Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:17:40 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn  (Đọc 37476 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #70 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2016, 05:18:43 pm »


Bài cáo bình Ngô làm sống lại những ngày gian khổ trong giai đoạn đầu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Giai đoạn này dài hơn sáu nám. Sáu năm trên mười năm để chuyển yếu thành mạnh, chuyển bại thành thắng. Gian khổ ban đầu càng nhiều thì vinh quang của thắng lợi lúc sau càng lớn. Đọc bài cáo, chúng ta kính phục các vị anh hùng Lam Sơn khi diệt địch với thế chẻ tre, càng kính phục họ khi vượt qua gian khổ buổi đầu với một lòng tin tưởng vững chắc:

      Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
      Chính lúc quân thù đương mạnh.
      Lại ngặt vì:
      Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
      Nhân tài như lá mùa thu.
      Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
      Nơi màn tướng hiếm người bàn bạc.


Nhà Hồ kháng chiến với một quân đội khá hùng hậu, Nhà Hậu Trần dấy nghĩa với số quân sẵn có ở các tỉnh phía Nam. Còn Lam Sơn nổi dậy thì từ không đến có. Lúc ấy (1418) quân Minh đang ở trong thế ổn định dù là tạm thời; thế địch hăng, thế ta cô; sức địch rất mạnh, sức ta yếu quá. Xây dựng lực lượng, khó biết bao nhiêu! Về lịch sử từ 1418 đến 1424, Bài cáo bình Ngô chỉ nhắc lại có hai sự kiện tiêu biểu, Linh sơn và Khôi huyện, nhưng Linh sơn và Khôi huyện vừa đủ gợi lại tất cả những nỗi gian truân khi ấy, vừa nêu cao tinh thần lạc quan tin tưởng ngay trong lúc gian truân tột bậc ấy:

      Khi Linh sơn lương cạn mấy tuần,
      Khi Khôi huyện quân không một lữ.
      Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
      Ta gắng chí khắc phục gian nan.


Bài Phú núi Chí Linh nói càng rõ tình hình của chiến sĩ và của Lê Lợi ở núi Chí Linh:

      Vợ con lưu ly, quân sĩ tan tác,
      Tuy khốn đốn mà lại hay vì có điều sắp vẻ vang.
      Mang giáp trụ để che thân, lấy rau củ làm lương,
      Chí hăm hở lo toan, lòng cầm tức chẳng hề quên.


Lạc quan ngay trong cảnh đen tối, tin tưởng ngay trong khi thất bại liên tiếp, đó mới đúng là chủ nghĩa lạc quan chân chính nhất. Ba lần xuất quân từ Lam Sơn, đánh địch ở miền thượng du; ba lần ta phải rút về núi Chí Linh hiểm trở nhưng dân ít và lương càng ít, bị kẻ địch truy kích, bao vây, dụ hàng nữa. Về đây để "đợi thời chờ dịp, giấu lưỡi sắc, che mũi nhọn". Về đây để khôi phục lực lượng, chuẩn bị đợt xuất quân khác:

      Rồi thu tập tàn quân, nuôi vỗ ân cần,
      Trong rèn chiến cụ, ngoài giả hòa thân.

                                         (Chí Linh sơn phú)

Từ năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn xét thấy vùng thượng du xứ Thanh không đủ rộng về đất, không đủ đông về dân, lại có thể bị quân Minh tấn công hai mặt từ Đông Đô và Tây Đô, nên bất ngờ chuyển hướng hoạt động, mở thượng đạo, vào xứ Nghệ đánh đâu thắng đó, trong một thời gian ngắn mà giải phóng được một vùng rộng lớn nhiều của nhiều dân từ xứ Thanh, xứ Nghệ vào tới đèo Hải Vân, chỉ trừ một số thành như Tây Đô, Nghệ An bị ta bao vây càng ngày càng chặt. Thế của nghĩa quân Lam Sơn chuyển sang giai đoạn tiến công liên tiếp:

      Trần Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
      Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
      Sĩ khí đã hăng,
      Quân thanh càng mạnh.
      Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía;
      Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân.
      Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh đã về chủ cũ.


Nghĩa binh các nơi hưởng ứng, như trăm dòng suối nhỏ đổ nước vào sông to. Nhân dân khắp chốn nhiệt liệt tung hô, góp người, góp của:

      Gạo nước đón rước,
      Người theo đầy đường.
      Hào kiệt nghiến răng vì căm giận,
      Phụ lão nức nở thấy ngày nay.
      Tiếng quân ta càng vang dậy,
      Giặc mỏi mệt càng chạy dài.

                                       (Chí Linh sơn phú)

Quang cảnh chiến đấu và giải phóng, quân dân hợp lực thật là náo nhiệt, cảm động. Tính nhân dân của cuộc chiến tranh giải phóng được ghi lại rõ ràng. Tinh thần quân Minh bắt đầu tan rã.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #71 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2016, 05:20:44 pm »


*
* *

Không để mất thì giờ, nghĩa quân Lam Sơn tiến thẳng ra Bắc, đánh những trận tiêu diệt chiến lớn ở Ninh Kiều, Tốt Động, Chúc Động ngay ở phía tây thành Đông Quan:

      Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
      Tốt Động thây phơi đầy nội, thối để nghìn thu.


Ở đây, ta giết một số địch lớn bằng hai số quân của ta. Đại quân của Vương Thông ở Đông Quan có mười vạn thì mất đứt phần nửa. Thành Đông Quan bốn mặt bị quân ta bao vây chặt:

      Trần Hiệp, Lý Lượng như dưới hố cọp sa,
      Vương Thông, Mã Kỳ như vạc sôi cá nhảy.

                                         (Chí Linh sơn phú)

Thành Đông Quan bị vây thì vua Minh (lúc bấy giờ là Tuyên Đức) tất phải phát binh cứu viện. Nếu ta diệt được viện binh này thì thành Đông Quan tất phải đầu hàng, không đầu hàng thì lực lượng địch có bao nhiêu cũng sẽ bị nghiền nát. Liễu Thăng đưa mười vạn quân từ Vân Nam sang. Ta nhằm vào cánh Liễu Thăng mà diệt trước bằng những trận tiến công liên tiếp, mạnh mẽ, trận sau lớn hơn trận trước. Bài cáo bình Ngô kể lại mấy trận đánh dồn dập trong tháng Chín năm Đinh Mùi:

      Ngày mười tám, Liễu Thăng bị đánh, đồng Chi Lăng cùng kế,
      Ngày hai mươi, Liễu Thăng đại bại, núi Mã Yên phơi thây,
      Ngày hai mươi lăm, Lương Minh trận hãm phải bỏ mình,
      Ngày hai mươi tám, Lý Khánh kế cùng phải thắt cổ.


Người đọc hơn năm trăm năm sau vẫn còn sống lai được cái nhịp tiến công liên tục, chiến thắng liên hồi của nghĩa quân Lam Sơn, địch không kịp đối phó, không kịp thở. Mươi vạn quân Liễu Thăng trong mười ngày đã mất hết bốn vạn. Lúc này, số nghĩa quân được tập trung đông đúc, khí thế ngất trời, chuẩn bị trận đánh lớn cuối cùng nhằm tiêu diệt nốt sáu vạn viện binh còn lại:

      Gươm mài đá, đá núi cũng mòn;
      Voi uống nước, nước sông phải cạn.


Trận đánh lớn cuối cùng, trận Xương Giang hồi trung tuần tháng Mười âm lịch được tả lại một cách đặc biệt hào hùng:

      Đánh một trận sạch không kình ngạc,
      Đánh hai trận tan tác chim muông.
      Cơn gió to trút sạch lá khô,
      Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
      Đô đốc Thôi Tụ quỳ gối dâng tờ tạ tội,
      Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để nộp mình.
      Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,
      Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước.
      Gió mây vì thế mà biến sắc,
      Trời trăng ảm đạm đến lu mời


Sáu vạn quân của đạo viện binh từ Quảng Tây sang, chỉ chạy trốn được có một tên! Thế là mười vạn người của Liễu Thăng bị tiêu diệt hoàn toàn kể cả chủ tướng. Ta thắng lớn ở Chi Lăng, thì:

      ... Quân Vân Nam hồ đồ sợ bóng mà vỡ mật.

Được tin trận đánh Xương Giang khủng khiếp thì

      ... Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.

Cả hai đạo cứu binh của vua Tuyên Đức nhà Minh đông mười lăm vạn vào nước Đại Việt không quá một tháng đã tan tành! Quân Minh bị vây chặt ở Đông Đô, Cổ Lộng, Tây Đô như cá trên thớt, hoàn toàn tuyệt vọng, sống sót hay chết sạch là tùy ở nghĩa quân Lam Sơn dày đức hiếu sinh hay lấy oán báo oán.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #72 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2016, 05:22:00 pm »


Sáu là, một đường lối độc đáo kết thúc chiến tranh.

Có thể hình dung được hy vọng của Vương Thông và bè lũ ở Đông Đô như thế nào khi nghe tin viện quân của Liễu Thăng, Mộc Thạnh qua biên giới. Càng dễ dàng suy ra sự kinh hoàng tột độ của chúng khi phái viên của Lê Lợi giải Hoàng Phúc, Thôi Tụ, với ấn tín hổ phù của Liễu Thăng, cho Vương Thông mắt thấy tai nghe ở dưới tường thành Đông Đô.

Sức mạnh so sánh giữa ta và địch bây giờ thay đổi hẳn rồi. Không còn phải "lấy ít địch nhiều" nữa, không còn phải "lấy yếu thắng mạnh" nữa. Quân ta đông hơn ba mươi vạn, tinh nhuệ và quyết tâm cao. Quân địch ở Đông Đô, Cổ Lộng, Tây Đô chỉ non già năm vạn, tinh thần xuống tới mức thấp nhất, người ngựa đều đói, chờ chết trong vòng vây siết chặt. Với sức mạnh so sánh đó, việc kết thúc chiến tranh bằng cách tiêu diệt hoàn toàn quân địch bị vây, đối với ta, khó gì? Giết sạch quân Minh là ý muốn thiết tha và hữu lý của tất cả binh tướng từ cả chục năm nay thề quyết lấy máu kẻ thù mà rửa nhục non sông; thời cơ nay đã tới, đã ở trong tay ta rồi. Nhưng liệu đó có phải là thượng sách hay không? Các nhà lãnh đạo khởi nghĩa Lam Sơn cho rằng dùng vũ lực nhổ ba thành còn lại trơ trọi dễ thôi; trước mắt không phải lo sợ một đạo cứu binh mới nữa của triều đình nhà Minh, triều đình nhà Minh đang bị đe dọa từ biên giới phía bắc và cả "từ trong tường vách"; nhân dân nhiều nơi khởi nghĩa đàn áp chưa xong; tiền hết, lương cạn, lính không sẵn, làm thế nào có đủ cứu binh để gửi sang? Mà cho dù gửi thêm mười lăm vạn, hai mươi vạn cứu binh, chắc hẳn cứu binh đó không tránh khỏi số phận bi thảm của Liễu Thăng, Mộc Thạnh. Ta toàn thắng, địch toàn bại là chắc chắn quá rồi. Nhưng Nguyễn Trãi, Lê Lợi nhìn xa hàng chục, hàng trăm năm sau. Cho nên Nguyễn Trãi bàn với Lê Lợi rằng: tình hình lũ giặc bấy giờ, mình ăn gan uống máu chúng nó để trả mối thâm thù, không phải là việc khó, nhưng như vậy sẽ kết oán liên miên với triều Minh, không sớm thì muộn, để giữ thể diện nước lớn, triều Minh lại sẽ động binh nữa, chúng sang thì ta diệt, nhưng về phần ta, ta ắt phải mệt nhọc thêm, hy sinh thêm, cái họa binh đao đến bao giờ mới hết được? Chi bằng ta thừa lúc địch lâm vào thế cùng để ta cùng họ hòa hiếu, chấm dứt chiến tranh, cứu sinh linh hai nước, ta thì vẹn đất và có hòa bình, còn họ thì không đến nỗi quá mất mặt.

Như vậy, dựa bên lý do chính trị có lý do nhân đạo, dựa bên sự tính toán thiệt hơn về lâu về dài có đức lớn hiếu sinh vốn sẵn của dân tộc.

Thế là cách hay nhất dẫn tới kết thúc chiến tranh một cách tốt đẹp là dụ hàng rồi tha hàng binh về nước, họ về nước với tấm lòng cảm phục ta và với ý chí xâm lược tuyệt đối bị tan vỡ:

      Giặc khốn ở các thành, theo nhau giải giáp để ra hàng.
      Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
      Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.


Và:
      Chúng đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng,
      Ta lấy toàn quân là hơn để nhân dân nghỉ sức.
      Chẳng những mưu kế kỳ diệu,
      Cũng là chưa thấy xưa nay.


Mưu kế của Nguyễn Trãi rất sâu. Thực hiện mưu kế ấy phải công phu, khéo léo. Đối với Vương Thông, nống ra thì bị đánh bật trở vào; chờ viện nữa thì biết chừng nào có? Và liệu nghĩa quân Lam Sơn để cho sống sót còn được bao lâu để mà chờ viện? Nhưng nếu nghe theo thư dụ hàng của Nguyễn Trãi, bãi binh khi triều đình chưa ra lệnh bãi binh, thì triều đình có để cho toàn tính mạng hay không? Vương Thông hoang mang tột độ. Nguyễn Trãi phải giải thích cho Vương Thông bằng binh thư của Tôn Tử rằng tướng ở biên cương có quyền quyết định, thậm chí có quyền làm trái lệnh vua. Nguyễn Trãi cũng giải thích cho Vương Thông rằng rút quân khỏi Giao Chỉ không phải là trao đất triều đình cho người khác, bởi vì Giao Chỉ chưa hề thuộc triều đình Bắc quốc bao giờ. Vương Thông không chối cãi được lý lẽ đanh thép, hợp lý và hợp tình của Nguyễn Trãi. Y gửi mật thư về triều, nhận xét rằng nếu muốn chiếm Giao Chỉ một lần nữa thì phải gửi mấy chục vạn quân với hàng chục tướng cỡ Trương Phụ mà cho dù chiếm được, rồi cũng không thể giữ được. Tinh thần của bản thân Vương Thông cũng tan vỡ hoàn toàn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #73 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2016, 05:23:12 pm »


Lễ "hội thề" ở bên thành Đông Quan là một cách ta để cho Vương Thông công khai tuyên bố đầu hàng, xin an toàn rút quân về nước. Hãy nghe lời thề được viết ra và đọc lên thì đủ rõ tinh thần của Vương Thông tan rã đến mực nào và cuộc đầu hàng diễn ra éo le và nhục nhã như thế nào: "Nếu không có lòng thực, lại tự trái lời thề không làm theo lời giao ước lập tức đem quân về nước mà còn kéo dài năm tháng để đợi viện binh, cùng là ngày về đến triều, không theo sự lý trong bản tâu mà bàn khác đi, hoặc cho quan quân qua đâu cướp bóc nhân dân, thì Trời Đất cùng Danh Sơn, Đại Xuyên và Thần Kỳ các xứ tất đem bọn quan Tổng binh Thành Sơn hầu là Vương Thông từ bản thân cho đến cả nhà thân thích đều làm cho chết hết, đến cả quan quân cũng không một người nào được về đến nhà".

Đến đây thì rõ ràng kẻ địch thật lòng chịu hạ khí giới.

Lê Lợi ra lệnh mở vây.

Số quân Minh, quân bị vây và quân bị bắt sống, trong ngoài mười vạn, chia ra hai đường thủy bộ, không cờ không trống kéo nhau về nước.

      Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
                                                                                ra đến bể mà còn hồn bay phách lạc;
      Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Ánh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
                                                                                về đến nước mà vẫn ngực đập chân run.


Nếu có người hoài nghi:

- Làm gì đến đỗi về tới nước rồi mà còn "ngực đập chân run". Làm gì đến đỗi ra biển khơi rồi mà còn "hồn bay phách lạc"? Hay là viết như vậy để nói lên một cách bóng bẩy rằng chúng đã khiếp sợ?

Thì ta đáp:

- Có lắm chớ! Chẳng nhớ rằng đã từng có sứ thần nhà Nguyên tại Thăng Long, nghe tiếng trống đồng mà sợ đến bạc tóc đó sao? Chính tay họ viết ra hình tượng ấy, nào phải nhà văn hay chính khách của ta bày vẽ ra đâu!

Tâm lý chiến bại của quân tướng nhà Minh là như vậy đó: ra khỏi biên giới Đại Việt rồi mà vẫn "hồn bay phách lạc", "ngực đập chân run"! Bài cáo bình Ngô không nói rằng đó là tâm lý của quân lính Bắc phương; lịch sử ta chép: họ rất mừng và khi đi qua dinh Bồ Đề, họ không quên tạ ơn Bình Định vương Lê Lợi.

Chiến tranh dài 20 năm kết thúc rất đẹp bằng hiệu quả tổng hợp của quân sự, chính trị, ngoại giao, bằng sức mạnh của vũ khí và tài ba, ý thức của con người yêu nước, bằng chính nghĩa, đạo lý, lòng nhân và ý chí hòa bình của dân tộc ta. Bình Ngô đại cáo cuối cùng nêu cao một lý tưởng vĩ đại nối liền dân tộc ta với toàn thể loài người; lý tưởng độc lập của các dân tộc trong một cảnh tượng hòa bình trường cửu:

      Xã tắc từ đây vững bền,
      Giang sơn từ đây đổi mới.
      Càn khôn bĩ mà lại thái,
      Nhật nguyệt mờ mà lại trong.
      Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
      Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #74 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2016, 10:08:43 pm »


Bảy là, "Bài cáo bình Ngô” là bản "Thiên cổ hùng văn":

Bình Ngô đại cáo được các thế hệ sĩ phu đồng thanh đánh giá là "thiên cổ hùng văn". Ngày nay, chúng ta cũng nhận định như vậy.

Là hùng văn, bởi vì chỉ cần trong mấy trang ngắn gọn, bài cáo trình bày đầy đủ và có hệ thống cả lịch sử cuộc chiến đấu gay go và chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta trong suốt mười năm khởi nghĩa Lam Sơn, gây được ở mỗi người chúng ta một phấn khởi mãnh liệt, một tự hào chính đáng mà thời gian dài mấy thế kỷ không hề làm giảm sút. Phẩm chất con người và dân tộc được Nguyễn Trãi khám phá và đề cao trong Bài cáo bình Ngô, khiến mỗi người chúng ta đọc hay nghe áng văn bất hủ này, tự nhiên như phát hiện ra mình và tin tưởng hơn ở chính mình.

Là hùng văn, bởi vì, trong cái thể tổng kết chiến tranh cứu nước, Bài cáo bình Ngô chứa đựng, cô đúc, truyền đạt những tư tưởng quân sự, chính trị và triết lý vĩ đại của dân tộc ta trong lần chiến tranh giải phóng này, những tư tưởng đó được hình thành từ trước, được phát triển khá hoàn chỉnh trong mười năm đánh Minh, mãi mãi có tác dụng hướng dẫn sự nghiệp bảo vệ và xây dựng nước nhà, mãi mãi có khả năng làm phấn khởi nhân dân, làm cho mỗi người dân thường đều có thể trở thành một vị anh hùng.

Trên những phương diện cơ bản ấy, từ trước đến cận đại, Bài cáo bình Ngô chiếm vị trí độc nhất vô nhị trong văn chương Việt Nam.

Ý cực kỳ hay thì đã rõ, quá rõ. Còn lời hay cụ thể là thế nào? Chỉ xin gợi ý một ít điểm tâm đắc sau đây:

Bài cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi dùng từ rất sắc sảo thâm thúy, thật chính xác, tuy dễ hiểu mà lắm khi khó diễn dịch ra quốc ngữ mặc dù ngày nay ta có một khối lượng từ Hán Việt khá lớn.

      Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập;
      Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.


Hoặc:
      Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước;
      Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương.


Đó là hai bản dịch có thể xem như sát nhất lâu nay, dịch câu:
      Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc;
      Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.


"Các đế nhất phương" mà dịch ra là "mỗi bên hùng cứ một phương" hay "đều chủ một phương", rõ ràng gần sát mà chưa sát, chưa lột hết tinh thần của "các đế nhất phương"; chữ đế nhiều ý nghĩa, giàu tính chiến đấu và gợi cảm xúc lịch sử nhiều hơn chữ "chủ" và "hùng cứ". Chữ đế trong "các đế nhất phương" của Bình Ngô đại cáo dắt ta trở về với Lý Nam Đế, với Đinh Tiên Hoàng, với "Nam quốc sơn hà Nam đế cư". Đối với triều đình phong kiến phương Bắc họ có đế ở xứ họ, ta có đế ở xứ ta; có Như Nguyệt, Bạch Đằng, Hàm Tử, Xương Giang làm chứng cho cái quyển "các đế nhất phương" đó. Chữ đế trong "các đế nhất phương" còn gợi lên một ý niệm triết lý đã từng ăn sâu vào tư tưởng chẳng những của sĩ phu mà luôn của nhân dân nữa: nghĩa là chỉ có chịu mệnh trực tiếp của trời; trên đầu không ai; không một ai được quyền sai khiến dù ai đó cũng là đế ở một phương nào to lớn đến đâu đi nữa. Trong triết lý của Nguyễn Trãi và của nhiều sĩ phu tiến bộ, trời là dân, dân muốn thì trời theo.

Như vậy chữ "hùng cứ", chữ "chủ" ở các bản dịch không làm rung động dây tình cảm dân tộc và ý tự hào dân tộc đến mức thiêng liêng và không gợi được tư duy triết học sâu sắc như chữ đế của nguyên văn Bình Ngô đại cáo.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #75 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2016, 10:10:05 pm »


Trong Bài cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi khéo sáng tạo ra những hình tượng gợi ý, gợi cảm, những hình tượng đặc sắc Việt Nam, một khi ta đọc rồi thì nhớ mãi: như để kết thúc đoạn văn lên án bóc lột của thực dân Minh, Nguyễn Trãi viết:

      Đan hết trúc Nam Sơn không ghi đầy tộc ác;
      Tát cạn nước Đông Hải không rửa sạch tanh nhơ.


Hay là khi mô tả khí thế quân và dân ta chuẩn bị trận đánh Xương Giang có tính chất quyết định cho toàn cuộc chiến tranh:

      Gươm mài đá, đá núi cũng mòn.
      Voi uống nước, nước sông phải cạn,


Thường thường nhà Nho hay lấy lại những hình tượng quen thuộc trong lịch sử và văn chương Bắc quốc, Nguyễn Trãi không từ chối cái thói quen ấy, nhưng Nguyễn Trãi đã sáng tạo và sáng tạo rất thành công nhiều hình tượng mang màu sắc dân tộc: "chẻ trúc Nam Sơn", "voi uống nước", "ổ kiến khi đê vỡ"...

Ở mức cao hơn nữa, người đọc có thể chú ý đến những hình tượng có đặc điểm triết lý rất là Nguyễn Trãi như:

      Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,
      Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước.
      Gió mây vì thế mà biến sắc,
      Trời trăng ảm đạm đến lu mờ.


Hoặc:
      Lãnh Câu nước chảy thắm dòng, nước sông ấm ức,
      Đan Xá thây chồng thành núi, cỏ nội thẫm hồng.


Những hình tượng "gió mây biến sắc", "trời trăng ảm đạm đến lu mờ", "nước sông ấm ức" sở dĩ là mới mẻ, là Việt Nam, là Nguyễn Trãi, tất nhiên không phải ở những chữ biến sắc, ảm đạm, lu mờ hay ấm ức, những chữ ấy có gì lạ đâu, nhưng mà ở đây hình tượng nói lên cái thâm ý của tác giả là cuộc chiến thắng của quân ta oanh liệt đến thế, làm thay đổi cục diện đến thế, tuy vậy lòng người chiến thắng được trời đất núi sông thông cảm là có vui gì với cảnh "máu trôi đỏ nước", "thây chồng thành núi" đâu, hơn ai hết, người chiến thắng ở Lạng Sơn, Lạng Giang, Lãnh Câu, Đan Xá, muốn cho "càn khôn bĩ rồi lại thái”, "nhật nguyệt mờ rồi lại trong", cho các dân tộc lớn nhỏ đều bình đẳng với nhau và được hưởng "thái bình muôn thuở". Hình tượng rất Việt Nam, rất Nguyễn Trãi là ở chỗ đó, ở tầm cao của đạo lý, của triết lý.

Nói về địch, Nguyễn Trãi dùng những từ rất nhọn bén nào là: "miệng răng nhờn béo" để nói bọn quan đô hộ hút máu mủ sinh linh; nào là "nhãi ranh" để chỉ vua nhà Minh; nào là "vẫy đuôi" để nói cái hèn của tướng giặc sợ chết.

Thôi Tụ thì "quỳ gối", Hoàng Phúc thì "nộp mình”, Phương Chính "nín thở", Trần Trí "bở vía". Ta căm thù địch, ta càng khinh bỉ địch. Văn Nguyễn Trãi gợi lên những cảm xúc ấy mạnh mẽ.

Nhịp điệu trong Bài cáo bình Ngô thật là đặc sắc. Bản văn lịch sử hay là bản nhạc về một cuộc chiến tranh giải phóng oai hùng? Bắt đầu vào thì văn chương trang nghiêm dắt ta lên bậc cao vọi của những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Rồi, khi nghe lên án chế độ thực dân Minh, ta dường nghe vọng từ hơn 500 năm nỗi căm thù, giận dữ của ông cha. Bước vào buổi đầu của Lam Sơn khởi nghĩa thì sâu thẳm trong sự băn khoăn vì lẽ ta yếu địch mạnh. Chuyển sang giai đoạn tiến công thì dồn dập, nghe như tiếng sắt thép chạm nhau, thấy như trời đất thông cảm với chiến sĩ. Cuối cùng thì khoan hòa, cởi mở, như được thở không khí thanh bình. Thể văn tứ lục mà biến hóa không gò bó. Toàn bộ tác phẩm được vận dụng rất lôgích, nhịp điệu văn chương phù hợp với nội dung lịch sử của mỗi giai đoạn cụ thể. Nếu một nhạc sĩ hay một tập thể nhạc sĩ ngày nay có đủ cảm hứng để viết lên một bản đại hợp xướng bình Ngô thì những bản ấy đã có sẵn một phần chất liệu trong áng văn tuyệt diệu của Nguyễn Trãi.

Nhìn bao trùm, dễ thấy Bài cáo bình Ngô vừa là áng văn chương chính luận mà vừa là áng văn chương trữ tình. Chẳng vui sao khi thấy địch vẫy đuôi cầu sống, ra về an toàn mà hồn bay phách lạc, ngực đập chân run? Chẳng tức giận sao khi đọc bản án chế độ thực dân Minh? Chẳng thương sao khi nghĩ đến lúc Lê Lợi lương cạn mấy tuần, quân không một lữ, vợ con tan tác? Chẳng tự hào và tràn đầy phấn khởi sao khi dưới mắt ta diễn ra cảnh tượng mười vạn quân Minh sống sót được ta tha về và được cấp cả ngựa lẫn thuyền?
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #76 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2016, 10:11:23 pm »


Tám là, "Bài cáo bình Ngô” là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của đất nước ta.

Gần đây, một số nhà sử học trân trọng gọi Bài cáo bình Ngô là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai, hàm ý rằng bài Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt được xem là bản Tuyên ngôn độc lập thứ nhất; Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Ba Đình, Ha Nội, ngày 2 tháng 9 năm 1945 là bản cuối cùng. Nhà sử học cũng muốn nói: Nam quốc sơn hàBài cáo bình Ngô đều có giá trị lịch sử như là những bản "Tuyên ngôn độc lập", và cả ba bản nối tiếp nhau để khẳng định quyền của dân tộc ta sống độc lập, tự do, và để cảnh cáo cho bất kỳ quân xâm lược nào rằng, hễ chúng liều lĩnh xâm phạm quyền thiêng liêng ấy thì chúng không thể nào tránh khỏi thất bại thảm hại.

Lưu vực sông Cầu, không rõ từ lúc nào, có nhiều ngôi đình làng thờ Trương Hống, Trương Hát, hai danh tướng của Lý Nam Đế và Triệu Việt Vương, từng cầm quân đánh nhà Lương (Trung Quốc) hồi thế kỷ VI. Nhân dân nhớ công đức, tôn thần cả hai anh em họ Trương. Tương truyền rằng hai vị thần anh hùng này rất linh ứng, hằng giúp dân. Năm 1076, trên mặt trận sông Cầu, bờ Nam thì quân ta, bờ Bắc thì quân Tống, cuộc chiến tranh diễn biến ác liệt. Khi ấy, đêm đêm, từ các ngôi đình thờ Trương Hống, Trương Hát, vọng ra tiếng ngâm một bài thơ:

      Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
      Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
      Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
      Nhữ đang hành khan thủ bại hư.


Nghĩa là:
      Sông núi nước Nam vua Nam ở
      Rành rành định phận tại sách trời
      Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
      Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Quân ta nghe bài thơ, tinh thần phấn khởi. Quân Tống nghe bài thơ, tinh thần dao động, rã rời. Lý Thường Kiệt vừa tiến công địch, vừa thương lượng để quân Tống vì thấy không thể nào đạt mục đích mà phải rút về, ta có thể "không nhọc binh tướng, khỏi tốn xương máu mà bảo tồn được tôn miếu". Tháng 3 năm 1077, quân Tống rút chạy, giày đạp lên nhau, mong thoát chết. Cuộc kháng Tống thắng lợi. Triều đình Tống bị buộc phải công nhận nước Đại Việt là vương quốc độc lập. Trong cuộc chiến thắng này, bài Nam quốc sơn hà thực sự đã có một tác dụng động viên quan trọng đến mức có thể xem đó là áng văn yêu nước lớn nhất của thời Lý. Bài Nam quốc sơn hà biểu hiện tinh thần chống xâm lăng của dân tộc ta khi ấy. Nam quốc sơn hà là lời khẳng định quyền độc lập thiêng liêng của dân tộc ta, cũng là lời cảnh cáo quân cướp nước bất kỳ chúng lớn mạnh, tàn bạo như thế nào. "Sông núi nước Nam, vua Nam ở" tức là đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam làm chủ chớ không thể ai khác được. "Định phận tại sách trời" tức là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, ai xâm phạm thì tất phải bị tiêu diệt, "Thần Trương Hống, Trương Hát ngâm thơ" tức là sức mạnh của dân tộc bắt nguồn từ sức mạnh truyền thống nghìn năm quyết tâm "thà hy sinh tất cả chớ không chịu làm nô lệ". Bóc đi cái vỏ thần bí thích ứng với tâm hồn nhân dân thời ấy, thì còn lại cái hạt nhân chủ nghĩa yêu nước vốn là tư tưởng chủ yếu của người Việt Nam từ thượng cổ.

350 năm sau bài Nam quốc sơn hà là bài Bài cáo bình Ngô. Chữ "đế cư" trong Nam quốc sơn hà được tiếp nối bằng chữ "các đế" trong Bài cáo bình Ngô.

Bài cáo bình Ngô cũng là lời khẳng định quyền độc lập của dân tộc ta; lần này, quyền ấy không phải được ghi ở sách trời mà được cấu tạo bởi các điều kiện địa lý, lịch sử, phong tục, văn hóa tổng hợp lại, đặc biệt là được biểu hiện ở ý thức dân tộc, ở tự hào dân tộc, ở khả năng tự chủ tự cường mà bằng chứng là cuộc sống độc lập lâu dài và biết bao thành tích vang dội trên các chiến trường đánh Tống, diệt Nguyên, quét Minh. Lời cảnh cáo trong Nam quốc sơn hà thì vắn tắt, vắn tắt mà đanh thép; lời cảnh cáo trong Bài cáo bình Ngô là cả lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, là một chuỗi đại bại nhục nhã của vua tôi Bắc quốc. Nam quốc sơn hà ra đời dưới dạng một bài cổ động không chính thức; còn Bài cáo bình Ngô là tiếng nói trịnh trọng của vua nước ta, trực tiếp cho dân nước ta, gián tiếp cho triều đình Bắc quốc, cho nên, trên thực tế lịch sử, Bài cáo bình Ngô như mang đầy đủ nội dung, tính chất của một bản Tuyên ngôn độc lập, bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài Nam quốc sơn hà.

Hơn 500 năm sau Bình Ngô đại cáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Ba Đình, Hà Nội ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tiếp theo Lý Thường Kiệt và Nguyễn Trãi, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam và cảnh cáo thực dân chớ liều lĩnh xâm phạm quyền độc lập tự do ấy:

"Các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do".

"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và thật sự đã thành nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy".

Lịch sử kháng chiến dài 30 năm từ 1945 đến 1975 chứng tỏ rằng lời khẳng định, lời cảnh cáo trong Tuyên ngôn độc lập không phải chỉ là lời nói của một Chính phủ Lâm thời, đó chính là quyết tâm của cả một dân tộc.

Nam quốc sơn hà, Bài cáo bình Ngô, Tuyên ngôn độc lập là những giai đoạn phát triển của một lý tưởng:

"Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #77 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2016, 10:22:06 pm »


Phần thứ hai
PHỤ LỤC


NGUYỄN TRÃI
BÀI CÁO BÌNH NGÔ

Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt1 trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Vì vậy:
Lưu Cung2 tham công nên thất bại,
Triệu Tiết3 thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô4,
Sông Bạch Đằng5 giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
__________________________________
1. Điếu phạt: Do câu "điếu dân phạt tội", nghĩa là: thương xót nhân dân, trừng phạt kẻ có tội.
2. Lưu Cung: Vua Nam Hán, sai con là Hoằng Thao đem quân xâm lấn nước ta, bị Ngô Quyền đánh bại. Cung sau đổi tên là Nghiềm. Bản Hoàng Việt văn tuyển viết là Nghiễm.
3. Triệu Tiết: Tướng nhà Tống, đem quân sang đánh nước ta đời Lý, bị Lý Thường Kiệt đuổi chạy.
4, 5. Toa Đô, Ô Mã tức Ô Mã Nhi: hai tướng nhà Nguyên sang đánh nước ta đời Trần. Theo sử, Toa Đô bị thua trận ở Tây Kết (Hưng Yên) và bị giết, còn Ô Mã Nhi thì bị bắt ở sông Bạch Đằng năm 1288. Nguyên văn ở đây có lẽ in nhầm.
    Hàm Tử, Bạch Đằng: Bến Hàm Tử (Hưng Yên) là nơi Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô. Sông Bạch Đằng (Quảng Ninh) là nơi Ô Mã Nhi bị bắt sống.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #78 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2016, 10:30:54 pm »


Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ1 xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
                                         ngán thay cá mập thuồng luồng-
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
                                         khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả2, chốn chốn lưới chăng;
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng máu mỡ bấy no nê chưa chán;
Nay xây nhà, mai đắp đất,
                             chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những nỗi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc3 Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi,
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao4 suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế5 đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi6.
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.
_____________________________________
1. Con đỏ: Chỉ nhân dân.
2. Chim trả (sả), hươu đen: Hai thứ báu vật mà quan lại nhà Minh bắt dân ta cống nộp.
3. Trúc: Xưa chưa có giấy, chép sử trên thẻ trúc, đây nói tội ác nhiều vô cùng, ghi chép không hết.
4. Lược thao: Tam lược lục thao, hai sách dạy binh pháp.
5. Hưng phế: Nói việc các triều đại khi dựng lên, khi bị lật đổ.
6. Đồ hồi: Mưu tính việc khôi phục lại.
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Mười, 2016, 10:39:52 pm gửi bởi chuongxedap » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #79 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2016, 10:36:55 pm »


Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu.
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác1 hiếm người bàn bạc.
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông2;
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả3
Thế mà:
Trông người người càng vắng bóng,
                                  mịt mù như nhìn chốn bể khơi;
Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần thì giận hung đồ4 ngang dọc,
Phần thì lo quốc vận5 khó khăn.
Khi Linh sơn6 lương hết mấy tuần,
Khi Khôi huyện7 quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho đại nhậm,
Ta gắng chí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
                               dựng cần trúc ngọn cờ8 phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu9 ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh;
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
_____________________________________
1. Nơi duy ác: Mùng màn trong quân đội, nơi tướng chỉ huy ở bàn bạc việc quân.
2. Về đông: Do chữ "dục đông" trong nguyên văn, lấy lời của Lưu Bang khi bị Hạng Võ phong cho vào Tây Thục, Lưu Bang có ý bực tức nói: "Dư diệc dục đông nhĩ, an năng uất uất cửu cư thử hồ?" (Ta cũng muốn trở về đông, sao chịu bực tức mà ở mãi chốn này ư?). Nguyễn Trãi mượn lời này để nói Lê Lợi khởi nghĩa ở Thanh Hóa (Tây Đô) muốn tiến ra Đông Đô (Hà Nội).
3. Phía tả: Tín Lăng Quân nước Ngụy nghe tiếng Hầu Doanh là một người hiền sĩ, đem xe đến đón, mình ngồi phía hữu, để trống phía tả cho Hầu Doanh (bên tả là ngồi trên). Nghĩa bóng là tìm người hiền giúp việc.
4. Hung đồ: Chỉ quân giặc.
5. Quốc vận: Dịch chữ quốc bộ trong nguyên văn.
6. Linh sơn: Núi Chí Linh, thuộc huyện Lang Chánh, thượng du Thanh Hóa.
7. Khôi huyện: Cũng gọi là Khôi Sách, một địa điểm gần núi Chí Linh (Thanh Hóa).
8. Ngọn cờ: Do chữ "yết can vi kỳ" trong Hán thư (truyện Trần Thắng, Hạng Tịch): Lấy cần trúc làm cờ. Ý nói khởi binh vội vàng.
9. Chén rượu: Nguyên văn "đầu giao hưởng sĩ". Xưa có viên tướng giỏi, được người ta biếu một bình rượu, bèn dốc xuống dòng sông, đế ba quân cùng múc nước uống, tỏ ý chia ngọt sẻ bùi.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM