Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 03:36:10 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ  (Đọc 44072 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #140 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2016, 08:19:17 am »


        Do nhu cầu của chiến thuật, quân đội phong kiến thời đó thường bên chế theo nguyên tắc: ngũ ngũ chế: ở mỗi một cấp thường chia làm trung, tiền, hậu, tả, hữu. Tổ chức đó phản ánh cách bảo vệ thành lũy phong kiến. Quân đội Tây Sơn cũng chưa thoát ra ngoài nguyên tắc biên chế đó.

        Trong quân đội Tây Sơn, hệ thống tổ chức đội, cơ là đơn vị cơ sở, lên đến cơ, rồi đến đạo. Quân số mỗi đội, cơ, đạo không thống nhất; nó thay đổi tùy theo tính chất của binh chủng, tùy theo địa điểm chiến thuật mà các đơn vị đó chiếm đóng. Thông thường mỗi đội có từ sáu mươi đến một trăm lính, mỗi cơ từ ba đến năm trăm, mỗi đạo từ một nghìn rưởi đến hai nghìn rưởi. So với quân số ở cấp tương đương của quân đội Lê, Trịnh hoặc Nguyễn, không có sự chênh lệch quan trọng. Cao hơn nữa, là cấp doanh, mỗi doanh gồm năm đạo, với quân số chừng một vạn đến một vạn rưởi. Trong các doanh, có các đạo bộ binh, pháo binh, kỵ binh và tượng binh. Doanh có thể so sánh như một tổ chức chiến thuật cao cấp, có thể đảm nhiệm một hướng của chiến dịch. Khi cần thiết, hai hoặc ba doanh sẽ được tổ chức lại thành một khối đảm nhiệm một hướng chiến dịch quan trọng.

        Xem như trên, tổ chức lục quân Tây Sơn đã có sự phân công khá cao và sự hợp đồng khá chặt, khiến cho sức chiến đấu tăng lên rất nhiều. Sự phát triển tương đối nhịp nhàng của các binh chủng trong lục quân Tây Sơn mà nội dung là sự phát triển khá cân đối các thành phần đột kích, hỏa lực, cơ động, sự hình thành các đơn vị binh chủng tổng hợp và binh chủng chuyên môn, sự xác định rõ ràng tính chất chiến thuật, chiến dịch, chiến lược của các đơn vị, đã đưa tổ chức lục quân đó đến trình độ cận đại, không kém các quân đội Âu châu thời đó. Nó vượt xa tổ chức của lục quân Trịnh, Nguyễn, và vượt cả lục quân Thanh.

        Đồng thời Nguyễn Huệ còn quan tâm đến việc xây dựng một thủy quân mạnh, đưa thủy quân từ một binh chủng có tính chất chiến thuật lên thành một quân chủng chiến lược. Ở thời đại đó, thủy quân của nhà Trịnh và nhà Nguyễn chưa phát triển đến trình độ của quân chủng. Thủy quân chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ chiến thuật như chuyên chở bộ binh trên sông hoặc trên biển, trợ lực cho bộ binh bằng hỏa lực của thuyền chiến, hoặc làm một cánh vu hồi chiến thuật. Cho nên, về số lượng thuyền chiến, thủy quân Trịnh và Nguyễn lúc đầu có ưu thế so với thủy quân Tây Sơn, nhưng chỉ với số lượng nhiều, mà chất lượng kém, cũng không thể trở thành một quân chủng được.

        Trái lại, Nguyễn Huệ đã phát hiện vai trò và khả năng to lớn của thủy quân ở nước ta, một nước ở liền mặt biển và có nhiều hệ thống sông ngòi. Những trận chiến đấu có thủy quân tham gia đã nói lên vai trò và khả năng đó.

        Việc dùng thủy quân để làm các cánh vu hồi chiến dịch sâu vào hậu phương địch; việc dùng thủy quân làm đơn vị tiên phong của một chiến dịch có tính chất chiến lược; việc dùng thủy quân là chủ yếu để thực hành một chiến dịch có tính chất chiến lược, chứng tỏ Nguyễn Huệ đã nhìn thấy thật rõ vai trò và tác dụng của thủy quân. Sau ngày giải phóng Phú Xuân đến khi chết, Nguyễn Huệ đã đưa rất nhiều tâm sức, công phu, ý chí để xây dựng thủy quân thực sự trở thành một quân chủng chiến lược.

        Trong thủy quân của Nguyễn Huệ, hình thành nhiều binh chủng: đội thuyền chiến tác chiến trên sông, đội thuyền chiến vừa tác chiến trên sông vừa tác chiến trên biển (biển gần); đội thuyền chiến tác chiến trên biển, đội thuyền vận tải và đội thủy binh chuyên dùng để tác chiến trên bộ. Chủ lực của thủy quân là đội thuyền chiến đi biển, gồm những tàu lớn, có hỏa lực mạnh, chở theo một cơ hoặc một đội thuỷ binh tác chiến trên bộ.

        Mỗi thuyền chiến Tây Sơn, với sức trọng tải lớn, với hỏa lực mạnh, với đội thủy binh tác chiến, đã trở thành một đơn vị chiến thuật, còn các đội thuyền chiến trên biển đã trở thành những đơn vị chiến dịch. Cho nên, thủy quân Tây Sơn, cũng như lục quân, là mối khiếp sợ cho thủy quân Trịnh, Nguyễn, Xiêm.

        Nguyễn Huệ đã thành công trong việc xây dựng một lục quân mạnh có nhiều binh chủng phát triển một cách khá nhịp nhàng, và cũng thành công trong việc xây dựng một thuỷ quân mạnh có nhiều binh chủng. Đưa thủy quân lên địa vị một quân chủng, đưa quân đội từ một quân chủng lên thành hai quân chủng, Nguyễn Huệ là nhà quân sự đầu tiên ở nước ta thời đó, đã thực hiện được bước nhảy dài ấy trong tổ chức quân đội.

        Tổ chức bảo đảm hậu cần được Nguyễn Huệ đặc biệt chú trọng. Quân đội Tây Sơn rất cơ động, đánh xa căn cứ hành quân dài, tác chiến trên một khu vục rộng lớn, trong những thời gian dài, nếu không chú ý tổ chức bộ máy hậu cần hoàn chỉnh thì không thể bảo đảm cho tác chiến cơ động của một quân đội lớn. Ngoài tuyến và trục cung cấp (hệ thống kho tàng lương thực, đạn dược ...) nằm trong toàn phạm vi chiến lược, Nguyễn Huệ còn tổ chức một đoàn thuyền vận tải. Theo Ba-ri-di, thì trong trận Thi Nại năm 1801, thủy quân Tây Sơn có đến một nghìn sáu trăm thuyền buồm vận tải. Nhiệm vụ đánh chiếm các kho tàng lương thực của địch được nâng lên rất cao, bảo đảm việc tiếp tế tại chỗ. Tổ chức đó đã đáp ứng được nhu cầu bảo đảm cho các cuộc hành binh chiến dịch, chiến lược.

        Tổ chức của quân đội Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của nhà quân sự thiên tài Nguyễn Huệ rất thích hợp với các điều kiện tiến hành chiến tranh chống nhiều kẻ địch khác nhau có nhiều chỗ mạnh chỗ yếu khác nhau, và đáp ứng với mọi yêu cầu của nghệ thuật quân sự cận đại.

        Nguyễn Huệ không những đã xây dựng nên các quân binh chủng, không ngừng tăng thêm sức mạnh và hoàn thiện các quân binh chủng đó, mà điều đặc biệt quan trọng hơn, là đã biết phối hợp đúng đắn nhất việc sử dụng những quân, binh chủng đó.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #141 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2016, 08:19:59 am »

       
        CHỈ HUY TÁC CHIẾN
        NGHỆ THUẬT CHIẾN LƯỢC.

        Trong toàn bộ thời gian nội chiến và chống bọn xâm lược nước ngoài, Nguyễn Huệ giữ vai trò quyết định trong quân đội Tây Sơn, và trở nên một vĩ nhân quân sự có uy danh vào bậc nhất. Ông là người tổ chức và thực hành một cách hoàn toàn thắng lợi những cuộc chiến đấu gay go, ác liệt và những chiến dịch quy mô lớn, đưa nghệ thuật quân sự nước ta lên một địa vị cao, có ưu thế so với nghệ thuật quân sự của nhiều tập đoàn phong kiến trong nước và ngoài nước thời bấy giờ.

        Thành công trong chỉ đạo chiến lược của Nguyễn Huệ thể hiện ở chỗ ông đã đánh giá đúng đắn lực lượng quân sự hai bên, vận dụng thật linh hoạt các hình thức cơ động chiến lược, luôn luôn gây bất ngờ cho địch bằng cách sử dụng linh hoạt các quân chủng và chọn hướng tiến công chủ yếu khác nhau, tiến công vào các mục tiêu chiến lược khác nhau. Trong trận tiến công giải phóng Gia Định lần thứ nhất, Nguyễn Huệ đã dùng thủy quân tiến công chủ yếu vào Gia Định, nhằm mục tiêu chính là đạo quân chủ lực Lý Tài, đồng thời dùng bộ binh tiến công trên hướng Bình Thuận - Trấn Biên. Lần giải phóng thứ hai, Nguyễn Huệ dùng đội thuyền chiến mạnh đánh vào Gia Định, nhằm mục tiêu tiến quân là thủy quân nhà Nguyễn. Trong trận tiến công này, đội dự bị chiến lược thủy quân của Nguyên Huệ đã đóng vai trò quyết định tiêu diệt chủ lực của thủy quân Nguyễn.

        Trong thời kỳ quân Xiêm xâm lược, tính chất của chiến tranh đã thay đổi, sự chỉ đạo chiến lược của Nguyễn huệ càng thêm sắc bén. Mục đích chiến lược đề ra rất kiên quyết, kế hoạch chiến lược căn cứ trên khả năng thực tế được đánh giá chính xác hơn, biểu lộ một quyết tâm rất lớn của anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Khi Nguyễn Ánh rước quân Xiêm về thì bộ mặt bán nước của hắn lộ rõ, một bộ phạn lực lượng chính trị - xã hội trước đây vẫn ủng hộ hắn, bây giờ dần dần chuyển sang vị trí mới, ủng hộ nghĩa quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ đã tranh thủ được sự ủng hộ đó, nên sự so sánh lực lượng nghiêng hơn về phía nghĩa quân. Đó là nguyên nhân chủ yếu tạo nên khả năng thắng lợi mau chóng, triệt để hơn cho nghĩa quân Tây Sơn. Và đó cũng là sự chỉ đạo đúng đắn và tài tình của Nguyễn Huệ. Đối thủ của quân đội Tây Sơn sử dụng thủy quân làm lực lượng tiến công chủ yếu, tập trung tiêu diệt nhanh chóng các bộ phận nhỏ, phân tán của quân đội Tây Sơn, đánh đến đâu, củng cố đến đó, sau cùng, tiến tới tổng công kích Gia Định. Để đối phó lại, trong chỉ đạo chiến lược, Nguyễn Huệ càng trở nên linh hoạt, tài tình hơn và đã đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.

        Thành công đó, trước hết là do Nguyễn Huệ đã kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược kìm chân tích cực và chuyển sang chiến lược phản công mãnh liệt, mà mấu chốt là nắm đúng thời cơ để chuyển sang phản công. Tác chiến kìm chân lần này của quân đội Tây Sơn ở miền Gia Định tích cực ở chỗ biết tập trung lực lược để đánh trả. Tuy lực lượng có hạn, nhưng cuộc đánh trả của Trương Văn Đa cũng đã có tác dụng tiêu hao địch, buộc địch không thể tiến nhanh, khiến chủ lực từ Qui Nhơn có thể tiến vào chiến đấu trong những điều kiện có lợi trên một mức độ nhất định. Cũng trong trận quyết chiến chiến lược này, sự phối hợp giữa đánh chặn của bộ binh và tiến công của thủy quân đã có sự nhất trí, khiến cho có thể tập trung toàn bộ thủy quân để chiến đấu. Thủy quân Tây Sơn tuy về số lượng kém thủy quân Xiêm, nhưng nhờ sử dụng một cách tài tình nên đã chiến thắng thật gọn gàng. Chiến thắng oanh liệt quân xâm lược Xiêm đã nâng rất cao uy tín của quân đội Tây Sơn đồng thời cũng chứng minh thêm nghệ thuật chỉ huy điêu luyện của anh hùng Nguyễn Huệ.

        Sang thời kỳ chuyển hướng chiến lược lên phía Bắc, quân đội Tây Sơn có trước mặt họ một quân đội lớn mạnh về số lượng, một quân đội có một lịch sử xây dựng và chiến đấu lâu dài, lại lập trung bố trí trên một hình thái chiến lược có lợi hơn quân Nguyễn trước đây, tức là chỉ đối phó trên một mặt. Nhưng quân đội Tây Sơn lúc đó cũng đã lớn mạnh, bao gồm nhiều binh chủng, số lượng được tăng cường, trang bị được cải tiến, và vẫn giữ ưu thế tuyệt đối về mặt tinh thần.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #142 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2016, 08:20:45 am »


        Để tác chiến trên các chiến trường Phú Xuân, Bắc Hà, Nguyễn Huệ đã dùng phương pháp tập trung lực lượng, mở những chiến dịch quy mô lớn, có sự hiệp đồng chặt chẽ của nhiều quân chủng, tiến hành trên một không gian lớn và trong một thời gian đã quy định, để giáng những đòn quyết định tiêu diệt địch, giải phóng đất đai. Đó là một bước phát triền mới trong nghệ thuật chiến lược của Nguyễn Huệ. Kế hoạch chiến lược của Nguyễn Huệ được thực hiện bằng hai chiến dịch tiến công lớn đễ tiêu diệt quân đội Trịnh. Khi quân đội Thanh sang xâm lược, thì kế hoạch chiến lược lại được thực hiện bằng một cuộc quyết chiến chiến lược vĩ đại.

        Nguyễn Huệ rất chú trọng việc chọn thời cơ chiến lược thích đáng và phát huy tác dụng của bất ngờ. Chiến dịch giải phóng Phú Xuân tiến hành vào lúc quân Trịnh chưa chuẩn bị đối phó với quân Tây Sơn. Chiến dịch giải phóng Thăng Long diệt -nhà Trinh đã được tiến hành bằng sự tranh thủ thời gian, vượt bỏ mọi khu vực đất đai rộng lớn, đưa chiến tranh đến cửa ngõ và trái tim của chế độ nhà Trịnh, vượt quá sức tưởng tượng của vua, chúa, tướng, quân đối phương. Chiến dịch đại phá quân Thanh bắt đầu bằng một cuộc hành quân thần tốc trên một chặng đường dài, tranh thủ tiến công tiêu diệt địch trước khi địch tiếp tục tiến công, đánh vào lúc và nơi mà địch không ngờ tới, khiến Tôn Sĩ Nghị không kịp trở tay.

        Các chiến dịch này đều là những chiến dịch có lục quân và thủy quân tham gia, và sự chỉ đạo của Nguyễn Huệ linh hoạt ở chỗ trao nhiệm vụ cho các quân chủng. Nguyễn Huệ rất chú trọng đến tác dụng của thủy quân, nhưng vẫn căn cứ vào đối tượng chiến lược cụ thể của địch, và tình hình địa hình mà sử dụng quân chủng chiến lược một cách thích hợp nhất. Trong các trận giải phóng Gia Định, thông thường thủy quân được trao nhiệm vụ chủ yếu, giữ vai trò quyết định. Nhưng trên các mặt trận phía Bắc, Nguyễn Huệ lại thông thường trao cho lục quân nhiệm vụ chủ yếu và vai trò quyết định, đồng thời vẫn chú trọng thủy quân, do đó đạt đến sự phối hợp chặt chẽ giữa hai quân chủng chiến lược.

        Vấn đề thành lập đội dự bị có tính chất chiến lược và sử dụng trong những trận quyết chiến chiến lược được Nguyễn Huệ rất chú ý. Khi tập trung lực lượng để sử dụng vào những chiến dịch lớn, Nguyễn Huệ vẫn giữ lại một bộ phận lực lượng làm đội dự bị chiến lược và tùy tình hình cụ thể mà để ở xa hoặc gần. Trong chiến dịch đại phá quân Thanh, việc sử dụng các đơn vị tượng binh, pháo binh và kỵ binh trong thành phần của đội dự bị chiến lược do Nguyễn Huệ nắm, trên hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch, đã bảo đảm việc đột phá chiến dịch và phát triển thắng lợi chiến dịch thành thắng lợi của chiến lược.

        Tóm tắt những đặc điểm của chiến tranh mà quân đội Tây Sơn tiến hành, chúng ta thấy rằng tính chất quyết liệt và gian khổ của nội chiến và chiến tranh giải phóng dân tộc, vị trí đất đai của các bên tham chiến với sự bố cục chiến lược phức tạp trên một không gian dài, hẹp, có nhiều kẻ địch khác nhau, tính chất kiên quyết của mục đích chiến tranh, và sự chênh lệch về lực lượng quân sự đã có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật chiến lược của Nguyễn Huệ và quân đội Tây Sơn. Nét nổi bật trong chiến lược quân sự của Nguyễn Huệ là xuất phát từ những mục đích chính trị của giai cấp, của dân tộc, chiến lược đó đã hình thành trên cơ sở những tính toán chính xác về khả năng của quân đội  Tây Sơn và của các quân đội thù địch. Do đó, chiến lược mang tính chất rất tích cực, rất kiên quyết, xác định đúng đắn các giai đoạn đấu tranh khác nhau và kẻ thù chính của từng giai đoạn, xác định đúng chiến trường chủ yếu và hướng tiến công chủ yếu, tập trung mạnh dạn lực lượng chủ yếu trên chiến trưởng đó và trên hướng đó, phát triển nhịp nhàng các quân chủng, vận dụng một cách sáng tạo các phương pháp đấu tranh vũ trang thích hợp nhất, các hình thức tích cực nhất nhằm mục đích tiêu diệt hoàn toàn quân địch.

        Nhìn về toàn cục, bao giờ quân đội Tây Sơn cũng yếu về số lượng quân đội và trang bị so với quân đội của các kẻ thù. Nhưng quân đội Tây Sơn thông thường giữ quyền chủ động chiến lược, luôn luôn tiến công, luôn luôn giành ưu thế cục bộ để lần lượt tiêu diệt từng tập đoàn chiến dịch, chiến lược của địch.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #143 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2016, 08:23:15 am »


        NGHỆ THUẬT CHIẾN DỊCH

        Chiến dịch là một hiện tượng đấu tranh vũ trang hết sức phức tạp, là tổng hợp của các hành động chiến đấu, theo chủ trương thống nhất, đạt tới mục đích thống nhất, cụ thể là đập tan hoặc tiêu diệt các đơn vị và các lực lượng chiến dịch hoặc chiến lược của đối phương. Chiến dịch được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất, trên một mặt trận rộng lớn, trong một thời gian xác định với những binh lực và khí tài nhất định. Việc chuẩn bị và thực hành chiến dịch tuân theo những quy luật nhất định.

        Xét những yếu tố hình thành của chiến dịch, chúng ta có thể thấy rằng trong quá trình chiến tranh, những trận quyết chiến tiêu diệt quân Xiêm, quân Trịnh và quân Thanh đều mang đầy đủ những yếu tố của chiến dịch. Từ những chiến dịch trên, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm phong phú.

        Nghiên cứu thành phần các quân chủng tham gia chiến dịch, chúng ta thấy các chiến dịch đó đều có sự tham gia của cả hai quân chủng lục quân và thủy quân. Do đấy, xuất hiện các chiến dịch có nhiều quân chủng cùng tiến hành. Đơn vị chiến dịch của các quân chủng khác nhau thực hiện những nhiệm vụ khác nhau, trong hiệp đồng chiến dịch, đều nhằm đạt đến mục đích chung của chiến dịch.

        Nghiên cứu mục đích và tính chất của những hoạt động chiến dấu, các chiến dịch Rạch Gầm - Xoài Mút, Phú Xuân, Bắc Hà và đánh quân Thanh đều là những chiến dịch tiến công. Đó cũng là đặc điểm trong hành động quân sự của quân đội Tây Sơn, nêu bật tính chất kiên quyết, mục đích tiêu diệt sinh lực địch của nó. Chỉ có tiến công kiên quyết và liên tục nhằm bao vây và tiêu diệt từng bộ phận địch mới có thể hoàn toàn đập tan, có thể tiêu diệt quân địch.

        Nhưng xét về mặt hình thức, chiến dịch tiêu diệt thủy quân Xiêm và chiến dịch tiêu diệt quân Thanh, mang hình thức phản công chiến lược. Hai chiến dịch này đều nhằm phá vỡ cuộc tiến công của địch, trong khi, về thực chất quân địch vẫn đang ở thế tiến công chiến lược, đội hình của chúng là đội hình tiến công. Tuy nhiên, xét mục đích và nội dung thì các chiến dịch đó thực chất vẫn là chiến dịch tiến công. Những đặc điểm đó của hai chiến dịch càng nêu rõ nghệ thuật quân sự tài tình của Nguyễn Huệ. Sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn, đặc biệt là việc tranh thủ thời gian và hành động chiến lược bất ngờ, việc tổ chức chu đáo và sự thực hành kiên quyết đã giành thắng lợi rực rỡ cho chiến dịch.

        Nghiên cứu quy mô của binh lực được huy động, các chiến dịch có nhiều chỗ khác nhau. Trong chiến dịch tiêu diệt quân Xiêm, các thuyền chiến được huy động có hạn. Đó là một chiến dịch do một lực lượng chiến dịch liên hợp tiến hành. Trong hai chiến dịch tiêu diệt quân Trịnh, lực lượng huy động lớn hơn. Ngoài ra, một điều đáng chú ý nữa là: trong chiến dịch tiêu diệt quân Xiêm, số lượng thuyền chiến Tây Sơn ít hơn quân Xiêm, nhưng hỏa lực mạnh hơn. Xét cả hai mặt số lượng và chất lượng, chiến dịch được tiến hành trong điều kiện lực lượng hai bên không chênh lệch nhau lớn lắm, tuy quân Xiêm vẫn có lợi thế. Trong chiến dịch Phú Xuân, quân đội Nguyễn Huệ kém quân Trịnh về số lượng bộ binh, nhưng mạnh hơn địch về thủy quân và pháo binh. Trong chiến dịch tiếp sau, lực lượng hai bên cũng gần ngang nhau, lục quân Trịnh chiếm ưu thế, nhưng thủy quân yếu hơn thủy quân Tây Sơn. Xét một cách tổng hợp, quân Trịnh vẫn có lợi hơn. Đến chiến dịch tiêu diệt quân Thanh thì so sánh lực lượng có chênh lệch lớn, có lợi cho quân Thanh. Nghiên cứu quy mô đó, chúng ta sẽ thấy được quân đội Tây Sơn đã chiến thắng thật huy hoàng, trong thế thua kém hơn địch về số lượng.

        Mỗi chiến dịch có đặc điểm của nó. Chiến dịch tiêu diệt thủy quân Xiêm là một chiến dịch mà đơn vị chiến dịch xuất phát từ căn cứ ở xa địch, nhanh chóng vận động đến chiếm lĩnh các đoạn sông đã lựa chọn, rồi kéo thủy quân địch ra khỏi căn cứ để tiêu diệt. Chiến dịch Phú Xuân là một chiến dịch bắt đầu trong điều kiện hai quân đội đã tiếp xúc với nhau từ lâu; đơn vị chiến dịch chủ yếu thực hành chọc thủng phòng ngự có chuẩn bị của địch, trong khi lực lượng ở hướng thứ yếu vu hồi bằng đường biển vào trung tâm bố trí của địch. Chiến dịch Thăng Long diệt Trịnh bắt đầu trong điều kiện ở rất xa địch, thời gian chuẩn bị có hạn, có đội thuyền chiến phái đi trước đánh chiếm đầu cầu chiến lược để chủ lực vào chiến đấu. Cuối cùng, chiến dịch tiêu diệt quân Thanh được chuẩn bị trong thời gian có hạn, có quân đội che chở phía trước để chủ lực từ trong hậu phương chiến lược vận động đến, triển khai thành thế trận chiến dịch, rồi trong hành quân tiến đánh quân địch đương tạm thời dừng cuộc tiến công.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #144 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2016, 08:24:05 am »


        Mỗi chiến dịch của Nguyễn Huệ đều căn cứ vào khả năng chiến lược và nhằm đạt những nhiệm vụ chiến lược nhất định. Trong chiến dịch đánh quân Xiêm, tinh thần chống ngoại xâm và ủng hộ Tây Sơn của nhân dân miền Gia Định và việc tăng cường hỏa lực cho các thuyền chiến, đã tạo cho chiến dịch những khả năng lớn. Mặt khác, khi tồ chức chiến dịch, Nguyễn Huệ lại biết căn cứ vào khả năng của chiến thuật thủy quân, như kinh nghiệm chiến đấu trên sông lớn, tốc độ cơ động, sức mạnh của hỏa lực, mà đề ra nhiệm vụ cho chiến thuật: đánh vào giữa đội hình của địch, chia cắt đễ tiêu diệt từng bộ phận địch. Trong chiến dịch thứ hai (hạ Phú Xuân), tinh thần căm ghét cao độ của nhân dân và quân đội Tây Sơn đối với nhà Trịnh, việc tăng cường và cải tổ lục quân thành những đơn vị lớn, vừa có sức đột kích mạnh, có hỏa lực mạnh, vừa có phương tiện cơ động của thủy quân, đã xác định rằng đơn vị chiến dịch đó hoàn toàn có thể dùng ưu thế của mình để đánh một tập đoàn lớn của quân Trịnh, hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch và giải phóng một bộ phận đất dai. Với khả năng hỏa lực của pháo binh dã chiến, với khả năng đổ bộ của thủy binh, chiến dịch đã xác định cho chiến thuật nhiệm vụ chọc thủng thành lũy kiên cố của địch và đổ bộ lên bờ để tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch. Trong chiến dịch thứ ba (hạ Thăng Long diệt nhà Trịnh), do được tăng cường thêm binh lực, tăng cường thuyền chiến và thuyền vận tải, do nắm được tinh thần căm ghét chúa Trịnh ngày càng cao của quân và dân, chiến dịch đã có phương tiện cơ động đầy đủ, có khả năng tiến sâu vào lòng địch, đánh địch khi chúng chưa kịp triển khai, hoàn thành nhiệm vụ chiến lược tiêu diệt đại quân của nhà Trịnh, chiếm toàn bộ Bắc Hà, đạt đến mục đích đánh đổ thế lực nhà Trịnh. Chiến dịch có hoàn thành được nhiệm vụ hay không còn tùy thuộc vào chiến thuật có đủ khả năng dùng tác chiến đổ bộ của thủy quân đánh chiếm và giữ vững một đầu cầu, khả năng chiến đấu dã ngoại của bộ binh, khả năng bao vây, vu hồi, truy kích của kỵ binh hay không. Vì vậy mà các nhiệm vụ chiến thuật đã được xác định rõ ràng, trong đó nhiệm vụ chiến thuật rất quan trọng là đánh chiếm đầu cầu, tiêu diệt thủy quân nhà Trịnh.

        Trong chiến dịch lần thứ tư (diệt quân Thanh), khả năng chiến lược càng lớn hơn nhiều, sức đột kích, hỏa lực, sức cơ động đều được nâng cao. Việc tổ chức các đạo quân có sức tiến công mạnh, việc động viên tinh thần chống ngoại xâm của quân và dân đã giúp cho Nguyễn Huệ có thể hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân Thanh, giải phóng Thăng Long và toàn bộ đất đai Bắc Hà, đạt mục đích đập tan cuộc xâm lược của nhà Thanh, giữ vững độc lập của Tổ quốc. Nhiệm vụ của chiến thuật rất phức tạp nhưng khả năng chọc thủng thành lũy kiên cố, đánh chặn, truy kích, có nhiều. Cho nên chiến dịch này đã trao cho chiến thuật (chiến thuật hợp đồng binh chủng của lục quân, chiến thuật của thủy quân, của pháo binh, của tượng binh và kỵ binh), những nhiệm vụ nặng nề. Thực tế chứng minh chiến dịch đã tận dụng khả năng của chiến lược và tận dụng khả năng của chiến thuật để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến dịch, và do đó, hoàn thành nhiệm vụ của chiến lược. Mục đích chiến lược đề ra đã đạt được đầy đủ.

        Từ những vấn đề trên, chúng ta có thể rút ra mối quan hệ khăng khít giữa chiến dịch và chiến lược, giữa chiến dịch và chiến thuật. Đó là: chiến dịch phụ thuộc vào chiến lược chiến dịch là phương tiện để đạt tới mục đích chiến lược của chiến tranh. Cho nên chiến dịch phải được xây dựng thật phù hợp với nhiệm vụ và khả năng của chiến lược. Chiến lược trực tiếp chỉ đạo nghệ thuật chiến dịch.

        Đi đôi với chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch đóng vai trò chỉ đạo, chiến dịch là một trong những nhân tố chủ yếu nhất làm cho chiến thuật phát triển. Ngược lại, chiến thuật phụ thuộc vào nghệ thuật chiến dịch, là công cụ để hoàn thành nhiệm vụ của chiến dịch. Đồng thời chiến lược phải chú ý đến khả năng của chiến dịch, và chiến dịch lúc đó cũng phải chú ý đến khả năng của chiến thuật. Một điều rất rõ là do khả năng chiến thuật kém, quân đội Trịnh đã không bao giờ đạt đến mục đích tiêu diệt quân Nguyễn. Trái lại quân Nguyễn cũng không đạt tới mục đích phản công tiêu diệt một bộ phận quân Trịnh để đánh tan tiến công của quân Trịnh. Chiến tranh liên tiếp nổ ra trong hàng thế kỷ, nhưng quân đội hai bên vẫn chỉ quanh quẩn trên hai bờ sông Gianh, dưới chân các thành lũy.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #145 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2016, 08:24:36 am »


        Các chiến dịch của Nguyễn Huệ bao giờ cũng nhằm vào việc tiêu diệt một lực lượng chiến dịch, chiến lược của địch, đồng thời chiếm và giữ những mục tiêu hoặc tuyến quan trọng của địa hình có ý nghĩa về chiến lược, chiến dịch, hoặc để kết thúc một giai đoạn nào đó của chiến tranh, hoặc để tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch sau. Giữa hai nhiệm vụ của chiến dịch bao giờ Nguyễn Huệ cũng đặt nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch lên hàng chủ yếu. Đồng thời Nguyễn Huệ cũng đặt việc đánh chiếm mục tiêu hoặc tuyến địa hình thành một nhiệm vụ quan trọng để phục vụ cho việc tiêu diệt sinh lực địch, đảm bảo cho việc bảo tồn mình, cho nên giữa hai nhiệm vụ, có mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời nhau được. Chiếm Đồng Hới và tuyến sông Gianh vừa là bảo đảm tiêu diệt toàn bộ lực lượng của Phạm Ngô Cầu, vừa là nhằm chuẩn bị cho chiến dịch tiếp sau. Chiếm Vị Hoàng là để tạo điều kiện tiêu diệt chủ lực quân Trịnh. Giữ tuyến núi Tam Điệp, chiếm tuyến Phượng Nhãn, Yên Thế, Lạng Giang và Hải Dương là để tiêu diệt toàn bộ quân Thanh. Cho nên, trong chiến dịch, việc chiếm và giữ các mục tiêu hoặc tuyến nào đó của địa hình là rất quan trọng, nhưng nó chỉ có ý nghĩa khi nó đảm bảo cho việc tiêu diệt sinh lực địch. Tất nhiên việc tiêu diệt sinh lực địch, việc chiếm mục tiêu và tuyến địa hình đòi hỏi phải sử dụng tập trung binh lực, cơ động, dũng cảm, mạnh bạo, đòi hỏi phải thực hiện được bao vây chặt, phải đập tan các cuộc phản kích của địch (như trong chiến dịch Thăng Long tiêu diệt quân Trịnh).

        Mục đích của  chiến dịch, biện pháp để đạt tới mục đích đó đã nêu lên một đặc điểm chung thứ nhất cho các chiến dịch của Nguyễn Huệ: các chiến dịch đều có mục đích rất kiên quyết và cách tiến hành rất kiên quyết. Nó khác rất xa nghệ thuật tác chiến của các quân đội Trịnh, Nguyễn, Lê, Xiêm, Thanh.

        Trong các chiến dịch, Nguyên Huệ bố trí thế trận chiến dịch trên nhiều mục tiêu, nhiều đoạn, nhiều hướng, cách xa nhau. ở trên một mục tiêu, một đoạn, một hướng nào đó, mặt chính để tiến công chỉ hẹp, nhưng do có nhiều mục tiêu, đoạn, hướng, nên lại hình thành mặt chính rộng có nhiều khoảng cách, đồng thời giữ một chiều sâu nhất định cho thế trận của mình. Mặt chính trên một mục tiêu, một đoạn, một hướng cụ thể hẹp và có chiều sâu của thế trận là để tạo nên mũi nhọn tiến công liên tục và mạnh mẽ. Mặt chính rộng của các hướng hợp lại là dựa trên khả năng cơ động của quân đội Tây Sơn, đồng thời chỉ có hành động trên mặt chính rộng như vậy thì mới phát huy đầy đủ khả năng cơ động của những lực lượng lớn. Các hướng chiến dịch đều đánh vào chiều sâu lớn của địch. Chiều sâu lớn của các chiến dịch chứng tỏ Nguyễn Huệ luôn luôn nhằm vào các lực lượng chủ yếu bố trí trong sâu của đối phương, và nắm được sức cơ động của quân đội mình, nhất là biết sử dụng thành thạo tượng binh, kỵ binh và thủy quân. Cho nên, có trường hợp đột phá xong mới phát triển vào chiều sâu (như chiến dịch giải phóng Thăng Long diệt Trịnh và chiến dịch đại phá quân Thanh), có trường hợp đồng thời đột phá mặt chính và tiến công vào sâu (như chiến dịch Phú Xuân). Trong chiến dịch Rạch Gầm - Xoài Mút, đoạn sông được lựa chọn để quyết chiến có một chiều dài chừng 7 ki-lô-mét, chủ lực của thủy quân Tây Sơn bố trí sâu trên một đoạn sông chừng 6 ki-lô-mét. Trong chiến dịch Phú Xuân bề sâu của chiến dịch đến 300 ki-lô-mét, thời gian của chiến dịch là trong phạm vi 10 ngày, tốc độ tiến công là trên 30 ki-lô-mét một ngày. Không có thủy quân và kỵ binh thì không thể có tốc độ tiến công đó. Trong chiến dịch Thăng Long, bề sâu của chiến dịch là 90 ki-lô-mét, tác chiến trong thời gian 10 ngày, tốc độ tấn công chừng 9 ki- lô mét một ngày. Nhưng nếu tính chủ lực vào chiến đấu, thì từ Vị Hoàng đến Thăng Long, tốc độ tiến công là trên 22 ki-lô-mét một ngày. Trong chiến dịch phá quân Thanh tính mặt chính của các hướng đến 40 ki-lô-mét, bề sâu của chiến dịch là 80 ki-lô-mét, thời gian tác chiến 5 ngày, tốc độ tiến công là 5 ki-lô-mét một ngày. Đây không tính đến chiều sâu và tốc độ trong truy kích quân địch đến biên giới.

        Các chiến dịnh có quy mô lớn, nhưng thời gian chuẩn bị đều rút ngắn. Sở dĩ như vậy là vì phải tranh thủ thời gian, tác chiến trong thời cơ có lợi, phải tranh thủ bất ngờ, đồng thời còn do trình độ sẵn sàng chiến đấu và khả năng cơ động cao của quân đội Tây Sơn quyết định. Cho nên, tổng hợp các mặt có liên quan mật thiết với nhau trong những vấn đề trên, có thể rút ra một đặc điểm chung thứ hai của các chiến dịch do Nguyễn Huệ chỉ huy: chiến dịch có mặt chính khá rộng, có chiều sâu lớn, tốc độ tiến công cao, tiến hành trong điều kiện thời gian chuẩn bị hạn chế.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #146 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2016, 08:25:42 am »


        Mặc dù về lực lượng, quân đội Nguyễn Huệ thường kém hoặc xấp xỉ bằng địch, nhưng lại tiến công địch cho nên bao giờ cũng ở vào địa vị chủ động, và giữ thế chủ động đó trong toàn bộ quá trình chiến dịch, tuy rằng có khi phải đánh với lực lượng phản kích của địch. Các công tác chuẩn bị cho chiến dịch được tiến hành bí mật, nhanh chóng, có biện pháp phao tin đánh lừa địch, có biện pháp vận động từ xa đến một cách rất bí mật, quân giấu bí mật, che chở chu đáo cho nên dù chiến dịch bắt đầu vào những thời gian, thời tiết khác nhau, bao giờ Nguyễn Huệ cũng tranh thủ được bất ngờ, làm cho địch không kịp chuẩn bị. Có khi địch đang ở thế chủ động lại thành bị động, đã bị động càng đi sâu vào bị động hoàn toàn, trở tay không kịp. Do đó dù địch có ưu thế về lực lượng mà không sử dụng được ưu thế đó tức là không có ưu thế thực sự. Những điểm trên nêu lên một đặc điểm chung thứ ba của các chiến dịch của Nguyễn Huệ là ý nghĩa của sự giành giữ chủ động, của việc tranh thủ và phát huy yếu tố bất ngờ là rất lớn.

        Trong các chiến dịch của Nguyễn Huệ, do đội hình chiến dịch có nhiều đạo quân, đội quân, nhiều bộ phận, nhưng việc phân chia nhiệm vụ và sử dụng các đạo, đội hoặc các bộ phận đã đạt trình độ nghệ thuật cao. Do đó sức tiến công được tăng cường không ngừng. Đạo quân đi trước (hoặc đội) và đạo, đội tiếp sau (hoặc đội dự bị) hành động rất nhất trí. Trong chiến dịch Thăng Long, sau khi thủy quân Tây Sơn đã tiêu diệt thủy quân Trịnh, Nguyễn Huệ cho đổ bộ một bộ phận bộ binh để tập kích bất ngờ địch và chia cắt đội hình của địch, còn chủ lực thì tung vào Thăng Long. Do đó, quân Trịnh bị chia cắt thành nhiều bộ phận không thể hiệp đồng nhất trí. Khi quân đội Tây Sơn vây đồn, tăng cường sức tiến công, quân Trịnh không thể thoát khỏi bị tiêu diệt. Những điểm trên nêu lên một đặc điểm chung thứ tư của các chiến dịch do Nguyễn Huệ chỉ huy: trong quá trình chiến dịch, không ngừng nâng cao sức tiến công, cơ động lực lượng nhanh chóng sử dụng các đạo, đội quân hoặc đội dự bị đưa vào chiến đấu trong thời cơ và phương hướng có lợi.

        Trong các chiến dịch của Nguyễn Huệ, vấn đề bảo đảm vật chất được đặc biệt chú ý. Các chiến trường thường ở xa khu căn cứ hậu phương, chiến dịch có chiều sâu rất lớn, lực lượng tham gia rất đông, cơ động rộng rãi, thời gian vận động tiến đến gần địch và tác chiến khá dài, khiến cho công tác bảo đảm lương thực, thực phẩm, đạn dược rất phức tạp nhưng phải được tiến hành chu đáo. Nguyễn Huệ bao giờ cũng thực hiện hai biện pháp để bảo đảm cho chiến dịch: tổ chức cung cấp từ sau lên, và tranh thủ cung cấp tại chỗ. Đó là đặc điểm chung thứ năm của các chiến dịch: việc bảo đảm vật chất chu đáo được xem là một trong những nguyên nhân bảo đảm thắng lợi cho chiến dịch.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #147 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2016, 08:26:23 am »


        CHIẾN  THUẬT

        Chúng ta biết rằng chiến thuật là một bộ phận khăng khít của nghệ thuật quân sự. Chiến thuật nghiên cứu và đề ra những biện pháp tổ chức chiến đấu và các nguyên tắc và quy tắc tiến hành chiến đấu. Nếu chiến lược và chiến dịch là lĩnh vực của khâu chỉ huy cao cấp thì chiến thuật lại trực tiếp gắn liền với sự hoạt động của đông đảo quần chúng binh sĩ và chỉ huy. Các binh sĩ và chỉ huy hoàn thành nhiệm vụ chiến lược và chiến dịch qua nhiệm vụ chiến thuật. Vì vậy, chiến thuật là nơi phản ánh rõ rang nhất chất lượng tinh thần và chiến đấu của quân đội.

        Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, chiến thuật của quân đội Tây Sơn, cũng như nghệ thuật quân sự nói chung, đã phát triển không ngừng. Cơ sở của sự phát triển đó là tinh thần chiến đấu cao của người lính trong quân đội cách mạng của nông dân, của nhân dân nói chung, và sự thay đổi về chất lượng và số lượng vũ khí và phương tiện chiến tranh trong quân đội của Nguyễn Huệ.

        Tinh thần chiến đấu cao, tinh thần chịu đựng gian khổ, tinh thần chỉ thắng không bại của những người lính trong quân đội Nguyễn Huệ đã khiến cho họ biết vận dụng một cách sáng tạo những kinh nghiệm chiến đấu, lấy đó làm cơ sở nâng cao trình độ chiến thuật. Người lính trong quân đội Nguyễn Huệ có tinh thần chiến đấu cao, đồng thời có nhiều vũ khí cải tiến, nắm vững và biết phát huy tác dụng của vũ khí. Cho nên chiến thuật của quân đội Tây Sơn phát triển rất nhanh, tuy nó là một quân đội trẻ, xây dựng trong quá trình khởi nghĩa và chiến tranh.

        Giữa quân đội Nguyễn Huệ và quân đội phản động, về mặt chất lượng của vũ khí, sự khác nhau không nhiều. Song, về mặt số lượng vũ khí và thành phần trong biên chế, thì có sự khác nhau. Sự khác nhau đó, cộng với sự khác nhau giữa hai loại binh sĩ, đã đẻ ra sự khác nhau trong chiến thuật, trong sự phát triển chiến thuật của hai loại quân đội.

        Từ thế kỷ XVI trở về trước, vũ khí chủ yếu là bạch binh, cho nên chiến đấu chỉ có một giai đoạn: những khối lượng người tiến công vào đối phương bằng cách phóng lao, bắn cung nỏ từ một cự ly nhất định, rồi xung phong đánh giáp lá cà, dùng dao, gươm chém giết lẫn nhau. Nhưng đến thế kỷ thứ XVII, XVIII, súng trường, pháo binh, tức một yếu tố mới là hỏa lực, xuất hiện, chiến đấu chia thành hai giai đoạn: đánh bằng hỏa lực, rồi dùng sức mạnh đánh giáp lá cà để đập tan đối phương. Từ bao gồm hai yếu tố: đột kích và cơ động, chiến đấu đã phát triển them một yếu tố hỏa lực. Do đó, nghệ thuật chiến thuật thời đại bấy giờ đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ ba yếu tố đó của chiến đấu.

        Trong các quân đội Trịnh và Nguyễn, số lượng của hỏa khí bộ binh ít, vì chưa có pháo binh dã chiến, hoặc có những với số lượng còn ít, nên chiến đấu chủ yếu dựa vào sức tiến công bằng sức lực của các khối bộ đội với bạch binh. Dù chiến đấu trên thành lũy hay chiến đấu ở dã ngoại, dù tiến công hay phòng ngự, trong hai quân đội đó, vai trò của đột kích vẫn là chủ yếu, vai trò của hỏa lực và cơ động còn rất thấp.

        Khác thế, Nguyễn Huệ đã biết kết hợp khá chặt chẽ ba yếu tố hỏa lực, đột kích và cơ động. Chiến thuật đã có bước phát triển rất lớn về hai mặt:

        1. Nâng cao vai trò của hỏa lực và cơ động tuy rằng đột kích vẫn giữ vai trò quyết định. Dùng hỏa khí để tiêu hao địch, dùng sức đột kích và cơ động để phá vỡ hệ thống đề kháng đánh chặn có tổ chức của địch, tạo nên những điều kiện mới để thực hiện những đòn đột kích mới. Trong khi dùng hỏa khí, đã có sự kết hợp giữa bắn và vận động của người lính, giữa đi đến cự ly tầm bắn của đối phương và chạy lên xung phong.

        2. Chiến đấu không còn là do bộ binh đơn thuần, hoặc bộ binh làm nhiệm vụ chủ yếu nhất mà các binh chủng khác chỉ là phụ thuộc. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, các binh chủng pháo binh, bộ binh, tượng binh, và kỵ binh, trong chiến đấu, đã có sự phân công rành rõ và hợp tác chặt chẽ hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ chung để đạt tới mục đích chung. Cho nên, chiến thuật của quân đội Tây Sơn đã mang rõ nét tính chất của chiến thuật hợp đồng các binh chủng. Thắng lợi của chiến đấu là do các binh chủng hiệp đồng động tác chặt chẽ, nỗ lực thực hiện nhiệm vụ chung, tuy rằng hỏa lực có nhiệm vụ chủ yếu là phá hoại và tiêu hao, sức đột kích của bộ binh và tượng binh làm nhiệm vụ tiêu diệt đại bộ phận địch (trong đó vai trò quan trọng nhất thuộc về bộ binh), và cơ động là để thực hành đột kích thắng lợi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #148 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2016, 08:27:17 am »


        Do đó, chúng ta có thể rút ra một đặc điểm đầu tiên trong chiến đấu và chiến thuật của quân đội Tây Sơn như sau: Thông thường pháo binh mở đầu, bộ  binh (có tượng binh hoặc không có) đánh đòn đột kích quyết định (tiêu diệt đại bộ phận địch, chiếm giữ thành lũy, mục tiêu), kỵ binh kết thúc chiến đấu (phát triển thắng lợi, truy kích, tiêu diệt nốt bộ phận còn lại của địch). Đương nhiên, không phải trong bất kỳ trận chiến đấu nào, quân dội Tây Sơn đều đánh như vậy. Nhưng về đại thể, các trận chiến đấu đều diễn ra như trên.

        Trong lục quân, chiến thuật là chiến thuật hợp đồng binh chủng.

        Vấn đề thứ hai, gắn liền với vấn đề trên, là đội hình chiến đấu. Trong thời đại phong kiến, trước khi súng trường và đại bác xuất hiện, tác chiến thường xảy ra xung quanh các thành quách kiểu vuông. Đội hình chiến đấu thường áp dụng là: đối với quân phòng ngự, mỗi cơ hoặc đội (tùy theo thành lớn, nhỏ) dàn thành đội hình hàng ngang hoặc dọc theo một tường thành. Trên bốn tường thành có bốn cơ hoặc đội chiếm giữ. Cơ hoặc đội thứ năm đóng ở giữa, làm đội dự bị, thường dùng để tăng viện cho nơi bị uy hiếp. Người chỉ huy thành quách trực tiếp nắm đội dự bị. Do đó mà có tiền, hậu, tả, hữu, trung. Đối với quân tiến công, các cơ, đội hoặc đạo cũng dàn thành hàng ngang:  bốn cơ hoặc đội, đạo tiến công trên bốn mặt của thành lũy. Cơ (đội đạo) thứ năm làm đội dự bị, do chỉ huy trực tiếp nắm, được bố trí ở một nơi, chủ yếu dùng để tăng viện cho hướng nào hoặc bị thiệt hại nhiều hoặc có khả năng leo trèo lên thành để tăng thêm sức đột kích. Khi chiến đấu ở dã ngoại, đội hình căn bản không có gì khác, đội hình bốn mặt tỏa ra thành bốn khối trên hàng ngang, ở phía sau là đội dự bị. Chiến thuật, theo đội hình này, là dàn đều binh lực trên chính diện, dựa vào sức mạnh của khối bộ binh dày đặc đó mà đột kích. Khi xuất hiện thành lũy kiểu chạy dài theo bề ngang, như các lũy của quân Nguyễn, thì đội hình chiến đấu, và chiến thuật nói trên cũng không thay đổi gì. Từ khi súng trường và đại bác xuất hiện, sức mạnh phòng ngự của quân đội Nguyễn, Trịnh dựa trên sự kết hợp giữa hỏa lực của pháo binh với phương tiện chướng ngại (như thành lũy, sông ngòi, chiến hào ...). Bên tiến công vẫn lấy sức đột kích của các khối bộ binh dày đặc để tiến công.

        Quân đội Nguyễn Huệ đã áp dụng một đội hình chiến đấu kiểu mới. Tuy quân đội vẫn tổ chức theo ngũ ngũ chế, nhưng trong một đạo, ngoài bộ binh, đã có pháo binh, kỵ binh và tượng binh. Dựa trên cơ sở tinh thần chiến đấu cao của quân đội và trước sự phát triển của pháo binh, súng trường, Nguyễn Huệ đã bỏ lối tiến gần địch theo đội hình hàng ngang dày đặc.

        Chiến thuật dàn đều binh lực trên mặt chính đã được thay thế bằng chiến thuật tập trung lực lượng đột kích mãnh liệt trên đoạn quyết định của đội hình chiến đấu. Cơ sở của chiến thuật này là dũng cảm, cơ động và thọc sâu kết hợp với hỏa lực và đột kích. Thế là thành lũy và đội hình nặng nề, kém cơ động của quân đội phong kiến phản động đã bị đội hình rất linh hoạt, rất co giãn, rất cơ động của quân đội Nguyễn Huệ đánh tan, chiến thuật phân tán binh lực trên mặt chính đã bị chiến thuật tập trung binh lực có bề sâu phá vỡ. Chiến thuật phát triển lên một bước mới, đó là chiến thuật hợp đồng binh chủng, với sự tập trung lực lượng tiến công trên một điểm quyết định, bằng hình thức đánh vào mặt chính kết hợp với thọc sâu, vu hồi, bao vây địch. Chiến thuật của từng binh chủng cũng thành hình rõ hơn: pháo binh tập trung bắn, mở đường cho tượng binh và bộ binh xung phong. Tượng binh lợi dụng sức mạnh để xông lên trước, rồi tỏa sang hai bên tả, hữu cho bộ binh tiếp tục xông lên thành nhiều đợt, dùng bạch binh xung phong. Hoặc tượng binh mang pháo hạng nặng, từ xa bắn vào thành lũy địch, bắn yểm hộ cho bộ binh phát triển. Cuối cùng là kỵ binh nhanh chóng thọc vào sâu, tùy theo tình huống mà tiến thẳng hoặc vu hồi hoặc đột kích sau lưng, và truy kích.

        Đó là một đội hình chiến đấu rất co giãn, rất linh hoạt và một chiến thuật kết hợp được đầy đủ ba yếu tố, đột kích, cơ động và hỏa lực. Việc sử dụng pháo binh dã chiến một cách tập trung là rất quan trọng, nó giúp cho việc giải quyết tốt vấn đề đột phá thành lũy của thời đó. Nguyễn Huệ không những tài giỏi trong việc chỉ huy bộ binh, kỵ binh, thủy binh mà còn giỏi về pháo binh nữa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #149 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2016, 08:27:53 am »


        Trong quá trình chiến tranh, các hình thức chiến đấu trở nên phong phú. Tại chiến trường Gia Định, để ngăn chặn những lực lượng yếu của địch, hình thức phòng ngự của quân đội Tây Sơn tiến hành dựa trên các tuyến công sự mang tính chất phòng ngự cứ điểm. Nhưng, chiến đấu tiến công (kể cả tiến công thành lũy kiên cố, tiến công trận địa dã chiến và tiến công vận động) vẫn là bình thức chiến đấu chủ yếu. Tiến công vận động nổi lên hàng đầu. Các trận chiến đấu tiến công do Nguyễn Huệ chỉ huy ở miền Gia Định, hoặc ở miền đồng bằng Bắc Hà trở nên rất cơ động, kết hợp chặt chẽ giữa vận động với kỹ năng bắn và khả năng hiệp đồng khá giỏi của các binh chủng, các đơn vị tham gia chiến đấu. Quân đội Nguyên Huệ đã áp dụng đầy đủ các loại chiến thuật: tập kích bắt ngờ, công kích bằng sức mạnh (trận địa dã chiến hoặc công thành), chờ sẵn để phục kích, kéo địch tới để phục kích, tao ngộ truy kích, v.v.

        Các thủ đoạn chiến đấu cũng phát triển. Từ tiến công chính diện kết hợp với thọc sâu (như trong các trận đầu do Nguytn Huệ chỉ huy tiến tiến công chính diện kết hợp với vu hồi vào một sườn, vu hồi hai sườn (nhất là khi có thủy quân), sau lại có thêm tiến công chính diện kết hợp với vu hồi cạnh sườn và sau lưng, hình thành bao vây (như trong các trận tiêu diệt quân Trịnh và quân Thanh). Các thủ đoạn chiến đấu đó rất thích hợp, nhằm nhanh chóng tiêu diệt lực lượng phân tán của địch, không cho đội dự bi của địch ra chiến đấu, không cho địch có thể tập trung lực lượng và phương tiện tại địa điểm và trong thời gian cần thiết. Biết chia cắt địch và tập trung lực lượng để tiêu diệt từng bộ phận địch là một trong những biểu hiện căn bản của nghệ thuật chỉ huy cao của Nguyễn Huệ. Cơ động nhanh và giỏi đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo đảm ưu thế về lực lượng và phương tiện trên hướng tiến đánh chủ yếu. Nó còn là một thủ đoạn để giành bất ngờ chiến thuật. Cơ động đã trở nên một trong những phương pháp chủ yếu nhất đề đột kích thắng lợi. Cũng do cơ động nhanh chóng mà tốc độ tiến công được nâng cao không ngừng.

        Những điều trình bày ở trên cho ta thấy đặc điểm của chiến thuật Nguyễn Huệ là: tính chủ động rộng rãi, tính cơ động nhanh chóng, tính kiên quyết mãnh liệt, tính nhiều hình nhiều vẻ trong phương pháp và hình thức tiến hành chiến đấu. Đứng trước một quân đội như vậy, các đối thủ Trịnh, Lê, Nguyễn, Xiêm, Thanh, chỉ biết đưa ra một chiến thuật cứng nhắc, chậm chạp, cho nên họ đã thất bại nhanh chóng.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM