Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 11:31:33 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn  (Đọc 37686 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #30 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2016, 11:02:06 pm »


Ngay từ đầu trận đánh, quân địch đã hoàn toàn lâm vào thế bị động, đội hình rối loạn và hầu như không chống đỡ được. Các tướng giặc là chỉ huy Đào Sâm, Tiền Phụ, thiên hộ Triệu Trinh cùng hơn 1.000 quân địch bị giết chết tại trận. Đô chỉ huy Viên Lượng bị bắt sống. Tàn quân của địch vội vàng tháo chạy về thành Đông Quan.

Trận cầu Nhân Mục xảy ra ở ngay sát thành Đông Quan. Với chiến thắng đó, nghĩa quân không những đã tiêu diệt một phần sinh lực địch, phá tan âm mưu tiến công để giải vây của Trần Trí mà còn thừa thắng tiến lên uy hiếp trực tiếp mặt tây nam thành Đông Quan. Theo Minh sử, sau trận này, Lý Triện chia quân làm ba cánh tiến đánh đến sát cửa thành Đông Quan. Tuy nhiên với một lực lượng nhỏ, nghĩa quân chỉ tiến công uy hiếp rồi lại rút lui về Ninh Kiều để "làm thanh thế, tiếp ứng" cho cánh quân của Phạm Văn Xảo đang chặn đánh viện binh ở vùng Tam Giang.

Cùng một ngày với trận Nhân Mục, cánh quân do Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả chỉ huy chặn đánh đạo viện binh của Vương An Lão ở cầu Xa Lộc (còn gọi là cầu Ròng Rọc hay Đồng Dọc ở gần làng Tứ Xã, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ).

Ngày hôm đó, đạo viện binh của Vương An Lão từ Vân Nam sang, vừa tiến đến vùng Tam Giang. Nghĩa binh đón đánh quân địch ở cầu Xa Lộc. Đạo viện binh của Vương An Lão đông gấp bội quân ta, theo chính sử của ta đạo quân đó có đến trên một vạn quân. Nhưng với tinh thần chiến đấu dũng cảm và lối đánh vận động lợi hại, nghĩa quân đã tiêu diệt được trên 1.000 quân địch.

Vương An Lão không dám tiến quân xuống thành Đông Quan phải rút vào thành Tam Giang (có lẽ thành cổ Dục Mỹ ở gần cầu Xa Lộc, tỉnh Phú Thọ) ở gần đó để cố thủ.

Cùng với trận Xa Lộc, cánh quân của Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chặn viện binh của địch, không cho chúng tăng viện tới cửa thành Đông Quan.

Đạo quân thứ nhất tuy số lượng không nhiều, nhưng với tinh thần chiến đấu ngoan cường, luôn luôn chủ động tiến công và với sự chỉ huy tài giỏi của các tướng, đã liên tiếp lập được nhiều chiến công rực rỡ ở Ninh Kiều, Nhân Mục, Xa Lộc và hoàn thành xuất sắc cả hai nhiệm vụ: chặn viện binh và tiến công uy hiếp mặt tây nam thành Đông Quan.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #31 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2016, 04:04:40 pm »


Câu hỏi 17: Trình bày chiến thắng Tốt Động - Chúc Động (tháng 11 năm 1426), một trận quyết chiến chiến lược của dân tộc ta?

Trả lời:


Sau trận Ninh Kiều, Trần Trí đã cho người mang thư lẻn vào thành Nghệ An, yêu cầu Lý An và Phương Chính "bỏ thành Nghệ An, về cứu căn bản" (Đại Việt sử ký toàn thư). Lý An, Phương Chính giao thành Nghệ An lại cho Thái Phúc cố thủ, rồi đem đại bộ phận quân lính về cứu Đông Quan. Ngày 17 tháng 10 năm 1426, chúng dùng thuyền, nhân lúc ban đêm vượt biển ra Bắc.

Lê Lợi nhận định tình hình: "Thế giặc ngày một yếu quân ta ngày một mạnh, thời cơ đã đến mà không hành động ngay, sợ lỡ mất cơ hội" (Đại Việt sử ký toàn thư). Thành Nghệ An không còn là mục tiêu quan trọng nữa. Quân địch đang cố gắng tập trung về Đông Quan để phối hợp với viện binh mở những cuộc phản công lớn. Mặt trận chính rõ ràng đã chuyển ra Bắc, vùng quanh Đông Quan và các trục đường tiếp viện của quân Minh, Lê Lợi quyết định để một bộ phận nghĩa quân ở lại vây hãm thành Nghệ An, rồi cùng với bộ chỉ huy thống lĩnh đại quân, theo hai đường thuỷ, bộ đuổi theo Lý An, Phương Chính. Nhưng quân địch có nhiều thuyền lớn, đã phóng ra biển khơi, chạy thoát về Đông Quan.

Đại quân Lam Sơn dừng lại ở Thanh Hoá một thời gian. Tại đại bản doanh ở Lỗi Giang, Lê Lợi sai tăng cường thêm lực lượng vây hãm thành Tây Đô, không cho chúng rút về Đông Quan và củng cố vững chắc khu vực giải phóng từ Thanh Hoá trở vào, để chuẩn bị đưa đại quân ra Bắc.

Tại Đông Quan, khoảng cuối tháng 10 năm 1426, quân địch đã tập trung được một lực lượng khá lớn. Đội binh thuyền của Lý An, Phương Chính đã vượt qua được lực lượng ngăn chặn của nghĩa quân ở vùng hạ lưu sông Nhị, kéo về hội quân với Trần Trí. Năm vạn viện binh của Vương Thông cũng đã tiến tới Đông Quan. Toàn bộ quân địch có khoảng trên 10 vạn bao gồm bộ binh, kị binh và thuỷ binh, trong đó lực lượng nòng cốt là viện binh của Vương Thông. Theo lệnh vua Minh, Vương Thông giữ chức tổng binh nắm quyển chỉ huy cao nhất, bên cạnh đó tham tướng Mã Anh và tham tán quân vụ Trần Hiệp, Trần Trí và Phương Chính bị cách chức nhưng vẫn lưu lại trong quân để "lập công chuộc tội".

Đầu tháng 11 năm 1426, để lại một bộ phận giữ thành Đông Quan, Vương Thông huy động ngót 10 vạn quân vào cuộc phản công đầy tham vọng của hắn. Từ Đông Quan, quân địch chia làm ba đạo tiến ra chiếm lĩnh những vị trí bàn đạp của cuộc phản công.

- Đạo thứ nhất do Vương Thông trực tiếp chỉ huy đóng ở bến Cổ Sở trên sông Đáy và con đường bộ từ phía tây đến Đông Quan.

- Đạo quân thứ hai do Phương Chính, Lý An chỉ huy đóng ở cầu Sa Đôi trên sông Nhuệ.

- Đạo quân thứ ba do Sơn Thọ, Mã Kỳ chỉ huy đóng ở cầu Thanh Oai trên sông Đỗ Động và con đường bộ từ phía tây nam đến Đông Quan.

Quân địch đã triển khai đội hình, chiếm lĩnh ba vị trí cơ động ở đầu mối các đường giao thông thuỷ bộ phía tây và tây nam Đông Quan. Từ những vị trí đó, ba đạo quân Minh hình thành ba mũi tiến công nhằm vây quét một vùng rộng lớn, mà mục tiêu chủ yếu là căn cứ Ninh Kiều (Chương Mỹ, Hà Tây) của đạo quân Phạm Văn Xảo, Lý Triện.

Đạo quân Phạm Văn Xảo, Lý Triện đóng ở Ninh Kiều là đối tượng vây diệt của địch và cũng là đạo quân đảm đương những trận đánh đầu tiên chống lại cuộc phản công lớn của Vương Thông.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #32 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2016, 04:05:05 pm »


Trong ba đạo quân của địch, nghĩa quân chọn đạo quân ở cầu Thanh Oai làm mục tiêu tấn công. Đạo quân này nằm hơi tách ra về phía tây nam, binh lực không nhiều, là khâu yếu nhất trong ba mũi tiến công của địch. Ngày 5 tháng 11 năm 1426, nghĩa quân bố trí mai phục sẵn ở cánh đồng Cổ Lãm (Thanh Oai, Hà Tây) rồi khiêu chiến nhử địch ra khỏi doanh trại để tiêu diệt. Sơn Thọ, Mã Kỳ tung quân ra đuổi đánh, đã bị dẫn vào trận địa mai phục và bị đại bại. Hơn 1.000 quân địch bị chết tại trận. Sơn Thọ, Mã Kỳ tháo chạy về Đông Quan. Nghĩa quân truy kích đến tận cầu Nhân Mục, giết thêm nhiều quân địch và bắt sống hơn 500 tên. Đạo quân Phương Chính, Lý An ở cầu Sa Đôi thấy bị đe doạ trực tiếp, cũng vội vàng rút quân về Đông Quan để tránh đòn tiến công của quân ta.

Số quân địch bị tiêu diệt chưa nhiều, nhưng thế trận ba mũi vây diệt của Vương Thông đã bị phá sản. Cuộc phản công chiến lược quy mô lớn của địch vừa mới thực hiện đã bị những đòn giáng trả quyết liệt.

Ngay tối ngày 5 tháng 11 năm 1426, Vương Thông ra lệnh điều số bại binh mới chạy về Đông Quan lên Cổ Sở. Vương Thông đã phải thay đổi kế hoạch hành quân. Hắn tập trung tất cả binh lực lại thành một khối lớn để từ Cổ Sở đánh thẳng xuống Ninh Kiều, bao vây càn quét khu căn cứ của nghĩa quân.

Ngay hôm sau, ngày 6 tháng 11 năm 1426, một bộ phận nghĩa quân do Lý Triện chỉ huy từ Ninh Kiều tiến lên tập kích doanh trại ngoại vi của địch ở Cổ Sở. Trận đánh nhằm quấy rối, tiêu hao và khiêu khích quân địch.

Vương Thông liền huy động đại quân đánh xuống Ninh Kiều. Nhưng đến nơi thì thấy nghĩa quân đã huỷ bỏ doanh trại, rút về Cao Bộ (Chương Mỹ, Hà Tây). Tại đây, đạo quân Lam Sơn thứ ba do Đinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy, từ Thanh Đàm (Thanh Trì, Hà Nội) cũng đã bí mật kéo đến hội quân. Hai đạo quân phối hợp chặt chẽ chuẩn bị một thế trận lợi hại để quyết giành thắng lợi quyết định, đập tan cuộc phản công của Vương Thông.

Từ Ninh Kiều đến Cao Bộ có hai con đường:

+ Con đường cái là đường "Thượng đạo" từ Ninh Kiều qua Chúc Động, Tốt Động lên Cao Bộ.

+ Con đường tắt từ Ninh Kiều qua Chúc Động rồi vòng về phía Bắc Cao Bộ.

Vương Thông từ Ninh Kiều đánh lên Cao Bộ nhất thiết phải hành quân theo những con đường đó. Nghĩa quân đã khẩn trương bố trí hai trận địa mai phục lớn ở Tốt Động và Chúc Động để chờ địch.

Làng Tốt Động (Chương Mỹ, Hà Tây) tên nôm là Kẻ Rét (cũng có người nói là Kẻ Rót), là một làng đã có từ lâu đời. Đây là một vùng đất thấp, lầy lội. Cánh đồng Tốt Động là một cánh đồng chiêm trũng, có độ dốc nghiêng dần từ tây sang đông.

Chúc Động cách Tốt Động khoảng 6km về phía đông bắc và ở ngay phía tây Ninh Kiều. Vì vậy, trong thư tịch cổ của ta, trận Chúc Động có khi gọi là trận Ninh Kiều.

Cả hai con đường từ Ninh Kiều đến Cao Bộ - đường "lai kinh" và đường tắt đến phải đi qua vùng Chúc Động.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #33 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2016, 04:09:37 pm »


Rạng sáng ngày 7 tháng 11 năm 1426, Vương Thông phất cờ lệnh cho quân lính bắt đầu xuất phát. Theo kế hoạch đã vạch ra, từ phía đông Ninh Kiều, hai cánh chính binh và kỳ binh lũ lượt vượt cầu Ninh Giang, tiến về phía Cao Bộ.

Cánh kỳ binh theo "đường tắt" tiến nhanh về phía sau Cao Bộ để "đặt súng phía sau quân ta" và bất ngờ nổ súng (hoả pháo) làm tín hiệu cho cánh "chính binh".

Cánh chính binh do Vương Thông trực tiếp chỉ huy, theo đường "lai kinh" qua vùng Tốt Động tiến thẳng đến phía trước Cao Bộ. Cánh quân này di chuyển ồ ạt, phô trương thanh thế vừa để uy hiếp vừa để thu hút quân ta về phía trước mặt Cao Bộ.

Theo kế hoạch đã hợp đồng giữa hai bên thì khi nghe tín hiệu của kỳ binh, toàn bộ cánh chính binh sẽ dồn dập tiến công phía trước để tạo thời cơ cho cánh kỳ binh lao tới phía sau đột nhập vào Cao Bộ, đánh đòn quyết định.

Quân địch triển khai đội hình thuận lợi, đúng như kế hoạch của Vương Thông. Từ lúc trời chưa sáng hẳn, từng đoàn quân địch, đội ngũ chỉnh tể, nối tiếp nhau vượt qua Ninh Kiều tiến về phía Cao Bộ. Hai bên đường núi rừng, đồng ruộng vẫn yên lặng, xóm làng vẫn bặt bóng người.

Cánh chính binh với đội hình kéo dài, tiến về phía Tốt  Động. Con đường "lai kinh" đang dẫn quân địch vượt qua miền núi rừng Ninh Sơn, Chúc Sơn, tiến vào một cánh đồng trũng rộng lớn. Không may cho quân địch là hôm đó trời đổ mưa. Trong chốc lát đường sá, đồng ruộng trở nên lầy lội, khó đi. Quân địch vẫn cố gắng giữ vững đội ngũ bám sát nhau, mong chóng vượt qua cánh đồng ác nghiệt này.

Tiền quân của chính binh vừa tiến đến Tốt Động thì bỗng nhiên nghe tiếng súng nổ từ hướng Cao Bộ vọng tới. Đúng là tín hiệu của cánh kỳ binh. Vương Thông tưởng rằng cánh kỳ binh đi theo "đường tắt" đã lẻn đến phía sau Cao Bộ và phát tín hiệu cho hắn biết để phối hợp tiến công. Hắn cho rằng đó là "súng nổ ở đường tắt" tức là tín hiệu của "kỳ binh" nên lập tức hạ lệnh cho "toàn quân tiến sâu vào” phía trước Cao Bộ. Nhận đúng tín hiệu đã quy định và theo lệnh của tổng binh, quân địch "mọi đứa đều đổ xô đi chiếm lấy chỗ thuận lợi, chúng lùa quân đi tắt vào". Quân địch ào ạt xông về phía trước Cao Bộ. Tín hiệu phát ra đã có tác dụng đánh lừa quân địch, thúc đẩy quân địch tiến nhanh và tiến sâu vào trận địa mai phục của ta.

Trong lúc đó, tại trận địa mai phục, quân dân ta đã được lệnh "nghe tiếng súng vẫn nằm im không động". Khi tiền quân của cánh chính binh địch "chưa đến cách sông Yên Duyệt vài dặm" nghĩa là đã lọt vào trận địa mai phục chủ yếu ở Tốt Động thì hậu quân của chúng cũng đã "qua hết Ninh Giang" nghĩa là lọt vào trận địa mai phục phối hợp ở Chúc Động. Lúc đó vào khoảng giờ tỵ, tức là khoảng 10-11 giờ, ngày 7 tháng 11 năm 1426.

Thời cơ tiêu diệt địch đã đến.

Theo hiệu lệnh đã quy định trước, quân mai phục của ta tại trận địa Tốt Động nhất tề nổi dậy với khí thế vô cùng mãnh liệt.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #34 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2016, 04:11:13 pm »


Một khối quân địch khổng lồ đang dồn lên phía trước cố vượt qua cánh đồng Tốt Động lầy lội để nhanh chóng tiến về Cao Bộ cho kịp phối hợp với cánh kỳ binh. Vương Thông cùng với các tướng soái và quân lính nhà Minh đang tập trung tất cả sự chú ý về phía mục tiêu công kích vừa phát ra tín hiệu. Bỗng nhiên từ sau các lũy tre của xóm làng, từ bờ sông Yên Duyệt phía trước, từ trong các đám cỏ lác, lau lách, từ bờ đầm Rót phía tây, quân dân ta bất ngờ lao ra chặn đầu và đánh ngang sườn đội hình quân địch từ phía tây. Quân ta băm nát quân địch thành từng mảng để tiêu diệt và dồn ép chúng về phía đông cánh đồng Tốt Động.

Hàng ngũ quân địch hoàn toàn bị rối loạn và tinh thần quân lính hết sức kinh hoảng, khiếp sợ. Từ đầu trận đánh, sức chiến đấu của quân Minh đã hầu như tê liệt. Với khí thế áp đảo kẻ thù, quân dân ta tiếp tục xông lên tiêu diệt quân địch hết lớp này đến lớp khác. Quân ta có những con voi chiến hùng dũng giúp sức dồn chúng càng ngày càng lún sâu vào cánh đồng Tốt Động, cả một cánh đồng bùn lầy, nhiều nơi còn ngập nước và đầy lau lách, cỏ lác, trở thành một bãi chiến trường lợi hại của quân ta.

Bộ binh và kỵ binh của địch bị sa lầy, mất hết sức chiến đấu. Sử nhà Minh chép: quân Minh "bị hãm vào bùn lầy", "đường lầy lội, người và ngựa đều vướng chân". Cả một khối quân địch dày đặc bị mất hết khả năng chiến đấu và trở nên cực kỳ hỗn loạn. Quân địch bị đẩy vào "đất chết" (tử địa). Chúng xô đẩy, giẫm đạp lên nhau mà chết khá nhiều. Một bộ phận quân phục của ta đã chiếm lĩnh sẵn những gò đất cao nổi lên giữa cánh đồng xông lên nhằm thẳng vào những đám quân địch đang bị sa lầy mà tiêu diệt. Từ những gò đất cao đó, quân dân ta dùng giáo, lao, đặc biệt là cung nỏ, giết chết hàng loạt quân địch.

Tổng binh Vương Thông hoàn toàn bất lực trước cảnh hỗn loạn và khiếp sợ của quân lính. Bản thân hắn cũng bị thương tại trận. Hắn bị một mũi tên của quân ta bắn vào cạnh sườn. Tham tán quân vụ Trần Hiệp cố thúc ngựa tiến lên phía trước để mong lấy lại tinh thần quân lính. Nhưng lập tức viên binh bộ thượng thư nhà Minh bị nhiều mũi giáo của quân ta đâm trúng vào người. Hắn bị thương nặng và từ trên mình ngựa ngã lộn nhào xuống đất. Quân Minh trông thấy, nói rằng: "Chủ soái (tức Vương Thông) cũng lùi, việc gì ông lại chịu khổ như thế”, rồi "quân lính đều bỏ chạy". Hoàn toàn tuyệt vọng, viên thượng thư bộ binh bị trọng thương đó định tự sát để kết liễu đời mình, nhưng bị quân ta xông tới chém chết.

Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt từ giờ tỵ đến giờ mùi, tức khoảng 10-11 giờ đến 14-15 giờ. Trong vòng 4-5 giờ chiến đấu cực kỳ dũng cảm và mưu trí, quân ta đã chặn đứng và đập nát bộ phận tiền quân của địch. Hàng vạn quân địch bỏ xác trên chiến trường Tốt Động. Vương Thông và bọn sống sót tìm đường tháo chạy về Ninh Kiều.

Trong khi tiền quân bị giáng đòn sấm sét bất ngờ ở Tốt Động thì bộ phận trung quân và hậu quân của địch cũng bị ùn lại trên quãng đường từ Chúc Động đến Tốt Động. Sau khi được tin tiền quân bị thua và thấy bọn tàn quân hoảng hốt tháo chạy, bộ phận trung quân và hậu quân cũng nhốn nháo tìm đường rút lui. Cả một khối quân địch đông nghìn nghịt chưa bị đánh đã tan tác hàng ngũ và mất hết tinh thần chiến đấu.

Cánh kỳ binh đang trên đường tiến về phía sau Cao Bộ bỗng nhiên nghe tiếng súng nổ ở Cao Bộ. Viên tướng chỉ huy kinh ngạc vì đó là tín hiệu đáng lẽ do cánh kỳ binh phát ra sau khi bí mật lẻn đến phía sau Cao Bộ. Tất nhiên hắn phải cho quân lính đi do thám và thấy Cao Bộ vẫn im lặng, đối phương không có động tĩnh gì. Ngay sau đó, hắn lại được tin khủng khiếp: tổng binh Vương Thông bị rơi vào trận mai phục ở Tốt Động, không thể tiến tới phía trước Cao Bộ được. Biết đã mắc mưu đối phương, hắn vội ra lệnh cho cánh kỳ binh rút chạy về hướng Chúc Động.

Đúng vào lúc đó, quân mai phục của ta ở trận địa Chúc Động lại vùng lên, bồi tiếp những đòn quyết liệt vào cánh kỳ binh và hậu quân của cánh chính binh cùng với bọn lính địch thoát chết ở Tốt Động đang tháo chạy hỗn loạn với tinh thần hoang mang, khiếp sợ. Từ sườn núi Ninh Sơn, Chúc Sơn, từ rừng cây và cánh đồng hai bên đường, quân dân ta xông lên chặn ngang đường rút lui và chia cắt quân địch ra mà tiêu diệt, cầu Ninh (Ninh Kiều) lập tức bị phá hủy và dòng sông Ninh biến thành một con hào tự nhiên cản đường rút chạy của địch về Đông Quan.

Một trận quyết chiến thứ hai diễn ra ác liệt trên vùng Chúc Động, Ninh Kiều.

Kết quả của trận Chúc Động cũng rất to lớn. Hàng vạn quân địch bị giết chết và bị bắt làm tù binh. Số quân địch liều lĩnh vượt qua Ninh Giang bị chết đuối rất nhiều, đến nỗi "nước Ninh Kiều vì thế không chảy được""làm nghầu cả khúc sông Ninh Giang".

Quân ta thừa thắng "đuổi kẻ chạy, rượt kẻ thua, hoặc giết chết, hoặc bắt sống”. Bọn tàn quân địch phải khó khăn, gian lao lắm mới thoát chết, chạy về Đông Quan được một số. Một bộ phận theo Vương Thông, Mã Kỳ, vượt qua được Ninh Kiều, chạy thoát về Đông Quan. Một bộ phận khác theo Phương Chính không qua được Ninh Kiều, phải theo hữu ngạn sông Đáy chạy ngược lên phía bắc rồi qua bến đò Cổ Sở trốn về Đông Quan.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #35 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2016, 04:12:16 pm »


Kể cả hai trận Tốt Động - Chúc Động, quân dân ta đã tiêu diệt trên 6 vạn quân địch, trong đó trên 5 vạn bị giết chết, trên 1 vạn bị bắt sống. Trong bộ chỉ huy của địch, bộ binh thượng thư Trần Hiệp giữ chức tham tán quân vụ và nội quan Lý Lượng, chỉ huy Lý Đằng bị chém tại trận; tổng binh Vương Thông cũng bị thương. Quân ta còn thu được rất nhiều chiến lợi phẩm bao gồm: ngựa, xe cộ, quân nhu, vũ khí, vàng bạc, sổ sách...

Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động là một chiến thắng oanh liệt của quân dân ta trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV. Sử sách và những tác phẩm văn học yêu nước của ta đã dành cho chiến công này một vị trí quan trọng với những lời ca ngợi xứng đáng.

Lam Sơn thực lục chép: Quân ta "cả phá được giặc, chém được Trần Hiệp và Lý Lượng. Giặc bị chém hơn 5 vạn tên, bị bắt sống hơn vạn tên. Ta bắt được khí giới, ngựa, vàng bạc, quân tư, xe cộ không biết bao nhiêu mà kể".

Đại Việt sử ký toàn thư chép: "đại phá quân giặc, chém được thượng thư Trần Hiệp, nội quan Lý Lượng và quân sĩ 5 vạn người, giặc chết đuối rất nhiều, nước Ninh Kiều vì thế không chảy được, bắt sống được hơn 1 vạn người, thu được ngựa, quân tư, khí giới, xe cộ, sổ sách không kể xiết".


Đặc biệt Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc cùng với Lê Lợi tổ chức và lãnh đạo cuộc chiến tranh yêu nước lúc đó - đã nêu cao thắng lợi của trận Tốt Động - Chúc Động (hay Ninh Kiều) trong những tác phẩm bất hủ của mình, nhất là trong Bình Ngô đại cáo và bài Phú núi Chí Linh.

Nguyễn Trãi viết trong bài Bình Ngô đại cáo:

      "Ninh Kiều máu chảy thành sông, hôi tanh muôn dặm,
      Tốt Động thây phơi đầy nội, thối để nghìn thu
      Tâm phúc giặc, Trần Hiệp phải bêu đầu,
      Sâu mọt dân, Lý Lượng cũng bỏ mạng.
      Vương Thông gỡ rối mà lửa lại càng bừng,
      Mã Anh cứu nguy mà giận càng thêm dữ".


Trong bài Phú núi Chí Linh, Nguyễn Trãi viết:

      "Trận Ninh Kiều như tổ kiến làm đê vỡ,
      Trận Tốt Động như gió mạnh gãy cành cây.
      Trần Hiệp, Lý Lượng như dưới hố cọp sa,
      Vương Thông Mã Kỳ như nước sôi cá nhảy".


Trận Tốt Động - Chúc Động là trận đánh quyết định kết thúc thắng lợi toàn bộ chiến dịch phá cuộc phản công ồ ạt của Vương Thông. Đó là chiến thắng lớn nhất của nghĩa quân Lam Sơn từ khi khởi nghĩa cho đến cuối năm 1426. Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động nói riêng và toàn bộ chiến dịch nói chung đã đập tan kế hoạch tiến công của Vương Thông và làm phá sản hoàn toàn âm mưu giành lại thế chủ động của địch.
Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động được ghi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta như một trận quyết chiến oanh liệt, một trong những mẫu mực điển hình của lối đánh lấy ít thắng nhiều của quân dân ta.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #36 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2016, 04:14:12 pm »


Câu hỏi 18: Trình bày quá trình tiến công vây hãm thành Đông Quan và các thành lũy khác của nghĩa quân Lam Sơn. Âm mưu giảng hòa của tướng giặc Vương Thông?

Trả lời:


Sau trận đại bại ở Tốt Động - Chúc Động, Vương Thông thu thập tàn binh rút chạy về thành Đông Quan, chuyển sang thế phòng ngự, lo củng cố lực lượng cố thủ phòng ngự tại đây.

Bên cạnh việc sai quân lính phá chuông Quy Điền (ở chùa Một Cột, Hà Nội) và vạc Phổ Minh (ở chùa Phổ Minh, Nam Định) để đúc vũ khí thay thế cho những vũ khí bị mất gần hết trong thất bại vừa qua, Vương Thông còn bắt quân lính tu bổ lại các hào lũy của thành Đông Quan và củng cố thêm các doanh trại bảo vệ ở vùng ngoại vi.

Về mặt chính trị, y đã cố vá víu lấy bộ máy chính quyền đô hộ. Phạm vi thống trị của chúng đã bị thu hẹp rất nhiều vì hầu hết các châu, huyện của ta đã được nghĩa quân Lam Sơn giải phóng.

Phát huy thắng lợi rực rỡ đã giành được, nghĩa quân Lam Sơn tiếp tục đẩy mạnh cuộc tiến công, không cho quân địch nghỉ ngơi, hồi phục lại lực lượng. Ngay sau trận Tốt Động - Chúc Động, tướng Đinh Lễ đã thừa thắng đem quân đến vây thành Đông Quan.

Bấy giờ, Lê Lợi và bộ tham mưu đang đóng đại bản doanh ở miền Lỗi Giang (Thanh Hóa) để củng cố căn cứ từ Thanh Hóa trở vào và tập trung lực lượng chuẩn bị cho những trận đánh quyết định của giai đoạn giành thắng lợi cuối cùng. Được tin thắng trận, Lê Lợi liền thống nhất đại quân gồm quân thủy, quân bộ và 20 voi chiến, chia làm hai đường thủy, bộ đi suốt ngày đêm, tiến gấp ra Bắc.

Ngày 10 tháng 11 năm 1426 (ngày 11 tháng 10 năm Bính Ngọ), Lê Lợi trú quân ở Lung Giang (sông Đáy).

Ngày 21 tháng 11 năm 1426 (ngày 22 tháng 10 năm Bính Ngọ), Lê Lợi đóng đại bản doanh ở Tây Phù Liệt (thuộc huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội). Chính tại nơi đây Lê Lợi và bộ tham mưu nghĩa quân đã quyết định và chỉ huy cuộc tiến công vây hãm thành Đông Quan.

Ngày 22 tháng 11 năm 1426 (ngày 23 tháng 10 năm Bính Ngọ) cuộc tiến công thành Đông Quan bắt đầu.

Tướng Trần Nguyên Hãn, Bùi Bị chỉ huy thủy quân gồm hơn 100 chiến thuyền theo dòng sông Đáy lên cửa sông Hát rồi xuôi sông Nhị xuống bến Đông Bộ Đầu đánh vào phía đông.

Tướng Đinh Lễ chỉ huy hơn 10.000 bộ binh ngầm tiến đến cầu Tây Dương (Cầu Giấy) đánh vào phía tây.

Lê Lợi chỉ huy đạo quân chủ lực tiến lên cửa Nam thành Đại La đánh vào phía nam.

Nửa đêm, quân ta từ ba mặt tiến công vào các doanh trại của địch ở vùng ngoại vi thành Đông Quan. Nghĩa quân phóng lửa đốt các doanh trại của địch làm cho "khói lửa ngợp trời". Quân của Phương Chính đóng giữ ở ngoài thành tranh nhau trốn chạy vào trong thành và bị giết chết rất nhiều. Kết quả của trận tiến công này là quân ta tiêu diệt hết các doanh trại của địch ở vùng ngoại vi thành Đông Quan, buộc quân địch từ đó phải rút hẳn vào trong thành cố thủ. Trong trận này, quân ta còn giải phóng được rất nhiều người bị giặc giam giữ và thu được hơn 100 chiến thuyền với rất nhiều khí giới.

Sau trận tiến công của nghĩa quân "tất cả quân dân ở xung quanh đều là của ta, thế giặc ngày càng cùng quẫn nên phải đắp thêm thành lũy để liều chết giữ thành chờ viện binh"1.
__________________________________
1. Toàn thư.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #37 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2016, 04:15:01 pm »


Lê Lợi dời bản doanh sang Đông Phù Liệt (thuộc huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội). Chủ trương của nghĩa quân lúc này là tiếp tục vây hãm thành Đông Quan và mở rộng vùng giải phóng, bổ sung thêm lực lượng.

Thắng lợi dồn dập của nghĩa quân Lam Sơn làm cho quân địch từ thành Đông Quan đến các đồn lũy khác đều rất hoang mang. Khắp nơi, từ miền xuôi lên miền núi, nhân dân nổi dậy hoặc tự động, hoặc cùng với nghĩa quân đánh phá các đồn lũy và các trụ sở chính quyền của địch. Quân địch phải bỏ các đồn lũy nhỏ, rút vào cố thủ trong những thành lũy kiên cố. Tình hình miền Bắc từ đó cũng gần giống như tình hình miền Thanh Hóa trở vào năm 1425. Trừ thành Đông Quan và một số thành lũy các nơi như Điêu Diêu (Gia Lâm, Hà Nội), Thị cầu (Bắc Ninh), Xương Giang (Bắc Giang), Khâu Ôn (Lạng Sơn), Tam Giang (Phú Thọ), Cổ Lộng (Nam Định)... quân địch còn ra sức cố thủ, còn hầu hết đất nước đều được giải phóng. Trong vòng chưa đầy ba tháng (từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1426), khu vực giải phóng từ miền Thanh Hóa trở vào đã được mở rộng nhanh chóng hầu khắp cả nước.

Nhân dân khắp nơi vô cùng phấn khởi, ai cũng muốn đem hết công sức mình ra góp phần cùng với nghĩa quân để sớm hoàn thành công cuộc giải phóng đất nước. Toàn thư chép rằng khi nghe tin Lê Lợi ra đóng quân ở gần thành Đông Quan, "hào kiệt ở vùng kinh lộ cùng với nhân dân các phủ huyện, các tù trưởng ở vùng biên trấn đều tấp nập đến cửa quân nguyện xin ra sức liều chết để đánh các thành giặc ở các nơi". Trước tinh thần yêu nước của nhân dân, Lê Lợi ân cần tiếp đãi mọi người rồi tuyển mộ thêm nghĩa quân, thu nạp thêm nhân tài để bổ sung lực lượng.

Để tránh khỏi nguy cơ bị tiêu diệt trước khi viện binh sang, Vương Thông, một mặt hết sức tăng cường khả năng cố thủ các thành, mặt khác đưa ra việc thương lượng giảng hòa với nghĩa quân để làm kế hoãn binh.

Vương Thông tung ra tin muốn theo tờ chiếu của Minh Thành Tổ năm 1407 tìm con cháu nhà Trần lập lên làm vua rồi sẽ bãi binh. Vương Thông muốn thương lượng theo danh nghĩa lập lại nhà Trần để giữ "thể diện" cho "thiên triều". Danh nghĩa đó chẳng qua chỉ là một chiêu bài do Minh Thành Tổ nêu ra để lấy cớ xâm lược nước ta và che đậy âm mưu xâm lược đó. Nhưng đến nay trong bước đường thất bại, vua tôi nhà Minh muốn lấy lại danh nghĩa đó để làm lối thoát cho tình trạng khốn cùng, bế tắc của cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Khi mới lên ngôi, trước những khó khăn trong nước và những thất bại ở nước ta, chính Minh Tuyên Tông cũng đã có ý định như vậy. Nhưng cho đến đầu năm 1427, từ vua Minh cho đến bọn tướng tá xâm lược như Vương Thông vẫn chưa thực sự chịu rút khỏi nước ta. Việc thương lượng bãi binh theo danh nghĩa lập lại nhà Trần lúc bấy giờ chỉ là một âm mưu hoãn binh để tiếp tục những cố gắng chiến tranh mới.

Lê Lợi, Nguyễn Trãi và bộ tham mưu nghĩa quân biết rất rõ âm mưu giảng hòa của Vương Thông. Tuy nhiên những người lãnh đạo nghĩa quân vẫn sẵn sàng tiến hành thương lượng với quân địch.

Dù Vương Thông chưa thực tâm chịu rút quân về nước, nghĩa quân vẫn sẵn sàng tiến hành thương lượng là để mở sẵn con đường rút lui cho nhà Minh, đồng thời để đẩy mạnh cuộc đấu tranh ngoại giao và chính trị nhằm phân hóa và làm suy yếu hàng ngũ địch kết hợp với cuộc đấu tranh vũ trang đang phát triển như vũ bão của quân dân ta.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #38 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2016, 04:17:58 pm »


Để chuẩn bị danh nghĩa cho việc giao thiệp với nhà Minh, tháng 12 năm 1426, Lê Lợi lập Trần Cảo lên làm vua, đặt niên hiệu là Thiên Khánh. Thực ra Trần Cảo vốn là Hồ Ông bấy lâu trốn tránh trong nhà Cầm Quý ở châu Ngọc Ma và tự xưng là cháu ba đời vua Trần Nghệ Tông (1370-1372). Đó là một người không có tài năng và công lao gì đối với cuộc kháng chiến, nhưng vì đã mạo xưng là con cháu nhà Trần nên được Lê Lợi lập lên làm vua trên danh nghĩa để tiện việc giao thiệp với nhà Minh. Vị vua Trần này tạm đóng ở núi Không Lộ (huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây), bên cạnh có Bùi Quốc Hưng bề ngoài là người giúp việc, nhưng bên trong là người giám sát mọi hành động của nhà vua. Trong giấy tờ giao thiệp với nhà Minh, Lê Lợi tạm xưng là vệ quốc công, coi như là người phụ tá của Trần Cảo.

Tháng 1 năm 1427, Vương Thông sai sứ giả là Nguyễn Nhậm mang thư ra xin giảng hòa với nghĩa quân. Nhận được thư, Lê Lợi nói với mọi người rằng: "Lời ấy thật hợp ý ta. Vả lại binh pháp nói rằng: không đánh mà khuất phục được người, đấy là mưu kế hay nhất”1. Công việc thương lượng giảng hòa được đề ra bắt đầu từ đó. Về phía nghĩa quân, Nguyễn Trãi là người thay mặt Lê Lợi trực tiếp đảm nhiệm công việc ngoại giao này. Đó là cả một cuộc đấu tranh ngoại giao và chính trị rất gay go, phức tạp với kẻ thù.

Sau một thời gian thương thuyết, hai bên tạm thời thỏa thuận với nhau về điều kiện giảng hòa như sau:

Về phía nghĩa quân, sẽ sửa sang đường sá, cầu cống và cung cấp phương tiện, lương thực đầy đủ cho quân Minh rút về nước; sẽ cử sứ giả sang nhà Minh chịu "quy hàng phục tội"2 có nghĩa là chịu triều cống và thần phục về danh nghĩa, chịu lập con cháu nhà Trần làm vua để nhà Minh phong vương.

Về phía Vương Thông thì nhận sẽ rút quân về nước, trao trả lại các thành trì cho ta, mà trước hết là rút quân các thành từ Thanh Hóa trở vào tập trung về Đông Quan rồi từ đó, rút về nước.

Sau đó, Lê Lợi sai sứ giả cùng với đại diện của Vương Thông mang Biểu cầu phong3 sang nhà Minh xin lập Trần Cảo làm vua theo tờ chiếu của Minh Thành Tổ. Mặt khác, Lê Lợi còn ra lệnh nới rộng vòng vây cho phép "quân Minh được đi lại mua bán, không khác gì dân thường"4. Những việc làm đó chứng tỏ rõ thiện chí hòa bình của nghĩa quân. Trong những bức thư gửi cho tướng Minh, Nguyễn Trãi vạch rõ rằng việc thương lượng thành công thì sớm kết thúc chiến tranh, điều đó không những có lợi cho nhân dân ta mà còn có lợi cho nhân dân và quân lính nhà Minh.

Nhưng trong việc giảng hòa này, Vương Thông đã bộc lộ rõ bản chất lật lọng, ngoan cố của một tên tướng xâm lăng tham tàn. Hắn bề ngoài thì nói thương lượng, nhưng bên trong lại lo cố thủ và cầu cứu viện binh. Hắn bất đắc dĩ phải nhận điều kiện giảng hòa rút quân và phái người cùng với đại biểu của nghĩa quân đến các thành từ Thanh Hóa trở vào tuyên bố lệnh đình chiến rút quân. Nhưng trong lúc đó ở thành Đông Quan, hắn vẫn tiếp tục đào hào, cắm chông và sai hàng chục người bí mật mang thư bọc kín trong sáp lẻn về nước xin cứu viện. Nghĩa binh đã đón đường bắt sống được bọn quân lính ấy và tìm thấy mật thư của Vương Thông.
_____________________________________
1, 4. Toàn thư.
2. Thư trả lời tổng binh Vương Thông và thái giám Sơn Thọ, Quân trung từ mệnh tập.
3. Biểu cầu phong này do Nguyễn Trãi viết, chép lại trong Quân trung từ mệnh tập.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #39 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2016, 04:19:23 pm »


Lén lút phái người về nước không được, Vương Thông lại lợi dụng việc cử người đi theo sứ giả của nghĩa quân dâng biểu cầu phong lên nhà Minh để xin viện binh. Lê Lợi lập tức ra lệnh bắt giữ người của chúng để vạch trần thái độ lật lọng của Vương Thông.

Trước thái độ và hành động gian trá của địch, Lê Lợi ra lệnh khép chặt vòng vây quanh thành Đông Quan. Quân ta mai phục, bắt sống hơn 3.000 quân địch và 500 con ngựa. Đầu năm 1427, Lê Lợi dời đại bản doanh lên Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội), đối diện với thành Đông Quan qua sông Nhị. Tại đây, Lê Lợi, Nguyễn Trãi trực tiếp chỉ đạo việc vây hãm thành Đông Quan và cuộc đấu tranh vừa đánh vừa đàm với địch. Lê Lợi sai dựng một lầu cao ngang tháp Báo Thiên để quan sát tình hình địch ở trong thành.

Bốn đạo quân Lam Sơn áp sát bốn cửa thành Đông Quan. Phía sau là ba trại quân đóng ở ba mặt: Cảo Động (Từ Liêm, Hà Nội) ở phía tây bắc, Sa Đôi (Từ Liêm, Hà Nội) ở phía tây và Tây Phù Liệt ở phía nam. Phía đông bên kia sông Nhị, là một hệ thống chiến lũy và doanh trại của nghĩa quân, vừa bảo vệ đại bản doanh Bồ Đề, vừa ngăn chặn không cho quân địch liên hệ với các thành lũy phía bắc.

Tuy vậy, Lê Lợi, Nguyễn Trãi tiếp tục cuộc đấu tranh hòa nghị với địch. Thực chất đó là một cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao nhằm vạch trần bản chất phi nghĩa, ngoan cố của kẻ thù, vận động, thuyết phục chúng, đồng thời mở sẵn lối thoát cho triều Minh khi kết thúc chiến tranh. Đó là chủ trương mà trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi gọi là: "Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất" (Ta mưu trí đánh dẹp bằng cách đánh vào lòng người, khiến không đánh mà quân giặc phải tự khuất phục). "Đánh vào lòng người" ở đây là đánh vào lòng giặc, là địch vận.

Tuy nhiên, Vương Thông vẫn lợi dụng những chỗ sơ hở của nghĩa quân, mở một số cuộc phản kích, cố tạo ra vài thắng lợi nhỏ rồi khuếch đại lên để mong giữ tinh thần quân lính.

Ngày 4 tháng 3 năm 1427, Phương Chính tập kích doanh trại Cảo Động.

Ngày 13 tháng 3 năm 1427, một toán quân Minh lẻn ra đánh doanh trại Sa Đôi.

Ngày 6 tháng 4 năm 1427, Vương Thông tự đem một đội quân tinh nhuệ, bất ngờ tập kích doanh trại Tây Phù Liệt.

Ngoài Đông Quan, quân Minh còn chiếm giữ 12 thành: Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Tây Đô, Cổ Lộng, Điêu Diêu, Tam Giang, Thị Cầu, Xương Giang, Chí Linh, Khâu Ôn. Đối với các thành lũy này, chủ trương chung của nghĩa quân cũng là vừa vây hãm vừa dụ hàng, nghĩa là kết hợp tiến công quân sự với địch vận, được nâng lên thành thế trận chiến lược.

Năm thành từ Thanh Hóa trở vào đã bị vây hãm từ năm 1425. Các thành ở phía bắc bắt đầu bị vây hãm vào khoảng cuối năm 1425, đầu năm 1426.

Đối với quân Minh, Nguyễn Trãi chỉ rõ thế tất thắng của ta, thế thất bại của địch, vạch trần cái "bội ước thất tín" của Vương Thông, cái "cơ táng loạn" của triều đình nhà Minh và khuyên bảo: "Các ngươi nếu biết kéo quân ra thành cùng ta hòa hảo thân tình, thì ta coi các ngươi nghĩa như anh em ruột thịt, nào chỉ những bảo toàn tính mệnh vợ con mà thôi đâu!". Mặt khác, Nguyễn Trãi cũng nghiêm khắc cảnh cáo trước: "Nếu không thế, tùy các ngươi. Trong khoảng sớm tối sẽ khắc thấy nhau. Đến lúc bấy giờ, hối cũng không kịp"1.
____________________________________
1. Nguyễn Trãi, Toàn tập.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM