Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:24:07 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc  (Đọc 35719 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #60 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:09:44 am »

       
*

*        *

        Rạng sáng ngày 7 tháng 11, vào khoảng đầu canh năm, Vương Thông phất cờ ra lệnh cho quân lính bắt đầu xuất phát. Theo kế hoạch đã vạch, từ phía đông Ninh Kiều, hai cánh chính binh và kỳ binh lũ lượt vượt cầu sông Ninh, tiến về phía Cao Bộ.

        Hiện nay chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nào ghi rõ ngày xảy ra trận Tốt Động - Chúc Động. Đại Việt sử ký toàn thư (q. 10, tờ 22-23) chép trận đánh xảy ra sau ngày 7 và trước ngày 11 tháng 10 năm Bính Ngọ, tức sau ngày 6 và trước ngày 10 tháng 11 năm 1426. Cũng theo Toàn thư, sau khi thắng trận, quân ta báo tin chiến thắng cho Lê Lợi, lúc bấy giờ đang đóng ở Lỗi Giang, và Lê Lợi “thân đem đại quân và 20 con voi, chia đường thủy bộ, ngày đêm đi gấp, ngày 11 đến Lung Giang đóng dinh” . Lung Giang là sông Đáy ở vùng Hà Tây ngày nay. Từ Lỗi Giang (Thanh Hóa) ra Lung Giang, hành quân cấp tốc cả ngày đêm cũng mất ít nhất 2 ngày. Đại quân của Lê Lợi có mặt ở Lung Giang ngày 11 âm lịch tức ngày 10 tháng 11 năm 1426, thì xuất phát ở Thanh Hóa chậm nhất vào mở sáng ngày 9 tháng 11 năm 1426. Và như vậy người đặc phái vào Lỗi Giang báo tin thắng trận phải ra đi ở vùng Ninh Kiều - Cao Bộ chậm nhất là chiều hoặc tối ngày 7. Người này có thể phi ngựa theo yêu cầu hỏa tốc để chậm nhất là chiều hoặc tối ngày 8 đến Lỗi Giang. Tính toán như vậy thì ngày xảy ra trận Tốt Động - Chúc Dộng có thể là ngày 7 tháng 11 năm 1426. Ở đây, chúng tôi tạm thời xác định như thế khi chưa có tài liệu mới đáng tin cậy hơn.

        Tài liệu nhà Minh, nhà Thanh chép trận đánh này vào tháng 11 năm Bính Ngọ, so với tài liệu của ta chậm khoảng gần một tháng. Nhưng ngày xảy ra trận đánh, các tài liệu này cũng chép khác nhau. Hoàng Minh thực lục chép ngày 6 tháng 11. Quốc triều hiến trưng lục chép ngày 9 tháng 11.

        Về giờ xuất phát của quân địch, tài liệu của ta không chép rõ. Nhưng theo bài văn bia mộ Trần Hiệp do Tăng Khải soạn, sao chép lại trong Quốc triều hiến trưng lục (q.38) thì “sáng sớm hôm sau Vương Thông ra lệnh cho quân qua sông". Minh sử kỷ sự bản mạt (q. 22) ghi rõ hơn “đầu trống canh năm, Vương Thông phất cờ ra lệnh cho quân sang sông”.

        Cánh kỳ binh qua sông trước, theo "đường tắt" tiến đánh về phía sau Cao Bộ để "đặt súng phía sau quân ta" và bất ngờ nổ súng (hỏa pháo) làm tín hiệu cho cánh chính binh.

        Cánh chính binh do Vương Thông trực tiếp chỉ huy, theo đường "lai kinh" qua vùng Tốt Động tiến thẳng đến phía trước Cao Bộ. Cánh quân này di chuyển ồ ạt, phô trương thanh thế vừa để uy hiếp vừa để thu hút quân ta về phía trước mặt Cao Bộ.

        Theo kế hoạch đã hợp đồng giữa hai cánh quân thì khi nghe tín hiệu của kỳ binh, toàn bộ cánh chính binh sẽ dồn dập tiến công phía trư¬ớc để tạo thời cơ cho cánh kỳ binh lao tới phía sau đột nhập vào Cao Bộ, đánh đòn quyết định. Quân địch triển khai đội hình thuận lợi, đúng như kế hoạch của Vương Thông. Từ lúc trời chưa sáng hẳn, từng đoàn quân địch, đội ngũ chỉnh tề, nối tiếp nhau vượt qua Ninh Kiều. Hai bên đường, núi rừng, đồng ruộng vẫn yên lặng, xóm làng văn vắng bặt bóng người.

        Cánh chính binh với đội hình kéo dài, tiến dần về phía Tốt Động. Con đường "lai kinh" đang dẫn quân địch vượt qua miền núi rừng Ninh Sơn, Chúc Sơn tiến vào một cánh đồng trũng rộng lớn. Không may cho quân địch là hôm đó trời đổ mưa. Trong chốc lát đường sá, đồng ruộng trở nên lầy lội, khó đi. Quân địch vẫn cố gắng giữ vừng đội ngũ, bám sát nhau, mong chóng vượt qua cánh đồng ác nghiệt này.

        Tiền quân của chính binh vừa tiến đến Tốt Động thì bỗng nhiên nghe tiếng súng nổ từ hướng Cao Bộ vọng tới (Việt sử thông giám cương mục (q. 13, tờ 28b) chép: “Hồi trống canh năm đêm ấy, bọn Lễ sai quân nổ pháo ở nơi yếu hại để đánh lừa địch”. Theo Minh sử kỷ sự bản mạt (q. 2) thì vào đầu canh năm, Vương Thông mới ra lệnh cho quân địch xuất phát từ Ninh Kiều. Ngay lúc đó - khi hai cánh chính binh và kỳ binh mới bắt đầu xuất phát - mà quân ta đã nổ pháo theo tín hiệu của địch để đánh lừa địch thì không hợp lý. Có lẽ tác giả Cương mục đã tham khảo tài liệu của Minh sử kỷ sự bản mạt nhưng vận dụng không đúng.). Đúng là tín hiệu của cánh kỳ binh. Vương Thông tưởng rằng cánh kỳ binh đi theo "đường tắt" đã lẻn đến phía sau Cao Bộ và phát tín hiệu cho hắn biết để phối hợp tiến công. Hắn cho rằng đó là “súng nổ ở đường tắt" tức là tín hiệu của kỳ binh nên lập tức hạ lệnh cho "toàn quân tiến sâu vào" (Đại Việt sử ký toàn thư, bản chữ Hán, q. 10, tờ 22b) phía trước Cao Bộ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #61 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:10:38 am »

       
        Nhận đúng tín hiệu đã quy định và theo lệnh của tổng binh, quân địch “mọi đứa đều đổ xô đi chiếm lấy thuận lợi, chúng lùa quân đi tắt vào” (Việt sử thông giám cương mục, q. 13, tò 28b; bản dịch đã dẫn, t. VIII, tr. 799). Từ đội hình hành quân quân địch nhanh chóng triển khai thành đội hình chiến đấu, ào ạt xông về phía trước Cao Bộ. Tín hiệu phát ra đã có tác dụng đánh lừa quân địch, thúc đẩy chúng tiến nhanh và tiến sâu vào trận địa mai phục của ta. Trong lúc đó, tại trận địa mai phục, quân dân ta đã được lệnh “nghe tiếng súng vẫn nằm im không động” (Đại Việt sử ký toàn thư, bản chữ Hán, q. 10, tờ 22b). Khi tiền quân của cánh chính binh địch “chưa đến cách sông Yên Duyệt vài dặm” (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch , t.III, tr. 26) nghĩa là đã lọt vào trận dịa mai phục chủ yếu ở Tốt Động thì hậu quân của chúng cũng đã “qua hết Ninh Giang” (Lê triều thông sử, q. 31, truyện Lý Triện) nghĩa là lọt vào trận địa mai phục phối hợp ở Chúc Động. Đoạn đường từ Ninh Kiều đến Tốt Động chỉ dài khoảng 7 ki-lô-mét. Nhưng vì quân đông, đường hẹp, lại phải chờ nhau qua cầu sông Ninh nên địch phải di chuyển mất gần cả buổi sáng. Tiền quân địch lọt vào trận địa Tốt Động vào khoảng giờ tỵ tức khoảng 10-11 giờ ngày 7 tháng 11 năm 1426.

        Thời cơ tiêu diệt địch đã đến.

        Theo hiệu lệnh đã quy định trước, quân mai phục của ta tại trận địa Tốt Động nhất tề bật dậy với khí thế vô cùng mãnh hệt.

        Một khối quân địch khổng lồ đang dồn lên phía trước, cố vượt qua cánh đồng Tốt Động lầy lội để nhanh chóng tiến về Cao Bộ cho kịp phối hợp với cánh kỳ binh. Vương Thông cùng với các tướng soái và quân lính nhà Minh đang tập trung tất cả sự chú ý về phía mục tiêu công kích vừa phát ra tín hiệu. Bỗng nhiên từ sau các lũy tre của xóm làng, từ bờ sông Yên Duyệt phía trước, từ trong các đám cỏ lác, lau lách, từ bờ đầm Rót phía tây, quân dân ta bất ngờ lao ra chặn đầu và đánh ngang sườn đội hình quân dịch từ phía tây Quân ta băm nát quân địch thành từng mảng để tiêu diệt và dồn ép chúng về phía đông cánh đồng Tốt Động.

        Hàng ngũ quân dịch bị rối loạn và tinh thần quân lính hết sức kinh hoàng, khiếp sợ. Từ đầu trận đánh, sức chiến đấu của quân Minh đã hầu như bị tê liệt. Với khí thế áp đảo kẻ thù, quân dân ta tiếp tục xông lên tiêu diệt quân địch hết lớp này đến lớp khác. Quân ta có những con voi chiến hùng dũng giúp sức dồn chúng càng ngày càng lún sâu vào cánh đồng Tốt Động. Cả một cánh đồng bùn lầy, nhiều nơi còn ngập nước và đầy lau lách, cỏ lác, trở thành một bãi chiến trường lợi hại của quân ta. Bộ binh và kỵ binh của địch bị sa lầy, mết hết sức chiến đấu. Sử nhà Minh chép: quân Minh “bị hãm vào bùn lầy” (Minh sử, sách đã dẫn, t. II, tr. 1622), “đường lầy lội người và ngựa đều vướng chân” (Hoàng Minh thực lục, An Nam khí thủ bản mạt (q. 2, tờ 71b).

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #62 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:14:18 am »


        Cả một khối quân địch dày đặc bị mất hết khả năng chiến đấu và trở nên cực kỳ hỗn loạn. Quân địch bị đầy vào “đất chết” (tử địa). Chúng xô đẩy, giẫm đạp lên nhau mà chết khá nhiều. Một bộ phận quân phục của ta đã chiếm lĩnh sẵn những gò đất cao nổi lên giữa cánh đồng, xông lên nhằm thẳng vào những đám quân địch đang bị sa lầy mà tiêu diệt. Từ những gò đất cao đó, quân dân ta dùng giáo lao, đặc biệt là cung nỏ, giết chết hàng loạt quân địch.

        Tổng binh Vương Thông hoàn toàn bất lực trước cảnh hỗn loạn và khiếp sợ của quân lính. Bản thân hắn cũng bị thương tại trận. Hắn bị một mũi tên của quân ta bắn vào cạnh sườn. Tham tán quân vụ Trần Hiệp cố thúc ngựa tiến lên phía trước để mong lấy lại tinh thần quân lính. Nhưng lập tức viên binh bộ thượng thư nhà Minh bị nhiều mũi giáo của quân ta đâm trúng vào người. Hắn bị thương nặng và từ trên mình ngựa ngã lộn nhào xuống đất. Quân Minh trông thấy, nói rằng: “Chủ soái (tức Vương Thông) cũng lùi, việc gì ông lại chịu khổ thư thế”, nhưng rồi “quân lính đều bỏ chạy” (Quốc triều hiến trưng lục, t. XV, q. 38, tr. 20 (Văn bia mộ Trần Hiệp do Tăng Khải soạn)). Hoàn toàn tuyệt vọng, viên thượng thư bộ binh bị trọng thương đó định tự sát để kết liễu đời mình, nhưng bị quân ta xông tới chém chết.

        Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt từ giờ tỵ đến giờ mùi, tức khoảng từ 10 - 11 giờ đến 14 - 15 giờ. Trong vòng 4 - 5 giờ chiến đấu cực kỳ dũng cảm và mưu trí, quân dân ta đã chặn đứng và đập nát bộ phận tiền quân của địch. Hàng vạn quân địch bỏ xác trên chiến trường Tốt Động. Vương Thông và bọn sống sót tìm đường tháo chạy về Ninh Kiều.

        Trong khi tiền quân bị giáng đòn sấm sét bất ngờ ở Tốt Động thì bộ phận trung quân và hậu quân của địch cũng bị ùn lại trên khoảng đường từ Chúc Động đến Tốt Động. Sau một lúc, được tin tiền quân bị thua và thấy bọn tàn quân hoảng hốt tháo chạy, bộ phận trung quân và hậu quân cũng nhốn nháo tìm đường rút lui. Cả một khối quân địch đông nghìn nghịt chưa bị đánh đã tan vỡ cả hàng ngũ và mất hết tinh thần chiến đấu.

        Cánh kỳ binh đang trên đường tiến về phía sau Cao Bộ bỗng nhiên nghe tiếng súng nổ ở Cao Bộ. Viên tướng chỉ huy kinh ngạc vì đó là tín hiệu đáng lẽ do cánh kỳ binh phát ra sau khi đã bí mật lẻn đến phía sau Cao Bộ. Tất nhiên hắn phải cho quân lính đi do thám và thấy Cao Bộ vẫn im lặng, đối phương không có động tĩnh gì. Ngay sau đó hắn lại được tin: tổng binh Vương Thông bị rơi vào trận địa mai phục ở Tốt Động, không thể tiến tới phía trước Cao Bộ được. Biết đã mắc mưu đối phương, hắn vội ra lệnh cho cánh kỳ binh rút chạy về hướng Chúc Động.

        Đúng vào lúc đó, quân mai phục của ta ở trận địa Chúc Động lại vùng lên bồi tiếp những đòn quyết liệt vào cánh kỳ binh và hậu quân của cánh chính binh cùng với bọn lính địch thoát chết ở Tốt Động đang tháo chạy hỗn loạn với tinh thần hoang mang, khiếp sợ. Từ sườn núi Ninh Sơn, Chúc Sơn, từ rừng cây và cánh đồng hai bên đường, quân dân ta nhanh chóng xông ra chặn ngang đường rút lui và chia cắt quân địch ra mà tiêu diệt. Cầu Ninh (Ninh Kiều) lập tức bị phá hủy và dòng sông Ninh biến thành một con hào tự nhiên cản đường rút chạy của địch ở Đông Quan.

        Một trận quyết chiến thứ hai lại diễn ra ác liệt trên khoảng đường từ chúc Động đến Ninh Kiều.

        Kết quả của trận Chúc Động cũng rất to lớn. Hàng vạn quân địch bị giết chết và bị bắt làm tù binh. Số quân địch liều lĩnh vượt qua sông Ninh bị chết đuối rất nhiều, đến nỗi “nước Ninh Kiều vì thế không chảy được” (Đại Việt sử ký toàn thư, bản chữ Hán, q 10, tờ 22b) và  “làm nghẽn cả khúc sông Ninh” (Việt sử thông giám cương mục, bản dịch đã dẫn, t. VIII, tr. 799).

        Quân ta thừa thắng “đuổi kẻ chạy, rượt kẻ thua, hoặc giết chết, hoặc bắt sống” (Đại Việt sử ký toàn thư, bản chữ Hán, q 10, tờ 22b). Bọn tàn quân địch phải khó khăn, gian lao lắm mới thoát chết, chạy về Đông Quan được một số. Một bộ phận theo Vương Thông, Mã Kỳ, vượt qua được Ninh Kiều chạy thoát về Đông Quan. Một bộ phận khác theo Phương Chính không qua được Ninh Kiều, phải theo hữu ngạn sông Ninh chạy ngược lên phía bắc rồi qua bến đò Cổ Sở trốn về Đông Quan. Khi chạy qua làng Sở (thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, Chương Mỹ, Hà Tây), chúng lại bị dân binh địa phương chặn đánh, tiêu diệt một số.

        Kể cả hai trận Tốt Động - Chúc Động, quân dân ta đã tiêu diệt trên 6 vạn quân địch, trong đó trên 5 vạn bị giết chết, trên 1 vạn bị bắt sống. Trong bộ chỉ huy của địch, binh bộ thượng thư Trần Hiệp giữ chức tham tán quân vụ và nội quân Lý Lượng, chỉ huy Lý Đằng bị chém tại trận (Sử ta chỉ chép quân ta chém chết Trần Hiệp, Lý Lượng. Nhưng Hoàng Minh thực lục, An Nam khí thủ bản mạt chép thêm chỉ huy Lý Đằng cũng bị giết tại trận); tổng binh Vương Thông cũng bị thương. Quân ta còn thu được rất nhiều chiến lợi phẩm bao gồm: ngựa, xe cộ, quân nhu, vũ khí, vàng bạc, sổ sách...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #63 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:14:48 am »


        Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động là một chiến thắng oanh liệt của quân dân ta trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV. Sử sách và những tác phẩm văn học yêu nước của ta đã dành cho chiến công này một vị trí quan trọng với những lời ca ngợi xứng đáng.

        Lam Sơn thực lục chép: quân ta “cả phá được giặc, chém được Trần Hiệp và Lý Lượng. Giặc bị chém hơn 5 vạn tên, bị bắt sống hơn một vạn tên. Ta bắt được khí giới, ngựa, vàng bạc, quân tư, xe cộ không biết bao nhiêu mà kể”.

        Đại Việt sử ký toàn thư chép: quân ta “đại phá quân giặc, chém được thượng thư Trần Hiệp, nội quân Lý Lượng và quân sĩ 5 vạn người, giặc chết đuối rất nhiều, nước Ninh Kiều vì thế không chảy được, bắt sống được hơn 1 vạn người, thu được ngựa, quân tư, khí giới, xe cộ, sổ sách không kể xiết”.

        Đặc biệt, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc vĩ đại cùng với Lê Lợi tổ chức và lãnh đạo cuộc chiến tranh yêu nước lúc đó - đã nêu cao thắng lợi của trận Tốt Động - Chúc Động (hay Ninh Kiều) trong những tác phầm bất hủ của mình, nhất là trong Bình Ngô đại cáo và bài phú Núi Chí Linh.

         Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo:
         Ninh Kiều máu chảy thành sông, hôi tanh muôn dặm.
         Tốt Động thây phơi đầy nội, thối để nghìn thu.
         Tâm phúc giặc, Trần Hiệp phải bêu đầu,
         Sâu mọt dân, Lý Lượng cũng bỏ mạng.
         Vương Thông gỡ rối mà lửa lại càng bừng,
         Mã Anh cứu nguy mà giận càng thêm dữ.


        Và đây là trận Tốt Động trong bài phú Núi Chí Linh:

        Trận Ninh Kiều như ổ kiến làm đê vỡ,
        Trận Tốt Động nư gió mạnh gãy cành cây.
        Trần Hiệp, Lý Lượng như dưới hố cọp sa,
        Vương Thông, Mã Kỳ như nước sôi cá thảy.

        Sử sách của phong kiến phương Bắc tất nhiên cố che giấu sự thật và giảm nhẹ mức độ tổn thất của quân lính, nhưng cũng phải thừa nhận đây là một thất bại nặng nề.

        Hoàng Minh thực lục và An Nam khí thủ bản mạt (q. 2) chỉ phản ánh chung chung: “quan quân bị thua”.

        Minh sử, trong phần Liệt truyện Trần Hiệp (q. 154) và An Nam (q. 321) thừa nhận cao hơn: quân Minh bị “đại bại”. Riêng Truyện Vương Thông trong Minh sử (q.154) thừa nhận cụ thể hơn: quân Minh “bị tan vỡ hoàn toàn, chết đến hai, ba vạn người”.

        Minh sử kỷ sự bản mạt (q.22) cũng ghi chép tương tự như vậy: "bấy giờ đương lúc trời mưa, đường lầy lội, phục binh của giặc (tức quân ta) bốn mặt đổ ra đánh. Quân ta (quân Minh) đại bại. Trần Hiệp thúc ngựa xông vào trận bị giết. Trận này quân ta chết mất hai, ba vạn người ".

        Để giảm bớt thất bại và nhục nhã cho "thiên triều' nhà Minh, sử sách phong kiến phương Bắc thường có xu hướng quy tất cả trách nhiệm cho viên tướng chỉ huy, cụ thể là Vương Thông. Ví dụ, Minh sử (q.312) cho quân Minh bị thất bại là vì “Thông vốn không có chiến công gì, vì cha là Chân chết về việc nước nên được tặng phong. Triều đình không biết y là người hèn kém nên dùng nhầm. Mới đánh một một trận bị thua, y đã mất hết tinh thần".

        Dù sao quân địch cũng phải công nhận là bị “đại bại”, bị “tan vỡ hoàn toàn”, bị "chết mất hai, ba vạn người". Điều đó càng xác nhận những lời ghi chép trong sử sách của ta với số quân Minh bị tiêu diệt trên 6 vạn là có cơ sở và đáng tin cậy.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #64 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:15:41 am »


*

*       *

        Sau ba ngày đêm chuẩn bị chiến đấu và chiến dấu liên tục (ngày 5 đến ngày 7 tháng 11 năm 1426), quân dân ta đã chiến thắng hết sức oanh liệt: đập tan hoàn toàn cuộc phản công chiến lược của Vương Thông, tiêu diệt 6 vạn quân địch. Cả một kế hoạch đại quy mô với biết bao tham vọng của quân Minh chỉ mới bắt đầu thực hiện đã bị thất bại thảm hại.

        Ngay sau trận Tốt Động - Chúc Động, quân ta thừa thắng tiến công thành Đông Quan. Ba ngày sau - ngày 10 tháng 11 - bộ chỉ huy tối cao đứng dầu là Lê Lợi - Nguyễn Trãi cùng đại quân Lam Sơn cũng nhanh chóng di chuyển ra Bắc. Quân dân ta bắt đầu vây hãm thành Đông Quanvà mở rộng, đẩy mạnh cuộc tiến công trên toàn bộ chiến trường. Từ đó, “hào kiệt các lộ ở kinh đô và nhân dân các phủ huyện, cùng các tù trưởng nơi biên trấn đều tấp nập kéo đến cửa quân xin hết sức liều chết đánh thành giặc ở các xứ… Người nào cũng cảm kích, nguyện đánh hết sức, quân đi đến đâu là thành công đến đấy” (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn, t. III, tr. 27). Khu vực giải phóng càng ngày càng mở rộng, nối liền một dải từ Nam chí Bắc. Quân Minh chỉ còn chiếm giữ một số thành lũy cô lập chúng “thế ngày một cùng quẫn, phải đắp thêm thành lũy liều chết cố giữ để đợi quân cứu viện” (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn, t. III, tr. 27).

        Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động đã làm thay đổi cục diện chiến tranh. Quân địch không những bị tổn thất nặng nề về lực lượng mà còn bị đẩy hẳn vào thế phòng ngự chiến lược hết sức bị động. Từ đó, thế và lực của địch càng ngày càng sa sút. Chúng chỉ còn đủ sức cố thủ trong một số thành lũy để chờ quân cứu viện, không còn khả năng thực hiện một cuộc phản công nào. Quân dân ta nhân đà thắng lợi, tiến công và vây hãm các thành lũy của địch, đồng thời tranh thủ thời gian tăng cường lực lượng về mọi mặt, củng cố khu vực giải phóng và chuẩn bị điều kiện tiến lên tiêu diệt viện binh địch, giành thắng lợi quyết định kết thúc chiến tranh. Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động mở ra một cục diện mới đưa sự nghiệp cứu nước vào giai đoạn toàn thắng. Đó là thắng lợi của trận quyết chiến có ý nghĩa chiến lược to lớn của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV.

        Các trận đánh từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 11, kể từ trận Cổ Lãm đến trận Tốt Động - Chúc Động, trên thực tế đã hình thành một loạt trận đánh của quân dân ta nhằm giữ vững quyền chủ động, đánh bại từng bước, tiến đến đánh bại toàn bộ cuộc phản công của địch. Có thể gọi đó là chiến dịch Tốt Động - Chúc Động vì trận Tốt Động - Chúc Động là trận đánh có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cả chiến dịch. Đây là một trong những chiến thắng điển hình nhất của nghệ thuật quân sự ưu việt “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” của dân tộc ta. Trong điều kiện chiến đấu hết sức khẩn trương, ác liệt, với so sánh lực lượng vô cùng chênh lệch gần như lấy một đánh mười, quân dân ta vẫn quyết tâm tiến công kẻ địch đi tiến công và giành thắng lợi rực rỡ trong một thời gian rất ngắn.

        Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động trước hết là một tấm gương sáng chói về sức mạnh kỳ diệu của quyết tâm, ý chí, nghị lực và tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân dân ta. Đó là tinh thần mà Nguyễn Trãi đã so sánh “như gió mạnh gãy cành cây” (Bình Ngô đại cáo) và Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú ca ngợi “nhanh như chim cắt, mạnh như nỏ cứng” (Lê triều thông sử, Lịch triều hiến chương loại chí. Trong ba ngày chiến đấu, quân dân ta đã phát huy tất cả sức mạnh của lòng yêu nước tha thiết, chí căm thù giặc sâu sắc, chiến đấu không nghỉ ngơi, không biết mệt mỏi với khí thế hiên ngang đứng trên đầu thù.

        Tổ chức và chỉ huy trận đánh lớn này là các tướng lĩnh Lam Sơn thuộc đạo quân thứ nhất và thứ ba trong cuộc tiến công ra Bắc, gồm có Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Trịnh Khả, Đỗ Bí, Đinh Lễ, Nguyễn Xí (Đại Việt sử ký toàn thư (q. 10) và Lê triều thông sử (q. I) chép thêm tướng Lê Như Huân (có chép là Lê Như Viên hay Lê Như Trấn?) trong số tướng lĩnh chỉ huy đạo quân thứ nhất). Đó là những tướng lĩnh đã tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày khởi sự đầu tiên, trong đó có người vốn là thân thuộc của Lê Lợi như Đinh Lễ là cháu ngoại, có người đã cùng với Lê Lợi dự lễ thề Lũng Nhai năm 1416 (Năm Bính Thân, tức năm 1416, Lê Lợi cùng 18 người bạn chiến đấu thân tín nhất làm lễ thề ở Lũng Nhai (Lam Sơn): "Nay nhân giặc Ngô xâm chiếm nước Nam, tàn sát nhân dân rất là khổ sở nên Lê Lợi cùng Lê Lai đến Trương Chiến mười tám người, chung sức đồng lòng, giữ vững đất nước, làm cho nhân dân ăn ở được yên lành, thề sống chết đều phơi cùng nhau không dám quên lời thề ưóc...). Lễ thề đó đặt cơ sở đầu tiên hình thành bộ chỉ huy và xúc tiến công việc tố chức cuộc khởi nghĩa Lam Sơn) để chuẩn bị cuộc khởi nghĩa như Trịnh Khả, có người được Lê Lợi sớm thu nạp làm người thân tín trong nhà như Nguyễn Xí... Trải qua trên tám năm chiến đấu một mất một còn với quân thù nghĩa quân Lam Sơn cũng như những tướng lĩnh của nghĩa quân đã trưởng thành vượt bậc. Đó là những tướng lĩnh tài ba, dày dạn kinh nghiệm, có bản lĩnh chiến đấu cao. Trong chiến thắng Tốt Động - Chúc Động nói riêng cũng như cả cuộc tiến công ra Bắc nói chung, Lê Quý Đôn đánh giá cao công lao của Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Lý Triện, Đinh Lễ, nhất là Lý Triện và Đinh Lễ. Lê Quý Đôn nhận xét: “Lúc ấy, (Trịnh) Khả cùng với (Phạm) Văn Xảo, (Lý) Triện, (Đinh) Lễ đều là bậc danh tướng một thời, đồng lòng hợp sức, thấy thay nhau dùng kỳ dùng chính, ứng biến vô cùng, thừa cơ hành động, nhanh như chim cắt, mạnh như nỏ cứng. Vì thế hễ đánh là được” và cho rằng những thắng lợi đó “đều là công của Triện và Lễ cả” (Lê Quý Đôn, Lê triều thông sử (truyện Trịnh Khả và Đinh Lễ)).
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #65 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:16:05 am »


        Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động biểu thị nghệ thuật chỉ đạo tác chiến tài giỏi, mưu trí và sáng tạo của các tướng lĩnh Lam Sơn.

        Quân Minh có ưu thế binh lực tập trung, phần lớn là bộ binh và kỵ binh thạo lối đánh chính quy, tập trung tiến công ào ạt. Nhưng từ đầu đến cuối, quân dân ta đã làm cho quân địch không thể nào phát huy được sức mạnh và lối đánh sở trường của chúng. Quán triệt quyết tâm tiêu diệt địch và tinh thần tiến công chủ động, liên tục, quân ta phát huy mọi chỗ mạnh của mình đánh vào mọi chỗ yếu của địch. Đặc điểm nối bật của cả trận đánh là quân dân ta đã vận dụng nghệ thuật điều động địch đến mức tuyệt diệu và lối đánh mai phục rất lợi hại.

        Quân địch vừa mới ra quân thì quân ta đã khiêu khích nhử cánh quân địch ở cầu Thanh Oai lên Cổ Lãm để phục binh bất ngờ đánh bại giữa một cánh đồng lầy, rồi truy kích uy hiếp buộc cánh quân địch ở cầu Sa Đôi phải rút chạy. Cả một khối quân lớn trên 9 vạn của Vương Thông cũng bị quân ta điều từ Cổ Sở xuống Ninh Kiều rồi từ Ninh Kiều vào hai trận địa mai phục ở Tốt Động - Chúc Động để bị tiêu diệt trên 6 vạn. Quân dân ta vừa biết lợi dụng địa hình núi rừng (trận Chúc Động), và khéo sử dụng địa hình đầm lầy (trận Cổ Lãm, Tốt Động) để mai phục, đón đánh quân địch khi vận động. Các tướng lĩnh của ta còn biết “tương kế tựu kế”, dùng kế của địch để lừa địch, đưa chúng vào bẫy. Trước lối đánh tài tình của quân dân ta, quân địch phải bị động đối phó, phải đánh theo cách đánh của ta, tại những trận địa bất lợi cho chúng, do ta chọn và bố trí sẵn. Do đó, quân dân ta tạo ra được cái thế có lợi, đẩy bộ binh và kỵ binh của dịch vào tình trạng sa lầy, bị dồn ép vào chỗ tan rã và tự giày xéo lên nhau mà chết. Đấy là thế trận và lối đánh lợi hại của nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.

        Từ chiến thắng Tốt Động - Chúc Động đến nay, trên năm thế kỷ đã qua, những võ công vang dội đó vẫn để lại những dấu ấn sâu sắc trong ký ức của nhân dân với những truyền thuyết và di tích có ý nghĩa, nhất là những vùng chiến trận xưa kia.

        Tại Tốt Động, mỗi tên gò đất, cánh đồng Ở đây đều gắn liền với chiến công chống ngoại xâm năm 1426 và được nhân dân địa phương ghi nhớ, lưu truyền với một niềm tự hào chính đáng. Ví dụ, theo nhân dân địa phương, gò đồng Giả là nơi xưa kia quân ta tập trận, gò đồng Gạo là nơi chứa lương thực nuôi quân, đồng Vỡ là nơi quân giặc bị đánh tan vỡ, gò đồng Mồ là nơi vùi xác quân giặc, v.v.

        Tại cầu Ninh, nơi vùi xác hàng vạn quân giặc, đến nay vẫn lưu truyền trong dân gian những câu chuyện về “đất quỷ” về “oan hồn ma khách”... Truyện “Người hầu ở Thủy phát huy” trong Thánh Tông di thảo cũng phản ánh những chuyện yêu quái ở cầu Ninh: “Cầu ấy từ sau trận Tụy Động, ma quỷ thành đàn... đứa cụt chân, đứa mất đầu, hình dáng kỳ quái, phần nhiều không được trọn vẹn” (Thánh tông di thảo, bản dịch, Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, l963, tr. 115).

        Nhiều làng xã từ Cầu Đơ (thị xã Hà Đông) đến Tốt Động, Yên Duyệt (Chương Mỹ, Hà Tây) thờ các tướng soái Lam Sơn đã từng lập chiến công ở vùng này làm “thành hoàng”. Riêng tướng Lý Triện - người chỉ huy nghĩa quân dũng cảm, mưu lược và có nhiều chiến công xuất sắc - được thờ ở nhiều nơi: thôn Cầu Đơ xã Hà Cầu (thị xã Hà Đông), đình Chợ xã Đồng Mai (Thanh Oai ), xã Biên Giạng (Thanh Oai), xã Ngọc Sơn (Chương Mỹ), thôn Yên Duyệt, xã Tốt Động (Chương Mỹ).

        Thôn Cầu Đơ thờ Lý Triện và Đỗ Bí. Lễ rước thần hàng năm ở đây được tổ chức trong hai ngày theo một nghi thức nhằm diễn tả lại sự tham gia ủng hộ của nhân dân và lối đánh bí mật, bất ngờ của nghĩa quán do Lý Triện, Đỗ Bí chỉ huy. Ngày đầu, dân làng rước kiệu từ đình làng đến miếu thờ. Hôm đó, tất cả thanh niên trai tráng trong làng mặc áo chẽn, nai nịt gọn gàng, mang giáo mác, gậy gộc - ai có gì mang nấy - tham gia đám rước, đi sau kiệu. Tất cả im lặng, cờ quấn, giáo mác gậy gộc hoặc cắp nách, hoặc trỏ xuống đất. Các cụ già địa phương giải thích đó là tượng trưng sự tham gia nhập ngũ của nhân dân và cuộc hành quân bí mật của nghĩa quân đến nơi mai phục. Đến miếu thờ sau khi cắt đặt người canh gác, đoàn người im lặng trở về nhà. Sáng sớm hôm sau, người ta đốt một cái nhà giả bằng rơm để làm hiệu lệnh. Trong khi phụ nữ lo chữa cháy thì thanh niên lập tức chạy nhanh ra miếu cầm lấy vũ khí. Cả đoàn người lại tập hợp rồi trống chiêng, cờ mở, đội ngũ chỉnh tề, rước thần về đình làm lễ. Theo các cụ già địa phương, bước thứ hai của lễ rước thần tượng trưng một trận đánh mai phục và không khí chiến thắng của quân dân ta. Tại đình làng, lễ tế thần được tiến hành trong không khí chiến thắng đó.

        Đình Nhân Huệ xã Đồng Mai (Thanh Oai, Hà Tây) thờ một phụ nữ địa phương, làm nghề chài lưới trên sông Đáy. Khi nghĩa quân Lam Sơn hoạt động ở vùng Ninh Kiều, người phụ nữ yêu nước đó đã không quản gian lao, nguy hiểm, ngày đêm chở thuyền giúp nghĩa quân đánh giặc. Dân làng đã thờ người nữ anh hùng bình dị đó làm "thành hoàng".

        Những di tích, nghi lễ, truyền thuyết... trên đây không những nói lên niềm tự hào, lòng biết ơn của nhân dân dối với những người có công cứu nước mà còn phản ánh tính nhân dân sâu rộng của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV nói chung và trận Tốt Động - Chúc Động nói riêng. Sự vùng dậy và tham gia ủng hộ về mọi mặt của nhân dân là nguồn bổ sung đội ngũ nghĩa binh, là cơ sở hậu cần tại chỗ, là lực lượng phục vụ chiến đấu và là điều kiện bảo đảm thắng lợi cho lối đánh mai phục.

        Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động được ghi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta như một trận quyết chiến oanh liệt, một trong những mẫu mực điển hình của lối đánh lấy ít thắng nhiều của quân dân ta.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #66 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:18:35 am »


CHƯƠNG IV

CHIẾN THẮNG CHI LĂNG – XƯƠNG GIANG
NGÀY 8 THÁNG 10 ĐẾN NGÀY 3 THÁNG 11 NĂM 1427

        Đánh trận đầu, sạch sanh kình ngạc,
        Đánh trận nữa, tan tác chim muôn.
        Lỗ kiến xoi, đê vỡ phá tung,
        Gió thổi mạnh, lá khô trút sạch.


NGUYỄN TRÃI       
Bình Ngô đại cáo       
        Đó là khí thế xung trận vang dậy của quân dân ta và thắng lợi oanh liệt, triệt để của trận Chi Lăng – Xương Giang mà Nguyễn Trãi đã ghi lại trong Bình Ngô đại cáo. Đó cũng là chiến thắng có ý nghĩa quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng do Lê Lợi - Nguyễn Trãi lãnh đạo hồi đầu thế kỷ XV.

*

*       *

        Sau chiến thắng Tốt Động - Chúc Động, quân địch phải chuyển hẳn sang thế phòng ngự bị động còn quân dân ta thì hoàn toàn giành quyền chủ động thế tiến công trên các chiến trường toàn quốc.

        Trước tình hình đó, Vương Thông một mặt âm mưu giảng hòa lập kế hoãn binh; mặt khác vội vã phái người về nước cầu cứu. Ngày 31-1-1427 (tức ngày 26 tháng chạp năm Bính Ngọ), nhà Minh lại lần nữa quyết định điều quân tiếp viện cho Vương Thông.

        Lúc lượng viễn chinh này chia làm hai đạo quân cùng kéo sang nước ta:

        Đạo thứ nhất do thái tử thái bảo An Viễn hầu Liễu Thăng làm tổng binh, Bảo Định bá Vương Minh làm tá phó tổng binh, đô đốc Thôi Tụ làm hữu tham tướng, tiến theo đường Quảng Tây.

        Đạo thứ hai do thái phó Kiềm Quốc công Mộc Thạnh làm tổng binh, Hưng An bá Từ Hanh làm tả phó tổng binh, Tân Ninh bá Đàm Trung làm hữu phó tổng binh, tiến theo đường Vân Nam.

        Đạo viện binh của Liễu Thăng điều động quân các vệ Bắc Kinh, Nam Kinh, ty lưu thủ Trung Đô, hộ vệ Vũ Xương, các đô ty Hồ Quảng, Phúc Kiến, Triết Giang và các vệ nam Trực Lệ. Cùng đi theo với đạo quân này, nhà Minh còn phái những quan lại cao cấp rất am hiểu tình hình nước ta như công bộ thượng thư Hoàng Phúc, thái tứ thái bảo binh bộ thượng thư Lý Khánh làm tham tán quân vụ. Chúng còn điều thêm tên Việt gian hữu bố chính sứ Nguyễn Đức Huân giúp việc.

        Đạo viện binh do Mộc Thạnh chỉ huy điều động quân từ các vệ Thành Đô, các đô ty Tứ Xuyên, Vân Nam.

        Cả hai đạo viện binh đó lúc đầu gồm 7 vạn quân. Tháng 4 năm 1427, nhà Minh điều động thêm 1.000 quân ở các hộ vệ Vũ Xương, 1.200 quân ở hộ vệ Thành Đô, 1 vạn quân tinh nhuệ ở vệ Nam Kinh, 33.000 quân từ ty lưu thủ Trung Đô, các đô ty Phúc Kiến, Quảng Đông, Hồ Quảng, Triết Giang, Hà Nam, Sơn Đông. Tất cả trên 45.200 quân tăng cường thêm cho hai đạo viện binh Liễu Thăng, Mộc Thạnh (Những con số trên đây lấy trong Hoàng Minh thực lục được trích dẫn trong An Nam sử nghiên cứu của Yamamoto Tatsuro Tokyo 1950, q.l, tr. 721-722).

        Như vậy, tổng số quân chính quy bao gồm bộ binh và kỵ binh tinh nhuệ điều động hầu khắp các tỉnh từ Sơn Đông xuống Quảng Tây, từ Quảng Đông sang Tứ Xuyên của nhà Minh tăng viện cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần này tối thiểu cũng đến 115.000 tên. Đó là quân chủ lực được chọn lọc, chưa kể số dân phu chuyển vận lương thực, vũ khí và số thổ binh ở Quảng Đông, Quảng Tây. Nhà Minh sai hình bộ thượng thư Phàn Kính đến Quảng Tây và phó đô ngự sử Hồ Dị đến Quảng Đông đôn đốc việc vận chuyển quân lương.

        Theo sử cũ nước ta, đạo quân của Liễu Thăng gồm 10 vạn quân và 2 vạn ngựa; đạo quân của Mộc Thạnh gồm 5 vạn quân và 1 vạn ngựa (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn, t. III, tr. 43). Tổng số hai đạo quân lên đến 15 vạn. Có lẽ đó là số quân chiến đấu bao gồm quân chính quy và thổ binh mà chưa tính hết số dân phu. Theo Lam Sơn thực lục thì tồng số quân địch là 20 vạn quân. Con số này có lẽ bao gồm cả quân chiến đấu và dân phu.

        Những tướng cầm đầu hai đạo quân địch đều đã tham gia cuộc chiến tranh xâm lược nước ta trước đây, hoặc là quan chức lâu năm trong chính quyền đô hộ.

        Liễu Thăng vốn là tùy tướng của Trương Phụ - kẻ cầm đầu dạo quân xâm lược nước ta năm 1406. Bấy giờ, Liễu Thăng đã đóng quân ở cửa Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên) và đem quân đuổi theo Hồ Quý Ly đến cửa biển Kỳ La (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh).

        Mộc Thạnh, từ năm 1406 đã giữ chức tả phó tổng binh trong đạo quân Trương Phụ. Mộc Thạnh đã chỉ huy trận đánh chiếm thành Đa Bang (Ba Vì, Hà Tây) và đã từng bị nghĩa quân Trần Ngỗi đánh bại ở trận Bô Cô (trên bờ sông Đáy, Ý Yên, Nam Hà) năm 1408.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #67 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:18:57 am »


        Hoàng Phúc, năm 1406 cũng theo Trương Phụ làm đốc biện quân lương. Khi nhà Minh đặt ách thống trị lên nước ta, Hoàng Phúc kiêm giữ hai chức bố chánh và án sát, tổ chức trấn áp phong trào yêu nước của nhân dân ta, thực hiện chính sách bóc lột vơ vét của cải và đồng hóa ráo riết. Hắn nắm vững địa hình, hiểu biết tường tận tình hình nước ta. Hai mươi năm nhà Minh thống trị đất nước ta thì Hoàng Phúc đã ở đây đến 18 năm (Minh sử, liệt truyện, truyện Hoàng Phúc).

        Việc điều động viện binh lần này với số quân chiến đấu 15 vạn và những tướng dày kinh nghiệm, am hiểu tình hình và quen thuộc chiến trường nước ta, chứng tỏ nhà Minh vẫn giữ quyết tâm xâm lược, dùng bạo lực hòng tiêu diệt phong trào yêu nước của nhân dân ta, lập lại nền thống trị của chúng. Để thực hiện âm mưu đó, chúng phải vượt qua nhiều khó khăn.

        Minh Tuyên Tông (1426 - 1436) khi lên ngôi đã phải gánh những hậu quả tàn hại sau cuộc chiến tranh to lớn với phong kiến Mông Cổ mấy năm trước. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thiểu số với triều đình vẫn còn gay gắt. Biên thùy phía Bắc và phía Tây của nhà Minh vẫn thường bị uy hiếp. Phong trào đấu tranh của các dân tộc thiểu số, nhất là nghĩa quân "áo đỏ" ở vùng Vân Nam đã bùng lên khá mạnh. Nông dân khởi nghĩa do Đường Trại Nhi lãnh đạo khởi phát từ năm 1420 cũng gây nhiều khó khăn cho triều đình. Tình hình trên được Nguyễn Trãi vạch rõ trong thư gửi Vương Thông: “Huống chi ở  nước các ngươi, quốc chúa liền năm tử táng, cốt nhục tàn hại lẫn nhau, Bắc khấu xâm lăng, đại thần lấn át; gia dĩ lúa má mất luôn, thổ mộc làm mãi, chính lệnh hà khắc, giặc cướp như ong. Từ niên hiệu Hồng Vũ đến nay, cùng binh độc rũ, trong nước tổn hao, nhân dân mệt nhọc. Trời làm táng vọng, chính ở lúc này” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, sách đã dẫn, tr. 123). Do đó, đầu năm 1427 nhà Minh ra lệnh điều động viện binh mà đến chín tháng sau, quân tiếp viện mới đến biên giới. Những khó khăn về đối nội, đối ngoại, nhất là phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc đã có tác dụng cản trở việc diều quân, bắt phu, cung cấp lương thực để tiếp tục chiến tranh của nhà Minh và về khách quan, có lợi cho cuộc đấu tranh cứu nước của dân tộc ta.

        Tuy nhiên nhìn chung, đầu thế kỷ XV vẫn là thời thịnh đạt của triều Minh. Đó là một đế chế lớn mạnh nhất phương Đông hồi ấy. Vì vậy, dù có một số khó khăn, nhà Minh vẫn quyết tâm điều động viện binh, tiếp tục những cố gắng chiến tranh lớn nhất. Khi các đạo quân viễn chinh của Liễu Thăng - Mộc Thạnh chưa sang, nhà Minh đã sai tổng binh Quảng Tây là Trấn Viễn hầu Cố Hưng Tổ đem quân sang ứng viện cho Vương Thông trước.

        Đại quân Liễu Thăng - Mộc Thạnh sang tiếp viện lần này có thể làm cho so sánh lực lượng ta, địch thay đổi. Trên 15 vạn quân hợp với số quân hơn 10 vạn ở Đông Quan và các thành khác khiến cho số lượng quân địch tăng lên gấp bội. Nhiệm vụ của viện binh là trước hết giải vây cho thành Đông Quan, rồi sau đó phối hợp với Vương Thông tổ chức phản công mong xoay chuyền lại cục diện chiến tranh.

        Về lực lượng nghĩa quân, không có tài liệu nào ghi chép số quân cụ thề. Trong các bức thư của Nguyễn Trãi gửi Vương Thông, số nghĩa binh tổng cộng đến 45 vạn (Nguyễn Trãi, Toàn tập, phần Quân trung từ mệnh tập, thư số 37, tr. 122). Đó là con số mà Nguyễn Trãi tuyên bố trong bức thư dụ hàng nhằm uy hiếp tinh thần địch. Thực tế lực lượng nghĩa quân không nhiều đến thế. Việt sử thông giám cương mục ghi chép số nghĩa quân có khoảng 35 vạn. Con số đó có lẽ bao gồm cả nghĩa quân và những đội dân binh, lực lượng vũ trang của nhân dân các làng xã.

        Điều chắc chắn là lực lượng nghĩa quân bấy giờ đã trưởng thành đến mức độ giành được quyền chủ động trên toàn bộ chiến trường, ghìm chặt quân Vương Thông, giam chân chúng trong các thành, nhưng sức ta vẫn chưa đủ đề tiêu diệt nhanh chóng bọn bại quân này được. Giữa lúc đó viện binh giặc lại sang. Cùng một lúc, nghĩa quân Lam Sơn phải đối phó với ba khối quân địch:

        - Đạo quân Vương Thông ở Đông Quan.

        - Đạo viện binh chủ lực lớn nhất từ Quảng Tây tiến xuống.

        - Đạo viện binh chủ lực từ Vân Nam tiến vào.

        Một cục diện mới sẽ diễn ra trong phạm vi rộng lớn từ rừng núi biên giới phía Bắc đến đồng bằng sông Hồng. Mỗi khối quân địch là một mục tiêu tác chiến to lớn có tính chất chiến lược. Tình thế đó đòi hỏi bộ chỉ huy nghĩa quân phải có kế hoạch đối phó chính xác, chủ động, phối hợp chặt chẽ với nhau trên toàn bộ chiến trường.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #68 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:20:03 am »


*

*       *

        Lực lượng địch còn đông, âm mưu rất ngoan cố, thâm độc những chúng vấp phải một đối thủ kiên cường đang ở thế mạnh, thế thắng. Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã dự đoán đầy đủ trước tình hình và đã có kế hoạch đối phó chính xác. Bộ chỉ huy tối cao của nghĩa quân Lam Sơn chủ trương nắm vững quyền chủ động trên chiến trường, quyết vươn lên đập tan mọi cố gắng chiến tranh của quân Minh, giành thắng lợi quyết định.

        Một điểm nổi bật của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là luôn luôn phải đối phó với viện binh giặc. Sau mỗi lần bị thất bại nặng nề, chúng lại điều động thêm viện binh. Từ cuối năm 1426 đến cuối năm 1427 - trong khoảng một năm nhà Minh đã 4 lần gửi viện binh sang nước ta, đạo này rồi tiếp dạo khác. Sau chiến thắng Tốt Động - Chúc Động diệt hơn 6 vạn sinh lực địch, Lê Lợi và Nguyễn Trãi lại bắt được thư mật xin viện binh của Vương Thông gửi về nước. Biết rõ âm mưu địch, bộ chỉ huy tối cao đã chuẩn bị sẵn sàng mọi điều kiện để giáng cho chúng những đòn thiệt hại nặng nề, đập tan hoàn toàn âm mưu xâm lược của nhà Minh.

        Bấy giờ trong các tướng có một số người bàn với Lê Lợi, Nguyễn Trãi nên nhanh chóng hạ thành Đông Quan rồi sau dó dốc toàn lực phá tan viện binh của giặc. Ý kiến này biểu thị quyết tâm diệt địch, nhưng chưa đánh giá đầy đủ so sánh lực lượng hai bên. Thực tế lúc bấy giờ số nghĩa quân đóng ở miền Bắc không phải là nhiều lắm. Một bộ phận quan trọng vẫn phải tiếp tục bao vây các thành Tây Đô (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), Cổ Lộng (Bình Cách, Ý Yên, Nam Định), Chí Linh (Chí Linh, Hải Dương) và các thành khác. Mặt khác, nghĩa quân còn phải dành một phần lực lượng ở hậu phương từ Thanh Hóa trở vào, nhất là Hóa Châu (Thừa Thiên - Huế), để bảo vệ cương giới phương Nam. Số quân cơ động chiến đấu của nghĩa quân trên các chiến trường ước chừng trên 6 vạn, kể cả lực lượng dự bị.

        Trước tình hình đó, tập trung lực lượng hạ thành Đông Quan, thành lũy kiên cố nhất, có khoảng 4 vạn quân địch với đầy dủ vũ khí, lương thực, và hệ thống phòng thủ chắc chắn tất không phải là việc dễ dàng. Đánh thành Đông Quan đòi hỏi phải tập trung một lực lượng lớn, có ưu thế tuyệt đối về số lượng, không những có tinh thần chiến đấu cao, mưu trí và linh hoạt, mà còn phải có trang bị vũ khí và phương tiện đầy đủ. Như vậy, nghĩa quân sẽ bị tiêu hao, đồng thời dễ sơ hở ở nhiều chiến trường khác, nhất là các vùng trên đường hành quân của viện binh giặc. Lê Lợi - Nguyễn Trãi và bộ chỉ huy đã xét so sánh lực lượng giữa ta và địch, nhận xét đúng tình hình cụ thể, đề ra chủ trương “vây thành diệt viện", không dốc sức đánh thành Đông Quan mà tập trung lực lượng tiêu diệt các đạo viện binh.

        Qua nhiều năm chiến đấu, nhất là từ khi dời căn cứ từ thượng du Thanh Hóa vào Nghệ An, kinh nghiệm vây thành diệt viện của nghĩa quân đã tích lũy được nhiều. Cho đến cuối năm 1426 đầu năm 1427, nghĩa quân đã giải phóng hầu hết đất nước, địch phải co rút vào trong một số thành cố thủ. Lê Lợi - Nguyễn Trãi chủ trương vây thành, kết hợp bao vây và tiến công bằng quân sự với vận động thuyết phục kẻ thù. Kết quả là quân địch ở một số thành đã phải đầu hàng.

        Đồng thời với việc vây thành, nghĩa quân còn tập trung chuẩn bị diệt viện. Trong năm 1426-1427, trước khi đối phó với viện binh Vương Thông - Mộc Thạnh, nghĩa quân Lam Sơn cũng đã có nhiều kinh nghiệm diệt viện. Tháng 10 năm 1426, viện binh của Vương An Lão mới đến Tam Giang đã bị đòn đánh ở cầu Xa Lộc (Lâm Thao, Phú Thọ). Tháng 11 năm dó, viện binh của Vương Thông phối hợp với quân lính ở Đông Quan vừa mới mở cuộc hành quân ra khỏi thành đã bị đánh tan tác ở Tốt Động – Chúc Động. Tháng 7 năm 1427, viện binh của Cố Hưng Tổ mới đến biên giới đã bị giáng một đòn quyết liệt ở ải Pha Lũy, phải tháo chạy về nước. Nghĩa quân đã từng đánh viện binh của địch khi chúng đang hành quân kéo sang nước ta (Vương An Lão, Cố Hưng Tổ), hay khi chúng vừa đem quân càn quét (Vương Thông), nghĩa là đều đánh địch trên đường vận động. Đánh vận động ngoài thành lũy là lối đánh sở trường của nghĩa quân Lam Sơn nhằm thực hiện “lấy yếu trị mạnh”, “tránh chỗ thực, đánh chỗ hư”, “lấy thế nhàn rỗi đánh quân mệt mỏi” (dĩ dật đãi lao). Việc tiêu diệt các đạo viện binh của Vương An Lão, Vương Thông, Cố Hưng Tổ đã chứng tỏ điều đó và chiến thắng Tốt Động - Chúc Động là thành công rực rỡ của tư tưởng chỉ đạo tác chiến này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #69 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2016, 03:20:44 am »


        Với kinh nghiệm dày dạn qua nhiều năm chiến đấu và tài năng quân sự lỗi lạc, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã đề ra chủ trương tác chiến chủ động và tích cực: “Đánh thành là hạ sách, ta đánh vào thành vững hàng tháng hàng năm không hạ nổi. Quân ta sức mòn khí nhụt, nếu viện binh của giặc tới thì trước mặt sau lưng ta đều bị địch đánh. Đó là thế nguy. Sao bằng nuôi oai chứa sức, đợi quân cứu viện, viện binh dứt thì thành tất phải hàng. Làm một việc mà được cả hai. Đó mới là kế vạn toàn” (Đại việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn, t. III, tr. 42-43).

        Như thế là Lê Lợi - Nguyễn Trãi chủ trương tiếp tục vây hãm thành Đông Quan và tập trung lực lượng tiêu diệt viện binh khi chúng mới kéo vào nước ta. Rõ ràng các nhà lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn rất tin tưởng vào khả năng thắng lợi của kế hoạch đề ra và thấy rõ ý nghĩa đầy đủ của nó trong mối quan hệ giữa diệt viện và đánh thành. Như Lê Lợi đã nhận định, nếu tập trung đánh thành thì chưa chắc đã hạ được nhanh chóng mà viện binh địch tới lại dồn ta vào thế “trước mặt sau lưng đều bị đánh”. Như vậy ta đang chủ động tiến công lại chuyển thành bị động chống đỡ. Sau trận đại bại ở Tốt Động - Chúc Động, mấy vạn tàn quân của Vương Thông bị giam chân ở Đông Quan đã ngót một năm trời. Quân địch ở trong tình trạng “sức hết kế cùng, quân sĩ nhọc mệt, trong thiếu lương thực, ngoài không viện binh, bám hờ khu nhỏ mọn, nghỉ tạm thành chơ vơ, há chưa phải là như thịt trên thớt, cá trong nồi sao?” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, sách đã dẫn, tr. 118). Vương Thông ra sức cố thủ là vì còn chờ mong vào viện binh của nhà Minh. Tập trung lực lượng tiêu diệt viện binh là làm mất chỗ dựa, đập tan nguồn hy vọng cuối cùng của địch. Lúc đó, quân địch Ở Đông Quan cũng như các thành khác nếu không đầu hàng thì sẽ bị tiêu diệt. Nguyễn Trãi đã chỉ rõ điều đó cho Vương Thông: “nếu viện binh đến, thế tất phải thua, viện binh đã thua, bọn các ông tất bị bắt” . Cho nên, “làm một mà được cả hai” là như vậy (Nguyễn Trãi, Toàn tập, sách đã dẫn, tr. 119).

        Tuy nhiên không phải đối với thành nào quân ta cũng chủ trương vây hãm như nhau. Những thành lẻ loi, cô lập, cách xa đường tiến quân của viện binh giặc như Chí Linh, Cổ Lộng, Tây Đô thì nghĩa quân chỉ tiếp tục bao vây dụ hàng mà không nhất thiết mở các trận công thành đánh chiếm. Còn những thành như Khâu Ôn, Chi Lăng (Lạng Sơn), Xương Giang (Bắc Giang), Tam Giang (Việt Trì, Phú Thọ) nằm trên đường tiến quân của viện binh giặc thì Lê Lợi - Nguyễn Trãi chủ trương kiên quyết đánh chiếm kỳ được bằng bất cứ giá nào trước khi viện binh kéo sang.

        Những thành nói trên là những cứ điểm trên đường giao thông từ Quảng Tây và Vân Nam tiến vào thành Đông Quan. Trên đường tiếp viện của giặc, những thành này là những nhịp cầu tiếp ứng quan trọng. Kiên quyết tiêu diệt bằng được các cứ điểm đó trước khi viện binh kéo sang là nhằm tích cực chuẩn bị chiến trường cho những trận quyết chiến chiến lược sắp tới. Hạ các thành đó là trực tiếp tiêu diệt các lực lượng tiếp ứng, phá thế dựa vào nhau của địch.

Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM