Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:53:37 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ  (Đọc 43797 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #90 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 08:07:45 am »

       
        Sau khi phân phối đội ngũ và trao nhiệm vụ cho các đạo quân, Nguyễn Huệ hạ lệnh ngày 30 tháng Chạp năm Mậu Thân tức ngày 25 tháng 1 năm 1789 sẽ xuất quân đến đánh các đồn tiền tiêu của giặc. Ngày hôm ấy, trước khi lên đường, Nguyễn Huệ cho làm tiệc khao quân và nói với tướng sĩ rằng:

        "Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên đán trước, đợi đến mồng 7 tháng Giêng vào thành Thăng Long, sẽ mở tiệc lớn. Các người hãy ghi lấy lời ta nói xem có đúng thế không"1.

        Sau bữa tiệc lên đường, đạo quân chủ lực của Nguyễn Huệ rầm rộ xuất phát, "quân xếp thành hàng lại có voi đi kèm giúp sức"2. Ngay đêm hôm ấy, 30 tháng Chạp năm Mậu Thân đạo quân chủ lực của Nguyễn Huệ vượt sông Gián Thủy, tiến công vào đồn Gián Khẩu, một đồn tiền tiêu của giặc do quân Lê Chiêu Thống đóng giữ. Quân Lê hoàn toàn tan vỡ, tướng Lê là Hoàng Phùng Tứ3 bỏ chạy. Nguyễn Huệ cho quân theo phía sông Thanh Quyết tiến lên4, dọc đường gặp một toán quân Thanh do thám. Toán quân này trông thấy bóng quân Tây Sơn vội vàng bỏ chạy. Nguyễn Huệ một mặt cho quân đuổi bắt toán quân Thanh do thám, một mặt, trên đường hành quân, lần lượt tiêu diệt các đồn quân Thanh đóng ở xa Thăng Long5, như các đồn ở bờ bắc sông Nguyệt Quyết (thuộc huyện Thanh Liêm) và đồn Nhật Tảo (thuộc huyện Duy Tiên). Đạo quân chủ lực của Nguyễn Huệ tiến tới huyện Phú Xuyên6 (thuộc Hà Tây ngày nay) thì bắt sống được toàn bộ toán quân Thanh do thám. Vì các đồn quân ở xa và toán quân do thám đều bị tiêu diệt gọn hoặc bị bắt gọn, nên các đồn quân Thanh từ Hà Hồi trở về Thăng Long không biết tin tức gì về việc tiến quân của quân Tây Sơn.

        Nửa đêm mồng 3 tháng Giêng năm Kỷ Dậu tức ngày 28 tháng 1 năm 1789, quân Tây Sơn tiến tới trước đồn Hà Hồi, một trong những đồn quân quan trọng của quân Thanh ở cách Thăng Long chừng 20 ki-lô-mét. Nhưng quân Thanh trong đồn không biết gì hết. Nguyễn Huệ cho vây chặt lấy đồn, rồi bắc loa truyền hịch, tiếng quân lính thưa vang, tưởng như có mấy vạn người đang chuẩn bị xung phong vào đồn. Quân Thanh trong đồn giật mình hoảng sợ, mất hết tinh thần chiến đấu, lũ lượt ra hàng. Quân Tây Sơn thu hết lương thực, khí giới. Như thế là chỉ trong khoảnh khắc Nguyễn Huệ đã hoàn toàn tiêu diệt đồn Hà Hồi của quân Thanh mà không mất một mũi tên, hòn đạn.

--------------------
        1. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 33.

        2. Trần Nguyên Nhiếp, Tài liệu đã dẫn, tr. 115.

        3. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 33 viết là Hoàng Phùng Nghĩa.

        4. Gián Khẩu thuộc trấn Sơn Nam. Có nhiều sách viết gần đây thường cho rằng sau khi đánh xong Gián Khẩu, Nguyễn Huệ cho quân vào đánh Nam Định, trấn lỵ Sơn Nam. Việc này không chắc có thật, một là quân Tay Sơn không cần thiết phải rẽ vào đánh Nam Định rồi mới quay trở ra theo sông Thanh Quyết tiến lên, hai là trấn lỵ Sơn Nam lúc ấy gọi là Vị Hoàng, không gọi là Nam Định, mà trong các sử cũ đều không nói đến việc Nguyễn Huệ đánh quân Thanh hay quân Lê Chiêu Thống ở Vị Hoàng.

        5. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 33.

        6. Cách Thăng Long khoảng trên 30 ki-lô-mét.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #91 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 08:10:10 am »


        Ngày mồng 4 tháng Giêng năm Kỷ Dậu tức ngày 29 tháng 1 năm 1789, Nguyễn Huệ tiến quân lên Ngọc Hồi1, một đồn quân kiên cố nhất, tập trung tất cả các tướng lĩnh cao cấp của quân Thanh, để chỉ huy mặt trận phía nam thành Thăng Long. Cũng ngày hôm ấy, đồn Ngọc Hồi phải cho quân về cấp báo với Tôn Sĩ Nghị:

        "Quan quân ở đồn Hà Hồi đều bị quân Tây Sơn đánh úp bắt hết cả. ở đấy cách đồn Ngọc Hồi không xa, sớm chiều thế nào cũng bị đánh tới" 2.

        Tất cả bọn quân ấy đều hoảng sợ trước sự tiến quân thần tốc của Tây Sơn và đều nói:

        "Thật là tướng ở trên trời xuống, quân ở dưới đất chui lên"3.

        Tôn Sĩ Nghị được cấp báo rất hoảng sợ, vội cho lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp cùng viên hàng tướng Phan Khải Đức đem quân cần vương của Lê Chiêu Thống tới tiếp viện cho đồn Ngọc Hồi. Tôn Sĩ Nghị lại sai hai mươi kỵ binh hầu cận mình đi cùng Thang Hùng Nghiệp, với mệnh lệnh là cứ trong chốc lát phải phi ngựa về báo tin và báo tin liên tiếp cho Tôn Sĩ Nghị.

        Nhưng tới Ngọc Hồi, Nguyễn Huệ không đánh địch ngay, ông chờ cho đạo quân của đô đốc Long đánh vào Khương Thượng rồi ông mới đánh. Cả ngày mồng 4, ông chỉ chuẩn bị cho chiến đấu sắp tới và phô trương thanh thế uy hiếp tinh thần địch, đồng thời thu hút tất cả sự chú ý và đề phòng của địch vào mặt trận Ngọc Hồi mà không lo phòng thủ nơi khác, ông nắm chắc địch đang rất hoang mang lo sợ. Địch hoang mang trước cuộc tiến quân thần tốc của quân dội Tây Sơn, và càng hoang mang lo sợ không hiểu quân đội Tây Sơn lớn mạnh như thế nào mà đã tiêu diệt nhanh gọn tất cả những lực lượng và căn cứ phòng thủ của chúng trên chặng đường từ Gián Khẩu lên Hà Hồi. Cũng không hiểu tại sao quân đội Tây Sơn đã tới Ngọc Hồi mà chưa đánh và sẽ đánh vào lúc nào, địch càng sợ.

        Với những hoang mang lo sợ như thế và không hiểu nổi hành động của quân đội Tây Sơn, địch ở Ngọc Hồi không dám chủ động tiến công, đành chờ đối phương đánh rồi sẽ tùy liệu đối phó lại.

        Đúng như những tính toán của nghĩa quân, cả ngày mồng 4, địch ở Ngọc Hồi, không dám tiến ra khỏi đồn để đánh nghĩa quân. Và cả ngày mồng 4, Tôn Sĩ Nghị tại Thăng Long lúc nào cũng nơm nớp lo, nhưng chỉ lo một mặt trận phía nam, mà không ngờ rằng lại có một mặt trận khác diễn ra ngay bên cạnh sườn Tôn Sĩ Nghị. Và chính cái mặt trận bất ngờ ấy đã là một yếu tố góp phần làm cho quân Thanh tan rã mau chóng.

        Cũng trong ngày mồng 4 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, khi Nguyễn Huệ tiến lên Ngọc Hồi, thì đạo quân của đô đốc Long cũng tiến tới làng Nhân Mục4. Và ngay quá nửa đêm hôm ấy, đạo quân của đô đốc Long, hàng ngũ chỉnh tề, các đội voi chiến đều mang đại bác trên lưng5, tiến sang đánh đồn Khương Thượng6 của quân Thanh. Quả nhiên, quân Thanh ở đây đều là quân ô hợp, và tướng chỉ huy cũng không phải là tướng cao cấp, đã quen chiến đấu, nên bị đánh bất ngờ, đồn Khương Thượng đã tan vỡ nhanh chóng. Trong đêm tối dày đặc7, quân Thanh chạy tán loạn, vừa bị tên đạn, vừa giày xéo lên nhau mà chết, nhiều vô kể. Đô đốc Long cho quân xung phong vào đồn, chém giết như vào chỗ không người. Sầm Nghi Đống đã phải tự tử chết ngay tại đài chỉ huy của hắn ở Loa Sơn8/b]. Diệt xong đồn quân lớn gồm mấy vạn người của Sầm Nghi Đống9, đô đốc Long đưa quân ập đến đồn Nam Đồng10 của địch, diệt đồn Nam Đồng và tiến nhanh về phía cửa tây thành Thăng Long, bắn phá rất dữ dội. Phối hợp chiến đấu với nghĩa quân, nhân dân chín xã ngoại thành đem rồng cỏ tẩm dầu tới đánh hỏa công, thiêu đốt khắp đó đây. Trận đánh càng thêm ác liệt. Lúc ấy mới là canh tư đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 (âm lịch).

------------------
        1. Đồn Ngọc Hồi ở phía dưới Thăng Long chừng 13 - 14 ki-lô-mét.

        2, 3. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 465.

        4. Nhân Mục tức là khu vực hai xã Nhân Chính, Khương Đình bây giờ, trên con đường Hà Nội vào Hà Đông.

        5. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q. 6, tờ 36, 37.

        6. Đồn Khương Thượng và Loa Sơn đều thuộc khu vục chùa Bộc hiện nay (khu phố Đống Đa, thành phố Hà Nội).

        7. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký ... q. 6. tờ 36, 37.

        8. Đồn Loa Sơn thuộc khu vực chùa Bộc hiện nay (khu phố Đống Đa, thành phố Hà Nội).

        9. Xác mấy vạn quân địch chết đầy khắp trận địa. Khi chiến tranh kết thúc, nghĩa quân và nhân dân đã thu nhặt xác địch xếp thành 12 đống lớn đắp đất chôn cất. Lối chôn nổi, xếp xác giặc đắp đất lên trên làm thành những gò đống lớn là một lối cổ truyền ở các nước phương Đông. Những đống xác giặc đó, chữ Hán gọi là Kình nghê kinh quán tức là gò đống chôn xác những tên giặc hung dữ như loại cá kình, cá nghê ngoài biển. Một nhà thơ đương thời là Ngô Ngọc Du đã làm bài thơ Loa Sơn điếu cổ để ca ngợi chiến thắng oanh liệt của quân dân ta ở mặt trận Khươngg Thượng, trong có câu:

                                      Thánh nam thập nhị kình nghê quán
                                      Chiến diệu anh hùng đại võ công

                                      (Thánh nam xác giặc mười hai đống,
                                      Ngời sáng anh hùng đại võ công).

        Tại 12 gò này, về sau đa mọc um tùm, nên gọi là Khu Đống Đa. Khoảng giữa thế kỷ XIX, có việc đào đất làm đường, mở chợ ở gần khu vực này, nhặt dược rất nhiều xác giặc nữa, lại tập trung đắp thành một đống thứ 13, tức là đống đa có đền Trung Liệt hiện nay. Từ cuối thế kỷ XIX trở về sau, 13 đống đa ấy đã bị phá hủy gần hết. Bây giờ chỉ còn lại hai đống. Một là Đống Đa có đền Trung Liệt, hai là Đống thiêng ở trong khu lăng mộ Hoàng Cao Khải.

        10. Đồn Nam Đồng ở trên đường Khương Thượng vào cửa tây thành Thăng Long. Chỉ có Việt sử thông giám cương mục nói đến việc quân Tây Sơn đánh đồn này, nhưng Cương mục trình bày rất lộn xộn, khiến người đọc tưởng như Nguyễn Huệ sau khi diệt xong đồn Ngọc Hồi mới tiến đánh đồn Nam Đồng. Như thế thì không hợp lý.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #92 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 08:10:55 am »


        Tôn Sĩ Nghị tại dại bản doanh ở bờ sông Hồng, nghe tiếng súng nổ ầm ầm không ngớt, vội sai thám tử chạy ngựa đi tìm hiểu tình hình. Thám tử về báo đồn quân Điền Châu ở Khương Thượng đã bị tiêu diệt, quân Tây Sơn đã vào cửa tây thành Thăng Long, đang bắn phá thiêu đốt rất kịch liệt, khói lửa rực trời. Nhưng tin ấy tới được Tôn Sĩ Nghị thì quân Tây Sơn đã vào thành Thăng Long và đô đốc Long đang tiến quân về phía đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị.

        Tôn Sĩ Nghị vội lên ngựa không kịp đóng yên, mình không kịp mặc áo giáp, đem toán kỵ binh hầu cận lẻn qua cầu phao, nhằm hướng bắc mà chạy1. Về việc Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy và quân Thanh ở bờ sông Hồng bị tan vỡ, các sử sách cũ đều có nhiều tình tiết khác nhau. Hoàng Lê nhất thống chí nói rằng khi Tôn Sĩ Nghị chạy trốn, "Quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều bị rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa "2. Đại Nam chính biên liệt truyện viết: "Tôn Sĩ Nghị đóng trên bãi cát, được tin bại trận vội vàng cưỡi ngựa một mình chạy về Bắc. Tướng sĩ thấy vậy tranh nhau qua cầu mà chạy, cầu đứt, lăn ngã cả xuống sông, chết đến vài vạn người, làm cho nước sông không chảy được"3.

----------------
        1. Trong việc quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, có một câu chuyện về viên đề lĩnh họ Đinh, bầy tôi của Lê Chiêu Thống đã làm nội ứng cho Tây Sơn đốt phá các kho lương thực khí giới của quân Thanh. Câu chuyện này được thuật lại, theo sách Đào khê nhàn thoại, trong số báo Trung bắc số xuân Kỷ Mậu 1939. Ông Hoa Bằng trong quyển Quang Trung anh hùng dân tộc, xuất bản năm 1944, đã nhấn mạnh nhiều lần về câu chuyện này coi đó như một việc quan trọng giúp cho Tây Sơn vào Thăng Long được dễ dàng và góp phần quyết định rất lớn sự tan rã của đại quân Tôn Sĩ Nghị. Đến lần tái bản năm 1951, ông Hoa Bằng chỉ đưa câu chuyện này xuống chú thích mà thôi. Chúng tôi không được đọc Đào khê nhàn thoại và cũng chưa có dịp xem lại số báo Xuân Trung bắc năm 1939. Nhưng, theo cuốn Quang Trung, anh hùng dân tộc của Hoa Bàng kể lại thì câu chuyện đại khái như sau:

        Viên đề lĩnh họ Đinh và một toán quân già yếu của Lê Chiêu Thống đã được Tôn Sĩ Nghị trao cho trách nhiệm canh giữ các kho khí giới, lương thực của quân Thanh ở trong thành Thăng Long. Khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc đánh Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống thì La sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã giúp Nguyễn Huệ, đi từ Nghệ An ra Thăng Long để vận động viên đề lĩnh họ Đinh làm nội ứng cho Tây Sơn, vì khi xưa Nguyễn Thiếp đã ngồi dạy học ở nhà đề lĩnh họ Đinh. Ngày 3 Tết Ký Dậu, Nguyễn Thiếp tới Thăng Long, đem biếu đề lĩnh họ Đinh một chiếc bánh chưng, trong nhân bánh có để tờ mật dụ của vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Đề lĩnh họ Đinh đã theo lời mật dụ, nhận làm nội ứng cho Tây Sơn và ngay đêm 4 rạng ngày 5, đề lĩnh họ Đinh đã ngầm đốt các kho khí giới, lương thực và súy phủ, tức đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long, do đấy quân Thanh ở Thăng Long tan rã, Tôn Sĩ Nghị phải bỏ chạy. Theo chúng tôi, câu chuyện này không chắc đã có thật, vì nhiều lẽ. Một là Tôn Sĩ Nghị không đóng quân trong thành Thăng Long, không làm gì có các kho khí giới, lương thực và súy phủ của quân Thanh ở trong thành Thăng Long. Hai là khí giới và lương thực là vận mệnh của cả 20 vạn quân Thanh, không khi nào chúng lại giao cho một toán quân già và một viên tướng già của bù nhìn Lê Chiêu Thống canh giữ. Ba là thái độ hết sức tiêu cực của La sơn phu tử Nguyễn Thiếp không thể nào cho phép ông ta có được một hành động tích cực giúp Nguyễn Huệ chống lại vua Lê mà trước sau ông ta vẫn giữ một dạ trung trinh.

        Nguyễn Thiếp sống ở Nghệ An, trong phạm vi thế lực của Nguyễn Huệ, mà bao lần Nguyễn Huệ mời ra giúp việc, ông ta vẫn khăng khăng từ chối. Chỉ đến khi Chiêu Thống trốn đi, ở chết bên nước ngoài, nhà Lê không còn nữa, Nguyễn Thiếp mới chịu ra làm một vài việc với nhà Tây Sơn mà thôi. Với thái độ "trung thần" với bọn bù nhìn Lê Chiêu Thống như vậy, Nguyễn Thiếp làm sao lại có thể hết lòng giúp Nguyễn Huệ, lặn lội từ Nghệ An ra Thăng Long để khuyên đề lĩnh họ Đinh làm nội ứng cho Nguyễn Huệ, đánh lại quân Thanh, đánh lại vua Lê Chiêu Thống của ông ta?

        Cho nên theo chúng tôi, câu chuyện này không thể có thật. Theo Minh đô sử của Lê Trọng Hàm mà H. K. sao lục một đoạn đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 46, trang 21 thì không phải đề lĩnh họ Đinh đốt kho thuốc súng mà là một viên tổng tư (?) nhà Thanh có trách nhiệm giữ hòm thuốc súng ở đầu cầu phao, đương hút thuốc, thấy Tôn Sĩ Nghị chạy qua, hoảng hốtt để rơi tàn lửa vào hòm thuốc súng. Thuốc nổ, lửa cháy, tiếng nổ rầm trời. Câu chuyện này còn có thể nghe được, nhưng cũng không phải là một sự kiện quan trọng khiến quân Thanh đại bại và Tôn Sĩ Nghị phải chạy trốn.

        2. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 365.

        3. Đại Nam chính biến liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #93 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 08:14:36 am »


        Sách Trung Quốc như quyển Thánh vũ ký của Ngụy Nguyên thì lại đưa thêm một vài chi tiết: "...Tôn Sĩ Nghị chạy trốn khị sang được bờ bắc sông Phú Lương (tức sông Hồng - Tác giả chú thích) liền cắi đứt các cầu phao bắc qua sông, khiến các đạo quân của các tướng Hứa Thế Thanh và Trương Triều Long bị bỏ rơi lại ở bên bờ nam. Do đấy hơn một vạn người, vừa tướng vừa quân, xô đẩy nhau nhảy xuống sông để bơi sang bờ bắc và đều bị chết đuối tất cả"1.

        Những chi tiết này nếu quả đúng sự thật thì nó càng cho thấy rõ cái đê hèn của Tôn Sĩ Nghị, một viên tướng chỉ huy đã cam tâm làm chết hàng vạn quân tướng của mình để tìm lấy cái sống sót cho riêng một bản thân.

        Những chi tiết trong các sách nói trên, tuy có những điểm khác nhau, nhưng đều nhất trí với nhau ở một điểm là quân Thanh đã thất bại thảm hại và tướng chỉ huy Tôn Sĩ Nghị đã phải chạy trốn một cách nhục nhã.

        Chiến thắng rực rỡ của đạo quân đô đốc Long tiến vào Thăng Long và sự thất bại thảm hại của giặc đã được nhà thơ đương thời Ngô Ngọc Du thuật lại bằng hai câu thơ:

                                        Hỏa long nhất trận tặc phi mị
                                        Khí thành sang độ tranh đào sinh2.

                                       (Lửa rồng một trận giặc tan tành,
                                       Bỏ thành cướp đò trốn thật nhanh).

        Sự thật mà nhân dân ta ghi lại là như thế đó.

        Trong khi Tôn Sĩ Nghị vượt cầu phao chạy trốn, thì bù nhìn Lê Chiêu Thống từ trong nội điện thấy cửa tây thành Thăng Long bị đánh phá dữ dội, cũng vội vàng, bỏ cả vợ con, cùng mấy tên quan hầu cận đưa mẹ chạy ra Tây Long với Tôn Sĩ Nghị. Nhưng ra tới bờ sông thì Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, quân Thanh đương tan tác, cầu phao đã gãy, thuyền bè qua sông không có, bọn Lê Chiêu Thống, hoảng sợ, vội men theo bờ sông, chạy miết lên phía Nghi Tàm, cướp được một chiếc thuyền đánh cá, chèo sang bờ bắc, tìm đường chạy theo Tôn Sĩ Nghị lên ải Nam Quan3.

        Em ruột Lê Chiêu Thống là Lê Duy Chi làm nhiệm vụ chỉ huy quân Lê đóng giữ ở cửa ô Yên Hoa4 tức cửa bắc thành Thăng Long, khi thấy chiến tranh đã diễn ra ở cửa tây cũng hoảng sợ, vội đem quân vào nội điện, tính cùng Lê Chiêu Thống tìm đường chạy trốn. Nhưng vào tới nội điện thì Lê Chiêu Thống đã bỏ trốn rồi, chỉ còn lại lũ vợ con của y. Lê Duy Chi không dám nghĩ đến việc đi tìm bọn Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị, vội cùng lũ vợ con Lê Chiêu Thống tìm lối thoát ra ngoài thành Thăng Long, rồi chạy thẳng lên phía Tuyên Quang5.

        Cũng sáng sớm ngày mồng 5 tháng Giêng Kỷ Dậu tức ngày 30 tháng 1 năm 1789 trong khi đô đốc Long phá tan đồn Khương Thượng, tiến vào Thăng Long và hàng vạn quân Thanh ở bờ sông Hồng bị tiêu diệt, Tôn Sĩ Nghị phải chạy trốn, thì Nguyễn Huệ cũng đưa đạo quân chủ lực tiến đánh đồn Ngọc Hồi của Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long. Ngọc Hồi là một đồn kiên cố nhất ở mặt trận phía nam Thăng Long, quân đông, tướng giỏi, hỏa lực mạnh, xung quanh đồn đều đặt địa lôi6 và cắm chông sắt7. Cho nên đánh đồn này, Nguyễn Huệ đã chuẩn bị tương đối kỹ
.
---------------
        1. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q. 6, tờ 37.

        2. Hai câu này trích trong bài thơ "Long thành quang phục kỷ thực" (ghi lại sự thật về việc thu phục vinh quang thành Thăng Long) của Ngô Ngọc Du. Hỏa long là rồng lửa, tức là một thứ đánh hỏa công làm thành hình con rồng bện bằng rơm cỏ khô tẩm dầu để đốt. Kèm theo bài thơ, tác giả chú thích một câu chữ Hán, dịch nghĩa như sau: "Quân Tây Sơn tiến công thành Thăng Long, nhân dân chín xã ngoại thành sôi nổi bện rơm cỏ thành hình rồng, tẩm dầu đốt lửa, đánh trận rồng lửa".

        3 . Ngô gia văn phái, Tàí liệu đã dẫn, tr. 366.

        4. Sau đổi là cửa ô Yên Phụ.

        5. Nguyễn Thu, Tài liệu đã dẫn, tờ 47. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 378.

        6. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.

        7. Việt sử thống giám cương mục, Bản dịch của Viện sử học, t. XX, tr. 62.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #94 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 08:15:23 am »


        Để phá hỏa lực của địch, Nguyễn Huệ cho làm sẵn hai mươi cái mộc đỡ đạn khá lớn, cứ ba tấm ván ghép thành một cái mộc, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín.

        Mờ sáng ngày mồng 5 tháng Giêng, Nguyễn Huệ hạ lệnh xung phong đánh đồn, tự mình buộc khăn vàng vào cổ tỏ ý quyết chiến1 và cưỡi voi ra trận đốc chiến2. Đội tượng binh của Nguyên Huệ, gồm hơn một trăm voi chiến rầm rộ xông lên3. Quân Thanh trong đồn Ngọc Hồi cho toán kỳ binh tinh nhuệ vun vút xông ra chặn bước tiến của đoàn voi chiến4. Quân hai bên gần nhau, ngựa quân Thanh trông thấy voi Tây Sơn hoảng sợ, lồng lên chạy về, chà đạp lẫn nhau. Quân Tây Sơn thúc voi tiến lên bắn giết.

        Kỳ binh Thanh cắm cổ chạy về đồn5. Quân Thanh không dám ra ngoài nghênh chiến, phải ở trong đồn cố thủ6 và bắn đại bác ra rất dữ đội để cản xung phong của đội voi chiến Tây Sơn7. Nguyễn Huệ hạ lệnh cho đội voi chiến chia ra làm hai cánh tả hữu, đánh vào hai bên sườn địch8, và bộ binh cũng chia ra làm hai: một cánh đi vòng qua phía sau đồn Ngọc Hồi, đóng ở phía đông đê Yên Duyên để chặn đường rút chạy về Tây Long của quân Thanh ở Ngọc Hồi9, mở cánh xung phong đánh thẳng vào phía trước đồn Ngọc Hồi. Cánh quân xung phong này gồm những binh sĩ khỏe mạnh, thiện chiến, chia thành nhiều toán. Mỗi toán có mười người, mình giắt đoản đao, khiêng một mộc gỗ làm bằng ba tấm ván ghép lại, ngoài có phủ rơm ướt, và hai mươi người cầm vũ khí tiến theo sau bức mộc gỗ.

--------------
        1. Lê Kỷ (dã sử) dẫn trong Quang Trung, anh hùng dân tộc của Hoa Bằng. Nhà xuất bản Bốn phương, Hà Nội, 1951, tr .191.

        2. Có tài liệu đưa ra việc Nguyễn Huệ đốt hết quân lương trước khi đánh Ngọc Hồi, để tỏ ý quyết chiến. Chúng tôi cho rằng việc ấy không thể có thật. Đốt quân lương vừa là một việc không cần thiết, vừa là một hành động phi quân sự và cũng rất vô chính trị. Trong chiến tranh, quân lương là vấn đề rất hệ trọng. Đốt quân lương của mình để tỏ ý quyết chiến đánh dịch là một việc hết sức liều lĩnh không thể có được trong khi nghệ thuật quân sự của Tây Sơn đã ở trình độ phát triển. Nguyễn Huệ cũng không thể đem đốt lương ăn của quân trong khi người dân Bắc Hà đương bị nạn đói nghiêm trọng.

        3, 4, 5, 6. Nguyễn Thu, Lê quí kỷ sự, tờ 47. Việt sử thong giám cương mục, Bản dịch đã dẫn, t. XX., tr. 62.

        7, 8. Trần Nguyên Nhiếp, Tài liệu đã dẫn, tr. 134.

        9. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 363.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #95 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 08:18:25 am »


        Toàn bộ cánh quân xung phong có sáu trăm người, chia làm hai mươi toán, dàn thành trận thế chữ nhất1, ngang nhiên tiến vào trận địa. Đại bác trong đồn Ngọc Hồi bắn ra mất hiệu lực. Quân Thanh vội vàng bắn hỏa mù khiến trận địa tối tăm, hòng làm rối loạn hàng ngũ quân Tây Sơn2. Nhưng hỏa hổ của quân Tây Sơn tung lửa cháy sáng rực trời. Quân Tây Sơn vẫn ào ạt tiến lên, bất chấp cả đại bác, cung tên3 và hỏa mù của giặc. Đoàn quân xung phong Tây Sơn tiến sát mặt đồn Ngọc Hồi, quẳng mộc gỗ xuống đất, phá tan cửa lũy4 xông thẳng vào đại doanh của địch ở trong đồn. Quân Thanh liều mạng chống lại5. Quân xung kích Tây Sơn rút đoản đao ra hỗn chiến6. Quân chủ lực Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, tiến vào đồn chi viện cho đoàn quân xung kích. "Quân đông như kiến cỏ, thế lực ồ ạt như nước thủy triều đang lên"7. Quân Thanh địch không nổi chạy trốn ra khắp bốn phía, nhưng lại chạm phải địa lôi của chúng đã đặt từ trước nên bị chết rất nhiều8. Trong khi đó các đội voi chiến đã từ hai bên sườn đồn tiến vào đốt phá đồn lũy. Đại doanh của địch cũng bị đốt cháy. Đồn Ngọc Hồi nằm trong một cơn bão lửa, vì trên lưng một con voi chiến của Tây Sơn đều có ba, bốn chiến sĩ Tây Sơn quấn khăn đỏ, ngồi ném "hỏa cầu lưu hoàng" (tức hỏa hổ) ra khắp nơi, đốt cháy mọi vật, đốt cháy cả người9.

        Đồn Ngọc Hồi bị hoàn toàn tiêu diệt10. Tàn quân Thanh tìm đường theo hướng đông trốn chạy về Tây Long. Nhưng chạy tới gần đê Yên Duyên11 thì đã thấy quân Tây Sơn đóng kín, quân kỳ phấp phới, quân nhạc vang lừng, chặn mất lối về, tàn quân Thanh hoảng sợ, vội chạy tạt ngang về phía tây, định theo đường Vịnh Kiều12/b] trốn về Thăng Long. Nhưng chúng chưa chạy được bao lâu thì đạo tượng binh do đô đốc Bảo chỉ huy đã từ phía làng Đại áng xông tới. Tàn quân Thanh không còn hồn vía, vội chạy lên làng Quỳnh Đô13 địch trốn vào đầm Mực ở làng này đã ẩn náu.

----------------
        1, 2. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 363.

        3. Viết sử thông giám cương mục, Bản dịch đã dẫn, t. XX,

        4. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.

        5, 7. Trần Nguyên Nhiếp, Tài liệu đã dẫn, tr. 134.

        6, 8. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.

        9. Trần Nguyên Nhiếp, Tài 1iệu đã dẫn, tr.134.

        10. Nay ở gần thôn Ngọc Hồi, về phía đông, còn có vết tích

       11. Yên Duyên, có tài liệu chú thích là Yên Kiện. Chú thích này có thể chưa đúng lắm, vì Yên Kiện ở phía tây Ngọc Hồi, không phải phía đông. Yên Kiện và Ngọc Hồi đều giáp sông Tô Lịch, mà sông Tô Lịch thì không có đê. Cho nên có ý kiến cho rằng: đê Yên Duyên có thể là khúc đê sông Hồng ở phía đông Ngọc Hồi, chạy thẳng lên phía Tây Long, đi qua địa phận mấy làng Yên Duyên sở thượng, sở hạ mà ngày nay vẫn còn tên cũ. Chúng tôi thấy ý kiến này có phần hợp lý.

        12. Vịnh Kiều: nay là thôn ích Vịnh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. ích Vịnh tục gọi là làng Viềng. Tại đây, có một cầu bắc qua sông Tô Lịch nên gọi và Vịnh Kiều, tức cầu Vịnh hoặc cầu Viềng.

        13. Đầm Mực là một đầm lớn rộng khoảng 70 - 80 mẫu, thuộc thôn Quỳnh Đô, xã Vĩnh Quỳnh. Tương truyền khi xưa tại giữa đầm có một cái gò rộng, gọi là gò Đầm, là nơi chôn xác quân Thanh chết trong trận Đầm Mực. Gò này đã bị lở sau nạn lụt năm Quí Tỵ (1893). (Về chú thích 4, 5, xem thêm: Vũ Tuấn Sán, tài liệu đã dẫn, tr. 19 - 20).
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #96 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 08:20:22 am »


        Đây  là bước đường cùng và cũng là bước đường chịu chết của tàn quân Thanh. Đạo quân voi của đô đốc Bảo ào ạt tiến vào đầm Mực, giày đạp lên quân cướp nước. Tàn quân Thanh chết hàng vạn1. Không một tên nào chạy thoát. Có tên nào tìm đường trốn vào các làng xóm chung quanh thì đều bị nhân dân đón bắt, giết chết2. Như thế là toàn bộ quân Thanh ở mặt trận phía nam kinh thành Thăng Long đều bị tiêu diệt, toàn bộ hệ thống đồn lũy kiên cố của chúng ở mặt trận này đều bị phá tan, các tướng Thanh chỉ huy mặt trận phía nam, như Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng3 đều tử trận. Quân Tây Sơn đã chiến thắng rực rỡ ở mặt trận phía nam kinh thành Thăng Long. Nhân dân địa phương vô cùng phân khởi, sung sướng, đem cơm nước, rượu thịt ra tận mặt trận để khao thưởng các chiến sĩ cứu nước anh hùng, đã chiến thắng oanh liệt, giành lại tự do, độc lập cho dân tộc4. Quân dân tay bắt mặt mừng, ân tình thắm thiết.

        Còn đạo quân Thanh đóng ở Sơn Tây thì không cần đánh cũng đã phải sớm bỏ chạy. Sáng mồng 5 Tết, được tin toàn
 bộ quân Thanh đóng chung quanh thành Thăng Long đều bị tiêu diệt, các tướng Thanh đều tử trận, một mình Tôn Sĩ Nghị đã chạy trốn theo đường lên ải Nam Quan, Ô Đại Kinh hoảng sợ, không dám nghĩ đến chiến đấu và cũng không đám ở lại lâu trên đất Việt Nam, sợ quân Tây Sơn đánh tới, vội vàng nhờ Hoàng Văn Đồng dẫn đường, đem đạo quân Vân Quí chạy miết về nước5.

        Sau khi chiến thắng quân Thanh ở mặt trận phía nam, Nguyễn Huệ và đô đốc Bảo tiến quân vào Thăng Long6.

        Đô đốc Long đem quân từ trong thành ra đón. Chiều ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, tức ngày 30 tháng 1 năm 1789, Nguyễn Huệ vào Thăng Long, chiếc chiến bào màu đỏ đã đen sạm màu thuốc súng7.

------------------------
        1. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 364.

        2. Theo truyền tụng của nhân dân địa phương.

        3. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q. 6, tờ 37. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34. Việl sử thông giám cương mục, chính biên, q. 47, tờ 41.

        4. Theo truyền tụng của nhân dân địa phương. Theo Đào Khê nhàn thoại, Hoa Bằng dẫn trong Quang Trung, anh hùng dân tộc, thì khi ở Ngọc Hồi, quân đội Nguyễn Huệ được nhân dân địa phương nhiệt liệt hoan nghênh, đem cỗ bàn bánh trái ra khao quân và viết 4 chữ lớn để chào mừng nghĩa quân "Hậu lai kỳ tô", có nghĩa là "vua đến thì dân sống lại". Nguyễn Huệ cảm ơn nhân dân, không dám làm phiền dân, chỉ xin nhận một ít bánh chưng, thứ quà tiêu biểu của ngày Tết. Câu chuyện này nói lên tình cảm của nhân dân Bắc Hà đối với Nguyễn Huệ và thái độ liêm chính của Nguyễn Huệ, nhất là sự quan tâm của Nguyễn Huệ đối với tình hình đói kém của nhân dân Bắc Hà lúc đó.
       
        5. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q. 6, tờ 37 viết là Hoàng Văn Thông.

        6. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34 viết rằng sau khi tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, Nguyễn Huệ tiến quân đánh phá các đồn Văn Điển và Yên Quyết, chúng tôi cho rằng đồn Văn Điển nếu có thì cũng chỉ là một đồn nhỏ, ở cách Ngọc Hồi khoảng 3 ki-lô-mét. Trong khi các đồn Khương Thượng, Hà Hồi, Ngọc Hồi, Tây Long đều bị tiêu diệt thì quân Thanh ở đồn Văn Điển tất nhiên đã chạy trốn lâu rồi. Chúng không thể, trong tình hình ấy, có tinh thần và can đảm ở lại đồn Văn Điển, chờ Nguyễn Huệ tiêu diệt xong đồn Ngọc Hồi tiến lên thì ra kháng cự và ngăn chặn lại. Về đồn Yên Quyết, nếu quả có thì nó cũng chỉ là một đồn nhỏ của quân Thanh, vì nhiều sử sách không nói tới. Và nếu cần đánh thì đó là nhiệm vụ của đạo quân đô đốc Long, không phải là nhiệm vụ của đạo quân chủ lực của Nguyễn Huệ, bởi vì Yên Quyết ở phía tây bắc đồn Khương Thượng. Không có lý gì Nguyễn Huệ cùng đạo quân chủ lực và đạo quân của đô đốc Bảo, sau khi hạ xong dồn Ngọc Hồi tiến theo đường Văn Điển, không vào thẳng cửa nam thành Thăng Long mà lại từ Văn Điển đi quặt sang phía tây bắc ngọai thành Thăng Long, xuyên qua trận địa Khương Thượng để đánh lên đồn Yên Quyết. Hành quân và phân công tác chiến như thế là không hợp lý. Cho nên việc Nguyễn Huệ và đạo quân chủ lực tiến đánh hai đồn Văn Điển và Yên Quyết có thể là không đúng sự thật.

        7. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #97 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 08:21:43 am »

        
        Nhân dân Thăng Long nô nức chào đón nghĩa quân tiến vào thành. Ngô Ngọc Du đã tả lại cảnh tượng tưng bừng đó trong mấy câu thơ:

        (tạm dịch:)

                                             Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,
                                             Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh.
                                             Mây tạnh mù tan, trờí lại sáng,
                                             Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
                                             Chung vai sát cánh cùng nhau nói:
                                             Cố đô trở lại nước non ta.

        (Long thành quang phục kỷ thực)

        Vào tới Thăng Long, Nguyễn Huệ cho ban bố ngay một số điều lệnh cần thiết.

        Đối với nhân dân, Nguyễn Huệ hạ lệnh chiêu an, lập lại trật tự và bảo đảm sinh hoạt bình thường cho nhân dân kinh thành và nhân dân Bắc Hà.

        Đối với quân địch, Nguyễn Huệ không cho quân đuổi theo đạo quân Thanh Vân Quý của Ô Đại Kinh, vì không cần thiết và chúng cũng đã chạy xa, nhưng vẫn cho tiếp tục truy kích và chặn bắt bọn Tôn Sĩ Nghị, chủ tướng của quân Thanh, làm cho chúng khiếp đảm, phải từ bỏ âm mưu xâm lược Việt Nam lần nữa, Nhiệm vụ này đã được trao từ trước cho đạo quân của đô đốc Lộc tiến lên đóng án ngữ ở vùng Phượng Nhãn, Lạng Giang, Yên Thế.

        Đối vớí tàn quân Thanh không chạy kịp, còn lẩn trốn ở các nơi, Nguyễn Huệ hạ lệnh cho ra đầu thú, sẽ không giết và đối xử tử tế, cung cấp cho lương ăn, áo mặc. Chỉ trong khoảng 10 ngày, số tàn quân Thanh ra thú, có tới vài vạn người1.

        Đối với quân Tây Sơn thuộc các đạo quân đã tiến vào Thăng Long, trừ những đơn vị đang làm nhiệm vụ truy kích địch trên đường Thăng Long - ải Nam Quan, Nguyễn Huệ cho phép nghỉ ngơi và chuẩn bị ăn Tết khai hạ, mồng 7 tháng Giêng, đúng như lời đã hứa trước, khi quân sĩ còn ở Tam Điệp.

        Nhiệm vụ chiến đấu cuối cùng trong chiến dịch đánh phá quân Thanh là nhiệm vụ của đạo quân của đô đốc Lộc. Trong khi các đạo quân của Nguyễn Huệ, đô đốc Long, đô đốc Bảo tiến đánh Thăng Long và đạo quân của đô đốc Tuyết tiến đánh Hải Dương, thì đạo quân của đô đốc Lộc tiến lên Kinh Bắc, đóng giữ tất cả các ngả đường đi lên ải Nam Quan, để chặn đường về của tàn quân Tôn Sĩ Nghị.

        Từ sáng sớm ngày mồng 5 tháng Giêng, Tôn sĩ Nghị rời bỏ Thăng Long, chạy miết về phía Kinh Bắc, không dám chạy theo đường chính, phải leo núi, luồn rừng mà chạy, thật là khổ sở. Chạy tới Phượng Nhãn, được tin đô đốc Lộc đang dẫn quân tới ở phía trước mặt, Tôn Sĩ Nghị hoảng sợ, vội vứt ra đường tất cả những vật cần thiết mang bên mình, như sắc thư, kỳ bài, quân ấn, để chạy thoát lấy thân2. Trần Nguyên Nhiếp, bí thư của Tôn Sĩ Nghị và cũng là người cùng chạy với Tôn Sĩ Nghị đã tả lại cảnh chạy trốn thảm hại của chúng như sau:

        "Từ kinh thành nhà Lê sang đò Phú Lương rồi các miền đi qua phần nhiều là những nơi núi non hẻo lánh, đường đi quanh co, rẽ ngang rẽ dọc, chúng tôi luôn luôn lạc lối, khônh tìm được nẻo đi. Bất cứ gặp ai, ngươi cày, người cuốc, đàn ông đàn bà ... chúng tôi đều phải hỏi thăm đường. Nhờ có họ chỉ bảo cho mới tìm về được tới trấn Nam Quan. "Tôi với Chế hiến (tên chức quan của Tôn Sĩ Nghị) đói cơm khát nước, không kiếm đâu ra được ăn uống, cứ phải đi suốt bảy ngày, bảy đêm mới đến trấn Nam Quan ..."3.

-----------------
        1. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 371. Theo bài biểu của Nguyễn Huệ gửi cho Càn Long (trong Tây Sơn bang giao giao tập và Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 36) thì số tàn quân ấy là hơn 800 người. Con số vài vạn người, chưa rõ đúng sai như thế nào, nhưng con số hơn 800 người thì có thể là ít hơn sự thật, vì đó chỉ là số tù binh sẽ đem trả cho nhà Thanh, không phải là tất cả những người ra đầu thú.
        
        2. Hoàng Lê nhất thông chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 369.

        3. Trần Nguyên Nhiếp, Tài liệu đã dẫn, tr. 135.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #98 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 08:28:26 am »

       

Chiến dịch đại phá 20 vạn quân Thanh đầu năm 1789


        Nhưng mặc đầu quân Thanh đã thất bại nhục nhã, chủ tướng quân Thanh đã phải chạy trốn thảm hại như vậy, khi thuật lại những sự việc ấy, người Thanh vẫn muốn đưa ra một vài sự việc nào đó để gỡ thể diện cho bọn bại tướng, bại quân của mình. Trong Quân doanh kỷ lược, trước khi tả cảnh chạy trốn thảm hại như trên, Trần Nguyên Nhiếp lại viết rằng:

        "Kinh thành nhà Lê1 cách trấn Nam Quan hơn 2.000 dặm. Trên đọc dường ta vốn đã đặt sẵn sàng mười tám kho lương thực. Nay vì thấy thế giặc dữ tợn quá, sợ làm cỗ sẵn cho giặc ăn, cho nên đến đâu Cung Bảo2 đều hạ lệnh đốt cháy. Thành ra quân ta không có gì ăn, bắt buộc phải vừa đánh vừa chạy"3.

        Đó thật là những điều hết sức hoang đường và mâu thuẫn với những điều đã mô tả. Mười tám kho quân lương ấy tất nhiên phải đặt tại những đoạn đường chính trên chặng đường từ Nam Quan đến Thăng Long, không thể nào lại đặt ở những nơi núi rừng héo lánh, đường lối quanh co được. Như vậy thì bọn Tôn Sĩ Nghị có chạy theo đường chính đâu, để có thể đốt được mười tám kho quân lương ấy. Sự thật thì mười tám kho quân lương ấy có thể đã nằm trong tay quân Tây Sơn của đô đốc Lộc từ lâu rồi. Nếu quả thật Tôn Sĩ Nghị chạy qua mười tám kho quân lương ấy thì không có lý gì Tôn Sĩ Nghị và bọn quân sĩ tùy tùng lại chịu nhịn đói để đốt tất cả mười tám kho quân lương đi.

-----------------
        1. Kinh thành Thăng Long.

        2. Cung Bảo là tên hiệu của Tôn Sĩ Nghị.

        3. Trần Nguyên Nhiếp, Tài liệu đã dẫn, tr. 135.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #99 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 08:30:02 am »


        Bọn Tôn Sĩ Nghị đã phải chạy suốt bảy ngày bảy đêm không dám nghỉ, bản thân Tôn Sĩ Nghị phải vứt bỏ cả những vật tùy thân, mang đi không vất vả, khó khăn gì, là sắc thư, quân ấn, kỳ bài, để chạy thoát lấy thân, thì chúng làm gì còn có thì giờ và can đảm để dừng lại đốt phá mười tám kho quân lương trên chặng đường lao đầu chạy trốn của chúng. Cho nên việc Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh đốt mười tám kho quân lương chỉ là một điều hoàn toàn bịa đặt của Trần Nguyên Nhiếp. Mấy chục năm sau trận thất bại của quân Thanh ở Việt Nam, Ngụy Nguyên, tác giả sách Thánh vũ ký cũng nhắc lại những điều bịa đặt trên và còn nói rằng Tôn Sĩ Nghị không những đốt quân lương, mà còn đốt rất nhiều khí giới đạn dược trên dọc đường chạy trốn.

        Đi xa hơn những điều bịa đặt của Trần Nguyên Nhiếp, Ngụy Nguyên lại viết rằng khi Tôn Sĩ Nghị chạy trốn, mấy chục vạn binh mã chỉ còn chưa đầy một nửa chạy theo1.

        Chưa đầy một nửa của mấy chục vạn binh mã, tức là khoảng mười vạn binh mã. Khi chạy mà còn có tới mười vạn binh mã, tức là còn một lực lượng quân sự khá lớn trong tay, thì sao lại chạy trốn một cách thảm hại đến thế, nhịn đói nhịn khát, chạy suốt bảy ngày bảy đêm không dám nghỉ.

        Có mười vạn quân trong tay, tại sao thấy đạo quân của đô đốc Lộc chỉ có khoảng trên dưới một vạn quân, mà khiếp sợ đến thế, phải vứt cả sắc thư, ấn tín, để chạy lấy thân. Giáo sĩ Đơ-la Bi-xa-se-rơ (De la Bissachère) ở Việt Nam thời kỳ này, viết rằng số tàn quân chạy theo Tôn Sĩ Nghị chỉ khoảng bốn, năm mươi người2. Con số này có thể là gần đúng với sự thật.

        Trong khi bọn cướp nước Tôn Sĩ Nghị đang trên đường chạy trốn để thoát lấy thân như vậy, thì bọn bán nước Lê Chiêu Thống cũng lao đầu chạy theo bọn cướp nước. Ngay từ sáng sớm ngày mồng 5 tháng Giêng, bọn Lê Chiêu Thống đã định bám gót bọn Tôn Sĩ Nghị, nhưng không kịp, Tôn Sĩ Nghị đã chạy trốn từ trước. Bọn Lê Chiêu Thống lật đật tìm đường chạy theo. Trưa ngày 6 tháng Giêng, bọn Lê Chiêu Thống chạy tới núi Tam Tằng, tưởng theo kịp bọn Tôn Sĩ Nghị, nhưng tới nơi thì bọn Tôn Sĩ Nghị cũng lại đã chạy đi mất rồi3. Bọn Lê Chiêu Thống dành dắt díu nhau chạy lên phía Hòa Lạc. Tới Hòa Lạc chưa kịp nghỉ ngơi thì đã dược tin quân Tây Sơn sắp đuổi kịp, bọn Lê Chiêu Thống lại phải lên đường chạy trốn4. Cuối cùng, bọn bán nước thất thế và bọn cướp nước đại bại cũng đã gặp được nhau ở cửa ải Nam Quan. Lúc ấy cũng là lúc quân Tây Sơn đuổi tới nơi. Bọn Lê Chiêu Thống vội vàng theo bọn Tôn Sĩ Nghị chạy sang bên kia biên giới, sống nhục nhã trên đất nước người, và sau này, cả bọn bán nước Lê Chiêu Thống đều phải chết nhục nhã trên đất nước người.

        Đó cũng là con đường kết thúc cuộc đời không thể tránh khỏi của tất cả những kẻ bán nước, làm tay sai cho quân cướp nước.

        Quân Tây Sơn dừng lại ở biên giới, không đuổi theo nữa, nhưng nói phao lên rằng: sẽ vượt biên giới, đuổi bắt cho bằng được Lê Chiêu Thống mới thôi. Nghe tin ấy và thấy bọn Tôn Sĩ Nghị thất thểu chạy về, ngườí Thanh ở vùng biên giới xôn xao sợ hãi. Từ cửa ải Nam Quan trở về bắc, già trẻ lớn bé, dắt díu bồng bế nhau chạy trốn, cả một quãng dài vài trăm dặm, lặng ngắt không còn bóng người, không còn thấy khói lửa thổi nấu nữa5.

        Tới đây, trên đất nước Việt Nam, cũng không còn bóng một tên quân xâm lược hung hãn nào nữa, trừ một số tù binh thảm hại đầu hàng. Hơn hai mươi vạn quân Thanh đã bị hoàn toàn tiêu diệt. Trận đại phá quân Thanh đã căn bản kết thúc thắng lợi, từ chiều ngày 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, khi Nguyên Huệ vào Thăng Long, sau 5 ngày tốc chiến tốc thắng vô cùng vẻ vang của quân đội Tây Sơn.

        Trận đại phá quân Thanh của Nguyễn Huệ đã thành công rực rỡ và hết sức nhanh gọn. Nước Việt Nam kể từ khi lập quốc cho tới cuối thế kỷ XVIII đã trải qua rất nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và đã chiến thắng tất cả những kẻ thù xâm lược hung hãn nhất của các thời đại, nhưng chưa có một trận nào tiêu diệt được một cách gọn ghẽ toàn bộ quân xâm lược, gồm một lực lượng rất lớn, trên 20 vạn người, trong một thời gian rất ngắn, chỉ có năm ngày, như trận đại phá quân Thanh của Nguyễn Huệ. Chiến thắng lớn lao này đã nói lên rất đầy đủ và rõ ràng về thiên tài quân sự của anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Chiến thắng ấy đã giữ vữg nền độc lập của Tổ quốc, đồng thời cũng vĩnh viễn chấm dứt nạn xâm lăng của các tập đoàn phong kiến phương Bắc luôn luôn đe dọa dân tộc Việt Nam từ mấy nghìn năm trước. Thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ đã góp phần quyết định rất lớn vào sự nghiệp cứu nước vẻ vang này của quân đội Tây Sơn và của toàn thể dân tộc Việt Nam thời bấy giờ

-----------------
        1 . Ngụy Nguyên. Tài liệu đã dẫn, tờ 37.

        2. De la Bissachère, Etat actuel du Tonkin ... Galignani, Paris, 1812, tome II, p. 170.

        3, 4. Hoàng Lê nhất thông chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 366.

        5. Hoàng Lê nhất thông chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 370. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 35.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM