Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:19:34 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Từ mặt trận Hà Nội đến các chiến trường  (Đọc 33588 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #80 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2016, 11:26:33 pm »


        6. Tính chất tổng hợp trong hiệp đồng tác chiến.

        Nghệ thuật quân sự của ta trước hết là nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc, có các lực lượng vũ trang làm nòng cốt, gồm ba thứ quân. Các lực lượng đó phối hợp cùng với lực lượng chính trị của quần chúng luôn luôn ở trong thế hiệp đồng tác chiến để tạo nên một sức mạnh tổng hợp trong tiến công cũng như trong phòng ngự, trong chiến dịch cũng như trong chiến thuật.

        Tính chất tổng hợp thể hiện ở sự phối hợp giữa tiến công quân sự và quần chúng nổi dậy, tiến công địch bằng quân sự, chính trị và binh vận, v.v… Riêng về hành động quân sự, tính chất tổng hợp thể hiện ở chỗ luôn luôn kết hợp chặt chẽ giữa hai phương thức tác chiến chính quy với tác chiến du kích để hỗ trợ cho nhau và tạo điều kiện cho nhau cùng tồn tại và phát triển để đánh thắng địch. Chỉ đánh du kích thì không thực hiện được tiêu diệt lớn quân địch trong một thời gian nhất định, làm chuyển biến tình hình. Chỉ đơn điệu đánh chính quy cũng không thể giành được thắng lợi, kết thúc được chiến tranh. Phải phối hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn, phối hợp đánh bên trong lòng địch với đánh mạnh bên ngoài, tạo thế dồn ép quân địch, chia cắt lực lượng địch, làm chúng luôn luôn không ổn định, tiêu diệt, tiêu hao địch làm chúng mệt mỏi, đi đến nản lòng và tan rã ý chí xâm lược. Ngay bộ đội chủ lực cũng phải tạo ra một hình thái chiến đấu tổng hợp của chiến trường, như bộ đội và cơ quan các cấp của lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ đã đánh bại chiến dịch Gian-xơn Xi-ty của đế quốc Mỹ năm 1967. Trong một trận đánh, tuy lấy một hình thức chiến thuật nào đó là chủ yếu, nhưng thực tế hiện nay cho ta thấy thường bản thân một hình thức chiến thuật không đủ để giải quyết gọn trận đánh mà còn phải dùng những hình thức chiến thuật khác để tiếp tục hoàn thành trận đánh tiêu diệt địch. Hãy lấy một trận đánh địch trong công sự vững chắc làm ví dụ. Trong trận đánh, ta lấy hình thức chiến thuật đánh địch trong công sự vững chắc làm chủ yếu, song các hình thức chiến thuật khác ít nhiều đều có xuất hiện. Chẳng hạn dùng cách đánh bí mật, đến một mức nào đó lại dùng hỏa lực của lối đánh hiệp đồng binh chủng để giải quyết. Khi chiếm được một khu vực hoặc một số mục tiêu, nếu gặp khó khăn phải tạm dừng thì lập tức xuất hiện chiến thuật phòng ngự chốt, trụ lại, bám giữ đánh phản kích rồi tiếp tục tiến công. Để đảm bảo đánh địch trong công sự vững chắc, phải thực hiện cách đánh “bốn cắt, một diệt”, phải vận dụng nhiều hình thức chiến thuật khác nhau như chốt, chặn đánh viện binh của địch hoặc kiềm chế trận địa pháo binh địch, hoặc phục kích, tập kích đánh địch đổ bộ đường không tới ứng cứu, phải tổ chức bắn máy bay, diệt xe tăng, cơ giới của địch, v.v… Trong tổ chức phòng ngự trận địa chốt, cụm chốt nói chung cũng không thể chỉ có đơn độc một lực lượng nào đảm nhiệm, mà phải có lực lượng tổng hợp của cụm làng xã chiến đấu của dân quân du kích kết hợp với trận địa phòng ngự của bộ đội địa phương hoặc một bộ phận của bộ đội chủ lực. Trừ trường hợp ở địa hình đồi núi không có làng mạc, dân cư thì bộ đội chủ lực phải tổ chức ra một bộ phận đánh nhỏ. Trong hành động, lại phải phối hợp các cách đánh của các lực lượng khác nhau với cách đánh của trận địa phòng ngự, chỉ như vậy, phòng ngự mới vững chắc được. Vì thế nội dung huấn luyện quân sự phải thể hiện đầy đủ tính chất tổng hợp nói trên để nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về tư tưởng chỉ đạo tác chiến, về ý thức tổ chức hiệp đồng tác chiến với ba thứ quân, vận dụng các hình thức chiến thuật một cách sáng tạo, mưu trí, linh hoạt, tạo thành một sức mạnh tổng hợp trong chiến đấu nhằm thực hiện tư tưởng tiến công tiêu diệt địch.

        Tóm lại, các lực lượng vũ trang ta đều phải quán triệt nhuần nhuyễn đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng vào nội dung huấn luyện, từ những động tác, thao tác của các binh chủng kỹ thuật đến mọi nội dung của các điều lệnh: đội ngũ, nội vụ, canh gác, kỷ luật, kỹ thuật, chiến thuật, chiến dịch, v.v…

        Mọi suy nghĩ, mọi hành động trong huấn luyện của các lực lượng vũ trang ta đều phải hướng theo đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng. Đó là kim chỉ nam để xác định nội dung của tài liệu giáo khoa và thực hiện huấn luyện cho cán bộ và chiến sĩ. Có quán triệt đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng thì nội dung các điều lệnh, điều lệ, tài liệu cơ bản và tài liệu giáo khoa mới chính xác, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phù hợp với điều kiện đất nước ta, với cách đánh truyền thống và độc đáo của ta.

        Đường lối, quan điểm tư tưởng quân sự của Đảng ta là ngọn cờ trăm trận trăm thắng của các lực lượng vũ trang ta. Các binh chủng, quân chủng dù trong tay nắm binh khí, kỹ thuật khoa học hiện đại đến đâu cũng đều phải quán triệt quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng, đều phải vận dụng nhuần nhuyễn vào mọi nội dung huấn luyện quân sự, mọi hành động chiến đấu và cách đánh truyền thống của quân đội ta. Chỉ có như vậy các binh chủng, quân chủng mới giành được thắng lợi trong chiến đấu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #81 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2016, 11:28:48 pm »


        BÀN VỀ PHÒNG NGỰ ĐỒNG BẰNG1

        Hình thế nước ta chạy dài từ Bắc xuống Nam, phía đông và đông nam là biển, phía tây là núi rừng trùng điệp, bề ngang rất hẹp có đoạn hàng trăm ki-lô-mét, nhưng có đoạn chỉ trên dưới 50 ki-lô-mét. Sông ngòi nhiều, chia cắt lục địa ra nhiều đoạn thành từng khu vực. Trước mặt và sau lưng, địch có thể tiến công chia cắt đất nước ta thành từng đoạn. Nước ta thuộc vùng nhiệt đới, địa hình phức tạp, có nhiều núi cao, rừng rậm, đồng lầy ruộng nước nên tiếp tế vận chuyển khó khăn, hạn chế việc sử dụng binh hỏa lực quy mô lớn và không cho phép dàn hàng ngang tiến công theo kiểu chiến tuyến được.

        Đặc điểm của chiến đấu hiện đại là có sử dụng vũ khí hạt nhân, vi trùng, hóa học và phương tiện vận chuyển có sức cơ động lớn. Nên bên tiến công có thể phải tiến hành tác chiến trên chính diện rộng, bằng nhiều trục đường, tung thâm sâu và tốc độ cao. Do binh khí kỹ thuật hiện đại phát triển, trên chiến trường có nhiều binh chủng, quân chủng tham gia hiệp đồng chiến đấu, tập trung nhiều người và nhiều binh khí, khí tài và do tác dụng sát thương hàng loạt của vũ khí hiện đại nên đội hình chiến đấu không thể tập trung dày đặc như trước mà phải triển khai, phân tán trên nhiều hướng nhiều mũi tập trung tiến công hợp điểm.

        Quân đội của kẻ địch xâm lược, được trang bị những phương tiện cơ động cao như máy bay lên thẳng, bộ binh mô-tô hóa, xe lội nước bọc sắt, v.v… và cũng do sức sát thương hàng loạt của vũ khí hiện đại tạo nên những khoảng trống trên chính diện và tung thâm, nên đối phương có thể tiến công với tung thâm sâu và tốc độ cao. Theo ý kiến các chuyên gia quân sự Mỹ thì trong chiến tranh tương lai, sau khi vũ khí hạt nhân nổ sẽ có những khu vực rộng lớn bị nhiễm xạ. Vượt qua những khu vực đó ở trên mặt đất sẽ có nhiều khó khăn, nhưng bằng đường không sẽ dễ dàng hơn, dùng đường không để “ném” bộ đội xuống phía sau. Nhất là việc dùng máy bay lên thẳng đang ngày càng phát triển. Theo “tạp chí Quân sự” nước ngoài thì tính chất chớp nhoáng nhanh chóng cũng là đặc điểm của các hoạt động chiến đấu hiện đại. Vì do kỹ thuật phát triển, phương tiện cơ động được tăng cường, nên bộ đội có khả năng nhanh chóng tiến tới hoặc đánh chiếm các mục tiêu của đối phương. Với đặc điểm của chiến trường Đông Nam Á nói chung và đặc điểm của chiến trường nước ta nói riêng, thì việc sử dụng binh lực, hỏa lực quy mô lớn theo kiểu tiến công chiến tuyến sẽ bị hạn chế. Tuy nhiên hình thức phát triển của chiến tranh cũng không phải dừng lại ở mức độ như thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Cứ xét như mức độ cuộc chiến tranh xâm lược mà đế quốc Mỹ tiến hành ở miền Nam nước ta hiện nay thì cũng đã thấy rõ: mức độ tập trung binh khí kỹ thuật cũng đã khác trước rất nhiều. Chúng sử dụng rộng rãi máy bay lên thẳng, tổ chức các đội giang thuyền, các đội thiết giáp. Ngoài ra địch cũng đã dùng chất độc hóa học phá hoại ruộng nương và giết hại đồng bào. Như vậy là hiện nay đối phương đã có khả năng vận chuyển cơ động nhanh và cao hơn trước, hỏa lực mạnh hơn nên chúng càng có thể mạnh dạn thọc sâu, bao vây, vu hồi và có thể bất ngờ tiến tới các mục tiêu dự định tiến công. Qua đó, ta cũng có thể dự đoán rằng: ở chiến trường nước ta, tuy mức độ quy mô có hạn chế so với các chiến trường khác trên thế giới, nhưng tính chất vận động nhanh, quy mô lớn, phức tạp trong hoạt động tác chiến của đối phương, trong điều kiện chiến tranh tương lai, vẫn cao hơn trước; đặc điểm chung là tiến công trên chính diện rộng, tung thâm sâu và tốc độ cao. Trong khi đó điều kiện cơ sở vật chất của ta lại kém so với địch. Căn cứ vào đặc điểm địa hình, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật so với địch, chúng ta thấy rõ chúng ta có nhiều nhược điểm, hạn chế trong tiến hành chuẩn bị một chiến dịch phòng ngự chống đổ bộ đường biển hoặc phòng ngự đồng bằng. Do đó càng cần phải có phương pháp tác chiến như thế nào cho phù hợp với đặc điểm địa hình, cơ sở vật chất và truyền thống riêng của chúng ta.

        Tác chiến phòng ngự đồng bằng là một vấn đề lớn. Cả về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật đều phải nghiên cứu giải quyết. Ở đây chỉ đứng trên phạm vi chiến thuật để xem xét vấn đề đặt ra. Trong phạm vi chiến thuật, trước hết, chúng ta nhất thiết phải xây dựng tư tưởng “giữ đồng bằng” và phải giữ với tinh thần kiên quyết. Mặc dầu điều kiện vật chất của ta chỉ có như vậy, điều kiện địch là như thế, cũng không cho phép chúng ta không đánh, mà đòi hỏi chúng ta “phải đánh và phải đánh thắng”; đòi hỏi mỗi người chỉ huy phải biết vắt óc suy nghĩ tìm tòi mọi biện pháp để chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là đối với đồng bằng, yêu cầu chúng ta “phải giữ”. “Phải giữ” là nhiệm vụ và cũng là yêu cầu về tư tưởng. Vậy yếu tố trước tiên là phải xây dựng tư tưởng “dám đánh và kiên quyết đánh thắng”. Vì rằng không có lý do gì chúng ta lại để cho kẻ địch xâm phạm một cách dễ dàng đất đai Tổ quốc của chúng ta. Cũng chẳng khác gì như một gia đình chỉ có vài người với vài con dao, hoặc mấy chiếc đòn càn, hoặc một ít gạch vỡ, nếu có một toán cướp đến cướp bóc, đốt phá gia đình họ, tất nhiên họ cũng đánh lại kẻ cướp một cách quyết liệt và họ cũng đinh ninh rằng: nhất thiết không cho chúng cướp bóc.

-----------------
        1. Bài đăng tạp chí Quân đội nhân dân, tháng 8 năm 1963, có sửa chữa và bổ sung.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #82 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2016, 11:29:22 pm »


        Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng đã thấy có những chiến sĩ biên phòng, những dân quân và có cả những em thiếu niên không hề sợ cọp, sợ báo nên đã gan dạ săn bắn cọp, vào hang bắt cọp hoặc có nhiều người tay không vật lộn với cọp, kiên quyết đánh quỵ nó. Và cuối cùng loại thú rừng hung bạo có sức mạnh, có nanh vuốt nhọn sắc ấy đã phải gục đầu trước ý chí sắt đá của con người. Vì con người ấy đã “dám đánh và kiên quyết đánh thắng”. Trong nhiệm vụ phòng thủ đất nước cũng vậy. Chính vì do có quyết tâm sắt đá, người ta đã ngày đêm suy nghĩ tìm trăm phương nghìn kế để đánh giặc và kiên quyết đánh thắng. Vậy đối với nhiệm vụ phòng ngự đồng bằng, giữ vững kho của cải vật chất của Tổ quốc cần được giáo dục sâu sắc, xây dựng quyết tâm vững chắc cho mọi người, mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đôi với nhân dân miền đồng bằng. Kinh nghiệm thực tế trong kháng chiến chống Pháp đã chứng tỏ rằng: chính nhân dân đồng bằng là lực lượng phòng thủ đồng bằng kiên quyết nhất, vững chắc nhất. Có những làng nhỏ chỉ có một vài tiểu đội du kích phòng giữ, giặc Pháp đã dùng hàng trăm quân có đủ máy bay, pháo binh, xe tăng, xe lội nước tập trung tiến công ngày này qua ngày khác mà vẫn không thể đánh chiếm nổi. Ngày nay, với nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta, với truyền thống chiến đấu anh dũng tuyệt vời của nhân dân và quân đội ta, cơ sở vật chất của chúng ta được dần dần tăng cường hơn trước, chúng ta lại xây dựng một quyết tâm cao độ đối với nhiệm vụ phòng thủ đồng bằng thì tin chắc rằng chúng ta sẽ nghiên cứu được nhiều biện pháp và hình thức chiến đấu thích hợp với điều kiện đặc điểm mới và chúng ta sẽ đạt được nhiều thành tích lớn hơn.

        Ở đồng bằng có ruộng nước, đồng lầy, sông ngòi, mương lạch chia cắt, xung quanh khu vực đồng bằng của chúng ta phần lớn có đồi núi bao bọc ở ba mặt như tay ngai. Đó là cái thế ỷ tựa của đồng bằng rất lợi cho tiến công và phòng thủ đồng bằng của ta, ngoài ra cũng có núi đồi độc lập nổi lên giữa đồng ruộng hoặc có những dãy núi cắt ngang đất nước tạo cho địa hình đồng bằng trở thành từng cái túi. Chúng ta tận dụng những ưu thế của địa hình đồng bằng, biến những địa hình thiên nhiên đó thành những chướng ngại vật phù hợp với ý định chiến thuật, chiến dịch, tăng thêm tính vững chắc của phòng ngự. Cũng một địa hình, địa vật, nếu người chỉ huy biết khéo léo lợi dụng thì sức mạnh của địa hình sẽ tăng lên gấp bội; nhưng ngược lại không biết lợi dụng thì địa hình đó chỉ là “vật chết” và có khi chính địa hình đó lại trở ngại cho ý định chiến thuật của người chỉ huy. Lợi dụng địa hình đồng bằng bao gồm cả việc biết cải tạo địa hình một cách hết sức triệt để. Cần phải xóa bỏ quan niệm cho là: “Địa hình đồng bằng phòng ngự không vững chắc”. Vững chắc hay không chủ yếu tùy thuộc ở người tận dụng nó. Tức là phải phát huy cao độ tính năng động chủ quan của con người với tinh thần cách mạng cao nhất, ra sức cải tạo địa hình “biến yếu thành mạnh”. Nếu không, dù có đảm đương phòng thủ ở một địa hình tốt hơn chăng nữa thì chưa chắc đã bảo đảm được vững chắc hơn. Trên thực tế thì bản thân địa hình đồng bằng cũng đã có những thuận lợi cho tổ chức phòng ngự. Thí dụ ở đồng bằng có sông ngòi chia cắt, có đồng lầy, ruộng nước. Thời kỳ kháng chiến, giặc Pháp tiến công ta cũng đã bị hạn chế rất nhiều: chúng đã phải tiến công theo trục đường “độc đạo” và đã từng bị lực lượng nhỏ yếu của chúng ta bẻ gãy từng mũi tiến công. Khi tiến công, xe tăng, xe lội nước, xe bọc sắt cũng vẫn bị dừng lại ở bên ngoài bờ tre hồ ao là thành lũy thiên nhiên ở xung quanh làng mạc. Mỗi trận chiến đấu giặc Pháp cũng đã từng giội hàng ngàn viên đạn đại bác, hàng tấn bom vào làng mạc của chúng ta nhưng chúng ta không những không bị tiêu diệt mà còn đánh bại cuộc tiến công của địch.

        Trong điều kiện chiến tranh sau này nếu xảy ra, chúng ta càng phải ra sức tận dụng những ưu điểm sẵn có của địa hình đồng bằng và ra sức cải tạo địa hình để hạn chế uy lực vũ khí hiện đại của kẻ địch, hạn chế khả năng cơ động và tốc độ phát triển tiến công của chúng. Lợi dụng yếu tố địa hình đồng bằng chống lại uy lực của trang bị và vũ khí hiện đại của kẻ địch là hết sức cần thiết và có thể làm được tốt ngay trong điều kiện đặc điểm địa hình và điều kiện vật chất của ta.

        Trong tổ chức phòng ngự đồng bằng, điều quan trọng là biết khéo léo bố trí chiến thuật, chiến dịch có thể đứng chân vững chắc; có thể liên hoàn hỗ trợ lẫn nhau và kết hợp chặt chẽ với hình thái bố cục chiến lược nói chung. Nếu chỉ nhìn từng mảnh, từng khu vực nhỏ hẹp riêng biệt thì ta dễ có cảm giác là thế phòng ngự không vững chắc. Nhưng một khi người chỉ huy biết khéo léo bố cục cho ăn khớp với hình thái chung, nhìn bao quát hơn thì ta lại thấy rằng các khu vực phòng ngự có liên quan chặt chẽ với nhau và từng khu vực có thể đứng chân vững chãi và có thế ỷ tựa chắc chắn. Ví như trong bàn cờ, một quân tốt đứng ở thế lợi hại, nếu nhìn riêng quân tốt thì quả là mỏng manh. Nhưng nếu biết đi quân tốt và các quân khác cho khéo léo, quân tốt ấy luôn luôn đứng vào chân tượng, chân mã của ta hoặc có xe, có pháo trợ lực phía sau thì chắc chắn là thế đứng của quân tốt trở nên vững chắc, đối phương muốn ăn quân tốt cũng phải gờm. Trong bố cục phòng ngự ở đồng bằng cũng vậy. Không nên tách rời khu vực phòng ngự nọ với khu vực phòng ngự kia, thế riêng biệt, độc lập hoặc táo bạo cũng phải nằm trong thế chung.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #83 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2016, 11:29:46 pm »


        Trong từng thế riêng và thế chung của tổ chức phòng ngự đồng bằng thì bố cục phải có thế “xoay lưng”, “chuyển mình” tức là phải tạo thế “chủ động trong bị động”, không nên tự trói buộc mình vào một khuôn khổ nhất định. Thí dụ một người đề phòng một người khác tiến tới đánh mình, nếu thế đứng của người đó phía sau là nước sâu, bên cạnh là gai góc lởm chởm, lui một bước cũng không được, tạt sang bên cũng khó khăn thì rõ ràng là người đó đứng ở thế bất lợi. Nhưng nếu người đó biết đứng nép vào một bờ tường hoặc một vật che đỡ nào đó, phía sau và hai bên đều có chỗ xoay xở, tiện đường cho người khác đến ứng cứu thì nhất định thế đứng của người đó sẽ vững chắc hơn.

        Căn cứ vào đặc điểm của chiến tranh sau này, đặc điểm của địa hình nước ta và điều kiện cơ sở vật chất của ta, để đánh lại tiến công của kẻ địch, ở địa hình đồng bằng (và trên bờ biển) chúng ta cần lựa chọn những khu vực địa hình quan trọng, điều kiện khống chế rộng lớn hoặc những mục tiêu cần phải chiếm giữ trên các hướng mà địch có thể tiến công. Làm công sự kiên cố ở đó, kết hợp với công sự dã chiến và làng chiến đấu tạo thành những “khu chốt” vững chắc để chia cắt đội hình tiến công chính diện rộng của địch ra thành từng mảng, ngăn chặn địch ở từng hướng; nắm vững thời cơ, tung lực lượng cơ động mạnh ra tiêu diệt địch. Trong khi học tập tổ chức phòng ngự ở đồng bằng (hoặc bờ biển) có đồng chí thấy địa hình mênh mông, chỗ nào địch cũng có thể tiến công được, nên có khuynh hướng muốn dàn đều lực lượng, chỗ nào cũng muốn bố trí, chỗ nào cũng muốn có quân. Do đó đi đến dàn mỏng lực lượng và đưa hết lực lượng ra phía trước. Như vậy dễ bị hỏa lực của địch tiêu hao ngay từ đầu (vì uy lực vũ khí của địch mạnh hơn và có tầm xa hơn của ta) và rõ ràng là địch dễ chọc thủng tuyến phòng ngự mành mành ấy. Vì đưa hết lực lượng ra phía trước nên tung thâm rỗng, lực lượng cơ động nắm trong tay ít và yếu, tạo điều kiện thuận lợi cho địch nâng cao tốc độ tiến công và phát triển sâu vào hậu phương của chúng ta. Vậy cũng địa hình ấy, cũng cơ sở vật chất ấy, cũng chừng ấy quân, bố trí phòng thủ làm sao cho vững chắc, đó chính là yêu cầu về nghệ thuật “bày binh bố trận” của người chỉ huy. Tổ chức bố trí phòng ngự ở đồng bằng cũng cần phải có “gan”. Nơi cần thiết thì mạnh dạn “đóng chốt” thành những cái đinh vững chắc; nơi cần ít thì bố trí ít, nơi có thể dùng hỏa lực khống chế hoặc có thể cơ động tới kịp thời hoặc một nơi nào đó chỉ cần lực lượng dân quân, du kích hoặc bộ đội địa phương cũng đủ bảo đảm vững chắc thì có khi mạnh dạn và cả gan, không cần thiết đưa lực lượng chủ lực vào đó ngay từ đầu, và lúc cần, có khi cũng không đưa tới đó nhiều. Như vậy tức là bố trí phòng ngự phải có trọng điểm.

        Song để ngăn chặn và tiêu diệt địch nhất thiết phải có những trận địa phòng ngự đủ sức làm giảm tốc độ tiến công và phá được ý định tiến công của địch vào tung thâm sâu của ta. Do đó một vấn đề lớn đặt ra là phải tổ chức trận địa phòng ngự đó như thế nào? Chiến thuật phòng ngự cần phải vận dụng là chiến thuật gì để giữ vững được trận địa của mình đánh bại được sự tiến công của kẻ địch mạnh?

        Để giải quyết vấn đề đó, chúng ta phải có cách tổ chức điểm tựa và cách bố trí các điểm tựa thành thế phòng ngự vững chắc. Cụ thể là trên các hướng phòng ngự ta cần bố trí nhiều khu vực điểm tựa liên tiếp có chiều sâu hình thành “thế chân kiềng” buộc địch phải liên tục đột phá, khi tiến công địch phải luôn luôn tổ chức lại đội hình chiến đấu, nhổ được “chốt” này lại gặp “chốt” khác, đột phá được tiền duyên vào tung thâm lại bị các khu vực phòng ngự khác chặn lại. Tốc độ tiến công sẽ chậm, chặn được quân địch ở phía trước, cô lập bọn địch vu hồi hoặc đổ bộ đường không ở phía sau, các mũi tiến công của địch không hợp đồng được với nhau, tạo điều kiện cho chủ lực của ta xuất kích chặn đánh.

        Nên bố trí các khu vực điểm tựa, “đóng chốt” hình thành “thế chân kiềng” (tam giác nhỏ trong tam giác lớn) liên hoàn chiến đấu, hỗ trợ lẫn nhau. Địch tiến công bất cứ từ hướng nào tới, ta vẫn có thể “xoay lưng” đánh chặn địch lại, các khu chốt hỗ trợ lẫn nhau, khu tam giác nọ hỗ trợ cho khu tam giác kia, luôn luôn giữ được thế đánh kẹp những mũi tiến công của địch, buộc các mũi tiến công đột phá sâu đều phải rơi vào túi hỏa lực của ta. Tổ chức phòng ngự như vậy vừa tiết kiệm được binh lực và vẫn bảo đảm khống chế được chính diện rộng và phòng ngự có chiều sâu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #84 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2016, 11:30:13 pm »


        Mặc dầu có thế liên hoàn nhưng bản thân từng điểm tựa và từng khu vực điểm tựa lại phải tổ chức bảo đảm tính độc lập chiến đấu, chiến đấu bền bỉ trong trường hợp bị bao vây hoặc trong tình huống gay go ác liệt nhất.

        Như vậy các điểm tựa cần thiết phải tổ chức thành phòng ngự vòng tròn, có tung thâm sâu, có nhiều tầng hỏa lực, bảo đảm đánh địch từ bất cứ hướng nào tiến công tới. Nếu địch dùng xe bọc sắt, máy bay lên thẳng đưa quân đánh vòng bên sườn hoặc phía sau ta cũng không lúng túng, mà vẫn giữ được chủ động đánh địch.

        Trong từng điểm tựa cũng cần chú ý không nên đưa tất cả lực lượng ra phía trước hoặc cũng không nên dàn mỏng lực lượng theo gián cách cố định mà bố trí phải có trọng điểm, có chiều sâu, có lực lượng cơ động mạnh. Địch tiến công vào điểm tựa cũng không phải chỉ đột phá một vài chiến hào, phá vỡ một vài hỏa điểm là xong, mà buộc địch phải đột phá nhiều lần và cũng luôn luôn bị đánh kẹp từ nhiều hướng lại. Tốc độ tiến công của địch chậm thì tạo điều kiện thuận lợi về thời cơ cho ta tung lực lượng cơ động ra phản kích.

        Trong điểm tựa, các hỏa điểm cũng cần bố trí hình thành thế tam giác, hỏa điểm nọ yểm hộ cho hỏa điểm kia, bố trí nhiều hỏa điểm có chiều sâu liên tục thành hỏa lực nhiều tầng. Bản thân từng hỏa điểm và bản thân thế tam giác của các hỏa điểm ấy cũng bảo đảm được phòng ngự vòng tròn, đánh được địch từ bốn mặt tiến công tới và tạo thành thế đánh kẹp vào, đánh cạnh sườn địch, các hỏa điểm cũng bảo đảm hai tính chất: liên hoàn tác chiến và độc lập tác chiến. Ngoài ra các điểm tựa, các khu vực điểm tựa cần cấu trúc một hệ thống chiến hào, giao thông hào theo kiểu “mạng nhện” kết hợp chặt chẽ với các hỏa điểm và công sự phụ, nâng cao tính cơ động của ban thân điểm tựa và khu vực điểm tựa. Bố trí phòng ngự điểm tựa kết hợp với chiến hào, giao thông hào dã chiến, nếu không biết khéo léo tạo thành sự cơ động cao thì sức mạnh của phòng ngự sẽ bị hạn chế rất lớn.

        Để tạo thành thế chủ động trong phòng ngự thì chúng ta cần luôn luôn chú ý tới dùng hành động tiến công để phòng ngự (tiến công trong trường hợp này chưa phải là chiến dịch tiến công). Trong từng điểm tựa, hoặc từng khu vực điểm tựa luôn luôn dùng hành động tích cực phản kích để tiêu diệt địch. Các khu tam giác có thể bổ trợ cho nhau bằng cách đánh vào cạnh sườn hoặc phía sau quân tiến công hoặc có thể tung lực lượng vòng phía sau đội hình hoặc luồn vào hậu phương của bên tiến công để phá cuộc tiến công của địch; có khi hành động táo bạo này thu được kết quả lớn về tiêu diệt sinh lực địch (trường hợp này phải tùy hoàn cảnh, điều kiện và đối tượng). Trong kháng chiến chúng ta tung các lực lượng vượt qua vành đai trắng, vượt qua các vị trí của giặc luồn vào trong lòng địch tiến công tiêu diệt các vị trí địch và gây cơ sở nhân dân, buộc địch phải đối phó hai mặt. Như vậy cũng là dùng hành động tiến công để phòng ngự ở một thế rất hiểm. Từ đó chuyển sang thế tiến công chung.

        Với đặc điểm địa hình đồng bằng dân cư đông đúc, các tổ chức dân quân, bộ đội địa phương ở các hợp tác xã, nông trường, xí nghiệp, v.v… là một lực lượng chiến đấu vô cùng hùng hậu. Vậy trong bố cục và trong thực hành tác chiến phòng ngự ở đồng bằng cần có kế hoạch hiệp đồng tác chiến hết sức chặt chẽ. Chính những lực lượng đó sẽ làm cho quân địch đi không yên mà dừng lại cũng không yên, chính những lực lượng đó sẽ làm cho hậu phương bên tiến công rối loạn, sẽ là lực lượng hiệp đồng đắc lực bảo vệ các khu chốt cố thủ của các hướng phòng ngự. Do đó trong kế hoạch cần tính đến hình thế liên hoàn chiến đấu của các làng mạc ở đồng bằng do dân quân và bộ đội địa phương phòng thủ, hoặc khi cần thiết các lực lượng đó sẽ tăng cường cho các “khu chốt” như thế nào. Phối hợp giữa các lực lượng chính quy và du kích, giữa các lực lượng cố thủ và cơ động trong tổ chức và thực hành phòng ngự ở đồng bằng là một nguyên tắc không thể nào thiếu được. Đó cũng là tính chất và đặc điểm của tổ chức phòng ngự theo quan điểm chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng.

        Ở đồng bằng, đối với toàn bộ hệ thống phòng ngự nói chung hoặc của từng hướng, từng khu vực, từng điểm tựa hoặc ngay từng hỏa điểm cũng cần phải đặc biệt chú ý coi trọng sức mạnh của phòng ngự là yếu tố bí mật bất ngờ. Ví dụ: công sự hỏa điểm có làm bằng xi măng, cốt sắt chăng nữa, nhưng nếu làm lộ ra phía trước, mất yếu tố bí mật bất ngờ thì sức mạnh của hỏa điểm sẽ không còn nữa; trong điều kiện đối phương có vũ khí uy lực mạnh thì rất có thể chỉ sau một thời gian ngắn hỏa điểm cốt sắt kia sẽ bị phá vỡ. Một hỏa điểm khác trình độ kiên cố có kém hơn một chút, nhưng bố trí hiểm hóc, giữ được thế bí mật bất ngờ thì tác dụng sẽ mạnh mẽ hơn nhiều. Tùy theo mức độ, có khi có một hỏa điểm, một điểm tựa hoặc một khu vực điểm tựa giữ được thế bất ngờ đột nhiên xuất hiện sát thương hàng loạt quân địch, gây cho địch thiệt hại nặng thì có khi bẻ gãy được một mũi tiến công của địch. Có một số đồng chí cũng chưa coi trọng yếu tố bí mật bất ngờ trong chiến đấu phòng ngự. Như vậy dễ gây nên tổn thất nặng nề ngay từ đầu. Sức mạnh của phòng ngự sẽ giảm đi rất nhiều.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #85 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2016, 11:32:23 pm »


        Do đặc điểm của địa hình và cơ sở vật chất của chúng ta, trong điều kiện chiến tranh hiện đại, uy lực sát thương lớn, sức cơ động cao thì không phải là bỏ hành động nghi binh mà lại càng phải tiến hành rộng rãi biện pháp nghi binh. Từ bố trí hỏa điểm, chiến hào đến bố cục chiến thuật, chiến dịch đều cần chú ý mưu mẹo đánh lừa địch như hỏa điểm giả, chiến hào giả, hành động giả, v.v… làm cho địch hao tổn binh lực, hỏa lực, dồn địch vào thế bất lợi, tạo điều kiện tiêu diệt địch. Người chỉ huy biết tổ chức nghi binh giỏi có khi thu được thắng lợi rất lớn. Cho nên đối với phòng ngự đồng bằng chúng ta cần chú ý vận dụng rộng rãi biện pháp nghi binh.

        Trên đây là một vài ý kiến bước đầu nêu lên để chúng ta cùng nghiên cứu tham khảo. Đồng thời để giúp cho các cán bộ và chiến sĩ dễ nhớ, tham khảo trong quá trình học tập và chiến đấu phòng ngự xin sắp xếp một số điểm về chiến thuật phòng ngự trận địa theo lối nói vần.

        Cấu trúc và bố trí trận địa (10 điểm):

        1. Tam giác nhỏ trong tam giác lớn1.

        2. Chéo nhỏ trong chéo lớn2.

        3. Độc lập trong liên hoàn3.

        4. Chủ động trong bị động.

        5 Điểm khống chế diện, diện bảo vệ điểm4.

        6. Nhiều tầng có chiều sâu5

        7. Kết hợp: xa với gần, trong với ngoài, trước với sau, trên với dưới6.

        8. Hiểm hóc, bí mật chéo sườn, thúc hông.

        9. Cơ động rộng rãi, thoải mái, tập trung.

        10. Thế cọp rình heo, thế mèo vồ chuột.

-------------------
        1. Bản thân một hỏa điểm, đến các điểm tựa, các khu then chốt trở lên đều phải thành hình thế tam giác, đánh được các mặt và hỗ trợ được lẫn nhau.

        2. Các điểm tựa kết hợp với nhau tạo thành thế đánh chéo sườn (nhiều tầng), chia cắt, đánh kẹp quân địch và liên kết thành trận địa chéo để đánh thúc sườn, xuyên hông địch, cũng là trận địa để triển khai phản kích, phản đột kích từ chiến thuật cho đến chiến dịch.

        3. Về tư tưởng cũng như tổ chức vừa bảo đảm độc lập tác chiến, vừa bảo đảm dựa vào nhau liên hoàn tác chiến. Bao gồm liên kết giữa trận địa kiên cố với dã chiến, giữa hỏa lực với xung lực, giữa hỏa khí với giao thông hào và công sự đều phải hết sức nâng cao tính cơ động.

        4. Bố trí phải có trọng điểm. Điểm đó là trận địa vững chắc khống chế được diện rộng. Và các diện rộng ấy (bao gồm các trận địa dã chiến) kết hợp với điểm bảo vệ đắc lực cho điểm.

        5. Muốn có chiều sâu vững chắc thì phải bố trí nhiều tầng từ các hỏa điểm đến các điểm tựa... Ví dụ 3 hỏa điểm bố trí thành một hàng ngang thì sẽ mỏng manh. Nhưng nếu bố trí xê xích một chút: “một trước, hai sau” (chữ A = Tam giác) hoặc “hai trước, một sau” (chữ V = Tam giác) thì sẽ thành hai tầng, hỏa điểm nọ yểm hộ cho hỏa điểm kia, tạo thành chiều sâu vững chắc. Ngược lại bố trí nhiều tầng thì tạo thành phòng ngự có chiều sâu, có lực lượng vận động tiến công càng mạnh.

        6. Lực lượng đánh xa như bộ đội địa phương, dân quân du kích, lực lượng cảnh giới, lực lượng cơ động, trận địa giả, v.v… tiêu hao địch, làm địch mệt mỏi nản chí: hoặc chủ quan nghênh ngang đi vào cạm bẫy của ta. (Chú ý: bản thân trận địa phòng ngự chính phải giữ bí mật từ đầu đến cuối đợi địch tới gần (nơi đã chọn sẵn) đột nhiên, bất ngờ đánh dập đầu địch).
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #86 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2016, 11:36:03 pm »


        - Đánh phối hợp giữa trong khu vực phòng ngự với ngoài khu vực phòng ngự; trong khu cố thủ với ngoài khu cố thủ.

        - Đánh địch trước mặt ta, sẵn sàng đánh địch sau lưng ta; đánh địch đối diện, sẵn sàng đánh bọn phản động nổi dậy; đánh trước mặt địch kết hợp đánh sau lưng địch; đánh quân địch ở tiền phương kết hợp với đánh quân địch ở hậu cứ.

        - Đánh ở mặt đất; bom, mìn, lựu đạn; hỏa lực từ trên cây, trên mái nhà đánh xuống; dưới đường hầm bất ngờ nhô lên đánh quật sau lưng địch. Đánh quân địch dưới mặt đất đồng thời tổ chức đánh quân địch trên không.

        Cách đánh (10 điểm):

        1. Phát hiện địch từ xa.

        2. Làm chậm bước tiến của địch.

        3. Làm địch mệt mỏi tiêu hao.

        4. Lừa địch, đẩy địch vào thế bất lợi.

        5. Địch động ta phải động hơn1.

        6. Cắm chà phá lưới, rút lẫy bẻ thoi2.

        7. Bí mật, bất ngờ, đột nhiên mãnh liệt.

        8. Giữ mẹ, dắt con, xoay tròn bốn phía3.

        9. Kết hợp dùng mưu, dùng nhiều lối đánh.

        10. Vận động tiến công, thúc hông, chặt sườn quân địch.

        Yêu cầu (9 điểm):

        1. Bình tĩnh gan dạ,

        2. Mưu trí linh hoạt,

        3. Chủ động hiệp đồng,

        4. Giành đi, giật lại,

        5. Lúc địch khó khăn,

        6. Vận động tiến công,

        7. Thúc hông, chặt giữa,

        8. Nhiều lần như thế,

        9. Địch bại mới thôi4.

------------------
        1. Ý nói địch dùng nhiều phương tiện cơ động, dùng hình thức tác chiến cơ động (phản ứng nhanh). Do đó ta lại phải giữ bí mật ý định, xuất kích bất ngờ tạo mọi điều kiện cơ động hơn địch để luôn luôn giành chủ động đánh vào chỗ hở của địch, tiến công vào cạnh sườn, sau lưng địch.

        2. Địch dùng chiến thuật “bủa lưới phóng lao”. Nhưng lưới rất sợ chông chà và thoi lao được là nhờ lẫy. Địch “bủa lưới” ta cắm chông chà, địch “phóng lao” ta bẻ lẫy. Chông chà là thế liên hoàn tác chiến của toàn dân, của các lực lượng vũ trang thực hiện “nhân dân là thành đồng vách sắt, làng mạc là lô cốt pháo đài”, các nơi đều bám sát địch mai phục đánh bất ngờ, đánh sau lưng, bên sườn địch, lôi kéo giằng co địch (làm cho lưới phải thủng, phải rách). Một mặt chuẩn bị lực lượng đánh mạnh vào cơ quan chỉ huy, căn cứ hậu phương của địch, và đường giao thông, đánh cho địch lao đao rung động, một mặt chuẩn bị lực lượng tập trung đập cho địch một đòn quyết liệt, bẻ gãy hẳn một cánh quân trọng yếu làm cho cuộc tiến công của địch phải thất bại.

        3. Kiên quyết giữ vững hạt nhân trong các khu then chốt yểm hộ các hỏa điểm, các ổ đề kháng, các lực lượng xung quanh tích cực chiến đấu; và các lực lượng xung quanh, các ổ đề kháng, các hỏa điểm, v.v… phải kiên cường chiến đấu bảo đảm vững chắc cho khu hạt nhân và các hỏa điểm đều phải xoay vòng đánh được bốn phía.

        4. Để đánh bại cuộc tiến công của địch, nói cho cùng vẫn là phải tạo mọi cơ hội chủ động dùng lực lượng mạnh bí mật vận động bất ngờ tiến công đập thật mạnh vào sau lưng, bên sườn địch, đánh vào sở chỉ huy và phương tiện vật chất chi viện tiến công của địch.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #87 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2016, 11:36:46 pm »


        VỀ ĐẶC ĐIỂM VÀ CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO DÂN QUÂN MIỀN NÚI1

        Núi rừng của ta trùng điệp bao la, dân cư thưa thớt, bản làng rải rác ở những nơi hẻo lánh. Nhưng miền núi lại có nhiều thế rất mạnh. Về kinh tế, miền núi có nhiều của cải thiên nhiên quý giá, có nhiều lâm thổ sản và khoáng sản. Về quân sự, miền núi có vị trí chiến lược rất quan trọng, là căn cứ địa của cách mạng Việt Nam và của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây. Miền núi sẽ tiếp tục là căn cứ địa của cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc sau này. Vì vậy muốn bảo vệ được miền núi vững chắc, ngoài lực lượng bộ đội tập trung mạnh, chúng ta phải ra sức xây dựng lực lượng dân quân mạnh và rộng khắp. Xây dựng lực lượng dân quân mạnh và rộng khắp là một vấn đề hết sức quan trọng trong công cuộc củng cố quốc phòng ở miền núi của chúng ta.

        Vậy dân quân miền núi có đặc điểm gì?

        Miền núi đất rộng người thưa, núi rừng hiểm trở. Nhưng dân quân là người địa phương, thông thạo địa hình địa vật, quen thuộc đường đi lối lại, gốc cây hang núi. Vì thế khi kẻ lạ mặt lọt vào địa phương khó bề ẩn náu, dễ bị nhân dân phát hiện.

        Nhân dân miền núi vốn phải thường xuyên chiến đấu chống chọi với thiên nhiên, với ác thú, cho nên người dân quân miền núi đã sớm có một tác phong chiến đấu mưu mẹo, một đức tính chiến đấu dũng cảm.

        Nhân dân miền núi vốn rất quen thuộc với những cuộc săn bắn thú rừng, với những cuộc giăng bẫy để bảo vệ nương rẫy, cho nên người dân quân miền núi sớm có kỹ năng sử dụng vũ khí thô sơ trong việc chiến đấu bảo vệ bản làng.

        Nhân dân miền núi vốn quen với sản xuất mang tính chất tập thể, vừa sản xuất vừa bố trí chống dã thú bảo vệ sản xuất; hiệp lực nhau lại trong săn bắn thú rừng, cho nên người dân quân miền núi sớm có ý thức hiệp đồng trong chiến đấu, tương trợ nhau trong sinh hoạt.

        Nhân dân miền núi trước đây vốn bị nhiều tầng áp bức bóc lột của bọn đế quốc và bọn lang đạo phản động, cho nên khi đã giác ngộ thì họ quyết một lòng đi với cách mạng, với Đảng và Bác Hồ. Trong thời kỳ đấu tranh bí mật, nhân dân miền núi đã cùng với cán bộ xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng chiến khu, tham gia lực lượng vũ trang cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân miền núi đã tích cực giúp đỡ bộ đội, tham gia lực lượng vũ trang, đoàn kết với đồng bào miền xuôi tản cư ra vùng kháng chiến, cùng với đồng bào cả nước dốc lòng dốc sức kháng chiến cứu nước. Do đó người dân quân miền núi đã sớm có một truyền thống chiến đấu giải phóng và bảo vệ bản làng, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc.

        Trên đây là những đặc điểm lớn và cũng là những thuận lợi lớn để chúng ta xây dựng một lực lượng dân quân miền núi mạnh và rộng khắp.

        Từ những đặc điểm trên cần chú ý những điểm gì trong chỉ đạo xây dụng dân quân miền núi.

        Qua phân tích đặc điểm nói trên, trước mắt chúng ta nên làm gì để đẩy mạnh công tác dân quân miền núi?

        Vấn đề trước tiên là cần giáo dục cho dân quân miền núi không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, làm cho mọi người nhận rõ sức mạnh tiềm tàng của mình, nhận rõ truyền thống đấu tranh bất khuất, đã từng chiến thắng thiên nhiên, chiến thắng kẻ thù của dân tộc, kẻ thù của giai cấp. Cần đẩy mạnh công tác chính trị, công tác tư tưởng một cách sâu sắc và phù hợp với đặc điểm của dân quân miền núi. Muốn cho biên giới an toàn, không thể thiếu được dân quân miền núi, không thể chỉ ỷ lại vào công an vũ trang hoặc bộ đội chủ lực. Vì, trên phạm vi hàng trăm ki-lô-mét núi rừng hiểm trở, biên giới trùng điệp, nơi nào người có thể đi được thì chính nơi đó, người đặt chân đến sớm nhất, nhanh nhất là dân quân miền núi.

        Giáo dục truyền thống và lòng tự hào dân tộc, xây dựng lòng trung thành và tinh thần tự tin, đó chính là sức mạnh để tổ chức và xây dựng lực lượng dân quân miền núi chiến thắng kẻ thù. Các địa phương phải nắm chắc lực lượng vũ trang địa phương, ra sức xây dựng, rèn luyện để lực lượng vũ trang trở thành một công cụ vững chắc của Đảng, lực lượng tin cậy của nhân dân. Miền núi của chúng ta có nhiều dân tộc. Cho nên chúng ta phải hết sức tăng cường công tác lãnh đạo đoàn kết dân tộc trong lực lượng vũ trang vì đoàn kết là nguồn gốc của sức mạnh. Các địa phương phải có kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang mạnh, thường xuyên và toàn diện. Lực lượng vũ trang địa phương phải mạnh cả về chính trị và quân sự, cả về tư tưởng và tổ chức. Có xây dựng được như vậy thì lực lượng vũ trang địa phương mới hoàn thành được nhiệm vụ công cụ chuyên chính chủ yếu của chính quyền địa phương.

        Trên cơ sở đặc điểm sản xuất, đặc điểm sinh hoạt, cần nghiên cứu việc tổ chức và huấn luyện cho thích hợp với yêu cầu của nhiệm vụ. Vì cùng gọi là miền núi, nhưng có nơi giáp liền với đồng bằng, có nơi ở rẻo cao, có nơi làm ruộng và sinh hoạt tương đối tập trung, có nơi còn lẻ tẻ. Như vậy, phải căn cứ vào đặc điểm từng miền để tiến hành tổ chức thành đơn vị, từng khu vực có thể kết hợp quân sự hóa trong sản xuất, tuần phòng bảo vệ biên giới.

        Muốn hoàn thành nhiệm vụ trên phải có tinh thần cách mạng tiến công, phải tích cực “tìm địch”, có phương án cụ thể, có khoanh từng khu vực và vận dụng khéo léo giữa phân tán và tập trung. Thí dụ: có thể dựa vào việc săn bắn, rình thú rừng, vây lùng thú rừng... mà nghiên cứu thành động tác huấn luyện, lùng sục bắt gián điệp và kẻ gian.

        Bọn phản động ở địa phương là đầu mối của bọn phản động từ bên ngoài tới. Phong tỏa bọn này thì bọn gián điệp sẽ bơ vơ, lạc lõng không khác gì cây mất đất và rễ không có chỗ bám nên cây lá không thể nào sinh sôi nảy nở và tồn tại được.

        Tóm lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đời sống của nhân dân miền núi nhất định càng được nâng cao, do đó sự củng cố và phát triển dân quân miền núi càng phải tích cực. Lực lượng dân quân có mạnh, biên giới và rừng núi mới được an toàn sản xuất mới càng phát triển, trình độ mọi mặt của dân quân càng được nâng cao. Chúng ta nghiên cứu đặc điểm của nhân dân miền núi để tăng cường công tác chỉ đạo dân quân miền núi, tiến hành giáo dục chính trị, giáo dục truyền thống một cách sâu sắc, có phương án xây dựng và huấn luyện thích hợp làm cho dân quân miền núi thực sự là những người chủ của rừng núi, thực sự làm nòng cốt trong các phong trào chung của nhân dân miền núi.

----------------
       1. Bài đăng báo Quân đội nhân dân, số 998, ngày 20-1-1962. Có sửa chữa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #88 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2016, 11:39:10 pm »


        CẦN CHÚ TRỌNG XÂY DỰNG DÂN QUÂN TỰ VỆ VÙNG VEN BIỂN1

        Bờ biển nước ta án ngữ phía đông, dài ngót trên ba nghìn ki-lô-mét, chạy từ biên giới Trung Quốc trở về phía nam. Nếu tính riêng miền Bắc cũng có gần 1.000 ki-lô-mét ven biển.

        Vùng biển có nhiều của cải quý báu đang được nhân dân khai thác để nâng cao đời sống cho mình và làm giàu cho Tổ quốc. Nhân dân vùng ven biển có tập quán sinh hoạt riêng và truyền thống đấu tranh cách mạng từ thời kỳ tiền khởi nghĩa.

        Miền ven biển có một vị trí chiến lược quan trọng nối liền cửa ngõ giữa các tỉnh ven biển. Ngoài khơi có các hải đảo như các pháo đài tiền tiêu canh phòng bờ biển, trên bờ có các làng mạc, sông ngòi, bãi cát liên kết với nhau như một bức bình phong che đỡ cho các trung tâm kinh tế, chính trị và miền đồng bằng phì nhiêu. Miền ven biển lại có thể ví như những cánh cửa liên tiếp ghép lại bảo đảm an toàn phía đông Tổ quốc. Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa là những cánh cửa của hữu ngạn sông Hồng, một cánh yếu thì hữu ngạn sông Hồng dễ bị uy hiếp, kẻ địch sẽ dễ dàng đi vào đất liền. Lục địa muốn được an toàn thì miền biển phải vững chắc. Chúng ta có một bờ biển chạy dài, lực lượng quân đội thường trực không thể lúc nào cũng có sẵn ở khắp mọi nơi. Công sự chướng ngại vật không phải chỗ nào cũng có thể làm sẵn. Do đó, chỉ có dựa vào lực lượng dân quân tự vệ vùng ven biển mới bảo đảm cho ven biển được thường xuyên vững chắc.

        Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân vùng ven biển đã từng chiến đấu anh dũng để ngăn chặn bọn giặc xâm nhập đường biển. Vừa qua, ở một vài nơi như Quảng Bình, Hải Ninh..., dân quân vùng ven biển đã là một trong những lực lượng chủ yếu để bắt bọn biệt kích xâm nhập đường biển.

        Kinh nghiệm thực tế chỉ ra rằng nhân dân miền ven biển là bức tường thành vững chắc nhất để ngăn chặn kẻ địch xâm nhập vào đất đai Tổ quốc chúng ta.

        Xây dựng dân quân tự vệ vùng ven biển lớn mạnh là vấn đề sống còn của vùng biển, có liên quan trực tiếp tới sự vững chắc của nội địa và an ninh chung của Tổ quốc. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước ta còn tạm bị chia làm hai miền, bè lũ đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam nước ta ngày càng ra sức ráo riết tăng cường xâm nhập phá hoại miền Bắc, tiến tới xâm lược toàn bộ Tổ quốc ta thì vấn đề tăng cường xây dựng dân quân tự vệ vùng ven biển càng trở nên quan trọng và cấp thiết.

        ĐẶC ĐIỂM VÙNG VEN BIỂN

        Địa hình vùng ven biển ở mỗi khu vực đều có những đặc điểm riêng, có nơi đất bồi bãi cát chạy dài ra khơi hàng ki-lô-mét, có nơi sụt lở, hàng năm làng mạc phải lùi dần vào đất liền. Ven biển có nhiều bãi cát hoặc đụn cát, có nơi rừng phi lao chạy dài, có nơi mọc đầy sú vẹt hoặc núi đá sát mép nước. Làng mạc ở thành tuyến chạy dài theo ven biển. Bờ biển lại có nhiều cửa sông, cửa lạch thuận tiện cho thuyền bè, ca-nô ra vào. Như vậy bản thân địa hình phức tạp và luôn luôn thay đổi đã tạo ra những kẽ hở để cho kẻ địch có thể lợi dụng bất ngờ đột nhập hoặc làm chỗ ẩn náu cho bọn biệt kích ra vào hoạt động. Nhưng cũng do đặc điểm địa hình nên kẻ địch không phải muốn xâm nhập nơi nào cũng được. Chúng có thể gặp nhiều bỡ ngỡ và có thể bị sa vào nơi bố phòng chuẩn bị sẵn của ta. chúng ta cần nghiên cứu kỹ đặc điểm địa hình vùng ven biển để thấy được những thuận lợi, khó khăn trong công tác tổ chức phòng thủ, tổ chức huấn luyện dân quân tự vệ, phát huy kinh nghiệm chiến đấu trong kháng chiến, xây dựng làng mạc ven biển trở thành những tuyến làng chiến đấu vững chắc.

        Nhân dân vùng ven biển có nhiều nghề, nhưng chủ yếu xoay quanh ba nghề chính: đánh cá, làm ruộng và làm muối. Có nơi chỉ chuyên nghề đánh cá, có nơi vừa đánh cá vừa làm ruộng hoặc có nơi thuận mùa nào làm nghề ấy. Ngoài ra cũng có những nghề phụ như thợ nề, thợ mộc, buôn bán nhỏ. Nhưng nói chung ở ven biển phần lớn nhân dân ít nhiều đều có nghề đánh cá. Đó là đặc điểm bao trùm nhất có liên quan trực tiếp đến tổ chức xây dựng dân quân tự vệ. Đánh cá, có 27 loại nghề khác nhau, có thể chia làm ba loại: đi khơi, đi lộng và đánh cá ven bờ. Nghề cá chủ yếu là do nam giới phụ trách, còn phụ nữ thường làm việc nhẹ như xe gai, đan vá lưới, buôn bán cá hoặc trông nom đồng áng. Đối với nghề cá hiện nay, ta đã và đang cố gắng cải tiến, nhưng nói chung công cụ đánh cá của ngư dân còn thô sơ, lạc hậu và phụ thuộc vào thiên nhiên: thời tiết tốt, biển lặng thì đi đánh cá, biển động sóng to thì ở nhà xe gai, vá lưới. Nghề muối chủ yếu dựa vào mùa nắng ráo. Mùa mưa, ẩm ướt thì làm việc phụ, làm nền đổ cát, làm mương, v.v… để chuẩn bị cho vụ muối sau. Ngay trong mùa muối, những ngày trời mưa hoặc râm cũng phải làm việc khác. Phụ nữ, ông bà già và trẻ em khoảng 12, 13 tuổi trở lên đều làm được nghề muối. Còn nam giới, số người tham gia làm muối, so với nghề cá hoặc làm ruộng thì có ít hơn. Như vậy trong vùng làm muôi thì nghề cá vẫn là nghề có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác tổ chức xây dựng dân quân tự vệ vùng ven biển. Về nông nghiệp, vùng ven biển cũng còn nhiều khó khăn như đồng chua nước mặn, kỹ thuật canh tác còn thô sơ lạc hậu.

--------------
        1. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, xuất bản năm 1964. Có sửa chữa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #89 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2016, 11:39:36 pm »


        Mức sống ở từng vùng có khác nhau, có nơi khá, nhưng cũng có nơi còn thấp. Nói chung sinh hoạt đời sống của nhân dân miền ven biển được cải thiện hơn trước nhiều nhưng còn chưa đều.

        Do tính chất và điều kiện nghề nghiệp khác nhau, nên sinh hoạt của các lực lượng sản xuất cũng khác nhau. Đi biển có bộ phận sáng đi, tối về, ngược lại có bộ phận tối đi, sáng về và có bộ phận ở ngoài khơi hàng tuần lễ, xa năm, bảy chục ki-lô-mét, sau này khi phương tiện đánh cá được cải tiến thì có thể còn đi xa hơn nữa. Có bộ phận đi làm nghề thủ công ở địa phương khác. Khi trời nắng, nam giới đi biển thì trên đất liền có nơi chỉ còn nữ giới ở nhà.

        Tính chất lao động của nhân dân vùng ven biển khác với tính chất lao động ở các nhà máy, công trường, hợp tác xã nông nghiệp. Đó là đặc điểm có quan hệ trực tiếp tới công tác tổ chức biên chế, quản lý giáo dục, huấn luyện dân quân tự vệ, tới công tác phòng thủ trị an và sẵn sàng chiến đấu vùng ven biển.

        Một đặc điểm quan trọng nữa của vùng ven biển là số nhân dân theo đạo Thiên chúa khá đông. Nhiều nhà thờ được xây dựng rải ra chạy dài theo ven biển. Chỉ riêng một tỉnh Nam Định đã có tới 15% dân số toàn tỉnh theo đạo Thiên chúa. Trong số thanh niên từ 16 đến 26 tuổi thì thanh niên Thiên chúa giáo chiếm trên 20%. Bọn đế quốc và bọn phản động đội lốt tôn giáo lợi dụng lòng mộ đạo kính chúa của đồng bào Thiên chúa, ra sức tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, mê hoặc đồng bào, gây dựng cơ sở phản động về chính trị và tư tưởng. Nhưng đại đa số đồng bào theo đạo Thiên chúa vốn là quần chúng lao động, sẵn lòng yêu nước, yêu quê hương, có truyền thống và khả năng cách mạng dồi dào... Bọn đế quốc và tay sai của chúng có thể gây cho ta những khó khăn nhất định, tùy nơi tùy lúc làm cho tình hình chính trị ở một số nơi vùng ven biển thêm phức tạp, nhưng chúng không thể nào đạt được âm mưu đen tối của chúng, vì quyền lợi của chúng mâu thuẫn sâu sắc với quyền lợi của nhân dân, vì Đảng ta có đường lối chính sách đúng đắn, vì thực tiễn cách mạng ngày càng làm sáng tỏ chính nghĩa của chúng ta. Bọn đế quốc và tay sai đã thất bại, chắc chắn ngày càng bị cô lập và thất bại hoàn toàn.

        Ở một số nơi còn có một số phần tử xấu, ngoan cố vẫn chưa chịu cải tạo, bị bọn phản động lừa bịp nên còn đi lại, tụ họp với nhau nghe ngóng những lời lẽ xuyên tạc, phản động, chống đối các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ, phá hoại tổ chức dân quân tự vệ.

        Ngoài ra, vùng ven biển, những nơi thuận tiện đường giao thông, có thị trấn thì dân cư thường tập trung đông đúc có nhiều ngươi ở các địa phương khác, kể cả người ngoại quốc đến buôn bán và trú ngụ. Có người chỉ tạm trú một thời gian, có người ở lâu thành dân địa phương. Lợi dụng tình hình đó, bọn gian thương và bọn phản động, gián điệp biệt kích có thể trà trộn vào trong nhân dân, đi lại quan hệ với nhau, liên lạc với kẻ địch bên ngoài, làm cho tình hình chính trị càng phức tạp thêm. Do đó công tác trị an của dân quân tự vệ vùng ven biển lại càng cần đặc biệt chú ý.

        Nhân dân vùng ven biển có truyền thống đấu tranh cách mạng từ lâu, có những vùng cơ sở cách mạng có từ những năm 1930-1931 như Giao Thủy (Nam Định), Quỳnh Lưu (Nghệ An), v.v… Trong kháng chiến, vùng ven biển cũng đã là nơi cung cấp nhiều nhân tài vật lực cho các chiến trường góp phần giành thắng lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Có vùng là khu du kích chiến đấu chống giặc rất quyết liệt. Ví dụ: Nam Định là một tỉnh ở ven biển. Nhân dân theo đạo Thiên chúa nhiều nơi trong tỉnh đã tham gia dân quân du kích chiến đấu rất anh dũng, tiêu biểu nhất là thanh niên theo đạo Thiên chúa xã Hải Xuân và đội du kích xã Hồng Phong đã anh dũng chống giặc càn quét nhiều trận. Đội du kích xã Hồng Phong đã từng tập kích vị trí địch, tiến hành công tác địch vận làm tan rã hàng ngũ địch và cùng với chủ lực phục kích đường thủy tiêu diệt ca-nô và tàu chiến địch. Nhiều nam nữ dân quân theo đạo Thiên chúa được tặng thưởng Huân chương Quân công và Huân chương Chiến công. Đặc biệt có một nữ dân quân theo đạo Thiên chúa đã được bầu là chiến sĩ thi đua và được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba vì có nhiều thành tích chiến đấu anh dũng.

        Ngày nay, trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhân dân miền ven biển lại ra sức phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng sẵn có, xây dựng hợp tác xã, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, góp phần xây dựng lực lượng quốc phòng lớn mạnh. Năm 1959, tỉnh Nam Định được Chính phủ tặng Huân chương Chiến công hạng ba. Riêng xã Giao Lâm (Giao Thủy), một xã ở ven biển, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng hai. Với truyền thống vẻ vang của mình, nhân dân miền ven biển đang ra sức phấn đấu để trở thành một cơ sở chính trị, quân sự, kinh tế vững mạnh, xứng đáng là bức bình phong chắn “gió bão biển Đông”, đảm bảo an ninh cho Tổ quốc.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM