Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 06:32:30 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những chặng đường chiến đấu  (Đọc 34284 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #70 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2016, 02:07:01 am »


        Cùng lúc đó, 2 mũi tiến công vào sân bay Đà Nẵng cũng đã chiếm xong mục tiêu. Máy bay và các phương tiện kỹ thuật của địch còn nguyên hàng dãy khi các chiến sĩ Sư đoàn 2 vào đến trung tâm chỉ huy sư đoàn 1 không quân.

        Ở hướng bờ sông, Trung đoàn 96 Tỉnh đội Quảng Đà cùng Đại đội biệt động Lê Độ nhanh chóng chiếm lĩnh tòa thị chính, kéo cờ giải phóng lên cột cờ chính, sau đó đánh chiếm quân vụ thị trấn và đài phát thanh.

        Ở hướng tây, Sư đoàn 304 sau khi đánh chiếm Sơn Gà, Gò Hà, Hòa Cầm, đã theo đường 14 tiến vào Đà Nẵng, hội quân với Trung đoàn 1 tại sân bay vào lúc 13 giờ.

        Ở hướng bắc, các đơn vị thuộc Quân đoàn 2 sau khi vượt qua đèo Hải Vân đã nhanh chóng đánh chiếm Nam Ô, Hòa Mỹ. Trưa ngày 29 tháng 3, đơn vị đi đầu của Quân đoàn 2 đã vào đến ngã ba Cai Lang. Sau khi xác định các mục tiêu trong thành phố đã được các đơn vị bạn chiếm lĩnh, Quân đoàn cho các đơn vị vượt qua cầu Trịnh Minh Thế, tiến thẳng ra bán đảo Sơn Trà. Tại đây diễn ra cuộc hội quân lịch sử giữa các đơn vị của Quân đoàn 2 và Trung đoàn 38 Sư đoàn 2 vào lúc 15 giờ ngày 29 tháng 3 năm 1975. Giờ đó được xem là giờ chính thức giải phóng Đà Nẵng.

        Đà Nẵng - thành phố lớn thứ nhì ở miền Nam, khu liên hợp quân sự khổng lồ với đầy đủ cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh hiện đại xếp vào loại nhất, nhì Đông Nam á, được phòng thủ nhiều tầng chặt chẽ, đã không chống cự nổi trước sự tấn công như vũ bão, thần tốc của các chiến sĩ giải phóng quân. Khúc khải hoàn ca vang dội khắp phố phường, càng khích lệ cả đoàn quân chiến thắng.

        Nguyễn Chơn bất chợt nhớ lại những lời của đồng chí Nguyễn Chánh đã nói năm nào "Nếu kẻ thù không để cho chúng ta trở về với ngọn cờ hòa bình, thì chúng ta sẽ trở về bằng ngọn cờ Quyết chiến quyết thắng!". Và anh cùng với biết bao đồng chí, đồng đội trên khắp chiến trường miền Nam đã thực hiện đúng lời thề đó. Có một sự trùng hợp đặc biệt là 10 năm trước, vào ngày 20 tháng 10 năm 1965 - ngày thành lập Sư đoàn 2, anh là Trung đoàn trưởng trung đoàn 1 Ba Gia đứng tuyên thệ dưới quân kỳ ở làng Ân Lâm, xã Phước Hà, huyện Tiên Phước, căn cứ địa của nghĩa quân Hường Hiệu. 10 năm sau, anh lại là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2, đưa quân về giải phóng Đà Nẵng, thành phố quê hương. Đòn tiến công chiến lược hiểm yếu từ căn cứ Chu Lai về Đà Nẵng đã cắt đôi khu vực miền Trung, đánh vào phía sau và bên sườn Đà Nẵng, căn cứ liên hợp quân sự mạnh nhất miền Trung.

        Nguyễn Chơn lại bước đi trên con đường quen thuộc dẫn vào làng. Qua bao nhiêu năm chiến tranh, làng anh vẫn không có gì thay đổi. Vẫn những mái tranh nghèo nằm nép mình dưới những tàu dừa xác xơ gió biển. Vẫn những con thuyền nhỏ và những chiếc thúng chai nằm gối đầu trên cát sau bao ngày ra khơi vào lòng. Hình như kẻ thù không muốn cho quê anh thoát khỏi những cảnh đời tối tăm, nghèo khổ.

        Nguyễn Chơn đứng tần ngần trước cánh cổng dẫn vào nhà. Cả ngôi nhà của gia đình anh cũng vậy, vẫn không thay đổi gì mấy so với ngày anh ra đi. Chiếc sân gạch đã rêu dày theo năm tháng, cây mít sau hè da đã sần sùi lốm đốm trắng. Bất giác, Nguyễn Chơn đưa tay sờ lên mái tóc đã bạc màu vì sương gió. Ngày anh lên đường vào quân ngũ, tóc hãy còn xanh. Mẹ anh bảo: "Giống y tóc cha mày". Giờ anh trở lại, tóc tuy chưa bạc, nhưng cũng đã nhuốm màu thời gian...

        Có tiếng chó sủa, rồi tiếng người reo lên:

        - A, anh Hai về! Cha ơi, anh Hai về?

        - Đâu? Đâu? Anh Hai đâu? Anh Hai đâu?

        Cả Nhã, cả Khâm, cả út đều lao ra, rồi ùa tới nắm tay Nguyễn Chơn kéo hẳn vào nhà. Cha anh ngồi đó, tuy không còn tráng kiện như xưa, nhưng ông vẫn khỏe. Hình như ông không còn tin vào đôi mắt của mình. ông hỏi, giọng lạc hẳn đi.

        - Chởn đa con?

        - Dạ, con đây cha! Nguyễn Chơn xúc động trả lời, thấy cay cay nơi khoé mắt.

        Đã ba mươi năm rồi còn gì. Cha mẹ anh còn sống đến ngày anh trở về đã là một hạnh phúc lớn cho đời anh. Sau giây phút ngỡ ngàng, mẹ anh lao tới ôm chầm lấy anh, đứa con trai yêu quý mà bà đã đêm ngày trông ngóng suốt ngần ấy năm trời. Những giọt nước mắt mừng vui, xúc động rơi ướt cả vai áo anh. Nguyễn Chơn ôm lấy thân hình gầy gò của mẹ. Đến lúc này thì chính anh cũng không thể nào ngăn được những giọt nước mắt cứ lặng lẽ tuôn tràn ra hai bên má...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #71 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2016, 02:11:45 am »

       
PHẦN THỨ HAI

THƯỢNG TƯỚNG NGUYỄN CHƠN QUA KÝ ỨC CỦA ĐỒNG CHÍ, ĐỒNG ĐỘI

THƯỢNG TƯỚNG NGUYỄN CHƠN

Đại tướng CHU HUY MÂN       

        Đầu mùa hè 1964, khi sắp kết thúc vai trò trưởng đoàn kiểm tra của Quân ủy Trung ương vào làm việc vơi Quân khu 5, tôi nhận quyết định của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, ở lại làm Chính ủy Quân khu 5. Để tìm hiểu lực lượng và phong trào quần chúng, khả năng hoạt động chiến đấu của các lực lượng vũ trang, tôi xin phép Thường vụ Khu ủy xuống vùng giáp ranh nam Quảng nam một thời gian. Trước hết tôi gặp đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam và cán bộ Trung đoàn 1 (chủ lực của Quân khu). Vào một buổi chiều, tôi gặp Trung úy Nguyễn Chơn, trung úy Hiếu đang đi chuẩn bị chiến trường ở một dòng suối đã được che phủ bằng rừng giang. Con suối này không xa làng Tú Mỹ bao nhiêu. Sau mấy lời chào hỏi, chúng tôi trải tấm bản đồ trên một phiến đá lớn, tôi nói: Hai đồng chí cho biết tình hình địch, cơ sở quần chúng và khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang, trước hết là Trung đoàn 1, Tiểu đoàn 60 Quảng Nam, đồng thời cho biết suy nghĩ của các đồng chí về chiến đấu, xây dựng,bộ đội trước mắt và sắp tới, chúng ta cùng nhau trao đổi để thống nhất một phương án cụ thể. Trung úy Nguyễn Chơn trình bày những nét chung và chi tiết, đồng thời có những đề nghị thiết thực kết hợp giữa chiến đấu và xây dựng. Cả ba người đều thống nhất: vì sao ta diệt kìm kẹp; phá ấp chiến lược của địch và nhân dân giành quyền làm chủ chỉ được mấy hôm, thì lực lượng cơ động cộng hòa ngụy hành quân càn quét giành lại được. Vì sao chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy đã bước đầu phá sản mà lực lượng cơ động ngụy trên chiến trường này vẫn càn quét lên vùng căn cứ cách mạng (tây Quảng Nam, Quảng Ngãi) - chúng gọi là " Đỗ Xá".  Từ buổi làm việc này chúng tôi đi đến hình thành quyết tâm chuẩn bị cho Trung đoàn 1 đánh trận Kỳ Sanh bằng hình thức đánh điểm, diệt viện. Mặc dù, chiến thắng Kỳ Sanh không lớn, nhưng giải quyết một bước quan trọng tư tưởng gồm chủ lực cơ động ngụy, bắn cháy và thu xe M.113, bắn cháy máy bay địch bằng trung liên, súng trường, đánh cả ban đêm lẫn ban ngày. Với chiến thắng này Trung đoàn 1 có bước trưởng thành đúng hướng và đúng chức năng.

        Sau buổi gặp ở Suối Đá và qua chiến thắng Kỳ Sanh, tôi chú ý theo dõi sự phát triển của Nguyễn Chơn. Tiếp theo là chiến thắng địch trong cụm cứ điểm Việt An đầu xuân năm 1965 với trận đánh tiêu diệt một tiểu đoàn ngụy bằng phục kích ở Vinh Huy. Trong trận này, một tiểu đội trưởng đã tung ra khẩu lệnh "bám thắt lưng địch mà đánh". Trong lúc đó trên chiến trường Bình Định, Trung đoàn 2 (chủ lực Quân khu) đánh thắng trận Đèo Nhông - Dương Liễu, thu xe M.113. Vào mùa hè năm 1965, mặc dù thủy quân lục chiến Mỹ đã có ở Chu Lai, Trung đoàn 1 từ trận Kỳ Sanh đến thời gian này chưa được một năm đã có bước trưởng thành nhảy vọt. Trong các cuộc họp xây dựng quyết tâm chiến đấu, tổng kết kinh nghiệm, Đảng ủy - Bộ tư lệnh Quân khu 5 chăm chú lắng nghe ý kiến của Nguyễn Chơn, tinh thần tích cực và táo bạo của anh góp phần khắc phục hiện tượng bình quân chủ nghĩa hay tư tưởng hữu khuynh tiêu cực trong một số cán bộ. Mặc dù thời gian chiến đấu ở Quân khu chưa dài lắm, nhưng thực tế chiến đấu đã đảm bảo cho Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu giao nhiệm vụ cho Nguyễn Chơn ngày một nặng hơn với lòng tin vững chắc. Cuối năm 1967, từ Tây Nguyên tôi về làm Tư lệnh Quân khu 5, từ đây hai chúng tôi có dịp chiến đấu và làm việc cùng nhau lâu hơn. Trong tình huống khó khăn, phức tạp mới hiểu rõ ý chí tài năng và sức sáng tạo của người chỉ huy quân sự ở đây tôi chỉ đề cập ba tình huống, cũng là những kỷ niệm sâu sắc của tôi về Nguyễn Chơn:

        1.    Mùa thu năm 1972, trong trận chiến đấu tiêu diệt một tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn thiết giáp và hầu hết  lực lượng bảo an dân vệ, giải phóng toàn bộ quận lỵ chi khu này có một cụm núi đá gọi là Cấm Dơi. Quân địch lợi dụng địa hình này để chống trả mỗi khi bị bộ đội ta tấn công. Lúc này Quân khu được Bộ Tư lệnh tăng cường cho một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn pháo 130 ly. Trận đánh này diễn ra vào cuối mùa tấn công trên toàn bộ chiến trường miền Nam Việt Nam và giữa lúc phái đoàn ta ở Pa- ri đòi hỏi phải có sự phối hợp tích cực của chiến trường. Lúc đầu khi xây dựng quyết tâm và kế hoạch tác chiến, tôi đồng ý với Nguyễn Chơn sử dụng 4 khẩu 130 ly chủ yếu bắn vào Cấm Dơi theo hình thức hiệp đồng bộ - pháo. Chúng tôi đang chuẩn bị theo hướng trên, thì nhận được lệnh của chỉ huy sở cơ quan Quân khu không cho sử dụng pháo 130 ly vào trận Quế Sơn, để sau chiến thắng Quế Sơn dùng cả xe tăng, pháo 130 ly hình thành mấy mũi tấn công giải phóng Đà Nẵng - khu liên hiệp quân sự lớn của địch. Như vậy là từ hình thức chiến đấu bộ - pháo hiệp đồng chúng tôi phải chuyển sang hình thức chỉ có bộ binh bí mật tập kích với hỏa lực mang vác. Khó khăn lúc này là cụm núi đá Cấm Dơi và tư tưởng tâm lý của bộ đội. buộc phải tăng cường công tác động viên chính trị, sắp xếp lại đội hình. Mặt khác, Tham mưu trưởng tiền phương chỉ huy sở Quân khu cho biết: Mấy hôm nay tư lệnh vùng 1 chiến thuật ngụy mấy lần nhận định: Quân Việt cộng đã mệt mỏi, chuẩn bị lui về phía sau nghỉ ngơi, các đơn vị của chúng cũng được nghỉ một thời gian - sự đánh giá này của địch có lợi cho ta. Nói chuyện qua điện thoại, tôi và Nguyễn Chơn thống nhất giữ vững quyết tâm, chuyển lại cách đánh không cần pháo 130 ly. Trận đánh diễn ra sau mấy tiếng đồng hồ, quận ly chi khu và toàn bộ Quế Sơn hoàn toàn được giải phóng, địa bàn chiến lược nông thôn được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải phóng Đà Nẵng sau đó.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #72 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2016, 04:50:39 pm »


        2.    Trận đánh tiêu diệt một tiểu đoàn địch chiếm đóng trong cứ điểm Nông Sơn, khống chế cả vùng nông thôn Trung Phước mùa thu năm 1974. Đây là trận đánh địch trong công sự vững chắc bằng bộ - pháo hiệp đồng, đồng thời dùng hình thức phục kích vận động tiêu diệt viện binh địch từ Duy Xuyên qua đập Vĩnh Trinh hòng chiếm lại Nông Sơn. Để đảm bảo chắc thắng, chúng tôi cho tháo rời pháo 85 ly nòng dài khiêng lên một đỉnh núi cách cứ điểm Nông Sơn khoảng trên 1km, từ trận địa pháo nhìn rõ lô cốt và lỗ châu mai của cứ điểm Nông Sơn. Theo kế hoạch, đúng 16 giờ ta nổ súng, nhưng 11 giờ trưa ngày hôm ấy, địch cho một tiểu đoàn cộng hòa lên thay tiểu đoàn chiếm đóng lâu ngày ở Nông Sơn. Trinh sát cho biết tiểu đoàn mới lên vẫn ở lại Nông Sơn chè chén với nhau, ngày hôm sau mới thay quân. Qua điện thoại, tôi hỏi ý kiến Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn, anh phấn khởi trả lời: ta quyết tâm tiêu diệt cả hai tiểu đoàn địch. Tôi nhiệt liệt hoan nghênh và nói thêm: đây là số đỏ, vì chúng ta không phải đi tìm tiểu đoàn địch ở nơi khác như dự tính, thật đúng là ý hợp tâm đầu. Kết quả bộ đội ta loại khỏi vòng chiến đấu cả hai tiểu đoàn địch, giải phóng một vùng nông thôn tương đối rộng.

        3.     Mùa xuân năm 1975 lịch sử, nhiệm vụ trọng điểm của bộ đội Quân khu 5 là cùng với lực lượng từ Huế vào giải phóng Đà Nẵng. Theo đúng kế hoạch, mở đầu chiến dịch tiêu diệt địch giải phóng chi khu quận ly Tiên Phước, Phước Lâm, kéo quân cơ động ngụy từ Tam Kỳ lên dãy núi đông Tiên Phước, Phước Lâm, tiêu diệt và đánh tan mấy tiểu đoàn ngụy khi chúng bị tổn thất mạnh, nhốn nháo rút lui ta cho xe tăng giấu kín ở tây thị xã Tam Kỳ xuất kích, thực tế diễn ra cơ bản đúng như vậy. Bộ đội Sư đoàn 2 giải phóng Tam Kỳ trưa ngày 24 tháng 3 năm 1975. Lúc này có ý kiến yêu cầu Sư đoàn 2 cho phân tán mấy tiểu đoàn quét tàn quân địch để giải phóng hoàn chỉnh tỉnh Quảng Nam. Biết ý kiến đó, qua điện thoại, tôi hỏi ý kiến Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn, thì được anh trả lời dứt khoát: đề nghị cho toàn bộ lực lượng tiến nhanh ra giải phóng Đà Nẵng. Tôi nhiệt liệt hoan nghênh và nói: Thời cơ lúc này 1 ngày bằng 20 năm, chúng ta quyết tâm đánh tan gần 10 vạn quân địch, giải phóng khu căn cứ liên hiệp quân sự Đà Nẵng trong hành tiến, không cho chúng có thời gian để tự thủ, không cho chúng chạy về Sài Gòn. Trên đường tiến quân ra Đà Nẵng, nếu gặp quân địch chống cự, ta chỉ dùng một tổ, nhiều nhất là một tiểu đội kìm giữ chúng, toàn bộ đội hình cứ tiến nhanh. Đi sau đội hình Sư đoàn 2 là tiền phương chỉ huy sở Quân khu, tôi theo đường Hiệp Đức, Quế Sơn, ra ngã ba Phước Chỉ. Ý định hai chúng tôi gặp nhau lúc này thật có ý nghĩa. Đúng trưa 29 tháng 3 năm 1975, sau khi giải phóng Huế, Quân đoàn 2 tiến vào Đà Nẵng, cánh quân của Nguyễn Chơn tiến từ phía trong ra, nhanh chóng tiêu diệt và làm tan rã gần 10 vạn quân ngụy; địch không kịp tử thủ, một bộ phận tháo chạy ra bờ biển hòng tìm cách về Sài Gòn nhưng bị pháo tầm xa của ta ngăn chặn. Sự thống nhất ý chí của chúng tôi lúc này có ý nghĩa chiến lược.

        Qua hơn 10 năm hoạt động, chiến đấu gần gũi bên nhau, trên một chiến trường thực sự ác liệt, gian khổ, tôi thấy Nguyễn Chơn chưa phải là người may mắn được học tập: văn hóa, chính trị, quân sự cơ bản, nhưng sớm được giác ngộ mục tiêu lý tưởng của Đảng, quán triệt đường lối chính trị, quân sự của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một lòng phục vụ Tổ quốc và nhân dân. Quá trình chiến đấu lâu dài, Nguyễn Chơn trở thành một cán bộ quân sự, nhưng rất có trách nhiệm xây dựng đoàn kết nội bộ Đảng, đoàn kết nhân dân, chăm lo xây dựng sức mạnh chính trị, sức mạnh tổ chức, trước hết là tổ chức cơ sở Đảng, bồi dưỡng toàn diện cho đội ngũ cán bộ để có năng lực chiến đấu bền bỉ, lâu dài đến toàn thắng. Nguyễn Chơn là người chỉ huy có năng lực, dũng cảm, sát thực tế, có nhiều sáng tạo. Thành tích và chiến công của Nguyễn chơn rất lớn, nhưng bao giờ anh cũng khiêm tốn, đó cũng là đức tính mà Bác Hồ thường dạy cán bộ, đảng viên. Sở dĩ được như vậy, tôi cho rằng: trên cơ sở giác ngộ chính trị, Nguyễn Chơn kiên trì phương châm: vừa làm, vừa học, vừa chiến đấu, vừa rèn luyện, không ngừng nâng cao chí tiến thủ cách mạng.

        Vì vậy, mỗi người đều có thể hiểu Nguyễn Chơn từ Trung úy Đại đội trưởng phát triển lên Sư đoàn trưởng trong chiến tranh; sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Nguyễn Chơn được Đảng, Nhà nước, Quân đội giao trọng trách làm Tư lệnh Quân khu, Tư lệnh Quân đoàn. Phó Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Từ Trung úy đại đội trưởng, chúng tôi gặp nhau ở suối đá nam Tam Kỳ năm 1974, nay anh đã được Đảng, Nhà nước phong quân hàm Thượng tướng, phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tại Đại hội Đảng toàn quốc khóa 6, khóa 7 được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, là đại biểu Quốc hội khóa 4, khóa 7. Đời riêng của Thượng tướng cũng đẹp, người bạn đời Trần Thị Lý cũng là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #73 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2016, 04:52:17 pm »

       
ĐỨC ĐỘ, TÁC PHONG CHIẾN ĐẤU CỦA NGƯỜI CHỈ HUY ĐÁNG HỌC TẬP

Đại tướng ĐOÀN KHUÊ        

        Nhằm truyền thụ lại những kinh nghiệm cho các thế hệ trẻ, Đảng ủy Quân sự Trung ương đã chủ trương khai thác, biên soạn tổng kết một số kinh nghiệm về xây dựng, huấn luyện và chỉ huy chiến đấu. Các đồng chí biên soạn đã tổng kết, rút ra những khía cạnh thể hiện sự mưu trí, sáng tạo, dũng cảm, kiên quyết trong các trận đánh của Sư đoàn 2 trên chiến trường Khu 5 trong đánh Mỹ và trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trong đó có nói đến vai trò chỉ huy rất tiêu biểu của đồng chí Nguyễn Chơn.

        Các đồng chí biên tập có đến xin ý kiến tôi đánh giá về anh Nguyễn Chơn. Tôi ở chiến trường Khu 5 gần gũi, hiểu biết về anh Chơn rất nhiều, từ khi anh còn là cán bộ cơ sở đến cán bộ chiến dịch, chiến lược. Nhất là trong chiến dịch Việt An năm 1965, chiến dịch Ba Gia, hè năm 1965, chiến dịch Nông Sơn - Trung Phước năm 1974, cũng như trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 và ngay cả trong những năm làm nghĩa vụ quốc tế ở chiến trường Cam- pu- chia...

        Đối với anh Chơn, có thể đánh giá là một cán bộ chỉ huy có lòng tin tuyệt đối với Đảng, với nhân dân, với cấp trên và đồng đội. Lòng tin đó thể hiện ở rất nhiều điều, nhưng tôi có thể nói rằng:

        1.     Anh là một người chỉ huy có ý chí cách mạng rất tốt, kiên cường, thủy chung với mục đích lý tưởng. Luôn luôn suy nghĩ vì lợi ích giai cấp và dân tộc. Xuất phát từ tinh thần đó, ở anh Chơn thật sự là vô tư, tận tụy, luôn tìm cách khắc phục khó khăn vươn lên để đạt được mục tiêu chiến đấu của mình. Khi tổ chức Đảng và nhân dân cần, dù khó khăn đến mấy, anh cũng kiên quyết khắc phục và chấp hành mệnh lệnh.

        2.     Anh là người chỉ huy có kế hoạch, có phương án chiến đấu sắc sảo, luôn tìm tòi cách đánh thắng, đánh tiêu diệt địch có hiệu suất cao. Biết tổ chức xây dựng, huấn luyện bộ đội và làm cho bộ đội quán triệt để hành động đúng đắn với quyết tâm cách đánh. Tôi nhớ khi đánh trận Nông Sơn - Trung Phước, đến ngày nổ súng, quân địch tăng thêm lực lượng thay phiên, nhưng Đảng ủy và chỉ huy Sư đoàn 2, trong đó có ý kiến anh Chơn nhận định đây là thời cơ lộn xộn của địch khi thay phiên, không phải lực lượng nhiều, hay ít. Anh Chơn đã đánh giá rất chính xác, không cường điệu, không chủ quan, mà luôn tạo thế và lực để đánh tiêu diệt.

        3.     Là một cán bộ quân sự năng động, sáng tạo, có quan hệ với cấp dưới sâu sắc và nghiêm túc đối với cấp trên, nét tiêu biểu nổi bật ở anh Chơn là trước khi bước vào trận đánh anh rất chú ý đến công tác luyện quân để giành thắng lợi, nhưng ít tổn thất. Đó là quan điểm của một người chỉ huy thật sự.

        4.    Anh còn là cán bộ quân sự có tư duy, luôn tìm tòi, sáng tạo, nhiều mưu mẹo. Trong chiến tranh ở biên giới Tây Nam, khi tổ chức tác chiến ở điểm cao 547 và tác chiến khu vực ở Ngã Ba Biên, anh đã mạnh dạn tổ chức luồn sâu vu hồi vào phía sau quân địch 13 cây số, nghi binh thu hút địch ở chính diện, tạo nên sự bất ngờ đánh tiêu diệt. Không chỉ có thủ đoạn chiến đấu linh hoạt, hiệu quả, mà anh còn tìm nhiều biện pháp khắc phục khó khăn bảo đảm cơ sở vật chất để đánh thắng...

        Suốt chặng đường chiến đấu vì độc lập dân tộc, cũng như trong những năm nghiên cứu chỉ đạo về xây dựng lực lượng, nghiên cứu cách đánh trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, anh Chơn đã trăn trở miệt mài, tận tụy với công việc suy nghĩ và làm một việc gì đó để cho các thế hệ trẻ nối nghiệp.

        Tôi suy nghĩ, thế hệ cán bộ, chiến sĩ trẻ hôm nay không chỉ cần trau dồi lý tưởng về mặt nhận thức tư tưởng, chính trị, đạo đức, mà còn phải trau dồi về mặt lý luận quân sự, tìm tòi nghiên cứu xây dựng, huấn luyện, nghiên cứu cách đánh, vận dụng sáng tạo những nghệ thuật quân sự đã được đúc kết, để qua đó hoàn thành sứ mệnh lịch sử thiêng liêng cao cả trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà Đảng và nhân dân đã giao cho quân đội.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #74 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2016, 04:55:44 pm »

             
CÙNG ANH CHƠN TIẾN VỀ ĐÀ NẴNG

Thiếu Tướng LÊ MINH CHÂU        


        Chiếc xe Gát 69 của Cục Chính trị đưa tôi vượt qua đèo Răm. Tôi hỏi đồng chí lái xe đã đến Sở chỉ huy Sư đoàn 2 chưa? Đồng chí cười, liếc mắt nhìn qua đồng hồ nói:

        - Bây giờ đã 11 giờ, như Thủ trưởng Hạnh đã dặn, thì giờ này, Sư đoàn chưa di chuyển Sở chỉ huy. Tại Sở chỉ huy cơ bản của Quân khu 5 ở tây Hiệp Đức, sáng nay, Tư lệnh Quân khu xuống thăm và làm việc với các anh em trong bộ phận nghiên cứu, biên soạn kinh nghiệm chiến đấu chuẩn bị cho chiến dịch đánh vào thành phố Đà Nẵng.

        Đồng chí Tư lệnh hỏi:

        - Các cậu nghiên cứu biên soạn đến đâu rồi?

        Anh em trả lời:

        - Báo cáo Tư lệnh, tình hình chiến trường diễn biến nhanh quá, so với dự kiến thì...

        Đồng chí Tư lệnh nói:

        - Mình hiểu ý định các đồng chí và đã trao đổi với các anh trong Bộ Tư lệnh Quân khu, cử một số cán bộ làm phái viên của Quân khu đi trên các hướng, các mũi quan trọng. Các cậu qua báo cáo với đồng chí Nguyễn Hữu Hạnh - Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị, rồi đi với Sư đoàn 2, anh Chơn là Sư đoàn trưởng dày dạn và có nhiều kinh nghiệm. Trong chiến dịch đánh vào thành phố Đà Nẵng sắp tới, Sư đoàn 2 là lực lượng chủ yếu của cánh quân phía Nam. Đối chọi với lực lượng quân địch vừa đông, vừa mạnh, nhưng tôi tin chắc Sư đoàn sẽ hoàn thành nhiệm vụ Quân khu giao phó.

        Tôi được giao nhiệm vụ đi với Sư đoàn 2 trong bối cảnh tình hình thay đổi từng giờ và phát triển nhanh như gió lốc. Đà Nẵng là địa bàn địch thực hiện "co cụm chiến lược" và huênh hoang tuyên bố. "tử thủ Đà Nẵng". Nhưng chính lúc đó là thời điểm địch hoang mang, dao động mạnh. Sư đoàn 2 và toàn lực lượng trên khắp chiến trường hạ quyết tâm tận dụng thời cơ thuận lợi này, vận dụng sức mạnh tổng hợp của ta, kiên quyết mạnh bạo, liên tục tiến công quân địch trên các hướng. Thực hiện chiến lược chia cắt, bao vây tiêu diệt địch, ngăn chặn không cho chúng rút lui để co cụm.

        Cuộc tiến công của Sư đoàn 2 do anh Nguyễn Chơn làm Sư đoàn trưởng, anh Mai Thuận - quyền Chính ủy, phát triển chiến đấu hết sức mau lẹ và dũng mãnh. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa bộ binh, pháo binh, xe tăng và xe bọc thép của ta đã đè bẹp hoàn toàn sức kháng cự của địch.

        Ngày 23 tháng 3, sau nhiều đợt tiến công, Sư đoàn 2 của ta đã đập tan sư đoàn 2 và liên đoàn biệt động quân ngụy, giải phóng thị xã Tam Kỳ vào ngày 24 tháng 3. Tiếp tục truy quét và chấn chỉnh đội hình, ngày 25 tháng 3, Sư đoàn 2 tiến đánh căn cứ trung đoàn 51 ở Tuần Dưỡng; trung đoàn này đã từng bị xoá sổ trong chiến dịch Ba Gia (Quảng Ngãi) năm 1965 và trong trận này bị xoá sổ lần thứ 2.

        Ngày 26 tháng 3, Sư đoàn 2 nhận mệnh lệnh và kế hoạch hiệp đồng tác chiến với Binh đoàn Hương Giang (Quân đoàn 2) và lực lượng địa phương Quảng Đà, tiến công giải phóng Đà Nẵng - trận then chốt của chiến dịch giải phóng Đà Nẵng. Từ khắp các hướng, tàn quân địch dồn về đây đông chưa từng có, ước tính lên đến 75.000 tên (chưa kể bọn ngụy quyền). Rất nhiều tiểu đoàn cơ động, bảo an, lực lượng không quân, hải quân, pháo binh của địch còn khá đông. Mặc dù có công sự phòng thủ vững chắc, nhưng thế trận của địch đã bị cô lập, nên tinh thần binh lính và sĩ quan hoảng loạn, thời cơ giải phóng Đà Nẵng đã đến.

        Sở chỉ huy Sư đoàn 2 được di chuyển đến một khu vườn nhà dân ở thôn An Long. Tôi đến đó, anh Chơn chỉ trò chuyện đôi câu, rồi tiếp tục công việc nghiên cứu, tác nghiệp trên bản đồ. Từ ngày chiến dịch lớn mở ra, ăn, ngủ thiếu thốn, vất vả, không thành chế độ giờ giấc, nên người anh Chơn gầy và sút đi rất nhiều. Bao nhiêu năm rồi anh vẫn giữ một tác phong bình dị với đôi dép cao su, bộ quần áo ka- ki bạc màu, có cuộc sống đời thường rất dễ gần với cấp dưới và chiến sĩ. Ở anh, dường như tài năng tổ chức chiến đấu lúc nào cũng tiềm ẩn nhiều khả năng, linh hoạt và sáng tạo. Một con người say mê với nghệ thuật và cách đánh giặc hiếm thấy.

        Trong chiến dịch giải phóng Đà Nẵng lần ấy, cả Sư đoàn "tiến công đột phá trong hành tiến". Sư đoàn trưởng cũng tổ chức chỉ huy chiến đấu trong hành tiến để không mất thời cơ. Nhưng vẫn rất bài bản, chính xác, kịp thời và có hiệu quả. Sau khi ra chỉ thị, mệnh lệnh cho các đơn vị và cơ quan Sư đoàn di chuyển, đội hình của toàn Sư đoàn tiếp tục phát triển chiến đấu. Bầu trời Quế Sơn trong xanh, tuy đang trong mùa xuân, nhưng trời nóng oi nồng, mới sớm mà mồ hôi đã ướt đầm. Qua khỏi Sơn Thượng, may mắn gặp con suốt nhỏ chảy từ đèo Le xuống, anh Chơn bảo tôi:

        - Nè, ta tranh thủ tắm, làm bài 1 cũng được. Mấy hôm nay liên tục chiến đấu căng thẳng, đâu đã được tắm giặt, vả lại anh em đang đi bộ, xuống sớm phải đợi.

        Tôi đi xuống suối theo anh và phân bua:

        - Phải rồi, ngày mai, ngày kia dễ chi có cơ hội và thời gian để tắm giặt. Biết đâu, đây là lần tắm cuối cùng của anh em mình phải không anh? - Tôi nói vui rồi khỏa mình, ngập lặn dưới dòng suối nước mát trong xanh, thấy lòng mình khoan khoái khoẻ ra.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #75 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2016, 04:58:24 pm »


        Ở gần anh, tôi mới hiểu: Trong chiến đấu thì khẩn trương, dứt khoát, nhưng bao giờ anh cũng đĩnh đạc, đàng hoàng, rất vui tính và dí dỏm với anh em, đồng đội. Anh chỉ tay nói với tôi:

        - Cậu biết đấy, chính cái đồi bên kia, năm 1967, anh Thạch, anh Đạo, anh Sáng, anh Phong và một số anh nữa đã hy sinh, riêng cậu Xuất bị thương, lăn được mấy vòng thoát nạn, nhưng cuộc chiến tranh quá ác liệt khi tham gia chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, Xuất hy sinh trong trận đánh điểm cao 723. Sự mất mát quá lớn, chúng mình phải suy nghĩ chiến đấu như thế nào để không phụ lòng tin yêu mong mỏi của các anh.

        Trí nhớ của anh rất chuẩn xác. Một địa hình tác chiến đi qua gần chục năm mà anh không hề quên. Bao  nhiêu đồng đội, đồng chí ngã xuống hy sinh, anh vẫn nhớ như in tên tuổi của các anh ấy. Mặc dầu ở cương vị Sư đoàn trưởng có biết bao sự kiện đã qua, bao nhiêu việc đã làm trong một thời gian khá dài như thế.

        Tác phong chỉ huy của anh sâu sát và cụ thể; khi giao nhiệm vụ cho Trung đoàn trưởng và Chủ nhiệm Binh chủng xong, anh liền tranh thủ kiểm tra bài tại thực địa cho cán bộ, nhất là những tình huống phức tạp có thể xảy ra. Anh quan tâm đến số cán bộ được đào tạo bài bản ở Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa mới vào tham gia chỉ huy chiến đấu ở chiến trường. Anh thường tâm sự:

        - Nắm chắc đối tượng tác chiến và nguyên tắc chỉ huy chiến đấu chưa đủ. Sự thành bại ở mỗi trận đánh, mỗi chiến dịch là nắm chắc đặc điểm tình hình địch, ta, địa hình, để tìm ra biện pháp, thủ đoạn chiến thuật chuẩn xác phù hợp.

        Qua mỗi câu chuyện trên đường đi anh kể, tôi rút ra được rất nhiều điều. Đi ngang qua khu vực Cấm Dơi - Quế Sơn, anh nói:

        - Tuy nó thấp thế mà chật vật lắm ta mới chiếm được. Trong trận này, có cậu dùng B72 bắn cháy trên 10 chiếc xe tăng cơ đấy .

        Tôi thầm nghĩ, tháng 8 năm 1965, mà có vũ khí hiện đại như hôm nay, chắc chắn máy bay trực thăng và xe thiết giáp của sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ sẽ bị bắn cháy hỏng nhiều hơn nữa, sẽ tạo cho trận Vạn Tường một bãi sắt vụn khổng lồ, chiến thắng còn to lớn hơn nhiều. Nhân câu chuyện, tôi tìm hiểu ý định tiến công vào thành phố Đà Nẵng, Sư đoàn trưởng trầm tư, chậm rãi nói:

        - Chung nhất là đột phá, tiến công trong hành tiến. Mười một mục tiêu, trong đó có 4 mục tiêu chủ yếu là sở chỉ huy quân đoàn 1, sân bay Đà Nẵng, toà thị chính và căn cứ hải quân mà theo mệnh lệnh của cấp trên, Sư đoàn 2 phải đánh chiếm cho bằng được.

        Anh lệnh cho Trung đoàn trưởng Phạm Xưởng và Chính ủy Lê Lung (Trung đoàn Ba Gia) thần tốc tiến theo trục đường số 1, Trung đoàn 31 do các anh Tiệp và anh Cẩn chỉ huy tiến theo trục đường sắt, Trung đoàn 38 do các anh Thí, anh Thủy chỉ huy, có anh Nã đi theo, phát triển theo hướng đông đánh vào Non Nước - Sơn Trà. Lực lượng tăng, pháo trực thuộc hành quân chiến đấu sau Trung đoàn Ba Gia. Sư đoàn trưởng đi với đội hình chủ yếu. Toàn Sư đoàn triển khai chiến đấu với khí thế áp đảo quân thù.

        Mọi người trở nên thông minh hơn, hoạt bát, khẩn trương hơn. Mệnh lệnh cấp trên được cấp dưới thấu hiểu rõ ràng, chấp hành kiên quyết, khẩn trương, chính xác hơn.

        19 giờ ngày 27 tháng 3, tôi chia tay anh, chuyển qua đi với đội hình cơ quan Sư đoàn. Anh nhắc tôi:

        - Sáng ngày 28 tháng 3, anh đi với Trung đoàn Ba Gia cùng anh Phạm Xưởng, anh Lê Lung, nhớ là khi đến tuyến cầu Đỏ, dù khó khăn thương vong, tổn thất, cũng phải bám trụ bằng được, tìm cách ghì lại, trụ lại. Tuyệt đối không được giãn ra, sẽ mất thế, dẫn đến hao lực, khó tạo lại thế được đấy.

        Nói xong anh vỗ vai tôi thân mật và chia tay. Hòa trong dòng quân tiến bước rầm rập, đêm cuối tháng trời tối, không có trăng, sao giăng đầy trời, càng về khuya, mưa rơi càng nặng hạt. Hành quân xa mang vác nặng, chiến sĩ ta áo ướt đẫm mồ hôi. Hơn tháng nay, cả Sư đoàn liên tục chiến đấu, vừa đi vừa ngủ gật, làm sao cho kịp thời gian tác chiến để có mặt tại điểm quy định theo mệnh lệnh chiến đấu của người chỉ huy. Bao năm rồi tôi vẫn không quên hình ảnh anh Nguyễn Trung Thắng luôn cầm chắc chiếc gậy trong tay, đôi kính cận buộc chặt vào cổ, bước đều chậm rãi dò dẫm từng bước chắc chắn, lúc nào cũng bám sát đội hình.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #76 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2016, 05:00:54 pm »


        Mờ sáng ngày 28 tháng 3, đội hình đi đầu đã đến ngã ba Hương An, Trung đoàn Ba Gia chưa vượt lên được nên đội hình phải triển khai tạm dừng. Chỉ có các đồng chí chỉ huy là hối hả đối chiếu địa hình, nghiên cứu thực địa để triển khai đội hình, còn phần đông tranh thủ hạ ba lô tìm vị trí thuận lợi tranh thủ ngủ, trong phút chốc đã có người ngủ ngáy khò khò thật ngon giấc. Chúng tôi đến phía nam cầu Bà Rén để đến Sở chỉ huy Trung đoàn Ba Gia. Dường như địch đã đánh hơi được cuộc di chuyển đội hình của Sư đoàn 2 nên cho mấy chiếc máy bay trinh sát vè vè bay lượn trên bầu trời. Chưa qua sông được, cả Trung đoàn ém quân chờ đợi ở phía nam cầu. Buổi chiều, địch huy động 2 chiếc khu trục ném bom cầu Bà Rén nhằm ngăn chặn bước chân thần tốc tiến quân vào Đà Nẵng. Cầu cháy nghi ngút suốt cả đêm buộc cả hai trung đoàn của ta phải vượt sông bằng thuyền. Trên gần 4 nghìn cán bộ, chiến sĩ mang vác cồng kềnh, đường xuống khu vực sông lại khó đi, không có bến, chờ đợi rất lâu. Sốt ruột và không để mất thời cơ, tôi chen dần từng bước, lách đến bến đã thấy đồng chí Trần Ngọc Yến - Tham mưu phó Trung đoàn đang chỉ huy mấy chiếc thuyền đã vượt sông. Biết anh Yến là con người sông, biển, có tài bơi lội, tôi bèn trao đổi với anh:

        - Tốt nhất là anh lội thử qua trước, dò xem nông, sâu thế nào?

        Anh Yến hăng hái lội qua sông, một lát sau đã quay lại nói với tôi:

        - Nông lắm, chỉ ngang lưng quần thôi?

        Hai anh em thảo luận và tôi đề nghị anh ra lệnh cho bộ đội lội bộ qua sông vì nếu chờ đi thuyền sẽ không bảo đảm thời gian tác chiến.

        Tôi vượt qua sông vội vàng để bám sát đội hình vẫn ngoái cổ lại trách mấy người dân chèo đò:

        - Răng mà sông nông, lội qua được, mà không mách cho bộ đội lội, có nhanh hơn không?

        Một người trong số họ nhanh chóng phân bua:

        - Sợ các chú lội không quen, ướt át tội nghiệp, chứ chẳng có ý nghĩ nào khác.

        Tôi ân hận vì quá vội trách cứ nhân dân nên cảm ơn các anh, các chị chèo đò đã góp phần nhỏ bé vào chiến thắng. Qua khỏi sông, Trung đoàn Ba Gia tiếp tục hành quân rẽ về hướng đông Duy Xuyên để tiến về hướng Hội An như dự kiến. Đoàn quân đi trên đoạn đường nằm giữa khu đồn của Mỹ - ngụy. Trời tối, không có người qua lại hình như bà con đã di tản trở về quê cũ hết. Xóm làng thanh vắng, không gian tĩch mịnh. Để rút ngắn quãng đường, chúng tôi đi theo góc phương vị, những cánh đồng lúa trước đây nay đã bị bỏ hoang, cây cỏ mọc um tùm, phải lấy tay rẽ thành hàng lối mới đi được. Mờ sáng gặp một bộ phận của Thị đội Hội An đang ở những chiếc lán làm tạm dưới các rặng cây, qua chuyện trò, mới biết, địa hình vừa đi qua toàn là chông, mìn của ta đã bố phòng rất cẩn mật. thật là may, mọi người đều an toàn vượt qua nanh vuốt tử thần. Đồng chí Xưởng hỏi thăm tình hình bên Hội An thế nào? Các đồng chí ở thị đội Hội An cho biết: "Chộn rộn lắm. Nhận rõ tình hình, đêm qua đồng chí Thị đội trưởng đã qua bên đó chỉ đạo tác chiến". Sau đó, chúng tôi chuyển qua bàn chuyện vượt sông Thu Bồn.

        Rạng sáng ngày 29 tháng 3, trong đội hình hành quân, bộ phận đi đầu đã triển khai xuống bến. Tôi thấy các đồng chí cán bộ tham mưu Trung đoàn cùng đồng chí Trần Như Tiếp, đồng chí Trung - phái viên của Quân khu cũng có mặt đang tổ chức triển khai một số hoả lực mạnh: ĐKZ, 12,7 ly bên này bờ để sẵn sàng ứng phó có hiệu quả cho cuộc vượt sông thần tốc. Khoảng hơn 100 chiếc thuyền lớn nhỏ đủ loại, cả chèo tay và có máy đẩy, chỉ trong một giờ đồng hồ đã di chuyển toàn bộ Trung đoàn vượt sông an toàn. Đội hình tiếp tục hành quân lên thị trấn Vĩnh Điện để tiến ra Đà Nẵng. Cũng có người thắc mắc không hiểu vì sao lại vòng xuống hướng Hội An, vì họ chưa hiểu hết ý định chiến thuật của Sư đoàn trưởng. Trên đường Vĩnh Điện - Hội An, nào ba lô, áo quần, xác chết của lính ngụy ngổn ngang, bừa bãi. Thì ra Trung đoàn 38 trước đó đã đánh cụm quân địch ở Vĩnh Điện và diệt quân địch tháo chạy ở Lai Nghi để dọn đường tiến quân ra Non Nước, Sơn Trà trên một hướng của sư đoàn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #77 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2016, 09:39:08 am »


        Tôi đang đi giữa đội hình Trung đoàn, thì Chính ủy Lê Lung truyền gọi tôi lên đi với Trung đoàn trưởng. Vượt lên phía trước, tôi bắt gặp chiếc xe khách tư nhân hiệu Rơ- nô quay đầu đón tôi và một số cán bộ tiểu đoàn cùng 2 khẩu đội hoả lực. Cách ngã ba Trảng Nhật 150m, chúng tôi xuống xe, đã thấy Trung đoàn trưởng đang thảo luận hiệp đồng phương án: tiến công một đơn vị thuộc sư đoàn 3 ngụy di chuyển từ núi Quế về án ngữ, ngăn chặn quân ta tiến đánh vào thành phố Đà Nẵng theo trục đường 1. Kẻ địch khá thâm độc, chúng bắt nhân dân sống vòng ngoài làm "lá chắn". Nếu ta tiến công sẽ gây thiệt hại lớn cho dân. Càng về sau, lực lượng và tốc độ hành quân của Trung đoàn tăng dần. Vì Sư đoàn trưởng và Trung đoàn trưởng đã chỉ đạo rất rõ trong hạ quyết tâm chiến đấu: vừa hành quân vừa tiêu diệt địch, nhưng không được chậm trễ vì sự ngăn chặn bên ngoài của địch. Vừa hành quân bộ, vừa kết hợp trưng dụng phương tiện cơ giới, thuyền bè của dân, thực hiện chiến thuật "mèo chuyền con!” trong hành quân chiến đấu. Dưới một đoạn chiến hào ở luỹ tre ven làng thôn Phong Lục (Điện Thắng, Điện Bàn), Trung đoàn trưởng Phạm Xưởng trao đổi với tôi: "Có điện của anh Chơn".

        - Anh điện chỉ thị như thế nào? - Tôi hỏi lại.

        Anh Xưởng nói:

        - Anh Chơn chỉ thị 11 giờ trưa nay phải chiếm bằng được các mục tiêu chủ yếu ở thành phố Đà Nẵng. Tuyệt đối không được chậm trễ vì chiến đấu dọc đường.

        Hai anh em thảo luận, tôi đề xuất phương án, anh Xưởng bổ sung và tổ chức thực hiện ngay. Không đánh mà vòng tránh một số mục tiêu để bảo đảm đến 11 giờ trưa thực hiện được ý định chiến đấu của Sư đoàn trưởng. Anh Xưởng chỉ thị cho đồng chí Thu - Chủ nhiệm Thông tin triển khai cho bộ đội thông tin rải lộ tiêu theo tôi, rút hoả lực ĐKZ và 12,7 ly về đội hình hành tiến. Trong trường hợp này đánh vào làng mạc sẽ gây thương vong lớn cho nhân dân nên ta tổ chức vòng về phía tây, chỉ cần để lại bộ phận thu hút địch. Khi thấy ta đã bọc về phía sau, tức khắc địch sẽ tự tan rã. Chú ý liên lạc báo lại cho các phân đội tăng, pháo của Sư đoàn ở phía sau biết.

        Đội hình Trung đoàn vận động qua cánh đồng trống, mới ra được khoảng 500m, bất ngờ súng của du kích nổ loạn xạ, anh em lầm tưởng lính sư đoàn 3 ngụy kéo ra, cả đội hình ẩn náu. Phải cử chiến sĩ dùng lá ngụy trang quay mấy vòng làm ký, tín hiệu, anh em mới không tiếp tục nổ súng. Suýt nữa "quân ta bắn phải quân mình". Vượt qua cánh đồng, đội hình rẽ ra đường quốc lộ 1 tiếp tục tiến về Đà Nẵng.

        Cho đến lúc này tôi đã hiểu và thầm phục ý định quyết tâm chiến đấu thần tốc, táo bạo của người Sư đoàn trưởng. Anh Chơn đã điều khiển các trung đoàn một cách chính xác và mau lẹ, thực hiện được chiến lược bao vây lớn, bao vây vừa và bao vây nhỏ, chia cắt từng mảng cụm quân địch. Buộc chúng phải đánh theo ý đồ và cách đánh của ta, không còn cơ hội để đối phó, đánh trả hoặc trì hoãn tốc độ chiến đấu của toàn Sư đoàn. Đồng thời, thực hiện biện pháp chiến thuật đánh nhanh, diệt gọn, không để lực lượng địch trên các hướng rút chạy về Đà Nẵng tổ chức ngăn chặn. Sự sáng tạo trong chiến thuật chính là vòng tránh để chia cắt từng mảng nhỏ, bỏ một số mục tiêu không đánh mà địch vẫn bị cô lập tự tan rã như ở Hà Lam, Thăng Bình.

        Cho đến lúc này nhiều người mới hiểu và thầm phục tài nghệ cầm quân và ý đồ chiến thuật của Sư đoàn trưởng: vòng xuống vùng đông Duy Xuyên, qua Hội An chọn hướng tiến công cho các trung đoàn tiến đánh hướng phía nam thành phố là một đòn tiến công lợi hại, bọc sườn phía sau đội hình chủ yếu của địch.

        Có được những kinh nghiệm quý báu như vậy, anh đã chắt lọc, tổng hợp đúc kết trong nhiều năm, nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch lớn mà anh đã trực tiếp chỉ huy chiến đấu, tiêu biểu như trận đồi tranh Quang Thạnh ngày 15 tháng 2 năm 1967 ở cương vị Trung đoàn phó; rồi Sư đoàn trưởng trong các trận vây ép đột phá tiến công cứ điểm 723 trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào tháng 3 năm 1971; trận vận động bao vây tiến công liên tục Dương Côi, Kỳ Vĩ ngày 25 tháng 7 năm 1974... Trong chiến đấu, ưu thế về lực lượng là điều quan trọng. Nhưng tài năng của người chỉ huy và bản lĩnh chiến đấu của bộ đội lại là những yếu tố hết sức quyết định. Vì vậy, có đông đến mấy, có trang bị rất hiện đại, nhưng bị thua về mưu kế và kém bản lĩnh chiến đấu, địch vẫn liên tiếp bị thất bại và thua đau
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #78 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2016, 09:41:13 am »


        Đang miên man suy nghĩ để cùng các anh trong Ban chỉ huy Trung đoàn đối phó với những tình huống sắp tới, thì đội hình đi đầu đã đến chợ Miếu Bông đột ngột gặp ba người lái xe đứng sẵn như chờ đợi. Tôi bước đến hỏi: "Xe của ai?". Các anh chạy đến báo cáo: Chúng tôi là cơ sở của cách mạng, biết quân giải phóng tiến đến đây, chúng tôi đưa xe ra đón, nếu cần mời các anh lên xe.

        Chúng tôi cảm ơn, sau đó đưa 2 khẩu 12,7 ly và 2 khẩu ĐKZ giá sẵn trên 2 xe đi đầu, xe còn lại chở cán bộ chủ chốt tiến ra phía cầu Đỏ. Trên bầu trời Đà Nẵng, máy bay vận tải C.130 thay nhau cất cánh, hạ cánh vận chuyển các sĩ quan và gia đình tháo chạy bằng đường không. Cách nam cầu Đỏ khoảng 100m, chúng tôi bắt gặp một đoàn xe Jeép, xe Đốt, có chiếc có hoả lực gắn trên xe. Xe chở cán bộ chỉ huy dừng lại đi bộ, còn 2 xe hoả lực dừng tại chỗ và sẵn sàng nổ súng nếu địch chống cự và phản kháng. Tôi và anh Trương Hồng Anh tiến đến nam mố cầu, phía bên kia cầu một số người và xe cộ ùn tắc đông nghịt. Khi họ tiến về phía chúng tôi, tôi hỏi:

        - Các anh dùng xe pháo quân sự đi đâu, ra nghênh chiến với chúng tôi phải không?

        Một người trạc tuổi trung niên, tự xưng quý danh là Ngô Tất Thắng rất nhã nhặn và lễ phép đến thưa và báo cáo:

        - Dạ, thưa cán bộ, chúng tôi vào Sài Gòn!

        Chúng tôi không trả lời, cũng không chất vấn làm gì. Bụng thầm nghĩ, họ không hiểu gì về chiến sự cả. Chắc chạy đường không không được, thì nhân viên chính quyền ngụy và đồng bọn tính đường liều di tản bằng đường bộ. đánh bài chuồn vào Sài Gòn. Tôi nói, các anh dẫn đường đưa chúng tôi vào giải phóng Đà Nẵng. Mặc dù chần chừ có vẻ sợ chạm trán quân địch đang phòng thủ trong Đà Nẵng, suy nghĩ chốc lát rồi họ cũng nhận lời:

        - Dạ thưa, chúng tôi đưa các ông vào đánh chiếm Đà Nẵng.

        Đồng chí Phạm Xưởng đứng ra tổ chức thêm 1 xe hoả lực nữa đi theo đội hình, tất cả có 3 xe hoả lực. Anh Xưởng và tôi cùng Trương Hồng Anh, mỗi người một xe Jeép. Tiểu đoàn 40 đi cùng với Trung đoàn phó vào sở chỉ huy quân đoàn 1, Tiểu đoàn 90 vào đến chi khu quận ly Hoà Vang và ngã ba Hoà Cầm. Tôi hỏi Thắng:

        - Trung tâm huấn luyện Hoà Cầm thế nào?

        Thắng trả lời: 10 giờ sáng nay, đại tá Bùi Phùng đã gặp binh sĩ, nhân viên và nhân dân tuyên bố "tự do di tản". Sau đó, ông ta lên trực thăng bay về Sơn Trà. Tôi vào quận ly Hoà Vang.

        Trên trời một chiếc C.130 đang cất cánh. Trung đoàn trưởng ra lệnh bắn máy bay và chỉ thị cho đồng chí Nguyễn Thế Trạch - Tiểu đoàn trưởng mở cửa đánh chiếm sân bay Đà Nẵng. Tiểu đoàn 60 tiếp tục phát triển về hướng ngã ba Huế. Tiểu đoàn 40 vận động đến cầu phía tây bến Đò Xu, 3 chiếc xe tăng của địch nổ súng vào đội hình, hoả lực ĐKZ của Tiểu đoàn bắn trả quyết liệt, kẻ địch vẫy cờ trắng xin hàng.

        12 giờ ngày 29 tháng 3 năm 1975, Tiểu đoàn 40 chiếm được sở chỉ huy quân đoàn 1, Tiểu đoàn 90 làm chủ sân bay, Tiểu đoàn 60 tiến vào toà thị chính. Các lá cờ của địch bị hạ xuống, những lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam phần phật tung bay trước gió. Bên kia sông Hàn, khu kho An Đồn, sân bay Nước Mặn, cảng nước sâu Sơn Trà, Trung đoàn 38, Trung đoàn 97 và Quân đoàn 2 cũng đã hoàn toàn làm chủ, tiêu diệt các đơn vị địch dồn về đây rất đông để tìm đường tẩu thoát ra biển...

        Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng. Cùng với lực lượng chủ lực của Quân đoàn 2 và bộ đội địa phương cùng với nhân dân Quảng Đà, Sư đoàn 2 bộ binh đã góp phần quan trọng vào chiến dịch giải phóng Đà Nẵng.

        Trên khắp đường phố, xe tăng, đại bác, xe cơ giới, súng ống các loại của địch vứt bỏ ngổn ngang. Quần áo dã chiến đủ các loại bị lột bỏ từng đống khi tháo chạy. Khí thế chiến thắng hừng hực, cờ đỏ sao vàng tung bay khắp thành phố.

        Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, đồng chí Võ Chí Công - Bí thư Khu ủy đến thăm Trung đoàn, anh Lung và tôi đã đưa đồng chí Bí thư đến thăm Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn. Anh Chơn báo cáo lại với đồng chí Bí thư những công việc sắp tới phải làm và chuẩn bị lên đường hành quân thần tốc, cùng các cánh quân tham gia giải phóng Sài Gòn...

        Qua mấy chục năm chiến đấu trường kỳ gian khổ, cuộc đời của anh Nguyễn Chơn đã trải qua nhiều trận đánh lớn, chiến dịch lớn, nhưng chiến dịch giải phóng Đà Nẵng lần này đã để lại cho anh nhiều ấn tượng sâu sắc. Người con thân yêu của mảnh đất Đà Nẵng mấy chục năm trước ra đi tòng quân, cũng chỉ mong có ngày được trở về như hôm nay, trực tiếp cùng đồng bào, đồng chí, đồng đội giải phóng quê nhà, quét sạch bè lũ tay sai bán nước. 

        Anh Nguyễn Chơn không chỉ là người chỉ huy thao lược sắc bén, mà trong cuộc sống đời thường còn là vị chỉ huy mẫu mực, khiêm tốn, được bạn bè và cấp dưới kính trọng, tin yêu, mến mộ, vì anh không chỉ có sức hút quần chúng mà anh còn biết cách vận động quần chúng.

        Những năm sau 1975 ở các cương vị công tác cao hơn, quan trọng hơn, nghệ thuật quân sự, chỉ đạo tác chiến chiến lược của anh còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm hết sức quý báu. Trong chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, tôi có nhiều dịp đi với Sư đoàn của anh nhiều ngày, được anh chia ngọt sẻ bùi, học hỏi ở anh được nhiều điều bổ ích để vận dụng trong chiến đấu, huấn luyện sau này. Chính vì vậy những kỷ niệm về tháng ngày cùng anh tiến về giải phóng Đà Nẵng tôi chẳng bao giờ quên.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #79 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2016, 09:45:10 am »


NHỚ VỀ HAI TRẬN ĐÁNH NGUYỄN CHƠN CHỈ HUY

Trung Tướng NGUYỄN NĂNG       

        Qua nghiên cứu lại một số trận đánh của Tiểu đoàn 90 bộ binh (Trung đoàn 1 Sư đoàn 2), tôi có thể khẳng định yếu tố của người chỉ huy là vô cùng quan trọng.

        Trong chiến dịch Ba Gia, hè năm 1965, theo kế hoạch dự kiến, ta sẽ tiêu diệt một đại đội địch đóng dã ngoại ở Diên Niên để khêu ngòi cho chiến dịch, nhưng gần đến giờ G, thì đại đội địch ở Diên Niên cơ động về Núi Tròn, mục tiêu khêu ngòi không còn. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định sẽ dùng bộ đội địa phương huyện Sơn Tịnh cùng với trinh sát, đặc công Trung đoàn 1 đánh lực lượng dân vệ ở ấp Phước Lộc và ấp Lộc Thọ, buộc địch ở đây phải kêu cứu và nhất định sẽ có viện binh. Đúng như thế, Nguyễn Văn Ngọc - tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 trung đoàn 51 ngụy là một tên hung hăng đã ra lệnh pháo binh ở Gò Cao (đồn Ba Gia) chi viện và đưa đại đội bộ binh cơ động ở Núi Tròn xuống chi viện.

        Đúng theo kế hoạch đã định, kẻ địch đã chui vào cái bẫy của quân ta. Được lệnh xuất kích, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 90 chỉ cho một đại đội xuất quân đánh giữ chân địch, không tiêu diệt cũng không cho địch chạy thoát, buộc quân địch phải leo thang từng bước vào cứu nguy cho đồng bọn.

        Đúng như vậy, tên chỉ huy hiếu chiến đã ra lệnh cho pháo bắn mãnh liệt và chỉ để lại một bộ phận nhỏ giữ cứ điểm Gò Cao, còn chính tên chỉ huy hăng máu này cùng 2 tên cố vấn Mỹ dẫn cả tiểu đoàn kéo xuống. Không ngờ cả thầy lẫn tớ đã dấn thân vào nơi tử địa.

        Kẻ địch có biết đâu ở phía làng An Thành, xã Tịnh Minh, Tiểu đoàn 90 bộ binh của quân ta đã bố trí giấu quân và được sự che chở của nhân dân đã bưng tai bịt mắt làm cho kẻ địch có mắt như mù, có tai như điếc.

        Đợi cho quân địch vượt qua khỏi khu vực Núi Tròn, quân ta bắt đầu hình thành các mũi tiến công từ phía sau và hai bên sườn, lùa địch vào quyết chiến điểm, nắm thời cơ, Tiểu đoàn trưởng ra lệnh nổ súng tiến công. Toàn đội hình của Tiểu đoàn 90 là một tập thể anh hùng lao thẳng vào đánh chia cắt đội hình quân địch. Quân địch bị đánh bất ngờ từ hai bên sườn, đằng sau, bị chặn đầu, khoá đuôi không còn đường tẩu thoát, cả tiểu đoàn địch bị rối loạn ngay từ đầu, tên đại úy Nguyễn Văn Ngọc và các cố vấn Mỹ như cá nằm trên thớt.

        Quân ta với thế áp đảo, dũng mãnh xung phong chia cắt địch ra thành từng mảng để tiêu diệt một cách nhanh chóng. Chỉ trong vòng hơn một tiếng đồng hồ, tiểu đoàn 1 trung đoàn 51 đã bị tiêu diệt gọn. Tên tiểu đoàn trưởng bị bắt, cố vấn Mỹ cùng với hàng trăm tên khác bị tiêu diệt và bị thương nằm ngổn ngang ở cánh đồng Lộc Thọ (Diên Niên - An Thành), trong đó nhiều tên bị bắt làm tù binh.

        Nhân dân Tịnh Minh, qua một đêm thức trắng giúp đỡ bộ đội và cùng bộ đội chờ địch và với lòng căm thù Mỹ - ngụy đã hăng hái xông ra truy bắt tàn quân, thu chiến lợi phẩm, giúp đỡ bộ đội giải quyết hậu chiến, khiêng thương binh...

        Với trận thắng mở đầu của Tiểu đoàn 90 tiêu diệt gọn tiểu đoàn 51, uy hiếp đồn Gò Cao buộc Nguyễn Chánh Thi - tư lệnh vùng 1 chiến thuật phải vội vã đưa quân ra ứng cứu giải toả để cứu nguy và chúng cũng không ngờ rằng đây lại chính là thời cơ để ta đánh viện, tiêu diệt hoàn toàn chiến đoàn gồm 4 tiểu đoàn trong giai đoạn đầu của chiến dịch.

        Cùng với những trận đánh tiếp sau, chiến thắng Ba Gia là mốc lịch sử đánh dấu sự phá sản hoàn toàn chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ - ngụy. Trung đoàn 1 từ đây được mang tên Trung đoàn Ba Gia.

        Trong chiến dịch tây Sơn Tịnh năm 1966, đối tượng chủ yếu là thủy quân lục chiến Mỹ. Sau khi ta đã kéo được quân Mỹ vào khu chiến, với chiến thuật trực thăng vận, địch đổ 1 tiểu đoàn xuống phía tây điểm cao và tiến lên điểm cao 62, bị Trung đoàn 21 chặn đánh quyết liệt, cũng bằng trực thăng, chúng đổ tiếp một tiểu đoàn xuống Gò Cao với mục đích đánh vòng về phía nam điểm cao 62 để phá thế bao vây.

        Nhưng thế trận đã bày sẵn, quân địch vừa đổ xuống Gò Cát tiến lên Đồi Chùa, liền bị chốt trên Đồi Chùa đánh quyết liệt Chúng lùi ra, dùng phi pháo đánh dữ dội và tổ chức tấn công nhiều đợt, nhưng cũng không chiếm được Đồi Chùa. Nhiều tên địch nằm rên rỉ dưới chân Đồi Chùa, còn đại bộ phận cả lính lẫn quan nằm ngổn ngang giữa cánh đồng Đông Giáp dưới trời nóng oi bức của vùng nhiệt đới.


        Thời cơ tiêu diệt tiểu đoàn thủy quân lục chiến này đã tới Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho Trung đoàn Ba Gia xuất kích tiêu diệt cánh quân này bằng chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt để phối hợp với Trung đoàn 21 .

        Với tinh thần hiệp đồng chiến đấu, "chia lửa" cùng với Trung đoàn 21, Tiểu đoàn 90 bộ binh với khí thế lập công, với sở trường đánh vận động và bằng khẩu hiệu hành động truyền thống "bám thắt lưng địch mà diệt", bất chấp giữa ban ngày và dưới hoả lực phi pháo địch, cả đội hình Tiểu đoàn 90 dưới sự chỉ huy chặt chẽ của Tiểu đoàn trưởng đã khôn khéo ngụy trang kín đáo, lợi dụng bụi cây, gò đất, bìa làng, hào giao thông, ấp chiến lược tiếp cận đến sát cánh đồng Đông Giáp mà quân địch không hề hay biết gì.

        Mặt khác, do tiếng rên rỉ của quân lính bị thương ở chân Đồi Chùa và tiếng súng nổ ở điểm cao 62 cùng với khí hậu nóng bức, làm cho địch ù tai, mờ mắt.

        Với phương châm nắm chặt thắt lưng Mỹ mà đánh, cả Tiểu đoàn bộ binh 90 đồng loạt xung phong đánh thẳng vào quân địch ở giữa cánh đồng Đông Giáp. Ngay từ những loạt đạn đầu của hoả lực đi cùng kết hợp với những quả thủ pháo lựu đạn, những loạt súng AK bắn găm, bắn gần, áp sát đánh giáp lá cà với địch.

        Tuy quân địch ngoan cố chống cự, nhưng đội hình bị xen kẽ rối loạn, phi pháo của địch không phát huy được: sức mạnh sắt thép uy lực của Hoa Kỳ cũng không cứu nguy được bọn địch chạy tán loạn. Nhưng chúng chạy đi đâu? Vào làng, thì bị du kích đánh, chạy về điểm cao 62, thì bị Trung đoàn 21 chặn đánh, chạy lên Đồi Chùa, thì lực lượng chốt diệt. Cho nên, chỉ trong vòng hơn 1 giờ đồng hồ kịch chiến, ta đã đánh tan tác tiểu đoàn thủy quân lục chiến này.

        Phối hợp nhịp nhàng với Tiểu đoàn 90 Trung đoàn 1 và tận dụng thời cơ trận đánh ở Đông Giáp, Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 8 thuộc Trung đoàn 21 tổ chức xung phong đánh chiếm điểm cao 62 và làm chủ hoàn toàn trận địa.

        Với âm mưu tấn công "tìm diệt", nhưng quân Mỹ đã không thực hiện được kế hoạch hợp vây, trái lại, bị Sư đoàn 2 và lực lượng du kích địa phương đánh tơi tả. Kết quả ta đã đánh thắng liên tiếp làm thiệt hại nặng nhiều tiểu đoàn địch, thắng lợi giòn giã trong chiến dịch tây Sơn Tịnh.

        Cả hai trận chiến đấu ở chiến dịch Ba Gia và trận Đồi Chùa trong chiến dịch tây Sơn Tịnh của Tiểu đoàn 90 bộ binh đều do đồng chí Nguyễn Chơn làm Tiểu đoàn trưởng và đồng chí Văn Công Bích làm Chính trị viên.

        Để đạt được thắng lợi như trên có nhiều nguyên nhân, nhưng ở đây, tôi muốn nêu lên vai trò hết sức quan trọng của người chỉ huy, mà đồng chí Nguyễn Chơn là người trực tiếp chỉ huy luôn nhạy bén, linh hoạt, mưu trí, sáng tạo và dũng cảm, kiên quyết, triệt để tiến công và chấp hành mệnh lệnh
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM