảm thấy trước nguy cơ thất bại. Vì thế cuối năm 1784, khi giặc Xiêm do Nguyễn Ánh rước vào còn đang gieo rắc tang tóc đau thương cho nhân dân ta thì chính Nguyễn Ánh đã bắt đầu mở đường cho sự can thiệp của tư bản Pháp. Thấy không thể trông nhờ vào quân Xiêm, tháng 11 năm đó, Nguyễn Ánh nhờ Bá Đa Lộc - tên thực dân khoác áo thầy tu - sang cầu viện nước Pháp. Việc làm đó không những một lần nữa tố cáo tính chất phản bội dân tộc của Nguyễn Ánh mà còn chứng tỏ, quân xâm lược Xiêm đang bị cô lập và bè lũ Nguyễn Ánh đã bị lên án trước nhân dân Gia Định. Mâu thuẫn giữa quân Xiêm - Nguyễn với các tầng lớp nhân dân miền Nam đã trở nên gay gắt. Đồng thời giữa quân Xiêm và quân Nguyễn Ánh cũng phát sinh mâu thuẫn. Đó là điều kiện xã hội và chính trị để phong trào nông dân Tây Sơn phát triển lên thành phong trào dân tộc, đảm đương sứ mạng chống ngoại xâm gìn giữ độc lập dân tộc.
_____________________________________
1. Thư Nguyễn Ánh gửi J. Liot ngày 25 tháng 1 năm 1785 do Lê Văn Duyệt sao chép và L. Cadière công bố trong Les Français aux services de Gia Long, Bulletin des amis du vieux Huế, 1926.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #35 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2016, 08:54:16 am »


*
* *

Tại căn cứ Quy Nhơn, bộ chỉ huy quân Tây Sơn vẫn theo dõi chặt chẽ cuộc kháng chiến ở Gia Định để sẵn sàng tiếp ứng cho Trương Văn Đa khi cần thiết và đặc biệt là chuẩn bị cho cuộc phản công sắp tới.

Cuối năm 1784, một viên tướng Tây Sơn là đô úy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo rõ tình hình ở Gia Định. Trên cơ sở đó, bộ chỉ huy quyết định cử Nguyễn Huệ đem thủy quân vào Nam tổ chức phản công, thực hiện quyết chiến chiến lược nhằm nhanh chóng quét sạch quân Xiêm - Nguyễn ra khỏi đất Gia Định.

Nguyễn Huệ dùng thuyền chiến vượt biển vào đến Gia Định khoảng đầu tháng 1 năm 1785. Nguyễn Huệ đóng quân và đặt sở chỉ huy tại Mỹ Tho.

Tổng số quân Tây Sơn ở Gia Định - kể cả quân đồn trú của Trương Văn Đa và đoàn binh thuyền mới được tăng cường của Nguyễn Huệ - lên đến khoảng 2 vạn. Về số lượng, quân Tây Sơn chưa bằng một nửa quân Xiêm, chưa kể quân bản bộ của Nguyễn Ánh.

Nhưng về trang bị vũ khí, khi bước vào cuộc kháng chiến chống Xiêm, quân đội Tây Sơn, ngoài bộ binh còn có tượng binh, kỵ binh và một đội thủy binh mạnh với nhiều loại thuyền chiến lớn nhỏ khác nhau. Trang bị của quân Tây Sơn đặc biệt là có nhiều đại bác các cỡ. Đó là những đại bác của quân Nguyễn bị quân Tây Sơn chiếm được trong các trận đánh, bao gồm đại bác do quân Nguyễn chế tạo và những đại bác do chính quyền họ Nguyễn mua của các công ty tư bản phương Tây. Chỉ riêng trận đánh ra Quảng Nam giữa năm 1774, quân Tây Sơn đã chiếm được 45 voi chiến, 82 khẩu đại bác Hà Lan, Anh và 6 thuyền chở đầy đạn dược. Trên thuyền chiến, quân Tây Sơn thường đặt nhiều đại bác.

Còn về tinh thần chiến đấu thì dĩ nhiên, quân Tây Sơn có ưu thế tuyệt đối hơn hẳn quân Xiêm - Nguyễn. Đó là tinh thần quật cường bất khuất của giai cấp nông dân kết hợp với lòng yêu nước và truyền thống anh hùng của dân tộc.

Trước khi Nguyễn Huệ đem quân vào Gia Định (lần thứ tư), quân Xiêm - Nguyễn đã kiểm soát được vùng Hậu Giang và tiến tới vùng Tiền Giang. Chúng đã chiếm được Sa Đéc, Long Hồ (Vĩnh Long), Mân Thít, Ba Lai, từ hữu ngạn Tiền Giang cho đến sông Ba Lai. Cuối năm 1784, chúng chiếm được Trà Tân ở phía bắc Tiền Giang và sông Mỹ Tho. Sau khi chia quân đóng giữ một số vị trí trọng yếu trong vùng đã chiếm được, Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng với Nguyễn Ánh đang tập trung quân về Trà Tân (Mỹ Tho). Chúng dự tính sẽ từ Trà Tân tiến lên Mỹ Tho, Gia Định, đánh tan quân Tây Sơn, hoàn thành việc xâm chiếm toàn bộ đất Gia Định. Để chuẩn bị cho cuộc tiến công đầy tham vọng đó, Nguyễn Ánh đã phái cai đội Nguyễn Văn Thành đi Bát Chiên và Quang Hóa thu thập tàn quân Đông Sơn là đội quân do Đỗ Thanh Nhân lập ra trước đây để chống lại quân Tây Sơn. Như vậy là quân Nguyễn Ánh đã lén lút hoạt động ở vùng sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, khoảng giữa Mỹ Tho và Gia Định nhằm chia cắt và uy hiếp quân Tây Sơn từ mặt sau để phối hợp với cuộc tiến công từ Trà Tân lên.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #36 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2016, 08:55:17 am »


Giữa lúc quân địch đang chuẩn bị cho cuộc tiến công đánh chiếm Mỹ Tho, Gia Định, thì bất ngờ thủy quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy kéo vào đóng ở Mỹ Tho. Quân địch phải tạm thời hoãn cuộc tiến công để lo đối phó với Nguyễn Huệ, đề phòng quân Tây Sơn từ Mỹ Tho đánh lên.

Tại Trà Tân và vùng nam bờ sông Mỹ Tho, Tiền Giang quân địch đã tập trung một khối lượng khá lớn gồm đại bộ phận quân Xiêm và quân bản bộ của Nguyễn Ánh. Chiêu Tăng, Chiêu Sương và Nguyễn Ánh đặt sở chỉ huy và đóng đại quân tại Trà Tân. Trà Tân ở phía bắc sông Mỹ Tho khoảng giữa Cái Bè và Bình Chánh đông. Địa hình và vị trí vùng này khá lợi hại. Dòng sông bị chia cắt bởi những cù lao lớn như cù lao Tân Phong, cù lao Trà Luật (hay cù lao Năm Thôn) và nhiều cồn cát, bãi sa bồi. Các nhánh sông chi chít nhưng hẹp. Địa thế đó rất thuận lợi cho việc bố trí phòng thủ, phối hợp chặt chẽ giữa bộ binh và thủy binh. Vùng Trà Tân ở vào đầu sông Mỹ Tho tiếp giáp với Tiền Giang và gần chỗ phân lưu của các sông Cổ Chiên, Hàm Luông, Ba Lai đổ ra biển. Khi tiến công, quân địch có thể từ Trà Tân theo dòng sông Mỹ Tho tiến đánh Mỹ Tho.

Phía nam Tiền Giang và sông Mỹ Tho, quân địch phân chia một bộ phận đóng giữ những vị trí quan trọng như Sa Đéc, Long Hồ (Vĩnh Long), vừa để bảo vệ sở chỉ huy, ngăn chặn quân Tây Sơn có thể từ biển theo các cửa sông Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên đánh lên, vừa sẵn sàng tiếp ứng cho đại quân ở Trà Tân.

Tiến công vào Trà Tân, một căn cứ tập trung đông quân địch và phòng bị chặt chẽ như vậy, quân Tây Sơn sẽ gặp nhiều khó khăn, bất lợi, nhất là khi quân ta ít hơn hẳn quân địch về số lượng. Hơn nữa, trong tình hình cả nước lúc đó, tiền đồ phát triển của phong trào Tây Sơn đòi hỏi Nguyễn Huệ phải đánh nhanh, giải quyết nhanh. Kẻ thù nguy hiểm của Tây Sơn không phải chỉ có quân xâm lược Xiêm và bọn phong kiến phản động Nguyễn Ánh ở Gia Định mà còn có quân Trịnh ở Thuận Hóa. Tiến công vào căn cứ Trà Tân, cuộc chiến đấu chắc chắn sẽ ác liệt và kéo dài. Như vậy, quân chủ lực tinh nhuệ của Tây Sơn bị giam chân ở mặt Nam, do đó ở mặt Bắc, quân Trịnh có thể lợi dụng thời cơ đánh vào Quy Nhơn. Quân Tây Sơn sẽ bị phân tán lực lượng, phải đồng thời đối phó với hai kẻ thù ở hai phía. Đó là những lý do quân sự và chính trị giải thích vì sao Nguyễn Huệ không mở cuộc tiến công vào Trà Tân. Nguyễn Huệ chủ trương nhử địch ra khỏi căn cứ, kéo chúng đến một địa hình có lợi cho ta và tiêu diệt gọn bằng một trận quyết chiến theo lối đánh vận động trên sông.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #37 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2016, 08:56:02 am »


Những ngày đầu, Nguyễn Huệ sử dụng một binh lực nhỏ mở những trận tập kích vào một số vị trí đóng quân của địch. Mỹ Tho cách Trà Tân gần 30 kilômét. Sông Mỹ Tho cũng như các dòng sông gần biển chịu sự chi phối của thủy triều, hàng ngày nước sông lên xuống theo thủy triều. Lợi dụng nước thủy triều lên, Nguyễn Huệ cho những đội binh thuyền nhỏ xuất phát từ Mỹ Tho đánh lên Trà Tân hoặc theo những cửa sông Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên đánh lên những vị trí của địch xung quanh Trà Tân rồi lại rút lui. Đó là những trận tập kích nhằm nghi binh thăm dò lực lượng địch và kích động thêm tinh thần chủ quan, khinh địch của quân Xiêm.

Mặt khác, Nguyễn Huệ còn biết rõ dã tâm của vua Xiêm là lợi dụng danh nghĩa cứu giúp Nguyễn Ánh để xâm lấn đất Gia Định và bọn quân lính Xiêm thì lợi dụng cuộc viễn chinh để cướp bóc của cải. Cuối năm 1784, Nguyễn Ánh đã than phiền với Bá Đa Lộc về "tình trạng hai lòng của người Xiêm". Để khoét sâu thêm nhược điểm cơ bản của quân địch và tìm cách ly gián, tăng thêm sự hoài nghi giữa Nguyễn Ánh với quân Xiêm, Nguyễn Huệ dùng một tù binh người Chân Lạp làm sứ giả mang nhiều vàng bạc gấm vóc đến gặp chủ tướng của quân Xiêm xin giảng hòa với điều kiện như sau: "Tân triều (chỉ Tây Sơn) và cựu triều (chỉ Nguyễn Ánh) nước tôi tranh nhau lãnh thổ và nhân dân, không thể cùng đứng với nhau được. Nước tôi cùng nước Xiêm cách trở xa xôi, trâu và ngựa không đánh hơi nhau được, chẳng hay vương tử (chỉ Chiêu Tăng là cháu vua Xiêm) đến chốn này làm gì. Chi bằng hai nước chúng ta hòa hiếu với nhau. Sau khi xong việc, nước tôi sẽ y lệ tiến cống. Như thế có phải là được lợi lâu dài không? Vậy việc cựu chúa (chỉ Nguyễn Ánh) nước tôi để mặc chúng tôi lo liệu, xin vương tử đừng có giúp đỡ". Chiêu Tăng vừa nhận lễ vật để thỏa lòng tham không đáy, vừa âm mưu giả vờ giảng hòa để rồi bất ngờ tiến công quân Tây Sơn. Hắn tưởng thế là cao tay, mưu trí, là "tương kế tựu kế". Chủ tướng quân Xiêm đang thỏa mãn với những "thắng lợi" đã đạt được và tin tưởng vào những dự tính lớn mai sau, có ngờ đâu đang bị Nguyễn Huệ từng bước, từng bước một dẫn dắt vào cạm bẫy.

Hơn mười ngày đã trôi qua kể từ khi Nguyễn Huệ đem quân vào Mỹ Tho. Quân Xiêm lúc đầu lo phòng thủ để sẵn sàng chống lại một cuộc phản công lớn của quân Tây Sơn. Nhưng rồi chúng thấy quân Tây Sơn chỉ mở những cuộc tập kích nhỏ và Nguyễn Huệ lại điều đình xin giảng hòa. Tại Mỹ Tho, chúng thấy quân Tây Sơn “lui lại, đem thuyền ra dàn ở sông lớn để đợi xem biến chuyển ra sao". Những hành động của quân Tây Sơn càng làm cho Chiêu Tăng tin rằng Nguyễn Huệ không dám tiến công và đang chờ đợi kết quả giảng hòa. Hắn hí hửng bàn với Nguyễn Ánh: "Giặc rất tin tôi, tất không phòng bị, ta nên thừa thế, mà đánh phá giặc ngay. Xin hẹn đến đêm mồng 9 tháng này (tháng Chạp năm Giáp Thìn) quốc vương đem ngự binh đi trước xông vào thuyền giặc. Tôi cùng các tướng bản bộ đem tất cả chiến thuyền lớn nhỏ tiến lên phá các thuyền chắn ngang sông của giặc thì thế nào cũng toàn thắng". Chiêu Tăng đẩy quân bản bộ của Nguyễn Ánh đi trước mở đường, còn hắn sử dụng toàn bộ chiến thuyền, theo sông Mỹ Tho, mở cuộc tiến công lớn vào sở chỉ huy của Nguyễn Huệ, hòng bất ngờ đánh tan quân Tây Sơn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #38 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2016, 08:56:49 am »



Tại sở chỉ huy đóng ở Mỹ Tho, Nguyễn Huệ bám sát mọi hoạt động của quân Xiêm - Nguyễn. Nguyễn Huệ biết chắc rằng quân địch sớm muộn thế nào cũng đánh lên Mỹ Tho. Những cuộc tập kích nhỏ, việc điều đình giảng hòa, những hành động nghi binh tỏ ra lơ là phòng bị đều nhằm mục đích thúc đẩy quân địch sớm rời khỏi căn cứ, mở cuộc tiến công mà ông mong đợi, đồng thời làm cho quân địch thêm chủ quan, tự mãn, tạo ra nhân tố bất ngờ cho trận quyết chiến. Kế hoạch nhử địch ra khỏi căn cứ để tiêu diệt bằng một trận đánh vận động trên sông của Nguyễn Huệ đã thành công. Bọn tướng lĩnh Xiêm, như sử nhà Nguyễn chép "cậy mình thắng luôn, bèn dẫn quân đến thẳng Mỹ Tho". Trong lúc đó, Nguyễn Huệ đã dày công nghiên cứu địa hình từ Trà Tân đến Mỹ Tho và quyết định chọn khúc sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút làm trận địa quyết chiến với quân thù.

Sông Mỹ Tho là một dòng sông lớn, phía trên tiếp nước Tiền Giang rồi đổ ra biển qua cửa Đại cửa Tiểu và các nhánh sông Ba Lai, Hàm Luông. Đặc biệt, sông Mỹ Tho chảy qua phía trước Trà Tân và Mỹ Tho (trấn lỵ) là hai vị trí đóng quân và cũng là hai đại bản doanh của quân Xiêm - Nguyễn và quân Tây Sơn. Quân địch từ Trà Tân đánh lên Mỹ Tho phải hành quân theo đường sông Mỹ Tho.

Đoạn sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút dài chừng 7 kilômét. Lòng sông ở đây lại mở rộng hơn 1 kilômét, có chỗ đến trên dưới 2 kilômét. Với đoạn sông dài và rộng lớn như vậy, quân Tây Sơn có thể dồn hàng trăm thuyền chiến của địch lại mà tiêu diệt.

Hai bên bờ sông Mỹ Tho ở quãng này có một số thôn xóm, nhưng lúc bấy giờ còn thưa thớt, cây cỏ còn rậm rạp.

Phía bắc sông Mỹ Tho ở quãng này có hai nhánh sông đổ vào là Rạch Gầm và Xoài Mút. Rạch Gầm (hay Sầm Giang) bắt nguồn từ Giồng Trôm (hay đồi Lữ) chảy về phía Nam, hợp với sông Trà Liễu (hay sông Lâu Lâm) đổ ra sông Mỹ Tho. Sông Xoài Mút còn có tên là sông An Đức vì dòng sông này đổ ra sông Mỹ Tho ở thôn An Đức thuộc tổng Kiến Thuận. Nhân dân địa phương thường gọi là sông Xoài Mút hay Xoài Hột vì trước đây hai bên bờ sông, nhất là bên hữu ngạn có một rừng xoài. Đây là loại xoài hoang, mọc tự nhiên nên quả nhỏ, hột to, mu mỏng. Người ta quen gọi là "xoài hột" (vì hột to) hay "xoài mút" (vì mu mỏng nên khi ăn phải mút) và nhân đó đặt tên dòng sông chảy qua là sông Xoài Mút hay Xoài Hột.

Rạch Gầm và Xoài Mút là hai con sông nhỏ, thường gọi là rạch, nhưng giữ vị trí quan trọng trong thế trận của Nguyễn Huệ. Thủy binh Tây Sơn bố trí ở hai rạch này sẽ là hai mũi tiến công lợi hại chặn đầu và khóa đuôi toàn bộ đội hình quân địch một khi chúng đã lọt vào trận địa mai phục.

Khoảng giữa Rạch Gầm và Xoài Mút, dòng sông Mỹ Tho có cù lao Thới Sơn. Đây là một bãi đất bồi, chu vi dài 5 dặm (khoảng 6 kilômét) nằm hơi chếch về phía nam sông Mỹ Tho, đối diện với cửa sông Xoài Mút. Tiếp theo cù lao Thới Sơn về phía nam là cù lao Hộ hay bãi Tôn. Bộ binh Tây Sơn bố trí trên những cù lao đó có thể dùng đại bác bắn vào sườn đội hình quân địch và sẵn sàng tiêu diệt những tên địch liều lĩnh đổ bộ lên để tìm đường tháo chạy. Những nhánh sông nằm giữa các cù lao và bờ nam là những nơi mai phục và xuất phát của đội thuyền chiến Tây Sơn lao ra chia cắt đoàn thuyền của địch thành từng mảng mà tiêu diệt.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #39 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2016, 08:57:25 am »


Chọn đoạn sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút làm trận địa quyết chiến, chứng tỏ nghệ thuật lợi dụng địa hình hết sức tinh tường của Nguyễn Huệ. Dòng sông rộng cùng với các nhánh sông, cù lao, bờ sông ở đây đáp ứng đầy đủ yêu cầu bố trí một thế trận tiến công vận động lớn cho phép quân Tây Sơn bao vây chặt rồi chia cắt, tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Đoạn sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút cách Mỹ Tho khoảng 6 kilômét (tính từ cửa sông Xoài Mút) và cách Trà Tân khoảng 15 kilômét (tính từ cửa Rạch Gầm).

Quân Tây Sơn từ Mỹ Tho có thể nhanh chóng đến chiếm lĩnh trận địa và giữ bí mật không cho quân địch ở Trà Tân dò biết. Trên cơ sở phán đoán đúng ý đồ của địch và với những nguồn tin do thám tin cậy, Nguyễn Huệ không những nắm được âm mưu tiến công của địch mà còn biết cả kế hoạch và thời gian tiến công nữa. Do đó, Nguyễn Huệ có thể chủ động xác định không gian và thời gian của trận quyết chiến, bày sẵn thế trận để đợi giặc.

Quân địch định tối ngày mồng 9 tháng Chạp (tức ngày 19 tháng 1 năm 1785), sẽ rời khỏi Trà Tân, bắt đầu cuộc hành quân tiến đánh Mỹ Tho. Công việc bố trí trận địa của quân Tây Sơn phải hoàn thành trước giờ tiến công của địch.

Nguyễn Huệ huy động đại bộ phận binh lực gồm cả bộ binh và thủy binh, bí mật vận động đến bày trận tại khu vực tác chiến đã được lựa chọn và nghiên cứu trước. Bộ binh với hỏa lực đại bác mạnh, bố trí mai phục trên bờ sông và trên cù lao Thới Sơn. Nhiệm vụ của bộ binh là phát huy sức mạnh hỏa lực bắn vào đội hình thuyền chiến của địch khi đã lọt hẳn vào trận địa mai phục và sau đó, sẵn sàng giáp chiến tiêu diệt tàn quân địch bỏ chạy lên bờ. Hai đội thủy binh tinh nhuệ giấu quân trong Rạch Gầm, Xoài Mút hình thành hai mũi tiến công chặn đầu, khóa đuôi vây chặt quân địch trong trận địa quyết chiến. Một bộ phận thủy binh mai phục trong các nhánh sông, lạch sông, ẩn nấp sau các cù lao, sẽ bất ngờ đánh tạt ngang vào đoàn chiến thuyền địch như những lưỡi dao sắc băm nát đội hình của chúng.


Một bộ phận thủy binh Tây Sơn vẫn đóng ở Mỹ Tho, bày thuyền chiến trên sông để nghi binh đánh lừa quân địch. Nhưng khi quân địch đã lọt vào trận địa Rạch Gầm - Xoài Mút thì bộ phận thủy binh này lập tức ngược dòng sông Mỹ Tho đến tiếp ứng, tăng cường sức mạnh cho quân ta vào giờ phút quyết định của cuộc chiến đấu.

Tối 18 rạng ngày 19 tháng 1 năm 1785, quân Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ, đã sẵn sàng trong tư thế quyết chiến với một thế trận bao vây, tiêu diệt quân địch rất chặt chẽ, lợi hại.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM