Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 17 Tháng Tư, 2024, 01:59:59 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc  (Đọc 36016 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #70 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:21:16 am »


        Để thực hiện chủ trương trên, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đề ra kế hoạch cụ thể sau đây:

        - Các tướng Trần Lựu, Lê Bôi tiến quân lên vùng Lạng Sơn sau khi hạ các thành Trấn Di (tức thành Chi Lăng), Khâu Ôn (phía nam thị xã Lạng Sơn), tiếp tục bố trí phòng ngự vùng biên giới Lưỡng Quảng, giữ cửa ải Pha Lũy (Hữu Nghị Quan).

        - Phòng ngữ sứ Trần Ban lên tu sửa cửa ải Lê Hoa (vùng sông LÔ chảy qua Hà Giang, Tuyên Quang) đề phòng viện binh địch từ Vân Nam tiến sang.

        - Ở những vùng nằm trên đường tiến quân của viện bình giặc từ Quảng Tây và Vân Nam sang như Lạng Sơn, Lạng Giang, Tuyên Quang, Tam Đái, Quy Hóa, nhân dân được lệnh dời nhà cửa, đưa vợ con và chuyển của cải đi nơi khác làm kế “thanh dã”, thực hiện vườn không nhà trống, để khi quân giặc kéo vào không còn nơi trú ngụ, không cướp bóc được lương thực, đẩy chúng vào tình trạng bị cô lập.

        - Hạ gấp thành Xương Giang, tiêu diệt toàn bộ sinh lực địch ở đấy. Đồng thời biến Xương Giang thành căn cứ vững chắc và điểm cuối cùng chặn đứng bước tiến của viện binh địch về Đông Quan rồi bao vây tiêu diệt chúng.

        Song song với việc bao vây tiến công bằng quân sự, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đẩy mạnh công tác vận động, dụ hàng, thực hiện phương châm “mưu phạt nhi tâm công”; đánh vào lòng địch.

        Trong cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng của nghĩa quân Lam Sơn, công tác địch vận được coi là nhiệm vụ chiến lược, gắn liền với mọi hoạt động quân sự. Dựa vào ưu thế tuyệt đối về chính trị của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Nguyễn Trãi luôn luôn nêu cao tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến, tinh thần nhân đạo của nhân dân ta, chỉ cho quân thù thấy rõ tính chất phi nghĩa, phản nhân đạo và nguyên nhân thất bại tất yếu của chúng.

        Từ năm 1425 về sau, trong mọi cuộc vây thành hay đánh chiếm các cứ điểm quân sự của địch từ Diễn Châu, Nghệ An vào Tân Bình, Thuận Hóa, hay Tây Đô, Chí Linh, Đông Quan..., trên cơ sở tiến công về quân sự, Nguyễn Trãi đều kết hợp với công tác địch vận. Nguyễn Trãi đã viết nhiều bức thư gửi cho bọn quan lại, tướng tá nhà Minh như Lý An, Phương Chính, Đả Trung, Vương Thông, Sơn Thọ, v.v. Công tác địch vận kết hợp chặt chẽ với tiến công quân sự đã đem lại những thành công tốt đẹp. Nhiều thành đầu hàng, nghĩa quân không tốn một mũi tên, ngọn giáo.

        Lần này nữa, trên danh nghĩa Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã thảo ra nhiều bức thư dụ hàng, nói rõ điều nhân nghĩa, phân biệt lẽ phải trái, chỉ rõ lối thoát chính đáng cho kẻ thù. Những bức thư và hoạt động địch vận đó đã góp phần làm lung lay, tan rã tinh thần quân địch làm suy sụp sức chiến đấu của chúng.

        Thành công bước đầu của việc thực hiện kế hoạch chuẩn bị tiêu diệt viện binh địch là nhân dân các nơi đều hưởng ứng làm kế hoạch “thanh dã”, và nghĩa quân Lam Sơn đã hạ được các thành nằm trên hai đường tiến quân của địch.

        Tháng 2 năm 1427. toàn bộ quân địch trong thành Điêu Diêu (Gia Lâm, Hà Nội ) bị bao vây đã ra hàng các chiến sĩ nghĩa quân Lam Sơn do Bùi Quốc Hưng và Nguyễn Chích chỉ huy.

        Tháng 3 năm 1427, đơn vị nghĩa quân do hai tướng nói trên chỉ huy lại vây thành Thị Cầu (thị xã Bắc Ninh, Bắc Ninh) và buộc quân địch phải đầu hàng. Với chiến thắng Thị Cầu, quân ta đã giải phóng một vùng đất đai rộng lớn, tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, đồng thời cắt hẳn sự ứng viện lẫn nhau giữa Đông Quan và Xương Giang. Quân địch Ở thành Xương Giang càng bị cô lập, hệ thống thành lũy của địch từ Lạng Sơn về Đông Quan căn bản bị suy sụp.

        Trong khi đó thì đơn vị nghĩa quân do Trịnh Khả và Lê Khuyển chỉ huy cũng bao vây thành Tam Giang, án ngữ trên đường thủy bộ từ Vân Nam sang Đông Quan. Đầu tháng 4 năm 1427, toàn bộ quân địch ở thành này phải ra hàng quân ta.

        Ở Đông Bắc, đơn vị nghĩa quân do Trần Lựu và Lê Bôi chỉ huy đã bao vây thành Khâu ôn, một trong các thành lũy quan trọng nằm trên động từ Quảng Tây sang Đông Quan. Giữa tháng 2 năm 1427, sau một thời gian vây hãm, quân địch trong thành bị cạn lương, hoang mang đến cao độ. Một bộ phận trốn chạy về Quảng Tây, một bộ phận ở lại cố thủ bị quân ta tiêu diệt. Cũng vào lúc đó, đơn vị của Trần Lựu và Lê Bôi lại giải phóng luôn cả thành Trấn Di (tức Chi Lăng).
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #71 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:22:02 am »


        Trận đánh thành Xương Giang là trận gay go, quyết liệt nhất trong các trận bao vây chiếm thành. Thắng lợi của trận này đã trực tiếp dọn đường cho các thắng lợi diệt viện sau đó.

        Dưới thời Minh thống trị, thành Xương Giang là trị sở của phủ Lạng Giang bao gồm các huyện Lạng Giang, Yên Dũng, Yên Thế, Lục Nam, Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang và huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn) là thành lũy kiên cố nhất của giặc nằm trên đường Quảng Tây sang Đông Quan, cách bờ sông Thương 3 ki-lô-mét về phía Bắc (cách thị xã Bắc Giang 2 ki-lô-mét).

        Thành Xương Giang thuộc vùng đất làng Thành còn gọi là làng Đông Nham), xã Thọ Xương, thị xã Bắc Giang ngày nay. Đây là một thành khá lớn được xây dựng trên một vùng đất cao, phía đông - bắc có ngọn đồi thấp, phía nam có sông Hương chảy qua. Lòng thành rộng hơn 69 mẫu Bắc Bộ (tương đương với 25 héc-ta), có nhiều doanh trại, nhà giam và kho lương thực. Tường thành đắp bằng đất cao và dày, bốn góc có bốn vọng gác đắp cao hơn mặt thành. Phía ngoài thành có hào sâu bao bọc. Hiện nay thành đã bị hủy hoại mà chân thành phía đông - bắc vẫn còn rộng đến 25 mét. Vòng hào bao bọc quanh thành hiện nay bị lấp khá nhiều, tuy nhiên di tinh còn lại vẫn có đoạn rộng đến 15 mét.

        Thành Xương Giang cách Đông Quan hơn 50 ki-lô-mét (tính theo đường dịch trạm trước kia gần như trùng với đường quốc lộ 1A bây giờ). Đây là một vị trí quân sự trọng yếu của địch, vừa có thể ứng cứu nhanh chóng cho Đông Quan, vừa có thể làm chỗ dựa cho viện binh tiến sang. Quân Minh đóng giữ thành này có khoảng trên 2.000 quân do đô chỉ huy Lý Nhậm, tri phủ Lưu Tử Phụ và các tướng Kim Dận, Cố Phúc, Phùng Trí, Lưu Thuận chỉ huy. Sở chỉ huy của chúng đặt trên một khu đất cao ở khoảng giữa hơi chếch về phía đông - bắc thành, ngày nay nhân dân vẫn gọi là "đồi quân Ngô".

        Từ cuối năm 1426, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã phái các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Lê Thụ đem quân phối hợp với quân vùng Lạng Giang, Khoái Châu bao vây thành Xương Giang (Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí), bản dịch của Nhà xuất bàn Sử học, Hà Nội, t. I, tr. 25). Một viên tướng Minh ở thành Nghệ An đã đầu hàng nghĩa quân, tên là Thái Phúc, đã tự nguyện đến tận Xương Giang dụ hàng. Nguyễn Trãi cũng nhiều lần gửi thư cho bọn địch ở đây hết lời khuyên nhủ: “Thành Xương Giang nhỏ mọn kia dám chống lại mệnh trời, nổi giận đi đánh, nghĩa nên phải thế, sự không được đừng. Nhưng đem núi Thái Sơn đè bẹp quả trứng, sức không chịu được bao lâu, lấy lứa đó rực đốt cháy lông gà, thế khó đương được chốc lát. Lấy thuận mà đánh kẻ nghịch, lo gì không phải theo; lấy sức mạnh mà đánh kẻ yếu lo gì không đánh được. Mà còn lấy lời nói chăm chăm hiểu dụ, thật vì nhân mạng trong một thành là hệ trọng, mà không nỡ làm cho thương tổn” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, Quân trung từ mệnh tập, bản dịch đã dẫn, tr. 167). Nguyễn Trãi nêu cao tinh thần nhân nghĩa và sức mạnh của nghĩa quân: “Đối với đạo quân nhân nghĩa, kẻ nào thuận theo thì sống, kẻ nào chống lại thì chết”. Và lấy thực tế để chỉ rõ con đường họa phúc cho chúng: “nay hãy tạm lấy một việc trước mắt bày tỏ từng việc cho các ông nghe: các thành Tân Bình, Thuận Hóa, Nghệ An, Diên Châu, Tam Đái, Thị Kiều, Tiền Vệ, đều may biết thời thế, hiểu quyền biến, chuyển họa làm phúc, để cho người trong các thành ấy có đến hơn 56.000 người đều được an toàn. Duy có một thành Khâu Ôn, không hiểu sự biến, bo bo giữ kiến thức nhỏ, để cho người trong một thành ngọc đá đều bị thiêu cháy, há chẳng đáng xót thương! Các ông nên nghĩ, chớ để hối hận về sau!” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, Quân trung từ mệnh tập, bản dịch đã dẫn, tr. 175).

        Nhưng quân địch ngoan cố, liều chết cố thủ để chờ viện binh. Quân ta khép chặt vòng vây và kiên quyết hạ thành. Khi được tin viện binh địch sắp sang, tình hình càng trở nên khẩn trương. Lê Lợi - Nguyễn Trãi quyết định đánh gấp chiếm kỳ được thành Xương Giang trước khi quân địch vào biên giới nước ta. Bộ chỉ huy phái thêm thái úy Trần Nguyên Hãn đem quân lên tiếp ứng, phối hợp với quân Lê Sát đánh thành.

        Chiến sự xảy ra ở đây vô cùng ác liệt. Quân ta đào đường ngầm tiến vào, địch lại đào hào chặn lại. Quân ta đắp những ụ đất làm điểm cao để đặt súng lớn (hỏa pháo) bắn vào thành (Trang bị vũ khí ta và địch bấy giờ không khác nhau lắm. Vũ khí tối tân nhất bấy giờ là loại súng thần cơ do Hồ Nguyên Trừng sáng chế. Hồ Nguyên Trừng bị bắt, bày cho nhà Minh chế tạo loại vũ khí này. Vinh Lạc năm 12 (1412), Minh Thành Tổ hạ lệnh cho một số nơi chế súng thần cơ. Súng có nhiều loại to, nhỏ khác nhau, dùng đồng hoặc đồng đỏ trộn lẫn với gang đúc thành. Loại to dùng xe lớn chở. Loại nhỏ dùng giá kéo. Minh Thành Tổ rất coi trọng loại vũ khí này và đặc biệt tổ chức riêng đơn vị sử dụng, gọi là thần cơ doanh - một trong ba doanh lớn của quân đội kinh sư (Minh sử, binh chí; Dạ hoạch biên của Thẩm Đức Phù; Đại học diễn nghĩa bổ, Hỏa công luận của Khâu Tuấn). Địch lại tung quân ra phá. Nhưng quân địch dù ngoan cố, liều lĩnh đến đâu cũng không sao đương nổi sức công phá của nghĩa quân. Được nhân dân địa phương hết lòng giúp đỡ, quân ta càng ngày càng thắt chặt vòng vây và tiến công liên tục, càng đánh càng mạnh.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #72 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:22:37 am »


        Theo chuyện kể dân gian thì bấy giờ nhân dân các làng Hòa Yên, Hà Vị, Nam Xương (làng Vẽ), Đông Nham (làng Thành), Châu Xuyên (phố Châu Xuyên, thị xã Bắc Giang) đã giúp đỡ nghĩa quân vây thành. Các làng này ở sát thành Xương Giang nằm dưới sự khủng bố trấn áp của quân địch ngót 20 năm trời. Căm thù quân giặc tàn bạo, nhân dân đã giúp quân đội đào hào xuyên thành, đắp những ụ đất cao, cung cấp lương thực, sửa chữa vũ khí, làm thang trèo thành, chuẩn bị các phương tiện đánh thành. Nghĩa quân dùng nỏ cứng, các loại hỏa pháo, hỏa tiễn ngày đêm bắn vào thành. Quân địch trong thành càng ngày càng hoang mang, khốn quẫn. Quân lính bị chết quá nửa. Lương thực cạn. Số còn lại mệt mỏi, rã rời, không còn sức chiến đấu. Nửa đêm 28 tháng 9 năm 1427 (ngày 8 tháng chín năm Đinh Mùi), quân ta bắc thang ào ạt đột nhập vào chiếm thành. Thành bị hạ. Bọn tướng giặc ngoan cố phải tự tử. Toàn bộ quân giặc bị tiêu diệt.

        Trải qua hơn 9 tháng bao vây bền bỉ và tiến công dữ dội, trước sau đánh hơn 30 trận (Tiêu Hoành, Quốc triều hiến trưng lục, t. 45, q. 110), nghĩa quân đã giành được thắng lợi giòn giã. Thành Xương Giang bị hạ 10 ngày trước khi viện binh Liễu Thăng kéo tới biên giới nước ta.

        Chiến thắng Xương Giang đánh dấu một bước trưởng thành về chiến thuật và kỹ thuật của nghĩa quân Lam Sơn. Đến đây nghĩa quân không những giỏi đánh vận động tiêu diệt địch ngoài thành lũy, mà còn có khả năng đánh công kiên tiêu diệt địch ngay trong các cứ điểm có thành cao, hào sâu. phòng vệ kiên cố.

        Thắng lợi của trận công phá thành Xương Giang và các thành khác đã góp phần rất lớn củng cố hậu phương của ta, đồng thời tiêu diệt nguồn tiếp ứng bên trong của viện binh địch, tạo điều kiện để quân dân ta tiến lên tiêu diệt hoàn toàn lực lượng viện binh mới của nhà Minh. Khi hai đạo viện binh của Liễu Thăng, Mộc Thạnh tiến vào thì toàn bộ hệ thống thành lũy của địch trên đường đến Đông Quan đều bị quét sạch.

        Chiếm được thành Xương Giang, nghĩa quân đã mở rộng thêm phạm vi kiểm soát của mình, khống chế cả phủ Lạng Giang và cô lập quân địch trong các thành Đông Quan và Chí Linh. Từ đó thành Xương Giang trở thành cứ điểm quan trọng của ta chặn ngang đường tiến quân của viện binh địch. Tại đây, quân ta sẽ bao vây và mở những đợt tiến công quyết định cuối cùng tiêu diệt đạo viện binh Liễu Thăng ngay dưới chân thành này.

        Xuất phát từ chủ trương “vây thành diệt viện”, nghĩa quân Lam Sơn đã chuẩn bị sẵn sàng mọi điều kiện để tiêu diệt viện binh của nhà Minh. Cuối tháng 9 năm 1427, sau chiến thắng Xương Giang, quân địch chỉ còn chiếm giữ được bốn thành Đông Quan, Chí Linh, Cổ Lộng, Tây Đô. Cả đất nước được giải phóng trở thành hậu phương hùng hậu đưa cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đến toàn thắng. Bốn thành quân địch còn cố thủ như những hòn đảo chơ vơ giữa biển cả mênh mông, sóng gió. Quân địch bị vây hãm lâu ngày, bị tiến công dồn dập về quân sự và tinh thần nên thế và lực ngày càng suy sụp nghiêm trọng.

        “Vây thành diệt viện” là một chủ chương chiến lược đúng đắn, sáng suốt được đề ra khá sớm và được Lê Lợi - Nguyễn Trãi kiên trì thực hiện. Khi được tin viện binh của địch sắp sang, các nhà lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn ra lệnh siết chặt hơn nữa vòng vây quanh thành Đông Quan, cô lập triệt để khối quân của Vương Thông, ngăn chặn mọi âm mưu liên lạc với hai khối viện binh. Từ cuối năm 1426, quân ta đã đánh chiếm và triệt hạ dần các doanh trại và cứ điểm bảo vệ vùng ngoại vi Đông Quan. Quân địch phải rút vào trong thành, lo đào thêm hào đắp thêm lũy để cố thủ. Tuy nhiên, chúng văn còn giữ được vài cứ điểm bên ngoài như ở bãi Cơ Xá về phía đông và ở gần đê Vạn Xuân về phía nam. Khoảng giữa năm 1427, quân ta tiến công tiêu diệt cứ điểm ở bãi Cơ Xá rồi xây một thành nhỏ để khống chế quân địch trong thành. Sau trận Xương Giang, quân ta bất ngờ chiếm lấy đê Vạn Xuân rồi trong một đêm đắp thành chiến lũy và từ đó, tiến công tiêu diệt cứ điểm phía nam thành Đông Quan. Toàn bộ vùng ngoại vi Đông Quan thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân. Lê Lợi ra lệnh vây chặt bốn mặt thành và “canh giữ cho nghiêm, ngày đêm tuần xét”.

        Kế hoạch chuẩn bị tiêu diệt viện binh giặc đã hoàn thành tốt đẹp. Cả nước khẩn trương bước vào một trận quyết chiến chiến lược với quyết tâm giành thắng lợi cuối cùng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #73 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:24:04 am »


*

*       *

        Nghĩa quân Lam Sơn đã chuẩn bị sẵn chiến trường tiêu diệt viện binh của địch theo hai hướng từ Quảng Tây và Vân Nam sang. Nay 15 vạn viện binh địch chia làm hai đạo, tiến sang theo cả hai hướng, một vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng được đặt ra trước bộ tham mưu nghĩa quân là: cùng một lúc chia quân đánh cả hai đạo viện binh hay tập trung lực lượng tiêu diệt từng đạo một và tiêu diệt đạo nào trước? Đây là vấn đề chọn hướng chiến lược, xác định đối tượng tác chiến chủ yếu.

        Không phải khi viện binh địch kéo sang, Lê Lợi - Nguyễn Trãi mới suy nghĩ vấn đề trên. Trước đó, trên cơ sở phán đoán âm mưu địch và những nguồn tin tức do thám thu thập được, bộ chỉ huy nghĩa quân đã nghiên cứu và đề ra kế hoạch đối phó chủ động.

        Hai đạo viện binh của địch gồm 15 vạn quân và 3 vạn ngựa. Lực lượng nghĩa quân lúc đó có khoảng 35 vạn, nhưng còn phải làm nhiệm vụ vây hãm khoảng 10 vạn quân địch trong bốn thành và bảo vệ cả một hậu phương rộng lớn. Số quân cơ động có thể tập trung vào nhiệm vụ diệt viện không nhiều lắm. Trong tình hình như vậy, nếu cùng một lúc tiến đánh cả hai đạo viện binh địch thì rõ ràng binh lực của ta bị phân tán, khó lòng giành được thắng lợi giòn giã. Ngay từ đầu, bộ chỉ huy nghĩa quân đã chủ trương trước hết tập trung lực lượng tiêu diệt một đạo viện binh, đồng thời sử dụng một lực lượng nhỏ kiềm chế đạo viện binh kia. Và sau khi đánh thắng đạo thứ nhất sẽ thừa thắng tiến lên đánh bại đạo thứ hai. Vấn đề phải giải quyết là chọn hướng nào làm hướng tiến công chủ yếu.

        Đạo quân Mộc Thạnh có 5 vạn quân và 1 vạn ngựa. Đạo quân Liễu Thăng đông gấp đôi với 10 vạn quân và 2 vạn ngựa. Nếu tập trung lực lượng tiêu diệt đạo quân Mộc Thạnh thì quân ta dễ giành được thắng lợi ở hướng này. Nhưng như thế ở hướng kiềm chế, quân ta không còn đủ lực lượng ngăn chặn đạo quân Liễu Thăng. Đây là đạo quân đông nhất, mạnh nhất, giữ vai trò chủ yếu trong đội hình chiến lược của địch. Dù cho quân Mộc Thạnh bị tiêu diệt, Liễu Thăng vẫn còn đủ lực lượng để có thể tiến nhanh từ Pha Lũy vào Đông Quan. Trong trường hợp đó, ta không thực hiện được chủ trương “vây thành diệt viện” và cuộc chiến tranh yêu nước sẽ gặp nhiều khó khăn, bất lợi cho ta.

        Do đó, Bộ chỉ huy nghĩa quân quyết định chọn đạo quân Liễu Thăng làm đối tượng quyết chiến chủ yếu, tập trung lực lượng tiêu diệt đạo quân này trước và kiềm chế đạo quân Mộc Thạnh ở ải Lê Hoa. Dĩ nhiên đánh vào đạo quân Liễu Thăng, cuộc chiến đấu sẽ ác liệt, đòi hỏi quân ta phải có quyết tâm cao, phải mưu trí và dũng cảm. Nhưng đạo quân này bị tiêu diệt thì sẽ gây chấn động mãnh liệt, làm rung chuyển và sụp đổ toàn bộ thế trận của địch. Đạo quân Mộc Thạnh sẽ mất chỗ dựa và tan vỡ, tháo chạy. Viện binh bị diệt thì Vương Thông và quân địch trong các thành, như Nguyễn Trãi đã nhận định: “Đến như bọn các ngươi, không đánh mà bị bắt thì chẳng phải nói nữa”(Nguyễn Trãi. Toàn tập, sách đã dẫn. tr. 126). Và thắng lợi đó cũng sẽ là đòn quyết định giáng vào ý chí xâm lược của triều đình nhà Minh.

        Để thực hiện ý đồ chiến lược trên đây, bộ chỉ huy nghĩa quân đã đề ra kế hoạch tác chiến cụ thể và chuẩn bị sẵn chiến trường cho hướng tiến công chủ yếu cũng như hướng kiềm chế.

        Kiềm chế đạo quân của Mộc Thạnh không khó khăn lắm. Mộc Thạnh là một tướng soái cao cấp của triều Minh với tước thái phó Kiềm Quốc công. Về chức tước, Mộc Thạnh còn cao hơn Liễu Thăng. Nhưng trong lần cứu viện này, Mộc Thạnh chỉ cầm 5 vạn quân tiến sang để phối hợp với đạo quân chủ lực của Liễu Thăng. Mộc Thạnh là một tướng già đã từng trải chiến trường nước ta và đã bị đại bại, suýt bỏ mạng trong trận Bô Cô năm 1408. Biết rõ sức mạnh quật khởi của nhân dân ta, lại chỉ huy một đạo quân phối hợp, nên Mộc Thạnh giữ thái độ thận trọng, dè dặt.

        Hắn tiến quân chậm để chờ đợi, nghe ngóng tin tức đạo quân Liễu Thăng. Nếu Liễu Thăng tiến vào Đông Quan trót lọt thì hắn mới từ biên giới tiến xuống phối hợp. Nhưng nếu Liễu Thăng thất bại thì hắn sẽ kịp thời rút lui. Lê Lợi đã xét đoán: “Mộc Thạnh tuổi già, trải việc đã nhiều, vốn đã nghe tiếng ta, tất ngồi xem Liễu Thăng thành bại chứ không dám khinh động” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, sách đã dẫn, tr. 55).
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #74 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:24:28 am »


        Nắm vững vị trí, đặc điểm của đạo quân Mộc Thạnh và nhìn nhận đúng thái độ, tư tưởng của viên tướng chỉ huy này, bộ chỉ huy nghĩa quân chỉ sử dụng một binh lực cần thiết kiềm chế chúng ở vùng biên giới. Tháng 5 năm 1427, tướng Trần Ban đã được lệnh lên tu sửa ải Lê Hoa. Sau đó, Lê Lợi phái các tướng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Nguyễn Chích, Lê Khuyển, Lê Trung đem quân lên ải Lê Hoa, lợi dụng địa hình hiểm trở vùng này làm nhiệm vụ kiềm chế đạo quân Mộc Thạnh.

        Thắng lợi của kế hoạch “vây thành diệt viện” và toàn bộ sự nghiệp giải phóng dân tộc sẽ được định đoạt ở hướng tiến công chủ yếu tiêu diệt đạo quân Liễu Thăng. Nhận định về đạo quân này, Lê Lợi nói: "Giặc vốn khinh ta, cho người nước ta nhút nhát, từ lâu vẫn sợ oai giặc, nay nghe có đại quân đến, tất sợ hãi. Huống chi lấy mạnh đánh yếu, lấy nhiều thắng ít, đó là lẽ thường. Giặc không thế biết hình thế được thua của người, của mình, không biết then mây qua lại của thời vận. Vả quân cấp cứu cần phải mau chóng, giặc tất hết sức đi gấp đường. Binh pháp nói: đi 50 dặm để tranh lợi thì thượng tướng phải què. Nay Liễu Thăng đến, đường sá xa xôi, người ngựa mệt mỏi. Ta đem quân nhàn rỗi đánh quân mệt mỏi, lẽ nào không thắng” (Lam Sơn thực lục, sách đã dẫn).

        Ở hướng tiến công chủ yếu này, yêu cầu đặt ra là phải thực hiện quyết chiến, đánh mạnh thắng lớn, tiêu diệt toàn bộ đại quân Liễu Thăng. Nhưng nếu chỉ bằng một trận duy nhất thì khó bao vây diệt gọn một khối quân địch đông đến 10 vạn. Vì vậy, bộ chỉ huy nghĩa quân đã bố trí một loạt trận đánh liên tiếp trên đường tiến quân của địch từ ải Pha Lũy ở vùng biên giới cho đến Xương Giang nhằm tiêu diệt từng bộ phận rồi tiến lên bao vây tiêu diệt toàn bộ quân địch còn lại.

        Đạo quân Liễu Thăng từ Quảng Tây tiến sang qua Pha Lũy (Hữu Nghị Quan hiện nay) tất phải theo con đường độc đạo Khâu Ôn, Chi Lăng, Xương Giang rồi về Đông Quan dài trên 400 dặm (theo đường xe lửa Hà Nội - Đồng Đăng hiện nay, dài 163 ki-lô-mét). Quãng đường dài đó xuyên rừng núi trùng điệp Lạng Sơn, qua trung du Lạng Giang và đồng bằng Bắc Giang (nay là vùng Bắc Ninh) với nhiều sông ngòi dày đặc. Trên con đường đó đã từng diễn ra nhiều chiến công oanh liệt trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Lê Hoàn đã phá quân Tống và Trần Quốc Tuấn đã diệt quân Nguyên ở chốn này. Giờ đây Lê Lợi - Nguyễn Trãi lại chọn vùng Lạng Sơn, Lạng Giang làm chiến trường quyết chiến.

        Đặc điểm lớn nhất về địa thế vùng biên giới Lạng Sơn là rừng núi chen khít nhau. Từ Pha Lũy đến Cần Trạm, đường đi men núi, dọc theo các thung lũng nhỏ hẹp. Đây là địa bàn hiểm trở, tiện cho việc giấu quân; mai phục và đánh úp đều tiện lợi. Ngay quân Minh cũng phải nói: “Pha Lũy, Khâu Ôn, ải Lưu là nơi cổ họng của Giao Chỉ” (Lý Văn Phượng, Việt kiệu thư, sách chữ Hán,  chép tay. q. 2).

        Tận dụng địa hình núi rừng hiểm yếu, bộ chỉ huy nghĩa quân bố trí thế trận và lực lượng đánh địch như sau:

        Tướng Trần Lựu, Lê Bôi đã đem quân lên đóng giữ ải Pha Lũy từ trước. Hai tướng được lệnh khi giặc đến thì “ra đánh nhưng giả cách không thắng” (Lam Sơn thực lục sự tích, bản cua dòng họ Lê Sát ở Yên Định, Thanh Hóa, do Ban lịch sử tỉnh Thanh Hóa mới phát hiện). Đó là những trận đánh nhử địch nhằm kích động thêm tính chủ quan, khinh địch của Liễu Thăng, đồng thời từng bước dẫn dắt chúng tiến về phía Chi Lăng.

        Tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ, Lê Lỗng, Phạm Văn Liêu (Gia phả họ Phạm ở xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang. Bắc Giang) đem 1 vạn quân tinh nhuệ, 100 ngựa và 5 voi chiến tiến lên bố trí mai phục sẵn ở ải Chi Lăng.

        Tiếp theo đó, tướng Lê Lý, Lê Văn An đem 3 vạn quân lên tiếp ứng và chuẩn bị sẵn một trận mai phục ở Cần Trạm phía dưới Chi Lăng.

        Tại Xương Giang, tướng Trần Nguyên Hãn được lệnh gấp rút biến thành này thành một pháo đài án ngữ đường tiến quân của địch về Đông Quan và sẵn sàng phối hợp với các lực lượng nghĩa quân bao vây tiêu diệt số quân địch còn lại. Tướng Trần Lựu sau khi thực hiện kế hoạch diệt địch ở Chi Lăng sẽ rút quân đóng tại Thị Cầu (thị xã Bắc Ninh) kết hợp với quân Trần Nguyên Hãn chặn địch ở vòng ngoài mặt nam.

        Tại sở chỉ huy, Lê Lợi - Nguyễn Trãi trực tiếp theo dõi, chỉ đạo kế hoạch diệt viện và duy trì một lực lượng dự bị cần thiết để tiếp ứng cho các mặt trận. Công tác hậu cần bảo đảm việc tiếp tế binh lương, chiến khí cho quân đội cũng được chuẩn bị chu đáo và giao cho tướng Nguyễn Công Chuẩn phụ trách (Gia phả họ Nguyễn ở Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Một khối lượng lương thực khá lớn được chuyển đến tích trữ sẵn trong thành Xương Giang. Phối hợp với kế hoạch đánh địch bằng quân sự, Nguyễn Trãi còn chuẩn bị kế hoạch đánh địch về tinh thần phát huy vũ khí “đánh vào lòng địch”. Nguyễn Trãi nghiên cứu kỹ đặc điểm và tâm lý của bọn tướng giặc để tác động mạnh vào tinh thần của bọn chúng: khi thì kích động làm cho chúng thêm kiêu căng, liều lĩnh, khi thì vận động, thuyết phục làm cho không thêm hoang mang, rã rời.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #75 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:25:09 am »



        Như vậy là bộ chỉ huy nghĩa quân đã huy động khoảng 5 vạn quân vào hướng tiến công chủ yếu. Quân số của ta chỉ bằng nửa quân địch, nhưng đó là một quân đội dân tộc tinh nhuệ đã trải qua gần 10 năm chiến đấu.

        Đại đa số nghĩa quân là những nông dân nghèo khổ từ khắp nơi của đất nước, do yêu nước và căm thù giặc, tập hợp lại. Có những người đã có mặt trong đội quân thiết đột từ những ngày đầu khởi nghĩa và tháng ngày chiến đấu gian khổ ở Lam Sơn, Chí Linh. Họ đã đi khắp các chiến trường, đánh phục kích, tập kích, đánh công thành. Họ từ căn cứ Thanh, Nghệ, từ chiến trường Tân Bình, Thuận Hóa và đồng bằng sông Hồng, nay vượt núi băng sông kéo lên vùng Lạng Sơn, Lạng Giang với quyết tâm giành thắng lợi oanh liệt nhất cho dân tộc. Đó là một quân đội kiên cường, bất khuất, có bản lĩnh chiến đấu cao và sức chiến đấu bền bỉ, dẻo dai.

        Chỉ huy các đạo quân diệt viện lần này dầu là những tướng lĩnh xuất sắc, mưu trí, dũng cảm của nghĩa quân Lam Sơn.

        Trần Lựu, Lê Sát, Lê Linh , Đinh Liệt, Lê Văn An, Lê Lỗng, Phạm Văn Liêu là những người ở vùng Lam Sơn tham gia khởi nghĩa từ ngày đầu.

        Lê Sát đã đánh trận Khả Lưu (1424), một trong những người chỉ huy nghĩa quân bao vây và hạ thành Xương Giang trước khi tiến quân lên Chi Lăng.

        Trịnh Khả, Trần Lựu là những người đã có mặt ở lễ thề Lũng Nhai năm 1416: Trịnh Khả đã chỉ huy nghĩa quân giải phóng các vùng Thiên Quan, Quảng Oai, Gia Hưng, Tam Đái, Tuyên Quang và đã góp phần lập nên chiến thắng Tốt Động - Chúc Động.

        Nguyễn Chích là người đã chỉ huy một “làng chiến đấu” đánh địch ở vùng Đông Sơn (Thanh Hóa), rồi tiến lên lập căn cứ Hoàng Sơn- Nghiêu Sơn (Nông Cống và Đông Sơn - Thanh Hóa) hoạt động ở vùng nam Thanh Hóa, bắc Nghệ An trước khi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông là vị tướng xuất sắc nổi tiếng với kế hoạch chiến lược tiến quân vào Nghệ An xây dựng căn cứ mới cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và dã góp phần tích cực vào việc giải phóng Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa (Văn bia Quốc Triều tả mệnh công thần Nguyễn Chích do Trình Thuấn Du soạn năm 1450. Theo văn bia, ông cùng Trịnh Khả chặn viện binh Mộc Thạnh ở Lê Hoa). Đầu năm 1427, ông chỉ huy nghĩa quân giải phóng thành Điêu Diêu, Thị Cầu.

        Trần Nguyên Hãn, người Lập Thạch (Vĩnh Phúc), dòng dõi quý tộc Trần, đã dựng cờ đấu tranh tại trang Sơn Đông, quê hương ông, trước khi theo Lê Lợi. ông đã đứng đầu các đạo quân giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa. Năm 1427, ông là tổng chỉ huy cuộc bao vây hạ thành Xương Giang.

        Phạm Văn Xảo người Kinh Lộ (vùng Thăng Long) đã tham gia nhiều chiến trận: bao vây Tây Đô (1425); giải phóng Thiên Trường, Trường Yên, Tân Hưng, Kiến Xương (1426).

        Nguyễn Công Chuẩn là tướng hậu cần tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu. Suốt trong 10 năm kháng chiến, ông đã lo liệu bảo đảm việc cung cấp hàng vạn thạch gạo, mưuối và chiến khí cho nghĩa quân. Trải qua những ngày tháng hiểm nghèo ở núi Chí Linh hoặc trong thời kỳ tiến quân vào Nghệ An lập căn cứ hay ra Bắc diệt địch trên các chiến trường Ninh Kiều, Tốt Động, Nguyễn Công Chuẩn đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiếp tế lương thực, vũ khí.

        Nghĩa quân Lam Sơn lại luôn luôn chiến đấu trong sự tham gia, ủng hộ về mọi mặt của nhân dân. Cùng sát cánh chiến đấu với nghĩa quân, có những đội dân binh địa phương giữ vai trò quan trọng.

        Đạo quân của Liễu Thăng tuy đông và hung hăng nhưng phải tiến quân vào một địa bàn hết sức bất lợi do quân ta làm chủ và đã bố trí sẵn một thế trận lợi hại.

        Quân địch rất đông, hậu cần nặng nề, lại phải hành quân trên một con đường độc đạo hẹp, hai bên là núi rừng trùng điệp. Đội hình hành quân của địch do đó phải kéo dài hàng mấy chục dặm, lực lượng bị dàn mỏng và khó lòng tập trung lại thành một khối khi bị tiến công. Nắm vững nhược điểm đó của quân địch, bộ chỉ huy nghĩa quân bố trí những trận đánh nhử địch ở vùng biên giới để kích động thêm tính chủ quan khinh địch của Liễu Thăng, tăng thêm nhân tố bất ngờ cho những trận đánh tiếp theo và dẫn dắt quân địch vào những trận địa mai phục đã chuẩn bị sẵn ở Chi Lăng, Cần Trạm. Nhiệm vụ của những trận phục kích đó là giáng những đòn sấm sét vào đội hình hành quân của địch, tiêu diệt từng bộ phận quan trọng sinh lực dịch, nhất là bộ phận tiên phong, bộ phận chỉ huy đầu não và bộ phận hậu cần. Cuối cùng quân dân ta sẽ chặn đứng số quân địch còn lại ở trước thành Xương Giang rồi tập trung binh lực bao vây chặt và tiêu diệt gọn.

        Tiêu diệt toàn bộ đạo quân tiếp viện chủ yếu của Liễu Thăng nhằm đập tan những cố gắng chiến tranh cao nhất của kẻ thù, đè bẹp ý chí xâm lược của nhà Minh, đó là mục đích và quyết tâm sắt đá của quân và dân ta trong trận quyết chiến chiến lược có ý ngnĩa quyết định thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến tranh giải phóng lúc bấy giờ. Công việc chuẩn bị chiến trường về mọi mặt được nghiên cứu tính toán một cách khoa học và thực hiện với tinh thần rất chủ động, tích cực.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #76 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:25:58 am »


*

*        *

        Mười ngày sau chiến thắng hạ thành Xương Giang của nghĩa quân Lam Sơn, tức ngày 8-10-1427 (18 tháng chín năm Đinh Mùi), đạo quân của Liễu Thăng đột nhập vào biên cảnh nước ta. Quân ta do tướng Trần Lựu chỉ huy, giữ cửa ải Pha Lũy, thực hiện đúng kế hoạch vừa đánh vừa rút lui nhử địch vào trận địa quyết chiến.

        Liễu Thăng tiến vào cửa Pha Lũy, Trần Lựu đem quân đánh rất mạnh rồi nhanh chóng lui về giữ Khâu Ôn. Quân giặc lại ào ạt đuổi theo chiếm lấy thành Khâu Ôn. Quân địch vừa chiếm thành này thì Liễu Thăng nhận được thư Lê Lợi xin rút quân về biên giới để xem xét tình hình. Bức thư nêu rõ: 20 năm nhà Minh gây chiến tranh là 20 năm đau khổ cho cả người Trung Quốc mà “cái được không bù nổi cái mất”, “mưu mẹo lo lắng không hàn gắn nổi vết thương nặng”, còn phía nghĩa quân luôn luôn chiến đấu vì nghĩa lớn, thực hiện điều nhân, bọn quan lại và quân đội nhà Minh bị bắt có trên một vạn người đều được thu nuôi đầy đủ đối đãi tử tế. Bức thư có đoạn viết: “Các ông ví xét rõ sự tình thời thế, đóng đại quân lại, rồi đem việc hòa giải của tất cả các quan lại, quân dân nói trên kia làm tờ sớ tâu rõ công việc về triều đình, tôi cũng liền lập tức cho đúc người vàng, mang tờ biểu, tiến cống thổ sản địa phương. Còn các bầy tôi trong triều may ra biết đem đường lối thẳng thắn can ngăn vua: lại làm việc dấy kẻ bị diệt, nối lại dòng kẻ mất gốc mà tránh được việc phi lý dùng binh đến cùng, khoe khoang vũ lực như thời Hán, Đường... Làm như thế thì các ông có thể ngồi yên đó mà hưởng thành công. Mà nước lớn sẽ trọn được đạo “lạc thiên”; nước nhỏ cũng tỏ được lòng thành thực “úy thiên”” (Nguyễn Trãi, Toàn tập (phần Quân trung từ mệnh tập), sách đã dẫn, tr. 178. Theo thư gửi Kiềm Quốc công Mộc Thạnh thì Lê Lợi gửi thư cho Liễu Thăng khi hắn đến Khâu Ôn (xem sách trên, tr. 150).

        Nhận được thư, Liễu Thăng không thèm để ý, cứ một mực tiến quân. Trần Lựu rút về giừ ải Lưu. Liễu Thăng lại đuổi theo chiếm lấy ải Lưu (Sử cũ không cho biết cụ thể về địa điểm này. Theo Hoàng Phúc ghi chép trong tập Phụng sứ An Nam thủy trình nhật ký thì từ Khâu Ôn đến ải Lưu phải đi mất một ngày. Từ ải Lưu đến Chi Lăng chỉ đi nửa ngày (tính theo hành trình của Hoàng Phúc). Theo ghi chép của Lý Văn Phượng (Việt kiệu thư) thì đường hành quân của Trương Phụ vào nước ta năm 1406 cũng gần như trên. "Tháng 10 ngày đinh mùi, Trương Phụ đến Bằng Tường. Ngày hôm ấy vào Pha Lũy. Ngày mậu thân (hôm sau), đại quân đến Khâu Ôn. Ngày kỷ dậu (hôm sau nữa), đi tuần thám đến ải Lưu. Ngày hôm ấy, bọn phiêu kỵ tướng quân tiến phá được cửa quan Kê Linh (Chi Lăng)". Vậy ải Lưu nằm phía gần Chi Lăng hơn gần Khâu Ôn. Theo hành trình của Hoàng Phúc thì từ Khâu Ôn đến ải Lưu phải đi 1 ngày trên 40 dặm. Vậy ải Lưu phải ở khoảng giữa hai xã Nhân Lý và Mai Sao (thuộc Chi Lăng ngày nay). Điều này cũng phù hợp với truyền thuyết nhân dân vùng Quang Lang: quân ta nhử giặc Liễu Thăng từ phía bắc sông Kỳ Cùng (quãng thị xã Lạng Sơn) đến vùng Lạng Nắc, rồi nhử giặc từ Lạng Nắc đến ải Chi Lăng. Chúng tôi kết hợp các tài liệu trên cho rằng ải Lưu nằm khoảng Lạng Nắc, hoặc trên đó không xa lắm, vùng giáp giới hai xã Nhân Lý và Mai Sao huyện Chi Lăng ngày nay).

        Trần Lựu rút về Chi Lăng mai phục. Khi Liễu Thăng chiếm ải Lưu, Lê Lợi lại tiếp tục gửi cho Liễu Thăng một bức thư khuyên nên lui binh, không nên đi sâu vào đất người sẽ hối không kịp. Bức thư có đoạn viết: “Các ông là tướng lão luyện của thiên triều, vâng mệnh (đem quân) ra ngoài cõi; công việc ngoài (đô) thành, mình tự chuyên là được rồi. Sao không xét rõ thời nghi, tùy tiện sắp việc, lui quân ra ngoài cõi, sai một viên sứ giả mang thư đến xem hư thực... Nay các ông không nghĩ đến việc ấy, đem quân cô độc đi sâu vào đất người cầu may nên được công việc. Tôi không cho việc làm ấy của các ông là phải. Vả lại con ong cái bọ còn có nọc độc, huống chi trong nước tôi không có người nào là người có mưu kế dũng lược hay sao? Các ông chớ cho nước tôi là ít người mà coi thường. Đến lúc ấy thì lòng thành của nước tôi thờ nước lớn thực có phần thiếu, mà các ông hối lại sẽ không kịp” (Nguyễn Trãi, Toàn tập (phần Quân trung từ mệnh tập), bản dịch đã dẫn, tr. 169).
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #77 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:26:23 am »


        Nhận được thư lần này, Liễu Thăng càng tỏ ra chủ quan, khinh thường quân ta và vẫn cứ một mực tiến quân.

        Ải Lưu vốn là vị trí quân sự quan trọng của Lạng Sơn. Trước đó vào những ngày đầu mới xâm lược, quân Minh đã lập doanh trại, đặt Thiên hộ sở ở đây. Hoàng Phúc nhận xét cửa ải này hiểm yếu hơn cửa ải khác (Hoàng Phúc, tài liệu đã dẫn). Liễu Thăng tiến vào ải Lưu dễ dàng như vào chỗ không người, lại nhận được thư của Lê Lợi, lời lẽ mềm dẻo, nên ra lệnh tiếp tục tiến nhanh về ải Chi Lăng.

        Bấy giờ nhiều tướng giặc rất lo ngại vì thấy ải Chi Lăng hiểm yếu, sợ có phục binh. Lang trung bộ lại Sử An và chủ sự Trần Dung yêu cầu tham tán quân vụ là thượng thư Lý Khánh phải hết sức can ngăn Liễu Thăng không nên kiêu căng khinh địch, cần đề phòng phục binh. Lý Khánh đang ốm cũng gượng dậy khuyên Liễu Thăng. Đô sự Phan Nhân cũng nhắc lại các trận thất bại ở Cần Trạm, Ninh Kiều trước kia, khuyên Liễu Thăng nên cẩn thận và phái quân đi do thám tình hình. Nhưng Liễu Thăng càng ngạo mạn không nghe những lời khuyên bảo đó.

        Liễu Thăng là viên tướng đã tham gia nhiều cuộc chiến tranh trong thời Minh Thành Tổ (1403-1425). Y lập nhiều chiến công nên được thăng quan tiến chức rất nhanh. Từ một viên bách hộ chỉ huy vài trăm quân, Liễu Thăng được phong làm đô chỉ huy thiêm sự tham gia đạo quân xâm lược nước ta của Trương Phụ (1406-1407). Sau khi đánh bại nhà Hồ, Liễu Thăng được phong đến An Viễn bá, ăn lộc 1.000 thạch thóc. Rồi sau ba lần tham gia Bấc chinh đánh Mông Cổ, Liễu Thăng lại được phong đến tước hầu, ăn lộc 1.500 thạch thóc, hàm thái tử thái bảo, và trở thành một quan chức cao cáp của triều đình nhà Minh. Chức cao, tước lớn, lại nắm trong tay quyền chỉ huy 10 vạn quân tiến vào nước ta không gặp sự kháng cự nào đáng kể, Liễu Thăng càng hết sức kiêu căng khinh thường quân ta. Nắm được nhược điểm này, Lê Lợi - Nguyễn Trãi lại gửi thư xin Liễu Thăng rút quân, càng làm cho y thêm chủ quan. Thăng ra lệnh tiếp tục tiến quân. Theo lệnh Liễu Thăng, quân Minh cứ ào ạt tiến thẳng về phía ải Chi Lăng trong tư thế “đắc thắng”.

        Về những trận đánh nhử địch nói trên, sử cũ ghi chép rất sơ lược. Nhưng rõ ràng Trần Lựu đã thực hiện kế hoạch rất tài tình. Liễu Thăng thực sự “đã thua kế” (Bình Ngô đại cáo). Trần Lựu người Thanh Hóa, tham gia khởi nghĩa từ buổi Lũng Nhai (năm 1416), dã trải qua nhiều trận mạc. Trước đó, tháng 7 nam 1427 (tháng 6 năm Đinh Mùi, Trần Lựu và Lê Bôi lên trấn giữ vùng biên giới Lạng Sơn giải phóng Khâu Ôn, đã phá tan đạo viện binh của Trấn Viễn hầu Cố Hưng Tổ từ Quảng Tây tiến sang. Nghĩa quân đã chém 3.000 tên giặc, bắt 500 ngựa (Theo gia phả họ Trần, thì Trần Lựu đã từng chỉ huy trận tiêu diệt cứ điểm địch ở Yên Lộ (nay thuộc huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa), bảo vệ căn cứ Lam Sơn trong thời gian đầu (1418-1423)). Trần Lựu và Lê Bôi đã lập chiến công xuất sắc. Lần này với số quân rất ít. Trần Lựu có nhiệm vụ vừa đánh vừa rút lui thế nào để vừa bảo vệ được mình lại đánh lừa được địch. Các trận đánh nhử địch của Trần Lựu diễn ra từ Pha Lũy đến Chi Lăng trên quãng đường độc đạo hiểm trở dài trên 60 ki-lô-mét, hai bên là núi đá dựng đứng.

        Thực hiện thành công việc nhử địch trên một quãng đường dài hiểm trở, dẫn chúng tiến nhanh và rất chủ quan vào trận địa quyết chiến bố trí sẵn là một thắng lợi to lớn của quân ta. Thắng lợi đó đã góp phần quan trọng tạo ra nhân tố bất ngờ cho trận phục kích Chi Lăng. Những trận rút lui tài tình của Trần Lựu thực sự đã mở đường dẫn đến đại thắng trên chiến trường này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #78 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:27:41 am »


*

*       *

        Chi Lăng là ải hiểm trở nhất trên đường từ Pha Lũy sang Đông Quan; cách Pha Lũy khoảng hơn 60 ki-lô-mét; cách Đông Quan khoảng 100 ki-lô-mét (tính theo chiếu dài đường sắt Hà Nội - Hữu Nghị Quan, đường hành quân ngày xưa căn bản cũng gần trùng với đường này). Ải Chi Lăng ngày nay thuộc xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, bắc giáp xã Quang Lang, đông giáp xã Sơn Hậu (Lục Ngạn, Hà Bắc), tây giáp xã Y Tịch, nam giáp xã Hòa Lạc (Hữu Lũng, Lạng Sơn).

        Ải Chi Lăng là một thung lũng nhỏ, hình bầu dục, hai đầu nam bắc thu hẹp, gần như khép kín. Chiều dài ải Chi Lăng khoảng 4 ki-lô-mét, chỗ rộng nhất hơn 1 ki-lô-mét. Phía tây là dãy núi đá lởm chởm, vách núi dựng đứng (ngày nay gọi là dãy núi Cai Kinh, tên một lãnh tụ phong trào chững Pháp cuối thế kỷ XIX hoạt động ở vùng này). Phía đông là núi đá Quỉ Môn, núi đá Phượng Hoàng liền với dãy núi đất thuộc hệ núi Thái Hòa và Chi Lăng. Dòng sông Thương bắt nguồn từ núi Kháo (dốc Sài Hồ) men theo sườn núi Cai Kinh, chảy qua các huyện Chi Lăng, Hữu Lũng (thuộc Lạng Sơn), Lạng Giang (thuộc Bắc Giang), rồi xuôi về ngã ba Nhãn xuống sông Lục Đầu...

        Trong ải Chi Lãng có 5 hòn núi đá nhỏ: núi Hàm Quỉ (hay núi Quỉ Môn), núi Nà Nông (còn gọi là núi Phượng Hoàng), núi Nà Sản (còn gọi là núi Vọng Phu), núi Kỳ Lân (còn gọi là núi Nà Pung) và núi Mã Yên (còn gọi là núi Trăm Năm). Những ngọn núi nhỏ này nằm gọn trong lòng ải. Cửa ải phía bắc ở giữa núi Hàm Quỉ và núi Cai Kinh. Cửa ải phía nam ở giữa núi Cai Kinh và núi Chi Lăng, nhân dân gọi là ngõ Thề. Theo truyền thuyết dân gian, quân dân ta đặt tên cho cửa ải phía nam là ngõ Thề với ý nghĩa biểu thị quyết tâm tiêu diệt giặc ngoại xâm trong cửa ải hiểm yếu này.

        Dãy núi Chi Lăng dốc đứng và dãy núi Thái Hòa trùng điệp là những bức thành cao chắn hai ngả đông tây, khép lấy thung lũng Chi Lăng cùng với các ngọn núi đá nhỏ bên trong làm cho cửa ải này thêm hiểm trở. Ải Chi Lăng lại nằm trên đường độc đạo, nên càng chiếm giữ một vị trí quân sự vô cùng quan trọng ngày xưa.

        Núi rừng Chi Lăng đã chứng kiến nhiều chiến công oanh liệt của dân tộc ta. Tháng 4 năm 981, quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, kéo sang xâm lược, bị Lê Hoàn phá tan ở đây (Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Tuy nhiên, cũng có học giả cho rằng Hầu Nhân Bảo bị đánh tan ở Bạch Đằng. Xin ghi lại để bạn đọc tham khảo). Cuối năm 1076, đạo quân người Tày do phò mã Thân Cảnh Phúc chỉ huy, trấn giữ cửa ải này đã buộc quân Tống phải vòng về phía tây tiến xuống. Cuối thế kỷ thứ XIII, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên, vua tôi nhà Trần cũng đã lấy Chi Lăng làm vị trí đóng quân ngăn chặn địch. Nhưng Chi Lăng lừng danh nhất trong lịch sử chính vì nơi đây, trong thế kỷ thứ XV, đã ghi thêm chiến công rực rỡ giết chết tổng binh thái tử thái bảo An Viễn hầu Liễu Thăng, viên chủ soái cầm đầu cả hai đạo quân viện binh giặc và tiêu diệt hàng vạn quân Minh.

        Với vị trí quân sự quan trọng, quân Minh đã coi Chi Lăng là “cổ họng của Giao Chỉ”; là “nơi hiểm yếu đại quân ra vào”. Từ ngày đầu mới đặt chân lên nước ta, chúng đã dối Chi Lăng thành Trấn Di. Chúng xây thành lũy, dựng doanh trại, đặt vệ sở và lấy làm trị sở của huyện Trấn Di, phủ Lạng Sơn (Nhà Minh đặt Lạng Sơn thành một phủ (bao gồm tỉnh Lạng Sơn và phần lớn tỉnh Cao Bằng), gồm 7 châu, 5 huyện. Bảy châu là: Thượng Văn, Hạ Văn, Thất Nguyên, Vạn Nhai, Quảng Nguyên, Thượng Tư, Hạ Tư. Năm huyện là: Khâu Ôn, Trấn Di, Uyên Huyện, Đan Ba và Thoát Huyện. Khâu Ôn là vùng phía bắc huyện Chi Lăng, huyện Cao Lộc và thị xã Lạng Sơn ngày nay. Trấn Di bao gồm huyện Chi Lăng và phần bắc huyện Hữu Lũng ngày nay (xem Lý Vân Phượng, Việt kiệu thư, Cố Tổ Vũ, Độc sử phương dư kỷ yếu, dư địa tổng đồ, q. 4, An Nam đồ thuyết). Chúng dùng Chi Lăng làm một căn cứ quân sự trọng yếu để trấn áp phong trào yêu nước của nhân dân ta, trước hết là vùng nam Lạng Sơn và để khống chế con đường giao thông quan trọng nối liền Đông Quan với Quảng Tây. Hiện nay ở Chi Lăng có hệ thống thành lũy tương truyền do quân Minh xây dựng. Phía bắc ải có thành đất kéo dài từ chân núi Cai Kinh nối liền núi Hàm Quỉ, núi Nà Nông và núi Nà Sản rồi lao qua các sườn núi Thái Hòa chạy về phía đông. Ngoài thành có bãi cắm chông và hào sâu. Di tích còn lại hiện nay có chỗ vẫn còn cao đến 6 mét, chiều sâu của hào 4 mét. Phía nam ải cũng còn có một thành đất nối liền ngõ Thề với núi đá Cai Kinh là núi đất Thái Hòa. Vết tích đoạn thành này có nơi cao trên 1 mét, mặt thành rộng đến 5 mét. Hai đường thành bắc và nam là hai chiến lũy quan trọng khiến địa thế Chi Lăng càng thêm hiểm yếu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #79 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:28:11 am »


        Trong lòng ải Chi Lăng lại còn di tích hai tòa thành kiên cố mà ngày nay nhân dân địa phương gọi là thành Bầu và thành Kho. Thành Bầu hình vuông chu vi 400 mét, chỗ cao nhất hiện nay là 1,50 mét. Trong thành còn có di tích nền doanh trại. Thành Kho cũng được đắp theo hình vuông, chu vi là 600 mét, tây nam thành dựa vào núi Cai Kinh, phía đông có sông Thương chảy qua (Theo Hồ sơ lịch sử di tích xã Chi Lăng của Hà Đức Lân, Ty Văn hóa Lạng Sơn, thì thành Bầu, thành Kho được xây dựng nhiều lần, có lẽ đời Mạc còn xây thêm. Chân thành bằng đá, tường thành xây bằng gạch, giữa để đất. Bắc và nam thành đều có hào sâu phía trong. Ngoài thành Bầu, thành Kho còn có những lũy đất khác ở các thời kỳ lịch sử khác nhau chưa được xác định như các Lũy đất ở Cần Trạm, ở làng Đồn, v.v.). Đây là vị trí đóng quân được phòng vệ chu đáo, có thể chứa được mấy nghìn quân.

        Núi cao thành lũy chắn cả bốn phía trên một diện tích không rộng lắm khiến cho địch khi lọt vào trận địa Chi Lăng tự nhiên như bị bao vây ép chặt vào một túi sâu khó thoát, bị dồn vào “đất chết”.

        Đối với nghĩa quân thì núi sông kết hợp với thành lũy lại là nơi giấu quân bày trận thuận lợi. Các ngọn núi nhỏ trong ải, những hang đá và thành lũy là bức tường che mắt quân địch, hạn chế tầm quan sát và cơ động của chúng. Các tướng Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ, Lê Lỗng chỉ huy hơn 1 vạn quân, 100 ngựa và 5 voi chiến đã chia quân chiếm giữ các vị trí lợi hại, mai phục sẵn chờ giặc. Nghĩa quân Lam Sơn chọn nơi đây làm trận địa tiến công thứ nhất. Quân mai phục của ta đã ở trong tư thế sẵn sàng chiến thắng và đang chờ đợi ngày giờ diệt giặc. Đó là thế trận “phục binh giữ hiểm đập gãy tiền phong” (Bình Ngô đại cáo).

        Đội quân của tướng Trần Lựu cũng rút về ải Chi Lăng, phối hợp với lực lượng mai phục chuẩn bị chiến đấu.

        Phía trước ải Chi Lăng, trên đường tiến quân của địch, quân dân ta dựa vào thế núi dựng rào lũy vừa đề nghi binh đánh lừa Liễu Thăng, vừa để sẵn sàng đánh vào đội hình hành quân dài của địch phối hợp với trận chặn đánh tiền quân ở ải Chi Lăng.

        Ngày 10 tháng 10 (ngày 20 tháng chín năm Đinh Mùi), Liễu Thăng với tư tưởng chủ quan kiêu ngạo cao độ, đích thân dẫn hơn 100 quân kỵ hung hăng mở đường tiến vào cửa ải (Theo Đông Lý văn tập của Dương Sĩ Kỳ (đầu đời Minh) và Thông giám tập lãm (1767 đời Thanh) thì Liễu Thăng khinh suất, cầm đầu 100 quân kỵ đi trước). Tướng Trần Lựu lại đem quân khiêu chiến rồi “giả vờ thua chạy” (Lam Sơn thực lục).

        Từ Pha Lũy đến Chi Lăng, trên chặng đường dài đó, Liễu Thăng chỉ thấy đội quân Trần Lựu vừa đánh vừa chạy. Khinh địch và tức tối, Liễu Thăng thúc quân đuổi theo, bám sát Trần Lựu, tiến vào ải Chi Lăng. Tiền quân của địch tiến theo sau. Đội kỵ binh của Liễu Thăng vượt qua cửa ải phía bắc, tiến đến chân núi Mã Yên.

        Mã Yên là hòn núi đá cao khoảng 40 mét so với mặt đất chu vi 300 mét, nằm ở phía nam cánh đồng Chi Lăng. Quanh chân núi là cánh đồng lầy lội, hiện nay nhân địa địa phương còn gọi là Nà Pung, Nà Lúm (tiếng Tày có nghĩa là đồng lầy, đồng thụt) muốn qua phải bắc cầu mới đi được. Liễu Thăng định vượt qua cầu nhưng cầu hỏng (có thể do quân ta bố trí trước) (Việt sử thông giám cương mục (q. 14) dẫn một đoạn trong Thông giám tập lãm ghi: Liễu Thăng định vượt qua cầu, cầu bị hỏng nên không tiến lên được. Theo các sách Minh sử, Hoàng minh thực lục, Minh sử kỷ sự bản mạt và Đông lý văn tập thì Liễu Thăng đã vượt qua cầu cầu bị hỏng nên hậu đội không tiến lên được). Đội kỵ binh giặc đã hoàn toàn lọt vào trận địa mai phục của ta.

        Ngay lúc đó, phục binh ta bốn mặt nhất tề xông ra chiến đấu. Đội quân khiêu chiến của Trần Lựu lập tức quật trở lại phối hợp tác chiến. Cuộc chiến đấu diễn ra thật bất ngờ, mau lẹ. Mở đầu trận đánh, đội tượng binh cửa ta thúc voi tiến vào trận địa (Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí, truyện Lê Sát, Lê Nhân Thụ đều chép quân và voi ta mai phục ở Chi Lăng).
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM