Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 09:40:06 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những chặng đường chiến đấu  (Đọc 34309 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #30 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2016, 01:14:23 am »


        Ngày 8 tháng 2 năm 1971, quân ngụy Sài Gòn bắt đầu vượt biên giới Việt - Lào. Theo tính toán của tổng hành dinh địch, giai đoạn đầu, chúng chỉ phải đối phó với lực lượng bảo vệ hành lang và giữ kho của Binh đoàn 559, quân chủ lực chưa thể cơ động đến trước lúc địch đạt được mục đích của chiến dịch. Nhưng chủ lực ta đã có phương án cơ động đến đúng lúc. Các sư đoàn 304, 308 từ Quân khu 4 vào, Sư đoàn 324 từ A Lưới lên, Sư đoàn 316 từ Lào về.  Sư đoàn 320 đang trên đường vào Nam Bộ cũng được lệnh dừng lại tham gia chiến dịch, Trung đoàn 64 của Sư đoàn này được Bộ Tư lệnh Mặt trận sáp nhập vào Sư đoàn 2. Tuy phải hành quân từ nhiều nơi đến, nhưng do đường cơ động bộ binh cơ giới tốt và khu chiến được chuẩn bị kỹ nên lực lượng của ta sẵn sàng đập tan cuộc hành quân này. Đây là bất ngờ lớn nhất của chúng về chiến lược, đẩy địch từ thế chủ động tấn công sang thế bị động đối phó.

        Quân ta còn được các yếu tố bảo đảm cho chiến dịch hoàn chỉnh đó là chiến trường gần hậu phương miền Bắc, có hệ thống thông tin hoàn chỉnh, hệ thống kho tàng tại chỗ bảo đảm đầy đủ đạn, gạo, thực phẩm, thuốc men và các phương tiện chiến đấu khác. Lực lượng phòng không của Binh đoàn 559 rất mạnh. Ngoài ra hệ thống đường cơ động cơ giới trong địa bàn Mặt trận cũng được hoàn chỉnh, bảo đảm cho việc điều động binh lực trong quá trình chiến đấu.

        Sau 23 ngày chiến đấu liên tục, các đơn vị thuộc Binh đoàn 70 đã bẻ gãy hoàn toàn cánh quân bảo vệ sườn phía bắc, tiêu diệt lữ đoàn dù số 3, thiết đoàn 17, đánh thiệt hại nặng liên đoàn 1 biệt động quân, kế hoạch xây dựng căn cứ hỏa lực chi viện cho cánh quân chủ yếu của địch tấn công Sê Pôn bị đập tan. Ở phía nam, lực lượng Binh đoàn 559 đánh địch ở Cô Bốc và điểm cao 550, bắn rơi 12 máy bay lên thẳng, diệt các đại đội địch. Lực lượng cơ động của ta diệt gọn tiểu đoàn 2, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 3 sư đoàn 1 ngụy. Cánh quân chủ yếu của địch bị quân ta chặn đánh quyết liệt ở Huội San, cầu Kat Ki. Địch cho cánh quân chủ yếu dừng lại ở Bản Đông.

        Đoàn cán bộ do Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn dẫn đầu đến Tây Nguyên vừa gặp Tư lệnh Mặt trận Hoàng Minh Thảo thì nhận được lệnh cấp tốc hành quân quay ra Nam Lào. Lúc vào đi hết 35 ngày, khi ra rút lại còn 18 ngày. Đoàn đi trên 4 xe tải, nhưng phải thay cả 4 xe. Một xe bị rốc- két phóng trúng thùng xe, cháy ca- bin, một xe cũng bị rốc- két bắn bể két nước. Xe thứ ba trúng hai quả bom, thương vong 7 người. Xe thứ tư, khi bươn qua bãi B5 gặp một cây gỗ lớn thọc từ gầm xe tới ca bin. Gần về đến nơi đóng quân, biết đơn vị đã di chuyển, Nguyễn Chơn dùng đài 2W liên lạc. Cánh rừng đại ngàn trước ngày ra đi, giờ dày đặc hố bom, hố pháo. Rừng cháy lấp hết đường xe. bom bi, bom nổ chậm, bom xăng chỗ nào cũng có. Đoàn cán bộ xuyên qua những cánh rừng đỏ rực màu lửa, dùng  súng AK bắn nhiều loạt để liên lạc với đơn vị. Tiếng bom pháo của khu chiến nổ rầm trời, tiếng AK không còn tác dụng. Nguyễn Chơn điều cả súng 12,7 ly bắn từng tràng theo hợp đồng trên điện dài để báo cho đơn vị biết hướng đòan cán bộ trở về mà cho người ra đón.

        Ngày 3 tháng 3 năm 1971, đoàn cán bộ cấp trưởng của Sư đoàn về tới đơn vị. Lúc này Sư đoàn đang chuyển sang giai đoạn: Vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt trung đoàn 1 sư đoàn 1 ngụy tại điểm cao 723. Nguyễn Chơn do đã suy nghĩ nhiều phương án chiến đấu trên đường, nên khi vừa nắm chắc tình hình bộ đội, anh đã trình bày phương án tác chiến của mình một cách độc đáo và được Bộ chỉ huy Sư đoàn nhất trí thông qua. Phương án gồm hai bước, trước mắt, diệt thật nhanh trung đoàn 1 ngụy ở điểm cao 723, rồi sau đó tiêu diệt tiếp trung đoàn 2 tại điểm cao 660.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #31 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2016, 01:15:39 am »


*

*        *

        Trận thắng lớn trên các điểm cao 723 và 660, tiêu diệt trung đoàn 1, đánh thiệt hại nặng trung đoàn 2 ngụy, Sư đoàn 2 Quân khu 5 đã đánh quỵ sư đoàn 1 ngụy là trận đánh tiêu diệt đầu tiên của toàn Mặt trận đóng góp tích cực vào chiến thắng vang dội của quân ta trên chiến trường Đường 9 - Nam Lào. Sư đoàn được đánh giá là một trong những đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Kết luận của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận có đoạn viết: "Các đồng chí đã nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh, cơ động nhanh chóng, đoàn kết,  hợp đồng tốt với các đơn vị bạn, tích cực, chủ động, mưu trí, linh hoạt nắm vững thời cơ liên tục chiến đấu, anh dũng lập công. Đặc biệt, tác chiến kết hợp với binh vận đánh thắng 2 trận lớn tiêu diệt trung đoàn 1 và đánh thiệt hại nặng trung đoàn 2, sư đoàn 1 ngụy trên các điểm cao 723 và 660, bắt tù binh, thu nhiều vũ khí, làm chủ chiến trường. Chiến công của các đồng chí Sư đoàn 2 Quân khu 5 đánh dấu một bước tiến bộ mới quan trọng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi to lớn của chiến dịch lịch sử phản công Đường 9 - Nam Lào trong mùa Xuân 1971" .

        Chính ủy Nguyễn Huy Chương được Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Sư đoàn phân công ra Quảng Bình dự trực báo kết quả với Bộ Tư lệnh Mặt trận. Cuộc trực báo kết quả lần này do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì. Sau cuộc trực báo, theo đề xuất của Sư đoàn, Bộ Tư lệnh Mặt trận giao cho Sư đoàn 2 phối hợp với bộ đội Pa- thét Lào giải phóng cao nguyên Pô- lô- ven - một địa bàn chiến lược ở Hạ Lào.

        Theo kế hoạch, Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn cùng Phó chính ủy Bùi Tùng trực tiếp chỉ huy Trung đoàn Ba Gia cùng các đơn vị xe tăng, pháo binh do Bộ Tư lệnh Mặt trận tăng cường tiến vào giải phóng Y tu, Bản Nhík, thị xã A tô pơ. Một cánh quân khác gồm Trung đoàn 141 được tăng cường lực lượng của Sư đoàn 320 do Sư đoàn phó Dương Bá Lợi chỉ huy mở mũi tiến công giải phóng Pha Lan, Đồng Hến, cùng các đơn vị đánh A- tô- pơ, giải phóng vùng dân cư rộng lớn trên địa bàn Trung Lào, tạo điều kiện cho cách mạng hai nước Việt - Lào phát triển, chi viện cho nhau.

        Để phát huy yếu tố bất ngờ, lúc quân ngụy Lào đang hoang mang trước thất bại nặng nề của quân ngụy Sài Gòn trên Mặt trận Đường 9 - Nam Lào, Sư đoàn 2 được lệnh hành quân ngay. Đoàn cán bộ chuẩn bị chiến trường lên đường sau 2 ngày dứt chiến và 4 ngày sau, toàn Sư đoàn hành quân.

        Đường hành quân đến vị trí tập kết xa. Ngoài trang bị chiến đấu, mỗi chiến sĩ phải mang thêm 7 ngày gạo, 7 ngày lương khô. Lúc này Nam Lào đang vào mùa khô. Những cánh rừng nắng cháy, khô khốc đón chờ đoàn quân vừa chiến thắng. Trên vai bộ đội lại chất thêm nước uống. Nước đựng trong ống bương, nước đựng trong bi đông, nước đựng trong túi ni lông. Dụng cụ gì chứa được nước đều dùng mang nước. Để giữ bí mật, có chặng hành quân 6 ngày liền không được đốt lửa, bộ đội phải ăn cơm nắm. Sau 15 ngày hành quân không nghỉ, tất cả cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn đều có mặt ở vị trí tập kết đúng thời gian, sẵn sắng tiếp tục chiến đấu giành thắng lợi mới.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #32 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2016, 01:17:30 am »


*

*        *

        Nguyễn Chơn cùng cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn kết thúc nửa năm chiến đấu trên đất Lào. Trong nửa năm đó, Sư đoàn đã đánh trên 30 trận quy mô từ cấp tiểu đoàn đến cấp trung đoàn tăng cường, Sư đoàn thiếu. Lần đầu tiên tác chiến trong đội hình chiến dịch lớn, cùng các sư đoàn chủ lực của Bộ, Quân khu Trị Thiên, Binh đoàn 559, Quân giải phóng nhân dân Lào, Sư đoàn đã bảo đảm hợp đồng chặt chẽ với các đơn vị bạn, hoàn thành nhiệm vụ được cấp trên giao cho. Qua chiến đấu, cán bộ chỉ huy các cấp cũng như chiến sĩ trưởng thành rõ rệt về trình độ tác chiến tập trung hợp đồng binh chủng quy mô lớn. Từ chiến trường gian khổ của Quân khu 5, Sư đoàn mang theo bản chất tốt đẹp của một sư đoàn có truyền thống khẩn trương, nghiêm túc trong chấp hành mệnh lệnh, kiên quyết, triệt để trong tấn công tiêu diệt địch, gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân. Cùng với Sư đoàn, Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn, càng chiến đấu, càng trưởng thành, giữ vững được sự tín nhiệm của cấp trên, được các đơn vị bạn, trong đó có cả các đơn vị Quân giải phóng nhân dân Lào yêu mến, được nhân dân bạn đùm bọc, thương yêu.

        Cuối năm 1971, khi các Trung đoàn đang khẩn trương hoàn thành chương trình huấn luyện ở bắc đường 9 (khu vực các binh trạm 31 và 32 thuộc Binh đoàn 559), thì Nguyễn Chơn lại một lần nữa lên đường vào Tây Nguyên chuẩn bị chiến trường. Từ tháng 5 năm 1971, khi Bộ Chính trị họp quyết định đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên chiến trường, kết hợp với đẩy mạnh tiến công ngoại giao nhằm giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định trong năm 1972, thì Tây Nguyên được xác định là một trong những chiến trường trọng điểm.

        Nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh giao cho Mặt trận Tây Nguyên trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 là: "Tiêu diệt địch, giải phóng Đắc Tô – Tân cảnh, có điều kiện thì giải phóng thị xã Kon Tum, hướng phát triển có thể là hướng Plei- ku. mở rộng vùng giải phóng ra tây Plei- ku, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột,  hình thành căn cứ địa hoàn chỉnh, nối liền với căn cứ miền Đông Nam Bộ".

        Sư đoàn 2 được tăng cường Trung đoàn 66 và các bộ phận binh khí kỹ thuật có nhiệm vụ tiêu diệt cụm phòng ngự của sư đoàn 22 (thiếu) ở Đắc Tô - Tân Cảnh. Tiếp theo, phối hợp với các đơn vị tiêu diệt lực lượng dự bị của quân đoàn 2 và dự bị chiến lược địch đến ứng cứu, giải phóng tỉnh Kon Tum (bao gồm cả thị xã).

        Trong buổi nhận nhiệm vụ, trước Bộ Tư lệnh chiến dịch  do đồng chí Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên trực tiếp làm Tư lệnh chiến dịch, Nguyễn Chơn hiểu một cách sâu sắc rằng, lần này, Sư đoàn 2 của anh lại được vinh dự nhận nhiệm vụ trên hướng chủ yếu.

        Một thế trận hoàn chỉnh, có chiều sâu và hiểm hóc đã được thảo luận kỹ càng ở các cấp chiến dịch và chiến thuật gồm các bước như sau:

        1.  Tổ chức đánh chia cắt địch giữa Pleiku và Kon Tum buộc địch phải phân tán lực lượng ra đối phó khắp Tây Nguyên.

        2.  Nhử cho địch ra khỏi Kon Tum để ta tiêu diệt một bộ phận và kìm giữ lại làm cho địch ở Đắc Tô - Tân Cảnh bị sơ hở, tạo ra yếu tố bất ngờ để đánh Đắc Tô - Tân Cảnh được thuận lợi.

        3.  Tổ chức cắt tuyến tiếp tế hậu cần chiến lược của địch từ Quy Nhơn lên Tây Nguyên trên quốc lộ 19.

        Ngày 26 tháng 3 năm 1972, Trung đoàn bộ binh 95 nổ súng đánh địch trên đường 14 ở Chư Thoi, hình thành một chốt chặn chiến dịch cắt đường vận chuyển của địch từ Plei- ku đi Kon Tum. Ngày 1 tháng 4, Trung đoàn 12, Sư đoàn 3, Quân khu 5 cắt đường 19 ở đông An Khê, làm gián đoạn tuyến vận chuyển chiến lược từ đồng bằng lên cao nguyên.

        Để nghi binh, từ giữa tháng 2, Bộ Tư lệnh chiến dịch cho mở hai con đường cơ giới từ biên giới vượt qua dãy núi đá tây sông Pô Cô theo hướng nối vào đường 14 phía bắc thị xã Kon Tum để địch phán đoán ta sẽ đánh vào thị xã. Lữ đoàn 2 dù được Ngô Du - Tư lệnh quân đoàn 2 ngụy đưa ra  lập tuyến phòng ngự dự phòng trên một đoạn dài 20km từ Ngọc Bơ Biêng đến Chư Gơ Tông. Quân địch bị buộc vào thế mà ta đã cài. Ngày 30 tháng 3, Sư đoàn 320 bắt đầu vây ép và đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn dù số 2. Địch buộc phải tung lữ đoàn dù 3 ra tuyến phòng ngự tây sông Pô Cô. Sư đoàn 320 nắm thời cơ tiếp tục tiến công tiêu diệt tiểu đoàn 11 và đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 3 thuộc lữ đoàn dù 3. Tuyến ngăn chặn tây sông Pô Cô bị chọc thủng. Quân dù lui về giữ tuyến phòng ngự cơ bản từ Võ Định đến thị xã Kon Tum. Sư đoàn 320 cho một Tiểu đoàn vượt sông Pô Cô, phối hợp với Trung đoàn 28 đánh cắt đường 14 đoạn giữa thị xã Kon Tum với Đắc Tô - Tân Cảnh.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #33 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2016, 09:30:00 pm »


        Trong khi các trận đánh trên đường 14, 19 phía tây sông Pô Cô đang diễn ra đúng như ý đồ của Bộ Tư lệnh  chiến dịch, thì ở mũi chủ yếu Đắc Tô - Tân Cảnh, Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn kiểm tra lần cuối cùng các bước chuẩn bị của từng đơn vị. Anh không kể ngày đêm, đến với đơn vị đôn đốc tiến độ chuẩn bị, cùng cán bộ các trung đoàn bộ binh và các đơn vị phối thuộc tháo gỡ những khó khăn phát sinh, giải quyết tại chỗ những vướng mắc để bảo đảm nổ súng đúng ngày, giờ quy định.

        Cuộc đời chiến đấu của Nguyễn Chơn có những dấu ấn đặc biệt. Cứ sau một chiến công hình như lại xuất hiện một nhiệm vụ mới, khó khăn hơn đang chờ anh ở đâu đó. Sau chiến thắng Đắc Tô - Tân Cảnh, Sư đoàn 2 cùng các đơn vị đánh vào Kon Tum. Trận đánh này sau bao nhiêu năm nhìn lại có những ý kiến đánh giá khác nhau, chủ yếu là tìm ra nguyên nhân không thành công của nó. Nguyễn Chơn cũng có những suy nghĩ của mình, nhưng không phải lúc nào anh cũng muốn nói ra những suy nghĩ ấy.  Trước hết, anh muốn rút ra những bài học cho chính mình, chủ yếu là việc nắm thời cơ. Khi ta giành được thắng lợi ở Đắc Tô - Tân Cảnh, lực lượng địch ở Kon Tum chỉ còn 2 tiểu đoàn chủ lực và một số đại đội bảo an. Sư đoàn lính dù thiếu đã bị Tổng hành dinh ngụy điều đi ứng cứu cho các mặt trận khác. Sư đoàn 23 và liên đoàn biệt động 6 vừa từ Nam Bộ ra phải rải quân đối phó trên đường 14. Đây là thời cơ thuận lợi cho ta phát triển tiến công nhanh chóng giải phóng thị xã Kon Tum. Nhưng Bộ tư lệnh chiến dịch chủ trương dừng lại, chuyển một phần lực lượng để đánh diệt cứ điểm Plei- cần, mở đường đưa xe, pháo vào chiến đấu. Lợi dụng cơ hội này, địch tranh thủ củng cố thế trận của chúng ở Kon Tum. Thời cơ đánh nhanh, giải quyết nhanh thị xã Kon Tum mất đi chỉ sau mấy ngày. Bộ Tư lệnh chiến dịch buộc phải chủ trương trước mắt tiêu diệt một bộ phận sinh lực của sư đoàn 23 ở vùng ven, sau đó mới tiến công địch trong thị xã. Phải mất 12 ngày, Sư đoàn 320 và Trung đoàn 28 mới phá vỡ được một khu vực phòng thủ của địch ở tây bắc thị xã. Địch thay đổi Tư lệnh Quân đoàn 2. Nguyễn Văn Toàn thay Ngô Du và thay đổi luôn thủ đoạn chiến đấu: Xây nhiều cứ điểm nhỏ, có công sự vững chắc, liên kết với nhau chặt chẽ để chống đỡ các đợt tấn công của ta; sử dụng tối đa hoạt động của không quân, pháo binh, nhất là máy bay B52 gây không ít khó khăn cho các hoạt động của ta.

        Do phòng ngự bằng nhiều công sự liên hoàn vững chắc trên phạm vi rộng, nên ta không triệt được việc địch tiếp tế bằng đường không. Địch bị vây hãm, nhưng chưa tới mức kiệt quệ.

        Bộ Tư lệnh Mặt trận chủ trương vừa kiên quyết đánh vào thị xã, vừa đánh địch vòng ngoài để tiêu diệt toàn bộ quân địch. Theo phương án, Sư đoàn 320 đánh theo trục nam - bắc qua cầu Lôi Hổ phát triển vào sở chỉ huy sư đoàn 23 ngụy và tỉnh đường. Sư đoàn 2 đánh theo trục bắc - nam, mục tiêu chủ yếu là biệt khu 24.

        Đêm 25 tháng 5, Sư đoàn 2 có Đại đội 209 của Thị đội Kon Tum tăng cường đảm nhiệm tiến công từ hướng đông cùng một đại đội xe tăng. Chỉ sau 40 phút chiến đấu, Tiểu đoàn 60 Trung đoàn Ba Gia và Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 141 đã chiếm được phía nam sân bay và một phân khu hành chính, làm chủ khu vực phía đông thị xã.

        Ngày 26 tháng 5, các tiểu đoàn 40 và 90 của Trung đoàn Ba Gia cùng tiểu đoàn công binh, tiểu đoàn đặc công của sư đoàn đánh vào sở chỉ huy sư đoàn 23 và trung đoàn 44 ngụy ở biệt khu 24. Sau 3 giờ chiến đấu, ta làm chủ 2/3 biệt khu, trong đó có khu hậu cần và bãi giữ xe cơ giới. Địch tràn ra ngoại vi thị xã bị Trung đoàn 141 chặn đánh.

        Tuy Sư đoàn 2 đánh chiếm được gần nửa thị xã, nhưng các đơn vị có nhiệm vụ tấn công ở phía nam vẫn không phát triển được. Lợi dụng tình thế đó, địch tập trung xe tăng và bộ bính liên tiếp phản kích, giành giật với ta từng căn nhà góc phố.

        Sức tấn công của quân ta ngày càng giảm. Địch tập trung máy bay, pháo binh, cả đạn pháo có chất độc hoá học đánh phá quyết liệt vào các khu vực ta chiếm được. Ở ngoại vi, địch dùng máy bay B52 với mật độ bom dày đánh cả ngày và đêm, gây cho ta nhiều tổn thất, việc bảo đảm hậu cần ngày càng khó khăn. Xe tăng, pháo binh không cơ động được do đường lầy lội, sông, suối nước lớn.

        Đến đầu tháng 6 năm 1972, Bộ chỉ huy chiến dịch tăng cường cho Sư đoàn 2 Trung đoàn 66 nhằm tiến công để nối liền các khu đã chiếm thành một tuyến liên hoàn. Nhưng đến lúc này thì đã muộn. Địch không hất ta ra khỏi thị xã. Ta cũng không mở rộng được địa bàn chiến đấu. Đêm ngày 5 tháng 6, xét thấy khả năng giải phóng Kon Tum không còn nữa, Bộ Tư lệnh Mặt trận quyết định cho Sư đoàn rút khỏi khu chiến.

        Sư đoàn 2 được lệnh trở về chiến trường Quân khu 5, trở về nơi sư đoàn sinh ra và trưởng thành. Vùng đồng bằng ven biển Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngài đang háo hức chờ đón đứa con thân yêu của mình sau hai năm chiến đấu ở chiến trường xa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #34 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2016, 09:32:46 pm »

       
*

*       *

        Đã hết nửa năm 1972, tiếng súng trên các chiến trường đang lắng xuống. Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn lại nhận một nhiệm vụ mới. Trong lúc Sư đoàn thân yêu của anh sau 15 ngày hành quân từ Tây Nguyên về đến chân Dốc Cọp thuộc huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, anh có lệnh về Quảng Nam làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 711 , một đơn vị được thành lập vào dịp kỷ niệm 54 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7 .11. 1971) . Nguyễn Chơn không dự được buổi đón tiếp thân mật, nặng tình nghĩa của đoàn cán bộ tỉnh Quảng Ngãi, của Quân khu 5 thay mặt cho quân và dân đồng bằng đón Sư đoàn 2 trở về vì anh phải về ngay Sư đoàn 711, đang bước vào bước 3 của một chiến dịch quân sự tại thung lũng Quế Sơn.

        Đội hình của Sư đoàn 711 gồm có Trung đoàn 31 của Sư đoàn 2, Trung đoàn 38 (trước là Trung đoàn 3 của Sư đoàn 324 đã chiến đấu ở đường 9, có truyền thống diệt Mỹ ở Gio An - Quảng Trị; trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân chiến đấu tại Huế, từ năm 1969 thuộc Mặt trận Quảng Đà), Trung đoàn 9 vừa từ vùng đất lửa Vĩnh Linh vào.

        Bước 1 và bước 2 của chiến dịch Quế Sơn đã được tiến hành từ tháng 7 năm 1972 tiêu diệt các điểm cao ở vòng ngoài căn cứ Cấm Dơi như Bàn Thùng, Hòn Chiêng, Động Mông, Đá Hàm. Sau khi mất các điểm cao vốn là những cứ điểm khống chế toàn bộ thung lũng Quế Sơn, địch sẽ tung quân đánh chiếm lại.

        Bước 2 của chiến dịch đã được thực hiện đúng theo ý đồ của ta. Chuẩn tướng Phan Hoà Hiệp - sư đoàn trưởng sư đoàn 2 ngụy tung trung đoàn 5 cùng các đơn vị trợ chiến mạnh cộng với hỏa lực của các loại pháo, các loại máy bay, đặc biệt là tăng cường hiệu suất của máy bay B52 hòng giải toả sức ép của quân ta và chiếm lại các điểm cao đã mất. Cuộc phản kích kéo dài nửa tháng của địch bị thất bại. Địch bị diệt trên 2.000 sinh lực, Các điểm cao chiến thuật Hòn Chiêng, Bàn Thùng, Động Mông, Đá Hàm... được giữ vững .

        Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn về đến Sở chỉ huy Sư Đoàn 711 dưới chân đèo Le vào lúc các trung đoàn đã hoàn thành bước 2 của chiến dịch. Các công việc của bước 3, bước then chốt tiêu diệt căn cứ Cấm Dơi và quận lỵ Quế Sơn đang được khẩn trương tiến hành. Công tác trinh sát trực địa cũng được tiến hành xong. Sau khi nắm chắc tình hình các đơn vị,  Nguyễn Chơn quyết định tồ chức trinh sát toàn diện một lần nữa căn cứ Cấm Dơi. Sư đoàn trưởng cùng Chính ủy bò vào tận hàng rào thứ ba với trinh sát. Vẫn như các lần trước, tác phong sâu sát, tỉ mỉ, chu đáo của người Sư đoàn trưởng đã luôn là tấm gương cho cấp dưới phải cẩn trọng trước mọi công việc. Sau bốn ngày bám thực địa, sa bàn cứ điểm Cấm Dơi và quận lỵ Quế Sơn được thực hiện cụ thể, rõ ràng, làm tiền đề giao nhiệm vụ cho các đơn vị đến từng trung đội, tiểu đội.

        Khi mọi công việc chuẩn bị cho trận đánh đang tiến hành khẩn trương thì có điện từ Bộ Tổng Tư lệnh gửi. Toàn văn bức điện:

        Kính gửi anh Hai Mạnh (Chu Huy Mân)

        Bộ đã nghiên cứu quyết tâm của Sư đoàn 711 tiêu diệt địch ở căn cứ Cấm Dơi và giải phóng quận lỵ Quế Sơn. Bộ thấy có mấy khó khăn, gởi ý các đồng chí Quân khu 5 suy nghĩ:

        1.  Các đơn vị ở chiến trường B1 (Trị Thiên - Huế) đã dứt chiến, địch rảnh tay sẽ tập trung quân đội phó.

        2.  Sư đoàn 3 ngụy đóng ở Sũng Mây đã vào đóng ở Tuần Dưỡng và Núi Quế, như vậy là địch đông.

        3.  Cấm Dơi, Quế sơn là căn cứ lớn có chi khu quân sự, hỏa lực địch mạnh, có công sự kiên cố, ta đánh đã chắc thắng chưa? Chưa chắc thắng, thì chưa nên đánh.

        Ký tên: VĂN (VÕ NGUYÊN GIÁP )

        Tư lệnh Quân khu Chu Huy Mân đem nội dung bức điện thảo luận với Bộ chỉ huy Sư đoàn. Nguyễn Chơn phát biểu:

        - Bộ điện cho chúng ta nghiên cứu kỹ là để bảo đảm chắc thắng. Theo tôi, trận này đánh là chắc thắng. Tuy địch đông, thế bất ngờ của ta đã mất, nhưng đó lại là bất ngờ, vì địch nghĩ ta sẽ dứt chiến. Tôi đã cùng các cán bộ chủ chốt đi trinh sát lại, theo như phương án mà Bộ chỉ huy Sư đoàn đã nhất trí, chúng ta có đủ khả năng tiêu diệt mục tiêu. Tôi đề nghị cấp trên cho đánh trận này.

        Các đồng chí trong Bộ chỉ huy Sư đoàn phát biểu bổ sung đều thống nhất với ý kiến của Sư đoàn trưởng. Chỉ xin cấp trên chi viện hỏa lực pháo 130 ly lần đầu xuất hiện ở thung lũng Quế Sơn để tăng uy lực cho trận đánh. Tư lệnh Chu Huy Mân kết luận:

        - Đến đây, chúng ta hoàn toàn nhất trí tiêu diệt Cấm Dơi.  Tôi sẽ báo cáo về Bộ. Tôi tin rằng nguyện vọng của các đồng chí sẽ được Bộ chấp nhận.

        Sau đó, đồng chí Tư lệnh nhắc nhở Sư đoàn tiếp tục khẩn trương hoàn thành tốt các bước chuẩn bị; chú ý tập kết đủ lương thực cho suốt cả quá trình chiến đấu; phân công cán bộ Sư đoàn đi các hướng; tính toán ngày, giờ nổ súng sao cho địch phải bị động đối phó. Bộ Tư lệnh Quân khu sẽ tiến hành nghi binh trên sóng vô tuyến điện để tạo thêm bất ngờ cho chiến dịch.

        Nguyễn Chơn từ chỗ Tư lệnh Quân khu trở về Sư đoàn đôn đốc các bước chuẩn bị cuối cùng với tác phong cẩn thận, chu đáo thường ngày.

        Mấy hôm sau, trinh sát báo cáo địch đang kháo nhau Việt cộng lui quân về căn cứ để mừng Cách mạng Tháng Tám...

        Ngày 18 tháng 8 năm 1972, trận đánh tiêu diệt căn cứ Cấm Dơi và quận lỵ Quế Sơn diễn ra.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #35 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2016, 09:37:35 pm »


*

*       *

        Sau Hiệp định Pa ri tháng 1 năm 1973, những trận đánh lấn chiếm của địch tưởng như đơn điệu, nhưng thật là ác liệt. Sư đoàn 711 đóng quân ở vùng Quảng Nam, Sư đoàn 2 hoạt động ở Quảng Ngãi cũng như các đơn vị chiến đấu trên chiến trường phải đương đầu với hai khó khăn. Một là sự chống trả điên cuồng của địch cố tình phá hoại Hiệp định Pa- ri, tranh thủ sơ hở của ta để lấn chiếm vùng giải phóng càng nhiều càng tốt. Hai là, tư tưởng hoà bình, nghỉ ngơi đã len lỏi vào suy nghĩ, hành động của cán bộ, chiến sĩ. Vẫn biết, khi một hiệp định được ký, thì mỗi bên sẽ lấy phần lợi của mình, nhưng việc địch phản bội toàn diện hiệp định, là một bất ngờ trong suy nghĩ của nhiều người.

        Nguyễn Chơn chỉ huy Sư đoàn 711 đánh quân địch lấn chiếm, giữ vững vùng giải phóng. Ngay trong ngày 27 tháng 1 năm 1973, Mỹ đã cho máy bay B52 đánh bom suốt ngày xuống Cấm Dơi, Quế Sơn và nhiều vùng quanh căn cứ. Ngày 28, sư đoàn 3 ngụy tung 3 tiểu đoàn thành 3 mũi. Một theo đường 16 qua sông Trầu, có ý định bất ngờ đánh chiếm lại quận Hiệp Đức. Mũi thứ hai đột phá vùng Quế Sơn, đánh chiếm Hòn Chiêng và chiếm lại Cấm Dơi. Mũi còn lại bí mật bao vây Châu Sơn, gọi pháo cấp tập đánh vào đội hình đại đội công binh chốt giữ điểm cao này. Ta đánh tan quân địch ở hướng Hiệp Đức, bảo vệ được vùng giải phóng. Đuổi địch ra khỏi Châu Sơn, nhưng quân ta mất Cấm Dơi và Hòn Chiêng. Đó là bài học lớn khi cuộc chiến tranh đã chuyển giai đoạn.

        Tháng 6 năm 1973, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 giải thể Sư đoàn 711 để thành lập các lữ đoàn và trung đoàn độc lập. Sư đoàn 2 được biên chế lại. Trung đoàn Ba Gia cùng cơ quan Sư đoàn và các đơn vị trực thuộc hành quân từ Quảng Ngãi ra Quảng Nam. Tại đây, Sư đoàn tiếp nhận Trung đoàn 31 và Trung đoàn 38 của Sư đoàn 711 để thành một đội hình hoàn chỉnh. Nguyễn Chơn được chỉ định làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2. Một tháng sau, anh được lệnh ra Hà Nội để học một khoá quân sự cao cấp. Vừa ra đến nơi, kiểm tra sức khoẻ xong, anh được đi nghỉ ở Bãi Cháy. Nhưng chỉ 7 ngày sau, thì có lệnh trở về Hà Nội nhận nhiệm vụ mới. Phó Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn nói với anh:

        - Cậu về chuẩn bị đánh Nông Sơn phối hợp với Sư đoàn 304 đánh Thượng Đức.

        Tháng 7 năm 1974, Nguyễn Chôn trở lại chiến trường. Anh vẫn giữ cương vị Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2. Lúc này, hình thái chiến trường Quân khu 5 đã có nhiều thay đổi. Vùng giải phóng được giữ vững và mở rộng. Do hoạt động tích cực của bộ đội ta, quân ngụy trên khắp các chiến trường đang co lại. Đường vận chuyển chiến lược từ Trường Sơn đã thông xuống đồng bằng, xe cơ giới có thể đổ hàng đến kho của Trung đoàn. Vũ khí, lương thực, thuốc men, quân trang, quân dụng được dự trữ sẵn sàng cho mọi hoạt động của bộ đội. Bộ đội yên tâm học tập, huấn luyện, không còn lo thiếu đói như những năm trước.

        Nguyễn Chơn vừa về đến Sư đoàn, thì có lệnh chuẩn bị cho chiến dịch Thu năm 1974. Nhiệm vụ của chiến dịch là tiêu diệt địch ở cứ điểm Nông Sơn - Trung Phước, đưa địch vào thế trận của ta, buộc chúng phải phản kích. Diệt quân địch phản kích mở rộng vùng giải phóng Quế Sơn. Tạo điều kiện phát triển tấn công giải phóng chi khu An Hoà - Đức Dục, phối hợp với Sư đoàn 304 tấn công giải phóng Thượng Đức.

        Ngày 18 tháng 7 năm 1974, trận tấn công tiêu diệt cứ điểm Nông Sơn bắt đầu. Những ngày sau đó chiến dịch phát triển thuận lợi. Đây là một chiến thắng có những nét độc đáo trong nghệ thuật chỉ huy đánh địch trong công sự vững chắc, cũng như đánh địch phản kích mà Nguyễn Chơn với cương vị là Sư đoàn trưởng đã cùng đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

        Cùng với chiến thắng Thượng Đức, lần đầu tiên trên chiến trường ác liệt Quảng Nam, Quảng Đà, ta đã giải phóng những vùng đất được coi là tấm chắn thép của quân địch bảo vệ phía tây nam khu liên hiệp quân sự khổng lồ Đà Nẵng. Địch đưa những đơn vị dự bị chiến lược như quân dù, thủy quân lục chiến đến chiến trường nhằm đẩy lùi quân ta, khôi phục lại tình thế chiến trường đã mất. Các sắc quân thiện chiến nhất của địch đã thất bại trong những trận phản kích đẫm máu, nhất là trên hướng Thượng Đức. Sự kiện này rất quan trọng làm căn cứ cho Bộ Chính trị, Trung ương Đảng đi đến nhận định: “Chủ lực cơ động của địch đã suy yếu không thể đương đầu với các đơn vị chủ lực cơ động của ta. Đó là một điềm báo so sánh lực lượng giữa địch và ta đã thay đổi. Chiến thắng phước Long ở Đông Nam Bộ là tín hiệu cho sự sụp đổ hoàn toàn của quân ngụy” Từ nhận định này, một phương hướng chiến lược mới đã hình thành từ Tổng hành dinh của cuộc kháng chiến giải phóng Tổ quốc mà được biểu hiện rực rỡ trong chiến dịch lịch sử mùa Xuân năm 1975.

        Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam đang tiến dần đến thắng lợi cuối cùng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #36 vào lúc: 10 Tháng Mười, 2016, 06:01:00 am »


*

*        *

        Cuối năm 1974, Sư đoàn 2 của Nguyễn Chơn được tăng cường thêm các đơn vị mới. Trung đoàn bộ binh 36, nguyên là một trung đoàn của Sư đoàn 308 nổi tiếng được tăng cường cho chiến trường Quân khu 5 sau Tết Mậu Thân 1968, hoạt động ở vùng Quảng Đà, do những tổn thất trong năm 1969, Trung đoàn tạm giải thể và mới được tổ chức lại đầu năm 1974. Trong biên chế của Sư đoàn có thêm Trung đoàn pháo 368. Như vậy, đội hình Sư đòan 2 gồm 4 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo binh và đầy đủ các đơn vị trực thuộc, trợ chiến kỹ thuật bảo đảm cho Sư đoàn thành một binh đoàn cơ động mạnh của Quân khu.

        Hội nghị bàn phương án tác chiến Xuân - Hè năm 1975 họp tại căn cứ Nước Oa (Trà My). Đây vốn là nơi đóng quân của cơ quan khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu những năm 1972- 1974. Vườn cam mà Tư lệnh Chu Huy Mân cho trồng từ những năm trước đã xanh tốt. Tại hội nghị này, Sư đoàn 2 được tăng cường Lữ đoàn 52, các đơn vị xe tăng, pháo tầm xa, pháo cao xạ có nhiệm vụ tiêu diệt hai quận lỵ Tiên Phước, Phước Lâm, đánh chiếm cứ điểm Suối Đá và bày thế trận đánh địch phản kích.

        Nguyễn Chơn đến hội nghị sau khi cùng đoàn cán bộ Sư đoàn đi chuẩn bị chiến trường từ sau Tết âm lịch. Đây là một chiến trường quen thuộc trong cuộc đời chiến đấu của anh. Anh đã cùng chỉ huy các trung đoàn bàn bạc cụ thể phương án tác chiến ngay trên thực địa. Tại hội nghị này, một vấn đề được đặt ra là thời gian dứt điểm các mục tiêu.

        Ngày thứ nhất của hội nghị, tác chiến Quân khu báo cáo tình hình địch, ta và phương án của chiến dịch. Phương án diệt địch đồn trú cần phải có thời gian 7 ngày. Cả hội nghị đều nhất trí về bố trí lực lượng, cách đánh, sử dụng hỏa lực, chỉ có khoảng thời gian là còn phải thảo luận, người nhất trí phải mất 7 ngày, người đề nghị rút xuống 5 ngày. Đến lượt Nguyễn Chơn phát biểu, anh đứng lên phân tích thêm tình hình địch, ta và đề nghị cấp trên cho Sư đoàn 2 đánh trong 24 giờ.

        Đề nghị của anh làm hội nghị càng sôi động hơn, không khí thảo luận trong buổi sáng đã có lúc thật căng thẳng. Cuối buổi vẫn chưa kết luận. Trong bữa cơm trưa, Tư lệnh Chu Huy Mân mời cơm Nguyễn Chơn, ông nói:

        - Phương án đánh nhanh của cậu tớ ưng rồi, nhưng có chắc thắng không, để chiều tớ kết luận.

        Nguyễn Chơn khẳng định quyết tâm sẽ thắng, nhưng anh xin cấp trên phải đủ đạn để mật độ hỏa lực dày hơn, có thể dồn đạn theo kế hoạch đánh 7 ngày cho 24 giờ. Anh muốn mật độ hỏa lực phải dày hơn của Mỹ ở thời gian và vị trí then chốt để lung lạc tinh thần quân ngụy. Hội nghị tiếp tục thảo luận cả buổi chiều. Nhiều nhà quân sự có uy tín vẫn kiên trì đề nghị phương án 7 ngày và cho rằng phương án của Nguyễn Chơn là chủ quan, mà không giải quyết dứt điểm, thương vong sẽ cao, mất sức chiến đấu, ảnh hưởng lớn đến chiến dịch.

        Người Sư đoàn trưởng dày dạn kinh nghiệm, một lần nữa xin được phát biểu ý kiến. Anh nhận định địch đông, nhưng không mạnh, nếu ta đánh tốt, địch sẽ chạy. Hơn nữa, trong chiến dịch này, Sư đoàn 2 đang sung sức, được tăng cường các đơn vị pháo binh, cao xạ, tăng - thiết giáp và các phương tiện kỹ thuật khác, không có gì không đánh nhanh tiết kiệm xương máu, đạn dược. Nguyễn Chơn đứng lên thưa với hội nghị một cách trang nghiêm:

        - Xin Bộ Tư lệnh Quân khu chấp nhận đề nghị của chúng tôi, nếu không thành công, mà Chơn này có chết, thì cứ đào mồ lên, gông lại mà kiểm điểm.

        Những lời nói tâm huyết và những phân tích có căn cứ của Nguyễn Chơn đã thực sự thuyết phục những người dự hội nghị. Tư lệnh Chu Huy Mân kết luận nhất trí với phương án đánh 24 giờ. Nguyễn Chơn khẩn trương trở lại đơn vị. Anh cho đắp một sa bàn lớn có địa hình kéo dài xuống tận đường số 1. Trong lúc đang đắp sa bàn, đoàn cán bộ đơn vị tiếp tục đi trinh sát bổ sung. Vùng đất này Nguyễn Chơn thuộc như trong lòng bàn tay. Quân địch ở đây qua nhiều năm đụng độ, anh cũng nắm vững điểm mạnh, điểm yếu của chúng, nên không mất nhiều thời gian trinh sát như lần chuẩn bị đầu tiên. ở Sư đoàn, các đơn vị bước vào giai đoạn huấn luyện (hai lính cũ kèm một lính mới), làm thủ pháo, gói bộc phá, làm trạm xá, làm đường đưa pháo lên cao để bắn vào Suối Đá, điểm cao 211. Mọi công tác chuẩn bị tiến hành khẩn trương, nhưng rất bí mật. Chiến sĩ không được ra khỏi đơn vị, không được viết thư, điện đài 2W không làm việc, không nói chuyện chiến dịch trên điện thoại, không một ai được đi phép, không đi chợ.Sau đó, Sư đoàn tổ chức giao nhiệm vụ cho các trung đoàn trên sa bàn. Phó chính ủy Quân khu Đoàn Khuê đến dự. Trung đoàn trưởng viết quyết tâm của mình và ký tên vào một cuốn sổ. Nguyễn Chơn giải thích: Nếu các ông còn sống, dựa vào đó mà kiểm điểm, nếu hy sinh, còn chữ ký làm kỷ niệm. Theo nhiệm vụ được giao, các trung đoàn cũng về đắp sa bàn giao nhiệm vụ cho các đơn vị của mình.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #37 vào lúc: 10 Tháng Mười, 2016, 06:05:25 am »


        Đến cuối tháng 2 năm 1975, mọi công việc chuẩn bị đã hoàn tất, đơn vị Nguyễn Chơn sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu. Trong quá trình quân ta chuẩn bị chiến trường, địch đánh hơi được, chúng điều về khu chiến 5 tiển đoàn chủ lực và 4 đại đội bảo an và tiếp tục điều cho trận địa pháo ở Suối đá một tiểu đoàn pháo binh.

        Trong ba khu phòng thủ, thì Tiên phước là khu vực then chốt, là điểm tựa trung tâm. Mất Tiên phước các khu phòng thủ khác khó có thể giữ vững. Khu vực Suối Đá cũng rất quan trọng. Đây là một dãy điểm cao nối tiếp nhau, địch giữ được dãy điểm cao này là giữ vững được lối liên lạc giữa tam Kỳ và Tiên Phước, giữ được bàn đạp để triển khai lực lượng phản kích. Khi phản kích không thành công, thì đây là tuyến ngăn chặn không cho ta phát triển tiến công xuống Tam Kỳ và đường số 1. Với ta, nếu chiếm được Suôi Đá, là cài một then cửa, khóa chặn toàn bộ lực lượng địch để tiêu diệt, đồng thời là tuyến triển khai lực lượng để đánh phản kích, hoặc phát triển tiến công.

        Đêm ngày 8 tháng 3, các đơn vị ta tiến vào vị trí tập kết cuối cùng. Ngày 9 tháng 3, có tin liên đoàn biệt động 12 ngụy từ phía bắc đang hành quân về phía nam. Đơn vị đi đầu đã tới Tuần Dưỡng. Một câu hỏi được đặt ra: Địch phát hiện được ý đồ chiến dịch của ta chăng? Các phương tiện trinh sát được lệnh bám sát mọi động tĩnh dù nhỏ nhất của địch. Qua phân tích tình hình, Nguyễn Chơn nhận định: Ở tiểu khu Quảng Tín không có báo động, mà nếu địch có phát hiện được, thì cũng đã muộn. Dù cả liên đoàn biệt động địch đến Tuần Dưỡng, thì phải ngày hôm sau chúng mới có thể đến khu chiến, mà 4 giờ 30 ngày 10 ta nổ súng. Tình huống này không ngoài dự đoán của ta, Tư lệnh Tiền phương Quân khu nhắc Sư đoàn 2 đấy nhanh tốc độ tấn công, đồng thời ra lệnh cho các đơn vị pháo dự bị bắn vào Tuần Dưỡng nhằm đánh đòn phủ đầu, làm rối loạn đội hình của liên đoàn biệt động.

        4 giờ 30 phút ngày 10 tháng 3, từ Sở chỉ huy của Sư đoàn ở chân núi Dương Côn, hai phát pháo hiệu một xanh, một đỏ đột nhiên vút lên trên nền trời đen sẫm. Ngay lập tức, từ các hướng, tiếng súng tấn công dồn dập của ta vang lên.

        Ở hướng chủ yếu, Tiểu đoàn 5 được tăng cường một đại đội của Trung đoàn 38 nhanh chóng quét sạch quân địch ở các điểm cao Núi Vú, Núi Ngọc, Dương Côn. Cùng lúc tiểu đoàn 40 Trung đoàn Ba Gia nhanh chóng triển khai đội hình từ điểm cao 310 đến điểm cao 269, hình thành thế chia cắt quân địch. Cùng lúc Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 38 đã diệt xong cứ điểm Hố Bạch và chiếm giữ các điểm cao từ Hố Bạch đến Suối Đá và Núi Vỹ, làm tuyến ngăn chặn địch từ Tuần Dưỡng phản kích lên. Hiệp đồng với Trung đoàn 38, hai tiểu đoàn 7 và 9 của Trung đoàn 31 diệt các cứ điểm từ Trung Liên đến điểm cao 215. Hai tiểu đoàn 8, 9 của Lữ đoàn 52 tiến công địch trên 8 cứ điểm từ Gò Hàn đến Dương Huê. Tiểu đoàn 10 đánh chiếm các cứ điểm quanh Phước Lâm.

        Cả thung lũng Tiên Phước - Phước Lâm chìm trong lửa đạn. Thế trận phòng thủ liên hoàn của địch đã bị phá vỡ. Sau 4 giờ chiến đấu, ta đã tiêu diệt xong 23 cứ điểm. Các mục tiêu chủ yếu bị bao vây. Khi các đơn vị bộ binh vừa nổ súng, Tiểu đoàn công binh nhanh chóng dùng bộc phá san lấp những đoạn đường cuối cùng để kéo pháo vào trận địa. Đến 9 giờ, những khẩu pháo 85, 105, 122 ly ở điểm cao Vú Em, Hàn Thôn hạ nòng bắn thẳng vào cứ điểm 211 và quận lỵ Tiên Phước.

        Theo phương án, khi Lữ đoàn 52 diệt xong Suối Đá, chiếm được trận địa pháo địch, Trung đoàn 31 mới đánh Tiên Phước và cứ điểm 211, nhưng khi một loạt cứ điểm vòng ngoài bị diệt, địch có dấu hiệu hoang mang. Bộ chỉ huy Sư đoàn quyết định cho Trung đoàn 31 tấn công trước cứ điểm 211 .

        Là một điểm cao nằm phía bắc quận lỵ Tiên Phước 1,5Km, có các mỏm đá và sườn nhô ra từ phía tây. Lợi dụng các mỏm đồi, địch xây các tiền đồn để bảo vệ cho đồn chính. Khu trung tâm có 42 lô cốt và gần 30 nhà lính, cấu trúc nửa chìm nửa nổi. Xung quanh cứ điểm có từ 3 đến 5 lớp bùng nhùng.

        11 giờ, pháo của ta từ Hàn Thôn và Vú Em bắt đầu bắn vào điểm cao 211. Lợi dụng lúc địch đang bị pháo áp chế, Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 31 từ ấp Phước Hoà, chia thành hai mũi, vận động "nhảy cóc" qua các ấp chiến lược đánh chiếm các tiền đồn Đồi Tranh, Yên Sơn ở phía bắc và phía tây điểm cao 211. Địch hoàn toàn bị cô lập. Hơn một nửa số công sự, lô cốt và nhà lính bị pháo ta bắn sập. Lính trong đồn hốt hoảng bỏ chạy về quận lỵ. 13 giờ 5 phút, từ hai hướng, các đại đội 5, 7 mở cửa. 20 phút sau, Đại đội 7 chiếm được hai lô cốt đầu cầu để phân đội thọc sâu đánh vào trung tâm. Hướng Đại đội 5, địch lợi dụng sườn dốc, dùng hỏa lực bịt các đường tiếp cận của ta. Đại đội trưởng bố trí lại hỏa lực, dùng B41 lần lượt dập tắt các hỏa điểm của địch. Chỉ cần 15 phút, các chiến sĩ Đại đội 5 cùng tiểu đội thọc sâu của Đại đội 7 đã cắm lá cờ chiến thắng trên nóc hầm chỉ huy địch. Phần lớn quân địch bị tiêu diệt, số còn lại tháo chạy về quận lỵ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #38 vào lúc: 10 Tháng Mười, 2016, 06:07:50 am »


        Quận trưởng quận Tiên Phước hốt hoảng điện về Tam Kỳ xin rút chạy. Lúc đó, các trận địa pháo của ta không ngừng nã đạn vào quận lỵ, làm địch không ngóc đầu để tháo chạy được. Tiểu đoàn 7, Đại đội 11 Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 31 áp sát quận lỵ. Đại đội 5 Tiểu đoàn 8 từ trên điểm cao 211 đánh xuống. Cả ba mũi nhằm vào quận lỵ lao xuống.

        15 giờ, Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn lệnh cho ĐKZ 82 bắn vào các lô cốt ở cổng chính. Đại đội 1 và Đại đội 3 Tiểu đoàn 7 cắm sâu vào trung tâm. Cùng lúc Đại đội 11 tiểu đoàn 9 từ hướng đông nam tiến lên, Đại đội 5 Tiểu đoàn 8 từ bắc đánh vào. Quân ta tiến tới đâu, địch tan rã đến đó. 16 giờ, Trung đoàn 31 làm chủ hoàn toàn quận lỵ Tiên phước.

        Tiểu đoàn 10, sau khi diệt các cứ điểm ngoại vi, tiếp tục phát triển vây ép quận lỵ Phước lâm. Trước cảnh cứ điểm 211, quận lỵ Tiên Phước bị diệt, quân địch ở đây chưa đánh đã tan. Thấy bóng quân ta, sĩ quan, binh lính, nhân viên ngụy quyền bỏ chạy tán loạn. 16 giờ, Tiểu đoàn 10 làm chủ quận lỵ, tổ chức truy lùng tàn quân địch. Đúng lúc đó, Lữ đoàn 52 dứt điểm các cứ điểm trên hướng Suối Đá.

        Chỉ sau 16 giờ tấn công, các mục tiêu của đợt 1 chiến dịch đã giải quyết xong. Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ trong 24 giờ đã được thực hiện trước thời hạn.

        Ngày 11 tháng 3, địch điều sư đoàn 2 ngụy từ Quảng Ngãi ra Tam Kỳ chuẩn bị hành quân giải tỏa. Liên đoàn biệt động 12 cùng một tiểu đoàn bảo an cùng chi đoàn xe bọc thép từ Tuần Dưỡng tiến lên Cẩm Khê, Dương Côn. Ngày 12 tháng 3, Trung đoàn 5 sư đoàn 2 ngụy cùng hai tiểu đoàn bảo an có xe bọc thép phối thuộc đánh lên Dương Leo, Dãy Thám. Tiếp đó, địch còn điều động trung đoàn 4 sư đoàn 2 từ Quảng Ngãi ra, trung đoàn 2 sư đoàn 3 từ Quảng Đà vào để tăng cường lực lượng phản kích. Vào thời điểm này, lực lượng vũ trang ba tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi của ta đồng loạt nổ súng phối hợp với hướng chủ yếu của Quân khu.

        Ở hướng chiến lược Tây Nguyên, quân ta đang thắng lớn, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, đường 19, đường 21 bị cắt. tập  đoàn phòng ngự địch ở Kon Tum – Pleiku bị bao vây, cô lập. Để cứu vãn tình thế, Nguyễn văn Thiệu lệnh cho Ngô Quang Trưởng – Tư lệnh Quân đoàn 1 ngụy trả sư đoàn dù về Sài Gòn.

        Sư đoàn 2 của Nguyễn Chơn đã hoàn thành nhiệm vụ đánh quân đồn trú, giải phóng khu vực, tạo thế tiến công cho chiến dịch mà Quân khu giao cho.

        Ngày 16 tháng 3, Thường vụ Khu Ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 quyết định đẩy mạnh tốc độ tiến công, khối chủ lực ở hướng này có nhiệm vụ tiêu diệt sư đoàn 2 ngụy, giải phóng hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Để thực hiện nhiệm vụ trên, Sư đoàn 2 phải tiêu diệt cụm địch ở Suối Đá, phá vỡ tuyến ngăn chặn, uy hiếp thĩ xã Tam Kỳ, buộc sư đoàn 2 ngụy phải đưa hết lực lượng ra Quảng Nam.

        Đã nhiều năm đụng độ nhau trên chiến trường, nên Sư đoàn 2 của ta và sư đoàn 2 của ngụy rất hiểu nhau. Nguyễn Chơn thấy rất rõ đây là thời cơ lớn cho Sư đoàn 2 của anh xóa sổ sư đoàn 2 ngụy lúc này do chuẩn tướng Trần Văn Nhật chỉ huy.

        Ngày 18 tháng 3, các đơn vị trong sư đoàn tổ chức chiến đấu và điều chỉnh đội hình. 5 giờ 30 phút ngày 21 tháng 3 trận đánh của sư đoàn 2 ta và sư đoàn 2  địch bắt đầu. Do sương mù, nên mãi đến hơn 9 giờ, pháo binh mới nổ súng được. Trận đánh diễn ra quyết liệt ở khắp các mục tiêu. Ở hướng Trung đoàn 31, Đại đội 11 Tiểu đoàn 9 hai lần xung phong lên điểm cao Dương Huê đều bị địch đánh bật xuống. Trận đánh kéo dài đến 12 giờ ta mới làm chủ được mục tiêu. Tiểu đoàn 7 do gặp địch phục kích, nên chỉ có một đại đội cùng đại đội công binh đánh vào chợ Cây Sanh đúng kế hoạch. Hai đại đội khác đánh lạc sang Đan Trung 1 và Dương Lâm 2. Lực lượng ta bị phân tán. Địch phản kích quyết liệt và cắt đội hình tiến công của ta. Tiểu đoàn 7 điều 2 khẩu ĐKZ 82 lên tăng cường cho Đại đội 1 đánh vào chợ Cây Sanh, đồng thời lệnh cho 2 đại đội còn lại đánh vòng phối hợp. Địch chống trả quyết liệt. Tiểu đoàn 3 trung đoàn 5 ngụy có xe tăng yểm trợ đánh vào sườn Đại đội công binh. Bình tĩnh chờ địch đến gần, quân ta dùng B40 diệt 2 xe GMC chở đầy lính và một xe bọc thép M113. Sức phản kích của địch giảm dần. Đến giữa trưa ngày 21 tháng 3, tuyến phòng ngự của địch bị vỡ. Sư đoàn 2 đã đánh quỵ trung đoàn 5 ngụy, diệt một tiểu đoàn của liên đoàn biệt động 12.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #39 vào lúc: 10 Tháng Mười, 2016, 06:09:20 am »


        Để cứu vãn thế trận đang nguy ngập, địch điều những đơn vị còn lại của sư đoàn 2 ra tây Tam Kỳ lập một tuyến ngăn chặn mới. So với tuyến ngăn chặn trước, tuyến mới này thu hẹp khá nhiều. Âm mưu của địch là tập trung lực lượng hòng tạo ra một mật độ đông đặc và một chiều sâu phòng ngự dày để tăng thêm sức đề kháng. Điều đó chỉ đúng về lý thuyết, nhưng trong tình thế hiện nay, việc tập trung dày đặc lực lượng càng tạo thuận lợi cho ta tiêu diệt gọn và sự tan rã của chúng càng đến nhanh hơn.

        Tình hình chiến trường vùng 1 chiến thuật của ngụy đang thay đổi hàng giờ. Ngày 21 tháng 3, quân ta tiến công Truồi phía nam Huế. Xe tăng quân giải phóng đuổi đánh xe bọc thép địch. Đường số 1 Huế - Đà Nẵng bị cắt đứt. Ngày 22 tháng 3, tuyến phòng thủ Mỹ Chánh bị phá. Địch co về giữ tuyến Sông Bồ. Huế đã bị bao vây.

        Trong lúc Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn đang cùng Sư đoàn triển khai kế hoạch đánh phản kích tiêu diệt sư đoàn 2 ngụy, thì bộ phận thông tin kỹ thuật cho biết bọn địch báo lên cấp trên là ở Chu Lai đã hết đạn pháo. Nguyễn Chơn hiểu ngay thời cơ đã đến. Vì theo thói quen, nếu quân ngụy không có pháo, xe tăng không đánh được, bộ binh triển khai sẽ lúng túng. Anh liền điện báo cáo lên Quân khu xin cho Sư đoàn 2 đánh Tam Kỳ, Thăng Bình, Chu Lai. Lúc này, 4 trung đoàn bộ binh, các đơn vị xe tăng, cao xạ được tăng cường đã sẵn sàng. Lữ đoàn 52 dưới quyền chỉ huy của Bộ chỉ huy Sư đoàn đứng chân ở Dốc Sỏi. Đặc biệt, Trung đoàn Ba Gia, được giữ nguyên vẹn, còn rất sung sức. Mặc dù chưa có điện trả lời, nhưng không thể chần chừ, Nguyễn Chơn lệnh cho bộ đội áp sát các mục tiêu. Trung đoàn Ba Gia trên hướng chủ yếu được tăng cường Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 31, Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 38 cùng 10 xe tăng, xe bọc thép đột phá bên cánh phải từ Suối Đá đến bờ bắc sông Tam Kỳ. Phối hợp với Trung đoàn Ba Gia, Trung đoàn 38 (thiếu) tiến công bên cánh trái từ Suối Đá ra đến Cẩm Khê. Tiểu đoàn 10 Trung đoàn 36 và Tiểu đoàn công binh vượt sông Tam Kỳ cắt đường số 1 từ cầu Bà Bầu đến cầu ông Bộ. Trung đoàn 31 (thiếu) làm dự bị trực tiếp cho Trung đoàn Ba Gia.

        Đêm 23 tháng 3 là một đêm xuân ấm áp, trời tối, đường tiếp cận mục tiêu xa, phải luồn lách qua nhiều tuyến phòng ngư của địch, nhưng được sự giúp đỡ của du kích và biệt động nên các đơn vị đã đến vị trí đúng giờ, an toàn và bí mật.

        Đến lúc này vẫn chưa có điện trả lời của Quân khu, nhưng Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn biết quyết tâm mình không sai. Vì mục tiêu của chiến tranh là tiêu diệt, giải phóng đất đai, thời cơ đến phải tận dụng ngay, phải đánh nhanh là biện pháp tốt nhất tiết kiệm xương máu. Anh điện báo cáo cho Tiền phương Quân khu và ra lệnh nổ súng.

        15 giờ 15 phút ngày 24 tháng 3, không gian yên tĩnh của buổi sáng mùa xuân bỗng nhiên ầm ầm chuyển động. Pháo tầm xa của ta chuyển làn bắn vào Tỉnh đường Quảng Tín, Tam Kỳ, Quán Rường, Tuần Dưỡng. Ở tất cả các hướng, các cánh quân của Sư đoàn đồng loạt xông lên. Ngay từ khi pháo binh còn đang bắn phá, các mũi thọc sâu đã khôn khéo lợi dụng địa hình tiến sát vào mục tiêu. Khi pháo chuyển làn, quân ta bất ngờ xông lên. Tiểu đoàn 90 nhanh chóng chiếm ngã ba Trường Xuân - cửa ngõ quan trọng vào Tam Kỳ. Cùng lúc, mũi thứ hai của Tiểu đoàn có xe tăng phối hợp do Tiểu đoàn trưởng chỉ huy đánh vào sân bay Ngọc Bích. Dựa vào công sự và xe bọc thép, bọn địch trong sân bay ngoan cố chống cự. Sau khi tổ chức hỏa lực kiềm chế, Tiểu đoàn cho xe tăng đột phá. Ba chiếc T54 ầm ầm lao lên. Thấy xe tăng ta xuất hiện, cả bộ binh và thiết giáp địch đều hốt hoảng bỏ chạy. Trừ một số xe thiết giáp chạy thoát, toàn bộ tiểu đoàn 3 trung đoàn 4 ngụy đều bị quân ta truy kích, bao vây tiêu diệt và bắt làm tù binh. Một số tên thoát được đến ngã ba Trường Xuân, thì gặp bộ phận chốt chặn của Tiểu đoàn và bị bắt.

        Tiến công bên phải Tiểu đoàn 90 là Tiểu đoàn 60. Tiến công bên trái là Tiểu đoàn 40 và Tiểu đoàn 5 của Trung đoàn 38 có bốn xe tăng chi viện. Cả ba mũi đều tấn công nhịp nhàng, lần lượt chiếm các mục tiêu diệt các tiểu đoàn 2 trung đoàn 4 và tiểu đoàn 3 trung đoàn 5 ngụy; diệt xe bọc thép địch đang tháo chạy về Chu Lai, diệt trận địa pháo ở Phú Trà 2.

        Trên hướng thứ yếu, hai tiểu đoàn 4 và 6 của Trung đoàn 38 cùng đột phá vào tuyến phòng ngự của liên đoàn biệt động 12. Sau một giờ rưỡi chiến đấu quyết liệt, Tiểu đoàn 4 đánh chiếm khu vực Cẩm Khê, Tiểu đoàn 6 đánh chiếm Khánh Thọ, hai tiểu đoàn biệt động 37 và 39 ngụy bị đánh quỵ, đội hình tan tác, không còn sức chiến đấu.

        Bộ đội ta phối hợp nhịp nhàng giữa bộ binh, pháo binh, xe tăng, xe bọc thép, công binh và các đơn vị trợ chiến khác đã tiêu diệt và đánh tan tác 6 tiểu đoàn quân chủ lực ngụy. Tuyến ngăn chặn cuối cùng của địch ở phía tây thị xã Tam Kỳ bị đập tan. Qua theo dõi điện đài địch, ta biết được: các đơn vị còn lại chuẩn bị tháo chạy về Đà Nẵng. Tỉnh trưởng Quảng Tín ra lệnh cho cấp dưới đốt giấy tờ.

        Tất cả các đơn vị ở các hướng tiến quân được lệnh của Sư đoàn đẩy nhanh tốc độ tiến công. Trung đoàn Ba Gia từ ngã ba Trường Xuân và sân bay Ngọc Bích đánh chiếm ngã tư đường sắt thọc nhanh vào trung tâm thị xã. Ở Trung đoàn 31, Tiểu đoàn 8 chia làm 3 mũi đánh chiếm các công sở phía tây dinh tỉnh trưởng và cầu Kỳ Lý. Để tăng cường sức đột kích, Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 31 bước vào chiến đấu nhanh chóng hiệp đồng với Tiểu đoàn 8 đánh chiếm khu vực tỉnh đường, chiếm trận địa pháo 155 ly, ty cảnh sát và mở cửa nhà lao. Hàng trăm chiến sĩ cách mạng bị giam giữ ở đây được giải phóng. Phút gặp gỡ của những người đồng chí, đồng đội thật thiêng liêng, không ai nói nên lời, chỉ ôm nhau trào nước mắt.

        11 giờ, thị xã Tam Kỳ hoàn toàn giải phóng.

        Ở phía bắc, Trung đoàn 38 sau khi làm chủ Cẩm Khê và Trà Phú 2, liền đánh chiếm Quán Rường, đến 13 giờ mới đến Chiên Đàn. Do Trung đoàn đánh chậm, nhiệm vụ bao vây phía bắc không thực hiện được, một số địch chạy thoát ra Đà Nẵng. Sáng ngày 25 tháng 4, Trung đoàn chiếm Tuần Dưỡng, căn cứ của trung đoàn 5 sư đoàn 2 ngụy.

        Ở phía nam, Trung đoàn 36 đánh chiếm cầu Bà Bầu, phát triển xuống An Xuân, tiến công giải phóng quận ly Lý Tín, cắt đường chạy của tàn quân địch về Chu Lai.

        Ở hướng đông, các tiểu đoàn 70, 72 của Tỉnh đội Quảng Nam (vùng đất địch đặt tên là Quảng Tín) cùng lực lượng huyện Tam Kỳ đánh chiếm các xã Kỳ Trung, cầu Kỳ Phú, giải phóng các xã ven biển.

        Cùng với cuộc tiến công thắng lợi của Sư đoàn 2 vào thị xã Tam Kỳ, quân và dân Quảng Ngãi đẩy mạnh tiến công và nổi dậy giải phóng thị xã Quảng Ngãi vào gần nửa đêm ngày 24.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM