Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:10:35 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước  (Đọc 21932 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« vào lúc: 30 Tháng Chín, 2016, 11:21:25 pm »


        - Tên sách: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
        - Tác giả: Nguyễn Lương Bích
        - Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
        - Năm xuất bản: 1996
        - Số hoá: ptlinh, chuongxedap

LỜI GIỚI THIỆU

        Hoạt động ngoại giao là một bộ phận quan trọng của đấu tranh dựng nước, giữ nước lâu dài và anh dũng của dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu hoạt động đó trong sự phát triển phong phú qua các thời kì lịch sử để rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết có thể vận dụng kết quả cho hiện tại đó là một việc làm vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Tiếc rằng cho tới nay vẫn chưa có một công trình giới thiệu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện họat động ngoại giao Việt Nam trong tiến trình lịch sử, kể cả một giáo trình về lịch sử ngoại giao nước ta để giảng dạy cho sinh viên ở Học viện Quan hệ quốc tế cũng mớỉ bắt đầu được xây dựng.

        Với “Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước”, nhà sử học Nguyễn Lương Bích đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta muốn tìm hiểu lịch sử dân tộc nói chung, lịch sử ngoại giao của dân tộc nói riêng.

        Trên cơ sở khai thác nhiều nguồn tư liệu gốc về lịch sử cổ - trung đại Việt Nam và Trung Quốc, nhà sử học Nguyễn Lương Bích vốn là chuyên gia có nhiều công trình nghiên cứu giá trị về thời kì lịch sử này, đã giới thiệu khá cụ thể hoạt động ngoại giao của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, từ những ngày đầu các vua Hùng lập quốc đến khi thực dân Pháp phát động chiến tranh xâm lược và hoàn thành đánh chiếm Việt Nam vào cuối thê' kỉ XIX.

        Thông qua các câu chuyện kể sinh động về những con người và những việc làm cụ thể, người đọc ngày nay có điều kiện và cơ hội nhận rõ tâm lực, tài trí, bản lĩnh rất đáng tự hào của cha ông xưa. Cũng qua đó nhận thức sâu sắc hơn về truyền thống tốt đẹp của ngoại giao Việt Nam, một truyền thống được định hình ngay từ buổi đầu dựng nước, ngày càng củng cố và phát triển, để đến khi bắt gặp ánh sáng của cách mạng thì càng có điều kiện phát huy tất cả sức mạnh và hiệu qủa. Cơ sở vững bền của truyền thống ngoại giao Việt Nam là tình yêu đất nước, ý chí độc lập, tinh thần dân chủ, nguyện vọng hòa bình và hữu nghị, những giá trị tinh thần vĩnh hằng mà dân tộc ta luôn luôn gắn bó và phát huy.

        Công trình “Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước" được nhà sử học Nguyễn Lương Bích hoàn thành từ lâu, sau đó ông bị bệnh nặng rồi từ trần nên không có điều kiện gia công sửa chữa thêm trước khi cho ra mắt bạn đọc. Đến nay, công trình được xuất bản, nếu như bạn đọc thấy còn một số hạn chế nào đó về nội dung và hình thức, rồi góp ý xây dựng để nhà xuất bản có điều kiện biên tập tốt hơn cho lần tái bản, chắc hẳn rằng tác giả ở dưới suối vàng cũng ngậm cười hoan hỉ.

Ngày 25 tháng 5 năm 1996        
ĐINH XUÂN LÂM              
(Giáo sư sử học)              
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Chín, 2016, 11:47:51 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #1 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2016, 11:22:53 pm »

         
Chương một

BA NGHÌN NĂM TỪ ĐỐI NGOẠI HÒA BÌNH
TỚI ĐỐI NGOẠI CHỐNG XÂM LƯỢC

        I. TỪ TRUYỀN THỐNG HÒA BÌNH HỮU NGHỊ VỚI CÁC DÂN TỘC ĐẾN LIÊN MINH ĐỐI NGOẠI CHỐNG NGOẠI XÂM

        Dân tộc Việt Nam ở Đông Nam Á dựng nước sớm, từ hàng nghìn năm trước Công nguyên, nhưng đời sống của dân tộc và hoạt động của Nhà nước ta như thế nào từ thuở xa xưa ấy, ngày nay chúng ta không được rõ lắm. Vì nước ta đã có những thời kỳ bị giặc ngoài xâm lược liên tục hàng nghìn năm. Không mấy thế kỷ là không có ngoại xâm. Chiến tranh liên miên, sử sách, dấu tích, kỷ vật gần như không còn. Nghiên cứu đời sống của Tổ tiên ta trước Công nguyên và những thế kỷ đầu Công nguyên là cực khó. Tìm hiểu lịch sử ngoại giao của Tổ tiên ta ở những thời kỳ đó lại càng khó.

        Nhưng qua truyền thuyết và những tư liệu thành văn của nước ngoài, chúng ta cũng biết được đôi điều về hoạt động đối ngoại của Tổ tiên ta thời Hùng Vương và thời An Dương Vương.

        Vào thời kỳ đó người Hán cũng thành lập Nhà nước Trung Quốc đầu tiên ở vùng Sơn Tây, Cam Túc miền Bắc Á. Hai nước xa nhau hàng vạn dặm, cách nhau bởi nhiều lãnh thổ, nhiều địa bàn cư trú của nhiều tộc người khác nhau. Vậy mà người Việt Nam thời bấy giờ đã có những tiếp xúc ngoại giao đầu tiên với người Trung Quốc nơi xa xôi đó.

        Sử sách Trung Quốc ghi nhận: năm Mậu Thân (tức năm thứ 5 đời vua Đương Nghiêu ở Trung Quốc) theo dương lịch là năm 2353 trước Công nguyên, một sứ bộ ngoại giao đầu tiên của vua Hùng nước ta đã chủ động tới thăm Trung Quốc. Theo sử Trung Quốc thì sứ bộ của ta đã qua hai lần thông dịch mới tới được Trung Quốc. Điều đó cho thấy sứ bộ ta đã tiếp xúc ngoại giao với nhiều dân tộc khác trên con đường tới Trung Quốc. Trong điều kiện đường đất xa xôi, cách trở như vậy, mà sứ bộ của ta đã kỳ công đem tặng vua Nghiêu (Trung Quốc) một con rùa rất lớn. Theo sử Trung Quốc thì con rùa này đã sống một nghìn năm, trên mai rùa có khắc chữ, ghi sự việc từ khi trời đất mới mở mang. Ở phương Đông, từ thời cổ, rùa là biểu tượng của sự sống trường tồn hàng nghìn, vạn năm. Về ngoại giao, Nhà nước ta thời vua Hùng tặng Nhà nước Trung Quốc thời vua Nghiêu con rùa quý này với một ý nghĩa tốt đẹp, mong muốn cho quan hệ thân thiện giữa hai nước được bền vững, dài lâu.

        Hơn một nghìn năm sau, Việt Nam và Trung Quốc vẫn xa nhau hàng vạn dặm, nhưng một sứ bộ ngoại giao của ta lại sang thăm Trung Quốc lần thứ hai (vào năm thứ 6 đời vua Thành Vương nhà Chu) tức năm 1110 trước Công nguyên. Theo sử Trung Quốc, qua ba lần thông dịch, sứ bộ của ta mới tới kinh đô nhà Chu ở vùng Cam Túc. Sứ bộ ngoại giao ta đem tặng vua nhà Chu Trung Quốc chim trĩ trắng là loại chim quý nhất ở phương Nam thời ấy. Nhà Chu Trung Quốc trân trọng đáp lại, cho làm năm cỗ xe có kim chỉ nam để đưa sứ bộ ngoại giao ta về nước (Những tư liệu về ngoại giao này đều có ghi chép trong các sử sách của Trung Quốc thời trước, như: Sử ký Tư Mã Thiên, Thượng thư đại truyện, Hậu Hán thư, Thiếu vi thống gián, Phương dư kỉ yếu, Việt kiệu thư, Cương mục tiền biên, Ngự phê thông giám tập lãm.

        Dựa theo truyền thuyết và theo sử sách của Trung Quốc, các sử gia Việt Nam cũng đã ghi lại những sự kiện trên trong: Lĩnh nam trích quái, Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, Việt sử thông giám khảo lược)

        Những sự tiếp xúc đối ngoại của dân tộc ta mà sử sách Trung Quốc ghi lại được chứng minh rằng dân tộc ta đã dựng nước sớm, tiến hành ngoại giao cũng sớm và rất chủ động trong ngoại giao. Với những dân tộc ở xa như Trung Quốc thời ấy, dân tộc ta cũng chủ động cho sứ tới giao thiệp, không ngoài mục đích tỏ tình thân thiện giữa hai dân tộc. Phong cách ngoại giao của ta thời Hùng Vương còn cho thấy dân tộc ta là một dân tộc sớm có văn hiến, hiểu biết được những biểu tượng cao đẹp của tình cảm con người với con người, của dân tộc này với dân tộc khác và biết sử dụng những biểu tượng đó làm quà tặng trong giao tiếp đối ngoại. Từ thời bấy giờ, dân tộc ta đã có ý thức đoàn kết, hữu nghị trong sáng, nhiệt tình và chân thành với tất cả các dân tộc, dù ở xa ta hàng vạn dặm.

        Đường lối, chính sách và phong cách ngoại giao vì hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc đã trở thành truyền thống đối ngoại của dân tộc ta. Trong quá trình phát triển lịch sử, mối quan hệ của dân tộc ta với các dân tộc khác không phải lúc nào cũng hòa bình, phẳng lặng, yên tĩnh; trái lại, ta cũng luôn luôn bị dân tộc này, dân tộc khác gây xung đột bằng vũ lực, nhiều khi rất quyết liệt, tàn khốc. Nhưng khi xung đột chấm dứt, ta lại chủ động giao hảo với những dân tộc thù địch để thiết lập lại quan hệ hòa bình hữu nghị, xóa bỏ những hận thù dân tộc, có hại cho cuộc sống và sự phát triển của xã hội loài người.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #2 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2016, 11:24:00 pm »


        Trong các thời đại xã hội có giai cấp, nhất là thời phong kiến, quan hệ đối ngoại giữa các nước phổ biến là một thứ quan hệ bất bình đẳng "cá lớn nuốt cá bé", nước lớn xâm lược nước nhỏ, xâm lược chưa được thì bắt nước nhỏ phải làm chư hầu, phiên thuộc, phải nộp cống, phục dịch nước lớn. Nước lớn muốn gì, nước nhỏ phải cung phụng không dám trái: vàng bạc, châu báu, những thú vật quý hiếm, kể cả bắt người làm nô lệ ... đủ thứ. Giữa các nước nhỏ với nhau, quan hệ tuy không căng thẳng lắm, nhưng cũng không tránh khỏi diễn ra cảnh khiêu khích, xung đột, lấn chiếm lẫn nhau. Quan hệ đối ngoại của nước ta đối với các nước khác cũng không sao tránh được các thông lệ đó của thời đại.

        Đối với Trung Quốc, nước ta thời Hùng Vương đặt quan hệ thân thiện trong một thời gian dài như thế là hiếm có. Nhưng rồi thời thế đổi thay, mối quan hệ giữa hai nước cũng đổi khác. Từ khi dựng nước ở vùng Cam Túc xa xôi, hẻo lánh, người Hán ngày càng mở rộng biên giới, chiếm đoạt lãnh thổ của nhiều nước, xóa bỏ nhiều quốc gia lân cận, bành trướng rất mạnh xuống phía Nam, và Trung Quốc nhanh chóng trở thành một nước rộng lớn bậc nhất ở châu Á từ mấy thế kỷ trước Công nguyên.

        Tới cuối thế kỷ thứ III trước Công nguyên, biên giới Trung Quốc đã mở rộng tới sát biên giới ta. Lúc này, dù nước ta muốn giao hảo thì các triều đại phong kiến Trung Quốc cũng không chịu dừng bước bành trướng xâm lược. Nhà Hán bắt đầu xâm lược, đánh phá nước ta liên tiếp trong nhiều thế kỷ. Cũng từ đó quan hệ đối ngoại của ta với các triều đại phong kiến Trung Quốc không còn là hòa bình hữu nghị như trước. Dân tộc ta đã phải tiến hành một cuộn đấu tranh vũ trang trường kỳ chống các đạo quân phong kiến Trung Quốc xâm lược diễn ra liên tục trong hơn mười thế kỷ.

        Cuối thế kỷ thứ III trước Công nguyên, ông vua bạo ngược Tần Thủy Hoàng của Trung Quốc đã cho 50 vạn quân chia 5 đường đánh vào vùng lãnh thổ phía Bắc nước ta. Tổ tiên chúng ta cùng các dân tộc anh em từ phía nam sông Trường Giang trở xuống đã đánh trả rất quyết liệt. Quân Tần bị thất bại liên tiếp "Thây phơi, huyết chảy hàng mấy chục vạn người" (Sử kí Tư Mã Thiên). Chủ tướng giặc là Đồ Thư bị giết tại trận. Sau đó nhà Tần nhiều lần đưa thêm quân sang, tiếp tục xâm lược nước ta cho bằng được.

        Sau hơn 10 năm đánh phá dã man, ác liệt, nhà Tần đã chiếm được một vùng đất đai rộng lớn ở phía Bắc nước ta, chia đặt thành ba quận: Nam Hải, Quế Lâm và Tượng (tức miền Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay).

        Sang hai thế kỉ cuối trước Công nguyên, các đế chế Tần, Hán tiếp tục xâm lược và đặt ách đô hộ lên toàn bộ nước ta. Quân đô hộ chia vùng mới thôn tính thành bảy quận, gồm bốn quận ở phía bắc, là Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố (tức là hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay) và ba quận ở phía nam là quận Giao Chi (tức khu vực Bắc Bộ nước ta ngày nay), quận Cửu Chân là miền Thanh - Nghệ - Tĩnh và quận Nhật Nam là từ dãy Hoành Sơn trở vào.

        Ngay từ khi quân nước ngoài bắt đầu xâm lược nước ta tới khi chúng đặt ách đô hộ, nhân dân ta đã liên tiếp nổi dậy chống lại ách đô hộ của chúng khiến quân giặc phải tổn thất nặng nề. Chúng phải luôn luôn đưa quân sang đàn áp các phong trào cứu nước của ta. Sánh của Trung Quốc thời bấy giờ phải ghi nhận rằng “Quân lính miền Kinh Sở phải mệt mỏi vì Âu Lạc” (Viên Khoan: Diêm thiết luận). Âu Lạc là tên nước ta thời An Dương Vương (từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên). Kinh Sở là miền Hồ Bắc, Hồ Nam của Trung Quốc ngày nay.

        Từ những thế kỷ đâu Công nguyên, phong trào chống ngoại xâm, cứu nước của nhân dân ta ngày càng sôi nổi. Các hoạt động vũ trang chống ngoại xâm, cứu nước diễn ra khắp nơi. Có phong trào ở miền ngược, có phong trào ở miền xuôi, có phong trào do nam cầm đầu, có phong trào do nữ lãnh đạo.

        Những năm đầu Công nguyên, hai vị nữ anh hùng dân tộc là Hai Bà Trưng (Trưng Trắc, Trưng Nhị) đã liên kết được phong trào yêu nước của nhiều địa phương, tạo thành một phong trào cứu nước rộng lớn, đánh đuổi quân thù, giành được chủ quyền dân tộc trong một thời gian.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #3 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2016, 11:24:38 pm »


        Thế kỷ thứ II sau Công nguyên, phong trào cứu nước càng sâu rộng. Các thế lực đô hộ Trung Quốc đã xóa bỏ chế độ lại tướng ở nước ta, nhưng chúng phải thừa nhận rằng “Những thủ lĩnh người Việt vẫn hùng cứ nông thôn". Nhân dân bảy quận luôn luôn khởi nghĩa. Có những phong trào tương đối lớn: của Chu Đạt ở Cửu Chân, của Chu Bá ở Giao Chỉ. Có phong trào mở rộng ở cả bốn quận miền Bắc, quân số hàng vạn người, liên kết được với một số quan lại người Trung Quốc cùng chống lại chính quyền đô hộ. Đặc biệt là phong trào cứu nước của nhân dân ta ở vùng huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam. Nước ta, từ thượng cổ đã có nhiều dân tộc. Nhân dân huyện Tượng Lâm, gồm có người Việt, người Chàm và nhiều dân tộc khác ở dọc dải Hoành Sơn, người Chàm là đông hơn cả. Huyện Tượng Lâm và cả quận Nhật Nam đều ở xa thủ phủ đô hộ của giặc đặt tại vùng lưu vực sông Hồng, do vậy lực lượng chiếm đóng của giặc ở vùng Nhật Nam, Tượng Lâm không nhiều, nhân dân Nhật Nam có điều kiện khởi nghĩa liên tục. Trong thế kỷ thứ II, nhân dân Tượng Lâm năm lần tiến hành khởi nghĩa. Từ cuộc khởi nghĩa lần thứ hai trở đi, lần nào cũng có nhân dân và binh sĩ người Việt và các dân tộc anh em ở hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân hưởng ứng. Cuộc khởi nghĩa lần cuối vào năm 190 do một thủ lĩnh người Chàm lãnh đạo đã giải phóng hoàn toàn huyện Tượng Lâm, lập thành một vương quốc nhỏ ở miền Nam nước ta, lấy tên là Lâm Ấp .

        Trong hai thế kỷ thử III, thứ IV, phong trào đánh giặc cứu nước vẫn diễn ra liên tục khắp nơi. Lớn hơn cả là phong trào ở Thanh Hóa do Bà Triệu lãnh đạo.

        Sang thế kỷ thứ V, thứ VI, phong trào chống giặc càng lớn mạnh. Giữa thế kỷ thứ V, người anh hùng cứu nước là Lý Trường Nhân đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn trên khắp nước. Trong vòng ba tháng, Lý Trường Nhân và nghĩa quân giết bọn quan lại, tướng sĩ đô hộ, giải phóng hoàn toàn Tổ quốc và thành lập chính quyền độc lập của dân tộc, chính quyền này tồn tại trong gần 20 năm.

        Giữa thế kỷ thứ VI, một phong trào khởi nghĩa lớn do hai vị anh hùng Lý Bí (tức Lý Nam Đế) và Triệu Quang Phục (tức Triệu Việt Vương) đã giành được quyền độc lập cho nước nhà, lập nên triều Tiền Lý tồn tại trong  hơn nửa thế kỉ.

        Sang thế kỷ thứ VII, thứ VIII, cuộc chiến đấu giữa nhân dân ta và các thế lực phong kiến Trung Quốc đô hộ càng quyết liệt hơn. Bọn đô hộ lúc ấy là tập đoàn thống trị nhà Đường - một trong những tập đoàn bành trướng hiếu chiến bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Chúng phát động chiến tranh xâm lược liên miên, đánh chiếm đất đai của hầu hết các dân tộc láng giềng ở khắp bốn phía. Phía đông, chúng đánh chiếm nước Triều Tiên, gọi Triều Tiên là An Đông đô hộ phủ. Phía tây, chúng đánh chiếm Tây Tạng, gọi Tây Tạng là An Tây đô hộ phủ. Phía bắc, chúng đánh chiếm lãnh thổ của các dân tộc Mông Cổ, Đột Quyết, Uy Gua, lập thành An Bắc đô hộ phủ. Phía nam, bọn vua chúa hiếu chiến nhà Đường đánh chiếm nước ta và gọi ta là An Nam đô hộ phủ. "An" có nghĩa "dẹp yên". An Nam, An Đông, An Tây, An Bắc, có nghĩa là dẹp yên phía Nam, phía Đông, phía Tây, phía Bắc. Tên “An Nam” mà người nước ngoài trước đây dùng gọi có từ khi nhà Đường xâm lược, thôn tính nước ta.

        Chống lại một tập đoàn thống trị bành trướng, hiếu chiến cuồng bạo là rất khó khăn. Vậy mà nhân dân ta vẫn luôn luôn khởi nghĩa. Trong thế kỷ thứ VII có các phong trào khởi nghĩa do Lý Tự Tiên, Đinh Kiến lãnh đạo. Sang thế kỷ thứ VIII xuất hiện một phong trào cứu nước lớn mạnh do Mai Thúc Loan lãnh đạo. Mai Thúc Loan là người anh hùng xuất thân cùng khổ, nhưng anh dũng kiên cường và rất mực thông minh, tài trí. Đường lối, phương châm tổ chức và lãnh đạo chiến đấu của Mai Thúc Loan có nhiều điểm khác với các phong trào đã có từ trước. Nhân dân vùng Hoan - Diễn (tức vùng Nghệ - Tĩnh) là quê hương Mai Thúc Loan đã có thơ ca ngợi người anh hùng họ Mai là:

                               "Anh hùng độc đáo
                               Thiên cổ lạ kỳ
                               Ngàn năm ít thấy
                               Vạn đại vẫn còn...”


        Nhân dân đã nhận định rất đúng. Ở người anh hùng áo vải Mai Thúc Loan có rất nhiều điểm độc đáo. Trước khi phất cờ khởi nghĩa, ông tập hợp một số bạn chiến đấu, cùng họ lo xây dựng căn cứ địa, dựng thành đắp lũy và truyền hịch cứu nước đi khắp vùng Hoan - Diễn. Người yêu nước ơû khắp nơi theo về ngày càng đông. Theo sách sử Trung Quốc và truyền thuyết của ta thì mùa hè năm Quý Sửu (năm 713)  (Tân Đường thư (sách sử Trung Quốc), q.207, Dương Tư Húc truyện) Mai Thúc Loan bắt đầu ra quân đánh địch và thu phục ngay được Châu Hoan (tức vùng Nghệ - Tĩnh ngày nay). 

        Trước thắng lợi rực rỡ ban đầu, các tướng lĩnh và toàn thể nghĩa quân yêu cầu vị anh hùng trẻ tuổi Mai Thúc Loan lên ngôi Hoàng đế và họ tôn lên là Mai Đại Đế (tức ông vua lớn họ Mai). Sau này, sử sách ghi ông là Mai Hắc Đế, tức ông vua đen họ Mai (vì da ông). Khi đã lên ngôi vua, Mai Thúc Loan đề ra đường lối đối nội, đối ngoại rất rõ ràng, cụ thể và thật sáng suốt.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #4 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2016, 11:25:03 pm »


         Về đối nội, ông cho người đi các châu huyện báo tin thắng trận và kêu gọi nhân dân 32 châu trong cả nước cùng nổi dậy phối hợp chiến đấu. Tinh thần đại đoàn kết của ông được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Ông đã tập hợp được quân của cả 32 châu để cùng đánh giặc. Sử Trung Quốc ghi chép rằng: "Mai Thúc Loan đã dấy quân 32 châư” (Tân Đường thư (sách sử Trung quốc), q.207, Dương Tư Húc truyện) để đánh chúng.

        Về đối ngoại, ông tiến hành vận động liên minh quân sự với nước ngoài để cùng đánh giặc. Đây là nét độc đáo trong kế sách đối ngoại của Mai Thúc Loan. Sử Trung Quốc ghi rằng ông đã liên minh được với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp (tức Cam-pu-chia ngày nay) và Kim Lân (tức Ma-lai-xi-a ngày nay) (Tân Đường thư (sách sử Trung quốc), q.207, Dương Tư Húc truyện). Truyền thuyết của ta kể lại cụ thể: Mai Đại Đế khởi nghĩa năm Quý Sửu (713) thì năm sau là năm Giáp Dần (714) , cử một tướng là Tiết Anh làm Lâm Ấp thông vấn sứ và một tướng là Hoắc Đam làm Chân Lạp cáo dự sứ. Hai tướng chính thức đi sứ sang hai nước Lâm Ấp, Chân Lạp để thông báo chiến thắng và đề nghị hai nước liên minh quân sự cùng đánh giặc. Với hai nước láng giềng phía nam này thì ngay từ khi chuẩn bị khởi nghĩa, Mai Thúc Loan đã cho một tướng là Ba Đội Hầu sang liên hệ. Theo truyền thuyết thì hai nước Chân Lạp và Lâm Ấp đều nhiệt liệt hưởng ứng liên minh. Vua Chân Lạp là Hồ A Khiêm cho tướng Tham Ninh Na và vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Dĩnh cho tướng Chư Hương An thống lĩnh quân đội, mỗi nước 10 vạn người sang Việt Nam chiến đấu dưới lá cờ đại nghĩa của Đại đế Mai Thúc Loan (Chư Cát Thị: Tân đính hiệu bình Việt điện U linh tập).

        Đoàn kết với các nước láng giềng, liên minh quân sự với các nước bạn để cùng chiến đấu chống xâm lược là một sự phát triển mới trong đường lối đối ngoại và đường lối chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta cách đây hơn một nghìn năm. Đó cũng là điểm rất cao quý trong tài năng chỉ đạo chiến tranh của Mai Thúc Loan, người anh hùng dân tộc trẻ tuổi của dân tộc ta, tuy xuất thân từ lớp người cùng khổ, lam lũ, nhưng tầm mắt chính trị , quân sự và ngoại giao sâu rộng hơn người, biết kết hợp chặt chẽ chính trị, quân sự với ngoại giao để đánh thắng giặc.

        Do chỗ tập hợp được quân dân 32 châu và quân đội của hai nước láng giềng nên lực lượng quân sự của Mai Đại Đế rất lớn mạnh. Sử nhà Đường ghi rằng quân ta lúc ấy có tới 40 vạn người. Lực lượng nghĩa quân hùng hậu như vậy đã nhanh chóng quét sạch quân xâm lược ra khỏi đất nước. Mai Đại Đế thiết lập chính quyền độc lập của ta được trên 10 năm thì ông bị bệnh chết. Đây là một thiệt thòi lớn cho công cuộc chống ngoại xâm của đất nước ta lúc bấy giờ.

        Mặc dầu Mai Thúc Loan mất, nhưng phong trào đánh giặc cứu nước của ta không giảm sút. Quân nhà Đường lại sang đô hộ thì một tướng của Mai Đại Đế là Phùng Hạp Khanh tiếp tục sự nghiệp cứu nước của những anh hùng đi trước. Phùng Hạp Khanh về quê nhà ở Đường Lâm (thuộc ngoại thành Hà Nội ngày nay) xây dựng căn cứ, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa. Ông chưa kịp ra quân thì chết. Ba con trai ông, đứng đầu là Phùng Hưng cùng nối chí cha.

        Năm 769, người Côn Lôn, tức người bán đảo Mã Lai và người Chà Và, tức người đảo Ja-va thuộc In-đô-nê-xi-a ngày nay, cùng đưa quân vào đánh lực lượng đô hộ nhà Đường trên đất nước ta. Họ đánh vào tới sào huyệt của bọn đô hộ tại Tống Bình (tức Hà Nội ngày nay). Được sự giúp sức cùng chiến đấu của hai đạo quân nước ngoài, nghĩa quân Phùng Hưng phất cờ khởi nghĩa, chiếm giữ châu Đường Lâm và các châu huyện xung quanh (gồm vùng Hà Nội bây giờ), xóa bỏ chính quyền địch xây dựng chính quyền độc lập của ta, lập căn cứ tiến tới thành lập khu giải phóng, bước đầu dựng nền độc lập trên một phần đất nước. Trước tình hình chính quyền đô hộ có nguy cơ bị sụp đổ, vua chúa nhà Đường phải cho quân sang cứu viện. Lúc này quân đội của người Côn Lôn và người Chà Và đã rút về nhưng binh tướng nhà Đường không sao tiến quân vào khu giải phóng của nghĩa quân Đường Lâm.

        Tuy vậy, Phùng Hưng và các tướng lĩnh nghĩa quân cũng biết sức giặc còn mạnh, chưa thể một lúc đánh thắng ngay được. Phùng Hưng chủ trương trường kỳ chiến đấu chống giặc, đưa chiến tranh giải phóng tiến lên từng bước vững chắc. Đây là một cống hiến mới của vị anh hùng trẻ tuổi Phùng Hưng vào đường lối chiến tranh giải phóng dân tộc của ta. Đường lối đó là: bước đầu xây dựng căn cứ địa, từ căn cứ địa phát triển thành khu giải phóng ngày càng mở rộng ra nhiều vùng, tới khi so sánh lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi, thế và lực của ta mạnh hơn địch, thì tiến hành một cuộc tổng công kích để giành thắng lợi quyết định, kết thúc chiến tranh.

        Trong 25 năm liền, nghĩa quân Phùng Hưng kiên trì đánh giặc theo đường lối đó, càng đánh càng mạnh. Vùng giải phóng ngày càng mở rộng khác trước. Tới cuối năm 791, nghĩa quân Phùng Hưng có thế mạnh hoàn toàn áp đảo địch. Mùa hè năm ấy, Phùng Hưng quyết định mở trận tổng công kích. Quân giặc thất bại hoàn toàn. Cuộc tổng công kích thành công nhanh chóng. Chính quyền độc lập trên cả nước được thành lập Phùng Hưng lên ngôi vua, giữ nước một thời gian. Nhân dân suy tôn ông làm Bố Cái Đại Vương.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #5 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2016, 11:25:51 pm »


        II- NGOẠI GIAO HÒA HOÃN THỜI HỌ KHÚC, HỌ DƯƠNG

        Tiếp theo cuộc khởi nghĩa của Bố Cái Đại Vương, trong nửa đầu thế kỷ thử IX, phong trào giải phóng ở ta lại nổ ra liên tiếp. Nhiều viên quan đô hộ nhà Đường bị giết hoặc bị đuổi về nước . Giữa thế kỷ thứ IX, nhà Đường tăng cường bộ máy đàn áp. Chúng cho một võ quan cao cấp của triều đình làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ để cầm đầu toàn bộ binh quyền và chính quyền của chúng trên đất nước ta. Nhưng tiết độ sứ cũng không làm gì được. Thế và lực của nhà Đường sụp đổ tới nơi. Từ thế kỷ thứ VIII, phong trào nông dân Trung Quốc khởi nghĩa chống nhà Đường đã liên tiếp nổ ra, mạnh nhất là ở các vùng biên cương. Tại các nước bị nhà Đường đô hộ, không phải chỉ có nước ta chống đối lại, mà ở các nước bị đô hộ khác là An Đông, An Tây, An Bắc phong trào đấu tranh giành độc lập cũng rất quyết liệt. Cho nên từ giữa thế kỷ thứ VIII, triều đình nhà Đường đặt ra chức tiết độ sứ là một chức võ quan cao cấp có quyền tổng chỉ huy tất cả quân đội ở khu vực biên cương Trung Quốc và những nước ở gần biên cương bị nhà Đường đô hộ. Tiết độ sứ có toàn quyền về quân sự để chỉ huy dập tắt những phong trào khởi nghĩa của nông dân trong nội địa Trung Quốc và trấn áp các phong trào giải phóng ở các nước bị đô hộ bên ngoài biên cương. Do tình hình rối loạn trong nước ngày càng tăng, việc liên lạc giữa triều đình nhà Đường với miền biên cương ngày càng khó khăn, các tiết độ sứ dần dần nắm cả mọi quyền hành chính, tài chính, nghiễm nhiên trở thành những ông vua thật sự ở miền biên cương, thay mặt triều đình nhà Đường giải quyết tất cả mọi việc ở địa phương. Có những tiết độ sứ tách khỏi quyền chi phối của triều đình nhà Đường, biệt lập thành một giang sơn riêng. chỉ thỉnh thoảng mới triều cống vua Đường. Họ tự truyền chức cho nhau, cha truyền cho con hoặc anh truyền cho em, gọi là quyền "Lưu hậu”, vua Đường đành chịu. Họ tự tuyên bố quan lại văn võ, tự định đoạt mọi việc quân, việc dân ở địa phương không cần thỉnh thị triều đình, vua Đường cũng đành chịu.

        Tĩnh hải quân tiết độ sứ của nhà Đường đặt ở nước ta cũng có quyền hành lớn như vậy, nhưng hoàn toàn bất lực, vì phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của người Việt Nam ngày càng lên cao.

        Cuối thế kỷ thứ IX, những binh lính người Việt dưới quyền tiết chế của tiết độ sứ nhà Đường đã nổi lên làm một cuộc binh biến rất lớn, đánh đuổi tiết độ sứ cùng toàn bộ quan lại, quân sĩ của chúng về nước. Cả nước sạch bóng quân xâm lược. Một người anh hùng dân tộc là Khúc Thừa Dụ lên cầm quyền trị nước, chấm dứt ách thống trị của bọn xâm lược nhà Đường.

        Về đối nội, nhân dân ta từ đây tự tổ chức lấy chính quyền độc lập của mình. Về đối ngoại, Khúc Thừa Dụ thi hành một chính sách mềm dẻo nhằm ngăn chặn nhà Đường mưu đồ tái chiếm nước ta, để ta rảnh tay xây dựng đất nước. Do đấy, Khúc Thừa Dụ tự nhận mình là tiết độ sứ, thay mặt nhà Đường cầm quyền ở Việt Nam. Với phương thức đối ngoại này của Khúc Thừa Dụ, quan hệ giữa nước ta và nhà Đường tưởng như không có gì khác trước, nhưng về căn bản rất khác. Khác ở chỗ người Việt Nam tự cai trị người Việt Nam, nước Việt Nam hoàn toàn tự chủ. Tự nhận mình là tiết độ sứ, Khúc Thừa Dụ một mặt buộc triều đình nhà Đường phải chấp nhận, vì nhà Đường lúc này tổ chức được một cuộc hành quân mới để xâm lược nước ta cũng rất khó, nên ưng thuận để không mất thể diện; mặt khác ta ngăn chặn được các tiết độ sứ ở miền biên cương gần nước ta không thể lợi dụng thời cơ lấy danh nghĩa nhà Đường để đánh phá ta, vì ta vẫn nhận thần phục nhà Đường.

        Chủ trương ngoại giao hòa hoãn, mềm dẻo của Khúc Thừa Dụ tạo điều kiện cho nhân dân ta và họ Khúc giữ vững chủ quyền dân tộc trong khoảng nửa thế kỷ. Nhưng không phải vì thế mà giặc ngoài đã chịu từ bỏ dã tâm xâm lược của chúng.

        Năm 907 Khúc Thừa Dụ mất và cũng là lúc Trung Quốc bước vào thời kỳ đại loạn, gọi là thời "Ngũ đại thập quốc" tức “Năm triều đại mười quốc gia". Năm triều đại nối tiếp nhau ở triều đình trung ương và mười quốc gia lần lượt xuất hiện trong nội địa Trung Quốc. Thoạt đầu là nhà Đường bị diệt, nhà Hậu Lương cướp ngôi. Ở ta, con Khúc Thừa Dụ là Khúc Hạo lên cầm quyền thay cha, và ngay năm 907 cho người sang giao hảo với triều đại mới ở Trung Quốc là nhà Hậu Lương. Nhà Hậu Lương buộc lòng phải thừa nhận Khúc Hạo làm tiết độ sứ. Nhưng năm sau (908), Hậu Lương lại phong cho tiết độ sứ ở Quảng Châu (tức Quảng Đông) kiêm nhiệm cả chức tiết độ sứ ở nước ta. Điều này là một chứng minh lịch sử cho thấy: dù trong nước có lâm vào cảnh đại loạn, rối ren thế nào chăng nữa, các tập đoàn phong kiến Trung Quốc cũng không từ bỏ dã tâm xâm chiếm nước ta.

        Nhưng viên tiết độ sứ Quảng Châu, mặc dầu được nhà Hậu Lương phong cho kiêm nhiệm tiết độ sứ An Nam, cũng không dám sang nhận chức ở nước ta. Mười năm sau (tức năm 917), tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Cung chống lại triều đình trung ương, lập nước riêng ở Quảng Châu, xưng hoàng đế, đóng đô ở Phiên Ngung, sách sử gọi là nhà Nam Hán. Bọn Lưu Cung cũng có tham vọng bành trướng xuống phía Nam, đánh cướp nước ta, nhưng lúc ấy (năm 917 - 918 ) Nam Hán sức còn yếu, phạm vi thế lực chỉ mới trong khu vực Quảng Đông và một phần Quảng Tây nên vẫn phải giao hảo với ta. Lúc ấy, ở ta Khúc Hạo đã mất, con là Khúc Thừa Mỹ làm tiết độ sứ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #6 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2016, 11:26:10 pm »


        13 năm sau, tức năm 930, nước Nam Hán có một quá trình đánh đông, cướp tây, đã mạnh hơn trước, nên Lưu Cung vua nước Nam Hán cho một đạo quân bất thần đánh sang nước ta. Khúc Thừa Mỹ không kịp đối phó, bị sa vào tay quân cướp nước. Đạo quân xâm lược tiến xuống tới châu Ái (miền Thanh Hóa bây giờ) thì bị một danh tướng của Khúc Thừa Mỹ là Dương Đình Nghệ ở châu Ái đánh bật trở lại. Quân Nam Hán phải rút ra miền đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng chúng không thể ở yên.

        Chỉ mấy tháng sau (tháng 3 năm 931), Dương Đình Nghệ đem toàn bộ quân đội của mình tiến ra Bắc đánh giặc. Tướng giặc là Lý Tiến hoảng sợ, phải phi báo về triều đình Nam Hán xin thêm quân. Vua Nam Hán là Lưu Cung cho tướng Trần Bảo đem quân sang cứu nguy. Quân Trần Bảo chưa tới nơi, tướng giặc Lý Tiến đã bị quân ta đánh cho đại bại, phải chạy trốn về nước. Dương Đình Nghệ cùng toàn bộ đại quân tiến vào đóng trong thành Đại La (tức Hà Nội bây giờ).

        Quân địch cùng chủ tướng Trần Bảo sang tới nơi, định vây thành Đại La thì bị quân ta đánh tập kích rất mạnh. Toàn bộ quân giặc bị tiêu diệt, Trần Bảo chết tại trận. Nam Hán không dám tiến quân sang nữa.

        Đầu năm 932, Dương Đình Nghệ lên cầm quyền trị nước. ông cũng làm theo họ Khúc, vẫn xưng là tiết độ sứ. Sử sách không ghi rõ là tiết độ sứ của triều đình nào ở Trung Quốc trong thời kỳ "Ngũ đại thập quốc” đó. Đây cũng chỉ là một kế sách đối ngoại mềm dẻo của Dương Đình Nghệ, tỏ ra không cắt đứt quan hệ "phiên thần" đối với các triều đình Trung Quốc, nhưng thật ra chẳng thuộc triều đình nào trong cái "Ngũ đại thập quốc" ấy.

        Dương Đình Nghệ cầm quyền được 6 năm thì năm 937 bị một tên tướng phản bội là Kiều Công Tiễn ám hại. Tên phản bội đê hèn này, đối nội thì giết chủ để tranh quyền tiết độ sứ, nhưng lại sợ sức mạnh của người con rể Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền, đương cai quản châu Ái lúc đó, nên về đối ngoại Kiều Công Tiễn làm một việc nhục nhã là cho người sang "xưng thần" với vua Nam Hán và xin Nam Hán cho quân sang cứu.

        Vua Nam Hán là Lưu Cung vội nắm lấy cơ hội để xâm lược nước ta, liền cho con trai là Lưu Hoằng Thao làm Giao vương (có nghĩa là làm vua Châu Giao, tức là làm vua nước ta), cầm đại quân theo đường biển tiến sang ta. Còn Lưu Cung đem quân đóng tại trấn Hải Môn, gần kề biên giới nước ta để làm hậu ứng cho con, khi cần thiết chính hắn cũng sẽ kéo quân sang nước ta.

        Nhưng tình hình diễn biến rất nhanh, vượt ra ngoài ý đồ của bọn cướp nước và tên bán nước. Quân Nam Hán chưa tới nơi thì tên phản bội Kiều Công Tiễn đã bị ngô Quyền từ châu Ái đưa quân ra bắt và giết chết.

        Sau khi trừ xong nội phản và biết quân cướp nước đang tiến tới miền ven biển nước ta, Ngô Quyền quyết định đường lối đối ngoại của nước nhà lúc này là phải nhanh chóng tiêu diệt giặc ngoại xâm. Biết rõ tình hình địch và sức địch, Ngô Quyền nói với các tướng sĩ:

        "Hoằng Thao là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe tin Công Tiên đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi; quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt tất phải được. Song họ có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vót nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của họ nhân khi nước triều lên tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hay hơn kế ấy” (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Sau khi định xong kế hoạch, Ngô Quyền đưa quân ra vùng cửa Bạch Đằng. ông cùng quân và dân địa phương làm cọc “đóng ở hai bên cửa biển" (Đại Việt sử ký toàn thư). Khi quân Hoằng Thao tới gần cửa biển của ta, Ngô Quyền theo kế hoạch đã định, cho quân ra khiêu chiến, nhử quân giặc vào đúng trận địa để đánh. Khi thuyền chiến của địch vào đúng trận địa đã phục sẵn cũng là lúc nước thủy triều xuống, Ngô Quyền lệnh cho quân ta phản công. Trước sức phản công mạnh mẽ của ta địch vội vàng tháo chạy. Thuyền chiến của giặc đâm vào cọc tan vỡ gần hết. Quân Nam Hán chết đuối quá nửa. Chủ tướng giặc Hoằng Thao bị bắt sống và bị giết tại trận. Trận đánh diễn ra trong tháng 11 năm 938. Vua Nam Hán - Lưu Cung đóng quân tại Hải Môn được tin con chết tại trận, quân sĩ tan hết, chỉ còn biết khóc thương con, không dám tiếp tục gây chiến, đành đem quân trở về Phiên Ngung (Quảng Châu).

        Sử của ta ghi rằng: sau trận thua đau này, vua Nam Hán - Lưu Cung cho là tên Lưu Cung của hắn xấu và xui quá, nên đổi là Lưu Yểm. Trận thua đau ở Việt Nam thật là thấm thía đối với vị vua bại trận. Nhưng dù đổi tên hay không thì nhà Nam Hán cũng không thể tồn tại lâu và cũng không còn sức để mưu đồ xâm lược Việt Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #7 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2016, 11:27:51 pm »


Chương hai

NGOẠI GIAO CỦNG CỐ ĐỘC LẬP

        I- NGOẠI GIAO THỜI NGÔ - ĐINH

        Sau khi đánh thắng quân Nam Hán, đầu năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, cầm quyền trị nước, bỏ danh hiệu tiết độ sứ, dứt khoát cắt đứt quan hệ lệ thuộc các vương quyền phương Bắc. Ngô Quyền lập triều đình, đặt trăm quan (không rõ niên hiệu, tên hiệu là gì), sau này sách sử ghi là Ngô Vương. Về đối ngoại, Ngô Quyền không giao thiệp với Nam Hán mà ông vừa đánh cho đại bại và cũng không liên hệ với nước nào trong "Ngũ đại thập quốc" lúc ấy. Nhưng ông cho phép những người Trung Quốc chạy loạn được sang sinh cơ lập nghiệp ở lãnh thổ do mình cai quản. Ngô Quyền cũng tiếp nhận những tướng sĩ Trung Quốc bị thất bại trong nội chiến xin sang trú ngụ ở nước ta. Một số tướng sĩ Trung Quốc được Ngô Quyền thu dung cho làm việc tại triều hoặc tại các địa phương.

        Ngô Quyền làm vua được 6 năm thì mất. Đáng lẽ con Ngô Quyền lên nối ngôi cha. Nhưng em vợ Ngô Quyền là Dương Tam Kha cướp ngôi vua. Một số quan lại, tướng sĩ của Ngô Quyền không chịu, nổi lên chống lại Dương Tam Kha, mỗi người cầm quân chiếm giữ một địa phương, lập thành giang sơn riêng, gây nên tình trạng cát cứ, trước còn ít, sau lên tới 12 sứ quân.

        Dương Tam Kha làm vua được 6 năm. Tới năm 950, con của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn cùng một số tướng cũ của Ngô Quyền nổi lên đánh úp, bắt được Dương Tam Kha. Năm sau (951), Ngô Xương Văn lên ngôi vua lấy hiệu là Nam Tấn Vương. Nhưng nạn sứ quân cát cứ các địa phương vẫn không xóa bỏ được mà ngày càng tăng. Trước tình hình trong nước rối ren, sợ nước ngoài xâm lược, năm 954 Ngô Xương Văn cho sứ sang giao hảo với Nam Hán . Vua Nam Hán lúc ấy là Lưu Thanh cho ngay sứ sang nhận ta là phiên thần, lại phong chức tiết độ sứ cho Ngô Xương Văn, âm mưu kiếm cớ xâm nhập tiến tới chiếm đóng nước ta. Được tin ấy, Ngô Văn Xương cho ngay người đi sang chặn sứ Nam Hán lại trước khi tới biên giới, và dọa sứ Nam Hán rằng: giặc biển đương làm loạn, đường đi rất khó, đừng sang mà chết! (Đại việt sử ký toàn thư). Sứ Nam Hán hoảng sợ quay về. Mộng bành trướng của Nam Hán tới đây thật sự chấm dứt.

        Ở ta, tình trạng sứ quân cát cứ kéo dài hơn 20 năm. Một trong thủ lĩnh 12 sứ quân là Đinh Bộ Lĩnh đánh tan các sứ quân khác, thống nhất được đất nước. Đinh Bộ Lĩnh là con của Đinh Công Trứ - một người bạn chiến đấu của Ngô Quyền, từ thời hai người còn là tướng thân cận của Dương Đình Nghệ.

        Năm 968, nạn cát cứ đã chấm dứt, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua. Khác với Ngô Quyền, ông lập hẳn một triều đại, lên ngôi hoàng đế, xưng là Minh Hoàng đế , đặt mình ngang hàng với các hoàng đế Trung Quốc, sử sách gọi ông là Đinh Tiên Hoàng (tức Đinh Tiên Hoàng đế) là gọi theo niên hiệu Tiên Hoàng đế mà người ta đặt cho ông khi ông đã mất.

        Về quan hệ ngoại giao với Trung Quốc thì từ thời Ngô đã không có. Khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, quan hệ ngoại giao với Trung Quốc cũng chưa đặt ra ngay, vì Trung Quốc chưa chấm dứt được nạn “Ngũ đại thập quốc". Ở ta, trong khi Đinh Bộ Lĩnh tiến hành thống nhất đất nước thì Triệu Khuông Dận ở Trung Quốc cũng nổi lên dẹp loạn "Ngũ đại thập quốc". Năm 960, Triệu Khuông Dận diệt được nhà Hậu Chu - một triều đại cuối cùng của "Ngũ đại", nhưng còn "thập quốc". Triệu Khuông Dận lập nên triều Tống và tiếp tục thanh toán "thập quốc”.

        Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua được 2 năm thì năm 970 ở Trung Quốc, Tống Thái Tổ (tức Triệu Khuông Dận) tiến quân xuống phía nam đánh Nam Hán. Năm 971, Nam Hán bị diệt. Từ đấy biên giới Tống sát với nước ta. Tống đặt quan hệ giao hảo với ta, chưa có ý đồ gì khác, vì Trung Quốc chưa thống nhất, Tống còn phải lo đối phó với một số nước "thập quốc” ở phía bắc và phía đông. Cho nên quan hệ buổi đầu giữa hai nước là hòa bình hữu nghị. Có điều đặc biệt trong đường lối, phong cách ngoại giao của Đinh Tiên Hoàng là ông vẫn làm vua, vẫn cầm quyền trị nước, nhưng trong các văn bản quan hệ ngoại giao thì ông lại cho con trai là Đinh Liễn đứng tên, tức là ông cho con ông ra mặt giao thiệp với hoàng đế nhà Tống. Thái độ đó của Đinh Tiên Hoàng, có thể triều Tống không bằng lòng, nhưng nhà Tống chưa làm gì được.

        Tới năm 979, nhà Tống diệt được nước cuối cùng trong “thập quốc" là nhà Bắc Hán ở phía bắc, thống nhất được Trung Quốc rộng lớn. Do đấy, nhà Tống lúc này quân đông thế mạnh. Trong khi đó ở ta, cũng năm 979 vua Đinh Tiên Hoàng và con lớn là Đinh Liễn đều bị cận thần sát hại. Con nhỏ là Đinh Toàn mới 5 tuổi lên nối ngôi, vua Tống tính ngay chuyện xâm lược nước ta. Thế là quan hệ ngoại giao giữa ta và Tống trở thành xấu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #8 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2016, 11:28:12 pm »


        Khoảng những tháng đầu năm 980, viên quan Tống coi Ung Châu (tức miền Quảng Tây bây giờ) báo cáo về triều đình Tống rằng:

        "An Nam quận vương và con là Liễn đều bị giết, nước đã gần mất, có thể nhân lúc này đem quân địa phương đánh lấy được, nếu bỏ lúc này không mưu sự sợ mất cơ hội...” (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Tống triều vội nắm lấy cơ hội. Ngay tháng 7 năm 980, Tống triều quyết định "xuất kỳ bất ý đem quân đánh úp. . . như sét đánh không kịp bưng tai " (Đại Việt sử ký toàn thư). Nhà Tống bắt đầu họp quân, tuyển tướng.

        Sang tháng 8, vua Tống hạ lệnh cho các tướng Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Khích Thủ Tuấn (có sách viết là Hác Thủ Tuấn.), Trần Khâm Tộ, Thôi Lượng, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn... "họp quân bốn mặt, hẹn ngày cùng sang xâm lược" (Đại Việt sử ký toàn thư). Khí thế Tống rất mạnh.

        Tháng 9, vua Tống cho đem thư sang hăm dọa ta, coi như một tối hậu thư. Đây là một văn kiện ngoại giao của kẻ xâm lược mà sử sách của ta lần đâu tiên ghi lại. Đó là một văn kiện khá dài, lời lẽ rất thô bạo, hống hách. Có những đoạn viết:

        " … Nay thành triều ta, lòng nhân trùm muôn nước; cơ nghiệp thái bình kể cũng đã thịnh, điều lễ phân phong đã sắp sửa làm, muốn ngươi đến chầu cho ta được vui khỏe, mà ngươi khỏi cái tủi áp mặt vào góc nhà để làm rầy cho ta, khiến ta phải dùng đến kế chặt xác băm xương, làm cỏ nước người, lúc ấy hối sao kịp. . .

        Người có theo về không? Chớ rước lấy tội lỗi. Ta đương chỉnh bị xe ngựa, quân lính, sắp sửu các thứ chiêng trống, nếu quy thuận thì ta tha cho, nếu trái lệnh thì ta quyết đánh. Theo hay không, lành hay dữ, tự người nghĩ lấy. . . " (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Đe dọa ngoại giao như thế này không phải là một việc làm ngẫu nhiên mà là quốc sách của kẻ bành trướng, một bước mở đầu của chiến tranh xâm lược. Binh thư tối cổ và tối ưu của đường lối chiến tranh xâm lược rất coi trọng biện pháp "phạt giao" (Binh pháp Tôn Tử. Thiên thứ ba: Mưu công). "Phạt giao” có nghĩa là đánh bằng ngoại giao, tức là dùng ngoại giao để đe dọa, nạt nộ, lừa gạt người để bắt người phải hàng phục, phải cống nạp, phải chịu sự thống trị của mình. "Phạt giao" thành công thì khỏi phải vũ trang xâm lược. “Phạt giao" dù không hoàn toàn được như ý muốn thì cũng làm cho kẻ bị đe dọa phải e sợ, giảm sút tinh thần chiến đấu, khiến kẻ xâm lược đánh cướp nước người được dễ dàng, nhanh chóng.

        Nhưng nhà Tống đe dọa ta vô ích. Quân dân ta quyết không đầu hàng và sẵn sàng trả lời họ bằng vũ lực. Lúc này trong nước, vua Đinh tuy còn nhỏ, nhưng có Thập đạo tướng quân Lê Hoàn làm nhiếp chính, giữ chức Phó vương, trông nom mọi việc quân việc dân. Khi được tin nhà Tống chuẩn bị ra quân xâm lược nước ta, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn cử tướng Phạm Cự Lạng (Có sách viết là Phạm Cự Lưỡng) làm Đại tướng quân để điều động quân sĩ và định kế hoạch ra quân đánh địch.

        Trước khi lên đường dẹp giặc, Đại tướng quân Phạm Cự Lạng cùng các tướng lĩnh quyết định làm một cuộc đảo chính vì lợi ích của nhà nước. Trong một buổi triều đình đương họp, Phạm Cự Lạng cùng các tướng lĩnh nhung phục oai nghiêm, đem quân tiến thẳng vào triều. Tại giữa điện đình, Phạm Cự Lạng nói với mọi người:

        "Nay chúa thượng trẻ thơ, chúng ta dù hết sức liều chết chống kẻ địch bên ngoài, mong lập được chút công thì ai biết cho. Chi bằng trước hãy tôn Thập đạo tướng quân làm Thiên tử, rồi sau sẽ đem quân đi đánh giặc thì hơn” (Đại Việt sử ký toàn thư)

        Trăm quan tại triều và Dương Thái Hậu mẹ vua nhỏ Đinh Toàn đều “vui lòng quy phục" (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Tháng 4 năm 981, cuộc kháng chiến chống nhà Tống xâm lược bắt đầu. Quân Tống theo ba đường đánh sang ta. Một đường bộ vào Lạng Sơn (Có tài liệu viết đạo quân bộ vào theo cửa ải Thông Quốc ở Quảng Ninh ngày nay). Một đường thủy theo ven biển vào sông Bạch Đằng. Một đường thủy thứ hai vào Tây Kết. Nhưng trên cả ba đường hành quân, giặc đều bị quân ta đánh cho bại trận.

        Đạo bộ binh tiên phong của giặc đi tới Chi Lăng thì bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn. Chủ tướng quân tiên phong là Hầu Nhân Bảo bị quân ta bắt và giết chết. Đạo bộ binh đi sau khiếp sợ, quay đầu chạy về nước. Đạo thủy quân của giặc vào sông Bạch Đằng bị quân ta đánh bật ra, tan vỡ gần hết. Tướng thủy quân của giặc phải đem tàn quân chạy về Quảng Châu. Đạo thủy quân thứ hai của Tống bị quân ta đánh cho đại bại ở Tây Kết; quân sĩ “chết đến quá nửa, thây chất đầy đồng" (Đại Việt sử ký toàn thư). Hai tướng giặc là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị quân ta bắt sống. Với trận Tây Kết, cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất kết thúc. Quân ta đại thắng. Các tướng Tống chạy về nước đều bị vua Tống hành tội và giết chết. Chỉ có một tướng thoát tội xử tử, nhưng bị giáng chức.

        Cuộc chiến tranh xâm lược bị thất bại rất lớn là một đòn thấm thía cho nhà Tống, khiến gần 100 năm sau, nhà Tống nhiều lần muốn xâm lược nước ta mà không dám tính đến việc đem quân sang đánh. Không những thế, nhà Tống còn phải cố nén chịu đựng, nhượng bộ trước thái độ ngoại giao cứng rắn của Lê Hoàn và e dè cả trong quan hệ đối ngoại với con Lê Hoàn là Lê Long Đĩnh.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #9 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2016, 11:30:17 pm »


        II- NGOẠI GIAO CỦA NGƯỜI "VÁC NÚI, LẬT BIỂN"

        Người "vác núi lật biển" (phụ sơn đảo hải - Tống sử) là danh hiệu người Tống dùng để chỉ Lê Hoàn từ sau khi họ thua về quân sự. Về ngoại giao, Lê Hoàn cũng rất khôn khéo và cứng rắn, nên người Tống càng e ngại, dè dặt. Họ nhìn nhận Lê Hoàn như một nhân vật thật sự kiên cường, dũng mãnh, không biết sợ là gì, có thể làm những việc kinh thiên động địa. Đúng là Lê Hoàn giỏi về nhiều mặt: giỏi quân sự, giỏi nội trị, mà ngoại giao cũng rất giỏi.

        Riêng về ngoại giao, trong quan hệ với nhà Tống, Lê Hoàn thực hiện một chính sách vừa mềm dẻo vừa cứng rắn; mềm dẻo để giữ vững hòa hảo giữa hai nước, nhưng cứng rắn để hạn chế những thái độ hống hách, nước lớn của nhà Tống.

        Sau khi đánh thắng quân Tống, Lê Hoàn chủ động cho sứ sang Tống. Trong thời gian từ năm 982 đến 985, sứ thần hai nước, ta và Tống thường qua lại, nhưng Lê Hoàn không đả động gì đến việc trả tù binh cho Tống. Mãi tới năm 986, tức 5 năm sau khi chiến tranh kết thúc, Lê Hoàn mới chấp nhận giải quyết vấn đề tù binh và báo cho Tống biết.

        Cuối năm 986, vua Tống cho hai quan văn là Lý Nhược Chuyết và Lý Giác sang ta để nhận tù binh và mang sắc vua Tống phong Lê Hoàn chức "Tiết độ sứ”. Sắc phong này chỉ có ý nghĩa là nhà Tống phải chính thức thừa nhận Lê Hoàn là người cầm quyền trị nước của ta và chịu từ bỏ mưu đồ xâm lược nước ta. Trên thực tế, Lê Hoàn vẫn là hoàng đế của một nước độc lập, không phải tiết độ sứ của một địa phương nào của Tống.

        Lê Hoàn trao trả cho Tống những binh sĩ và hai tướng Tống bị bắt tại trận là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân.

        Năm sau (987), vua Tống lại cho Lý Giác sang sứ nước ta, sứ không ghi rõ là sang về việc gì. Lý Giác là một văn thần, học vấn rộng, thơ văn giỏi. Lần này, muốn để cho sứ Tống thấy nước ta là một nước thi thư, có văn hiến, có nhiều nhân tài, nhiều trí thức, nên Lê Hoàn cử một nhà sư là Đỗ Thuận tham gia tiếp sứ. Thời Ngô, Đinh, Lê, Lý, các nhà sư là tầng lớp có học thức nhiều hơn cả. Sư Đỗ Thuận giả làm một người "nhà đò" chở thuyền đi theo đoàn thuyền lên đón sứ Tống tại chùa Sách, ở hạ lưu sông Thương (có sách nói là sứ nhà Tống vào cửa biển Ngãi Am (Nam Định)). Đoàn sứ nhà Tống đi đường bộ từ biên giới tới chùa Sách thì xuống thuyền đi đường thủy vào kinh thành Hoa Lư (lúc ấy chưa đặt kinh đô tại Thăng Long).

        Đoàn đón sứ của ta bố trí cho Lý Giác (trưởng đoàn sứ nhà Tống) đi trên chiếc thuyền có nhà sư Đỗ Thuận mang danh chủ thuyền, cùng một vài quan lại của ta tham dự vào việc thù tiếp Lý Giác trên dọc đường đi.

        Có một buổi "nhà đò" Đỗ Thuận cầm chèo đưa thuyền đi, sứ Tống Lý Giác đứng ở mạn thuyền, ngắm cảnh trời mây, sông nước, nhìn thấy hai con ngỗng bơi lội dưới sông liền ngâm hai câu thơ:

                                  Nga nga lưỡng nga nga
                                  Ngưỡng diện hướng thiên nha.

        Lái đò Đỗ Thuận ngâm tiếp theo ngay:

                                  Bạch mao phô lục thủy
                                  Hồng trạo bãi thanh ba.


        Bốn câu của hai người hợp thành một bài thơ hay. Sứ Tống Lý Giác rất khâm phục. Không phải chỉ khâm phục vì thấy một người lái thuyền biết làm thơ, họa thơ, ứng đối nhanh, mà còn khâm phục vì thấy mình ngâm hai câu có sẵn trong một bài thơ tứ tuyệt của một nhà thơ nổi tiếng thời Đường là Lạc Tân Vương và thay đổi một vài chữ cho hợp với cảnh vật lúc ấy, vậy mà người lái thuyền Đại Việt ngâm tiếp ngay hai câu, lại chính cũng là hai câu cuối bài thơ của Lạc Tân Vương, và cũng thay đổi vài chữ cho thích hợp.

        Bài thơ của Lạc Tân Vương là:

                                  Nga, nga, nga
                                  Khúc hạng hướng thiên ca
                                  Bạch mao phù lục thủy
                                  Hồng chúy bát thanh ba


        Dịch:

                                  (Ngỗng, ngỗng, ngỗng
                                  Nghếch cổ lên trời kêu
                                  Lông trắng phô nước biếc
                                  Chân hồng quẫy sóng xanh)


        Bốn câu thơ của Lý Giác và Đỗ Thuận hợp lại là:

                                  Nga nga lưỡng nga nga
                                  Ngường diện hướng thiên nha
                                  Bạch mao phô lục thủy
                                  Hồng trạo bãi thanh ba


        Dịch:

                                  (Ngỗng ngỗng, hai con ngỗng .
                                  Ngửa mặt nhìn chân trời
                                  Nước xanh phô lông trắng
                                  Chèo hồng đẩy sóng xanh).

Logged

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM