Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:04:22 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chặng đường mười nghìn ngày  (Đọc 42827 lần)
0 Thành viên và 3 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #130 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2016, 06:23:17 am »


        Từ 16 đến 18-5-1974 địch lần lượt điều ba tiểu đoàn bảo an và chiến đoàn 43 lên Bến Cát, cầu ông Tộ và Phú Thứ; đồng thời tổ chức bốn trận địa pháo (36 khẩu) chuẩn bị hỗ trợ để phản kích chiếm lại đường Bảy. Lường trước diễn biến, chúng tôi lệnh Sư đoàn 9 cho Trung đoàn 2 tạm ngừng kế hoạch tiến công Phú Thứ, chuyển gấp sang xây dựng trận địa chốt ở Rạch Bắp, Ri-nét, điểm cao 25 trên đoạn đường Bảy, Trung đoàn 3 xây dựng trận địa chốt chặn ở khu vực Kiến Điền vừa mới đánh chiếm để đánh trả quân địch. Cuộc phản kích của địch kéo dài đến 30-9-1974, trong đó có 5 đợt tiến công thu hút phần lớn lực lượng quân đoàn 3 như sư đoàn 5, sư đoàn 18 và sư đoàn 25, liên đoàn 7 biệt động quân, lữ dù 1, bốn trung đoàn xe tăng, thiết giáp, kể cả lực lượng pháo binh, không quân; thậm chí chúng còn huy động cả lực lượng quân đoàn 4 và bộ Tổng Tham mưu tham gia.

        Vì sự sống còn, tồn tại hay không tồn tại của trận tuyến trung gian, địch đã đánh phá quyết liệt theo kiểu "dốc túi", miễn sao giành lại được khu vực đã mất. Trên các trận địa chốt chặn của ta, bom đạn địch cầy xới với mật độ dày đặc1, đất đá tan vụn thành bột, có nơi sâu đến đầu gối.

        Cuộc chiến đấu chống địch phản kích trên mặt trận đường Bảy Ngang - tây Bến Cát diễn ra ác liệt, căng thẳng và liên tục suốt 135 ngày đêm (ở Tàu Ô là 110 ngày đêm). Nhưng cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 9 đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, đánh lui hàng trăm đợt phản kích lớn nhỏ của địch; ta và địch giành nhau từng tấc đất với một ý định thật rõ - địch muốn phân tuyến, còn ta thì kiên quyết duy trì thế trận "da báo". Tại điểm cao 25, nơi được xem như cái "túi" đựng bom pháo địch, tiểu đoàn 9, Trung đoàn 3, tiếp sau là tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 3, Trung đoàn 1 vào thay thế đã ngoan cường chốt chặn, dưới mưa bom bão đạn bẻ gãy nhiều đợt phản kích của xe tăng, bộ binh địch giữ vững trận địa, không thể lọt vào tay quân thù.

        Từ đầu tháng 10 năm 1974, địch buộc phải từ bỏ ý định dùng lực lượng phản kích chiếm lại đường Bảy Ngang - tây Bến Cát.

        Cuộc hành quân lấn chiếm với nhiều tham vọng, tiến hành dài ngày nhất (hai tháng), kể từ Hiệp định Paris có hiệu lực đã bị thất bại. Chúng buộc phải thú nhận bị thiệt hại 11 trong tổng số 26 tiểu đoàn chủ lực cơ động, 4 trong số 11 tiểu đoàn biệt động quân, 4 trong tổng số 14 chi đoàn thiết giáp, 85 trong tổng số 325 xe tăng và thiết giáp. Từ đây địch không còn có cuộc hành quân tương tự nào, mặc dầu chúng chưa từ bỏ tham vọng xoá thế "da báo" đẩy chủ lực ta ra xa.

        Trên chính diện chiến dịch, Sư đoàn 9 đã đương đầu với gần như toàn bộ lực lượng quân đoàn 3 địch, giữ vững vùng giải phóng không cho địch nối thông tuyến phòng thủ bảo vệ Sài Gòn từ hướng tây-bắc.

        Bằng chiến thắng đường Bảy Ngang, ta đã tạo ra thế chiến lược mới trên chiến trường Đông Nam Bộ, đặc biệt là ở hướng tây-bắc Sài Gòn.

        623 cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn 9 đã anh dũng hy sinh, 6.602 đồng chí mang thương tích trên trận địa chốt chặn. Tôi mãi mãi cảm phục và tự hào về sự đóng góp vô giá của những đồng chí, đồng đội để có một chiến thắng ở thời điểm lịch sử đang rất cần. Bản thân chiến thắng và sự đóng góp xả thân của những người đồng chí của tôi đã tạo nên một cách đánh mang những nét đặc sắc Việt Nam - chốt chặn kết hợp với tiến công bắt nguồn từ Tàu Ô, được nâng lên trong hoàn cảnh mới, tạo một chiến thắng bất tử, chuẩn bị tiền đề để có được một tuyến xuất phát tiến công của đại quân trong chiến dịch Hồ Chí Minh từ hướng tây-bắc tiến vào Sài Gòn.

------------------
        1. Có ngày chúng bắn tới 20.000 quả đạn pháo, hàng chục lần chiếc máy bay ném bom. Trong thời gian một tháng (từ 10-6 đến 7- 7- 1974), địch bắn 174.000 quả đạn pháo, 1.101 lần chiếc máy bay xuất kích ném bom vào đội hình ta.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #131 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 09:19:47 am »


Chương 18

        Trở lại đường 14 - Phước Long.

        Mặc dầu đã được các anh lãnh đạo và chỉ huy Miền phổ biến ý định và trao đổi lấy ý kiến tham gia ngay từ cuối năm 1973 đầu năm 1974, nhưng khi thực hiện trong tôi cứ rộn lên một niềm vui khôn xiết. Đó là sự kiện Quân đoàn 4 ra đời! Bởi đây là kết quả của một nhận biết về quy luật chiến tranh cách mạng đã trải qua nhiều năm tháng thăng trầm, thậm chí phải trả giá khi mà cả một thời gian dài không thấy hết vai trò của đánh lớn, trong khi đó lại tuyệt đối hoá vai trò chiến tranh du kích; chỉ thấy nổi dậy mà không thấy đầy đủ vai trò tiến công; không thấy hết vai trò quyết định của quả đấm chủ lực trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh. Muốn đánh lớn phải có công cụ để thực hiện đánh lớn - đó là các binh đoàn chủ lực đủ sức đảm đương các nhiệm vụ tiến công và phòng ngự chiến dịch, chiến dịch - chiến lược và chiến lược.

        Quân đoàn 4 ra đời là để cùng vói các quân đoàn khác đáp ứng yêu cầu đánh lớn của giai đoạn mới - giai đoạn Tổng tiến công và nổi dậy kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

        Buổi lễ thành lập Quân đoàn được tổ chức tại căn nhà đơn sơ, khu căn cứ Trung ương Cục bên bờ suối Bà Chiếm (tây-nam thị trấn Lộc Ninh 15 ki-lô-mét). Đông đủ các cán bộ lãnh đạo chỉ huy - những người đã có công tổ chức ra các đơn vị chủ lực đầu tiên; đã trực tiếp chỉ huy nhiều đơn vị; đã theo dõi từng bước trưởng thành của khối chủ lực Miền, giờ đây lại có dịp ngồi bên nhau chứng kiến cái giây phút thật trang nghiêm và xúc động của buổi lễ lịch sử này.

        Ngoài các đồng chí Phạm Hùng, bí thư Quân uỷ Miền; Trần Văn Trà, tư lệnh; Lê Văn Tường, phó chính uỷ; Nguyễn Minh Châu, tham mưu trường; Trần Văn Phác, cục trưởng chính trị; Bùi Phùng, cục trưởng hậu cần Bộ chỉ huy Miền; các đồng chí trong Bộ tư lệnh Quân đoàn1, còn có các đồng chí chỉ huy các đơn vị; Võ Văn Dần, Tám Tùng (Bộ tư lệnh Sư đoàn 9); Lê Nam Phong, Tư Vinh (Bộ tư lệnh Sư đoàn 7); Út Liêm, Ba Cúc (Bộ tư lệnh Sư đoàn 5); Hai Phong (đặc công); Năm Lê (pháo binh); Xuyên Khung, Bảy Tuất (công binh); Tư Hải (thiết giáp), v.v.

        Các đồng chí đã lần lượt bày tỏ tình cảm phấn khởi, tự hào về sự kiện thành lập Quân đoàn 4, như một cột mốc đánh dấu sự trưởng thành của các lực lượng vũ trang trên chiến trường B2, có thêm sức mạnh mới, có khả năng phối hợp cùng với các quân đoàn bạn trên chiến trường miền Nam mở những chiến dịch tiến công hợp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh nhanh, giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhất để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cách mạng.

        Trong niềm vui đầy xúc động và ấm cúng ấy, nhiều người trong chúng tôi đều cảm thấy có một cái gì thiếu vắng? Đó là hình ảnh anh Thanh - anh Nguyễn Chí Thanh, một trong những đồng chí lãnh đạo đã dành nhiều tâm huyết vào việc xây dựng lực lượng vũ trang ở miền Nam đã không còn nữa.

        Anh được cử vào Nam Bộ đúng vào thời điểm thật sôi động, khi mà Mỹ đang chuyển từ chiến lược "chiến tranh đặc biệt" sang chiến lược "chiến tranh cục bộ" với những đơn vị Mỹ được trang bị các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh đến "tận răng" đã có mặt trên chiến trường. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang trên xu thế phát triển nhưng cũng đầy ắp những thử thách và khó khăn. Quán triệt ý kiến chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Bộ chính trị và của Bác Hồ vĩ đại; từ những thực tiễn sống động mà anh tiếp cận, anh đã sớm hình thành một nhận thức vừa rất cách mạng nhưng cũng rất khoa học về chiến lược tiến công chứ không phòng ngự khi quân Mỹ nhảy vào trực tiếp xâm lược miền Nam. Và phải xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam thành những đơn vị vững mạnh đáp ứng yêu cầu tác chiến tập trung ngày càng lớn.

-------------
       1. Được Quân uỷ Trung ương - và Bộ quốc phòng phê chuẩn, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền đã công bố quyết định thành phần Bộ tư lệnh quân đoàn 4 gồm: Thiếu tướng Hoàng Cầm, tư lệnh; đại tá Bùi Cát Vũ, phó tư lệnh; đại tá Nguyễn Huỳnh Ngân, phó tư lệnh kiêm chủ nhiệm hậu cần; đại tá Hoàng Nghĩa Khánh, tham mưu trưởng, đại tá Lê Thanh, chủ nhiệm chính trị.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #132 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 09:21:15 am »


        Tuy chỉ hoạt động trên chiến trường miền Nam trong vài ba năm, song anh đã để lại trong chúng tôi những ấn tượng sâu sắc về một cán bộ lãnh đạo có một nhiệt tình cách mạng sôi nổi, một tư duy năng động, sáng tạo, một đức tính trung thực, vô tư một phong cách cởi mở, chân thành; anh luôn luôn lắng nghe ý kiến mọi người, bàn bạc dân chủ, phân rõ đúng sai, kết luận dứt khoát.

        Anh không còn nữa nhưng trong tâm tưởng chúng tôi vẫn có hình ảnh anh, vẫn nguyện hướng theo và làm theo những tư duy quân sự của anh trong giai đoạn cách mạng mới.

        Lễ thành lập quân đoàn diễn ra nghiêm túc, thiêng liêng, giản dị, rất gần gũi với cuộc chiến đấu.

        Trong khi anh Phạm Hùng, bí thư Trung ương Cục đọc quyết định thành lập quân đoàn và giao nhiệm vụ cho quân đoàn thì Sư đoàn 9 đang chiến đấu quyết liệt chống lại cuộc hành quân phản kích của địch trên mặt trận đường Bảy Ngang - tây Bến Cát; Sư đoàn 7 đang ở hướng phối hợp cùng quân dân địa phương huyện Tân Uyên mở đợt tiến công vào khu vực bắc sông Đồng Nai.

        Để đảm bảo tính liên tục của nhiệm vụ chiến đấu, ngay từ ngày 1 tháng 7 năm 1974, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền đã ký quyết định thành lập và bổ nhiệm các thành viên của Bộ tư lệnh Quân đoàn, và trên thực tế Bộ tư lệnh Quân đoàn chúng tôi đã điều hành các đơn vị hoạt động trên cơ sở các kế hoạch đã định trước của Bộ chỉ huy Miền và những định hướng chỉ đạo của Bộ từ Hà Nội điện vào trước 20 ngày lễ cừ hành thành lập quân đoàn (20 tháng 7 năm 1974)

        Sau chiến dịch đường Bảy Ngang thắng lợi, các cuộc hành quân lấn chiếm của địch trên chiến trường Đông Nam Bộ chững lại Cũng từ đây Quân đoàn 4 có điều kiện vừa làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ vừa sẵn sàng đánh địch lấn chiếm; đồng thời khẩn trương củng cố tổ chức, tiến hành huấn luyện theo hướng phục vụ đánh lớn của một quân đoàn cơ động chiến dịch - chiến lược của chiến trường B2 như Nghị quyết Đảng uỷ Quân đoàn họp phiên đầu tiên đã xác định và nêu ra các biện pháp thực hiện với những yêu cầu cụ thể1.

        Từ giữa tháng 10 đến đầu tháng 12 năm 1974, sau khi được bổ sung quân số, vũ khí từ miền Bắc chi viện vào, toàn Quân đoàn dấy lên phong trào thi đua "Quyết thắng", tập trung vào huấn luyện nâng cao trình độ chỉ huy tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng (lấy bộ binh làm chủ) với quy mô trung đoàn, sư đoàn đến hai, ba sư đoàn, nhằm mục tiêu diệt gọn từng tiểu đoàn, trung đoàn, chiến đoàn địch, tiến tới đánh quỵ sư đoàn địch; giải phóng chi khu, quận lỵ, tiến lên giải phóng thị xã, thành phố.

        Ngay sau khi kết thúc lễ thành lập Quân đoàn 4, ngày 20 tháng 7 năm 1974, là hội nghị quân sự do Trung ương Cục triệu tập và chủ trì. Nội dung chủ yếu bàn kế hoạch đẩy mạnh hoạt động mùa mưa 1974 và nêu một số công việc cần làm để chuẩn bị cho mùa khô tới. Cho đến đầu tháng 10 năm 1974, kế hoạch hoạt động quân sự mùa khô 1974-1975 đã được Trung ương Cục thông qua.

        Đây là thời gian làm việc khẩn trương, căng thẳng nhưng cũng rất hứng khởi, vì các điều kiện chủ quan và khách quan, từ thực tiễn sống động và những định hướng đúng đắn của Nghị quyết Trung ương 21, các Nghị quyết Quân uỷ Trung ương thẩng 10 năm 1973, tháng 4 năm 1974 đã giúp các anh lãnh đạo và chỉ huy Miền định ra bước đi cụ thể cho chiến trường B2, làm chỗ dựa rất căn bản cho chúng tôi vận dụng thực hiện trong điều kiện cụ thể của các đơn vị bộ đội chủ lực.

        Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã bước đầu phác thảo kế hoạch hai năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, trong đó năm 1975 giữ vai trò "bản lề". Dựa vào ý định đó, Bộ Tổng Tham mưu đã chuẩn bị kế hoạch tiến công quân sự trên chiến trường B2. Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền cũng đã vạch kế hoạch cụ thể của bước một năm 1973 cho B2, trong đó lấy đồng bằng sông Cửu Long làm trọng điểm tiến công giành dân, giành đất song song với mở chiến dịch Đường 14 - Phước Long.

        Những nghị quyết, những kế hoạch mà tôi được dự họp, trực tiếp tham gia hoặc được thông tin lại qua các buổi giao ban định kỳ như đã có cái gì thúc giục trong tôi. Hơn nữa đến lúc này (cuối tháng 9 năm 1974) công việc sắp xếp ổn định tổ chức, tiến hành huấn luyện của quân đoàn đã cơ bản hoàn thành. Các Sư đoàn 7, Sư đoàn 9, đều tổ chức bắn đạn thật và tổ chức diễn tập tiểu đoàn đánh địch trong công sự vững chắc, vận động tập kích và vận động tiến công kết hợp với chốt chặn bằng lực lượng và hoả lực của bản thân là chính và bằng hiệp đồng binh chủng. Tất cả đang chuyển sang giai đoạn huấn luyện ba - huấn luyện củng cố chuẩn bị cho hoạt động quân sự trong năm 1975.

---------------
        1. Nghị quyết Đăng uỷ Quân đoàn họp ngày 3 và 4-10-1974 nêu, trong xây dựng và chiến đấu cần nắm vững sáu yêu cầu: chính trị - tư tưởng vững mạnh; chiến đấu vả huấn luyện giỏi; lao động và công tác tốt, xây dựng quân lý chặt; kỷ luật chính sách nghiêm; sản xuất tiết kiệm cao.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #133 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 09:22:12 am »


        Được biết lúc này lãnh đạo và chỉ huy Miền đang tập trung cho hướng chủ yếu đồng bằng sông Cửu Long, có ý đưa cả Quân đoàn 4 xuống đó, đã chỉ thị cho Quân khu 8, Quân khu 9 chuẩn bị lực lượng phối hợp.

        Gặp phó tư lệnh Miền Lê Đức Anh tôi vừa báo cáo vừa thăm dò ý định cấp trên: Quân đoàn đã ổn định về mọi mặt, Đảng uỷ chúng tôi vừa họp xác định khẩn trương hoàn thành công tác chuẩn bị, đã sẵn sàng nhận nhiệm vụ.

        Với phong cách đĩnh đạc và điềm tĩnh quen thuộc, Phó tư lệnh Lê Đức Anh chậm rãi nói:

        - Miền đã tính sẽ đưa cả Quân đoàn 4 xuống đồng bằng làm nhiệm vụ nhổ đồn bót nhỏ, hỗ trợ cho chống phá bình định, giành dân.

        - Xuống vào thời gian nào? - Tôi hỏi.

        - Để địa phương triển khai trước đã - Anh Lê Đức Anh nói.

        - Thế thì còn đồn bót nào mà đánh? - Tôi hỏi tiếp.

        Quê gốc Thừa Thiên vẫn còn để lại dấu ấn giọng nói pha chất Nam Bộ càng dễ cảm nhận, nhưng anh gắn với Nam Bộ, nhất là đất miền Đông này từ rất sớm khi anh đã phải từ quê hương vào làm phu cao su ở đất Lộc Ninb. Anh tham gia cách mạng và vào Đảng từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

        Khi Nam Bộ kháng chiến chống Pháp, Đảng phân công anh vào quân đội, đã từng giữ chức trung đoàn trưởng thời kháng chiến chín năm. Cả anh và tôi được Đảng giao trách nhiệm Phó tư lệnh trong Bộ chỉ huy Miền, càng tạo mối quan hệ gắn bó và sự hiểu biết giữa hai chúng tôi trong quá trình điều hành công việc chung. Nhưng ngay lúc này giữa tôi và anh là mối quan hệ cấp trên cấp dưới, anh vẫn là Phó tư lệnh nhưng giữ trọng trách thường trực thay anh Trần Văn Trà ra Hà Nội họp. Còn tôi là tư lệnh quân đoàn, là cấp dưới của anh. Nhưng không vì thế mà mối quan hệ của hai chúng tôi bị phân cách, trái lại vẫn rất thân mật, cảm thông, chan hoà và cởi mở.

        Vì thế không đợi anh trả lời, tôi trao đổi tiếp vừa như trình bày xin ý kiến cấp trên vừa như trao đổi những suy nghĩ của mình trong quan hệ đồng cấp. Tôi nói:

        - Ở dưới đó có Sư đoàn 5 chủ lực Miền lại thêm Sư đoàn 8, Sư đoàn 4 vừa mới thành lập của hai Quân khu 8, Quân khu 9 cùng với lực lượng vũ trang địa phương chắc sẽ đủ sức giải quyết các đồn bót nhỏ; số còn lại chúng co về quận lỵ, chi khu. - Tôi hạ giọng - Đề nghị anh cho Quân đoàn 4 xuống đó được đảm nhận nhiệm vụ tiếp sau, vì vừa qua chúng tôi đã tổ chức cho các đơn vị huấn luyện và diễn tập đánh theo yêu cầu này.

        Nhìn anh thấy anh vẫn chăm chú theo dõi người đang trình bày thỉnh thoảng gật gật hưởng ứng, đồng tình, nên tôi ướm:

        - Đề nghị Bộ chỉ huy Miền cho Quân đoàn đánh Đồng Xoài mở đường 14 trước đã.

        - Thời gian nào? - Anh Lê Đức Anh hỏi.

        - Tùy cấp trên, đánh có giữ đất đâu, cốt để bộ đội quen, có kinh nghiệm khi xuống đồng bằng đánh chắc ăn hơn.

        Được cấp trên chấp nhận, chúng tôi gấp rút chuẩn bị. Một mặt cho đơn vị ôn luyện, tổ chức diễn tập đánh Đồng Xoài trên sa bàn; đồng thời chỉ thị bộ phận tham mưu dự thảo kế hoạch.

        Anh Trần Văn Trà xuống dự diễn tập và duyệt quyết tâm chiến đấu của Quân đoàn.

        Từ ý định chung trong kế hoạch tổng thể mùa khô, Miền chủ trương xúc tiến triển khai các công việc để mở chiến dịch Đường 14 - Phước Long, nhằm tạo một hành lang nối Đông Nam Bộ với Tây Nam Bộ, từ đường 14 qua Chơn Thành, Dầu Tiếng, Vàm Cỏ Đông, tây Long An, tây Kiến Tường phục vụ cho mặt trận đồng bằng sông Cửu Long là hướng hoạt động chính.

        Cần nói thêm là, âm mưu của địch lúc này là tiếp tục thực hiện bình định ở đồng bằng sông Cửu Long, còn ở Đông Nam Bộ địch tập trung phòng thủ vững chắc Sài Gòn, cố thủ những nơi chúng chiếm đóng sâu trong vùng giải phóng của ta như An Lộc, Chơn Thành, Phước Long nhằm vừa làm bàn đạp hoạt động đánh phá hậu phương ta vừa giữ thế chúng chưa mất hoàn toàn một tỉnh nào. Hơn nữa từ khi đường Trường Sơn được mở rộng từ Quảng Trị đến Đông Nam Bộ, ống dẫn dầu vào tới Lộc Ninh, Phước Long trở thành cầu hành lang chiến lược của ta thì địch càng đẩy mạnh hoạt động quân sự ở vùng này nhằm uy hiếp khu vực dự trữ vật chất, đầu mối giao thông chiến lược của ta đi các hướng, nhất là xuống đông-bắc Sài Gòn.

        Rõ ràng phải bằng mọi cách không để cho địch thực hiện âm mưu trên. Thông qua chiến dịch Đường 14 Phước Long tiếp tục tạo thế tạo lực trong một bối cảnh mới, có ảnh hưởng rất lớn, nếu không nói là quyết định đến kế hoạch mùa khô 1974-1975 của ta.

        Vì vậy việc xây dựng kế hoạch tác chiến chiến dịch phải được tiến hành một cách hoàn chỉnh, khẩn trương.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #134 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 09:23:10 am »


        Phạm vi chiến dịch Đường 14 từ Đồng Xoài đến Bù Đăng, lấy Đồng Xoài là hướng chủ yếu, Bù Đăng là hướng thứ yếu; tiến công theo phương thức binh chủng hợp thành, có tăng và pháo 130 ly chi viện. Quân đoàn 4 là lực lượng tiến công trực tiếp các sư đoàn trực thuộc Miền, trực thuộc quân khu và các lực lượng vũ trang địa phương phối hợp trước và trong chiến dịch theo kế hoạch thống nhất của Miền.

        Quyết tâm chiến dịch mới chỉ dừng lại ở những định hướng lớn để kịp cuối tháng 10- 1974 anh Phạm Hùng và anh Trần Văn Trà ra Hà Nội họp do Bộ Chính trị triệu tập, trực tiếp báo cáo xin ý kiến.

        Với thị xã Phước Long, trong chủ trương tổng thể ban đầu chưa đặt ra, vì lúc này ta chưa đủ khả năng đánh trong khi địch đông, được bố phòng cẩn mật theo thế chân kiềng Phước Bình - Bà Rá - Phước Long để hỗ trợ cho nhau và chúng sẽ tăng cường lực lượng khi bị ta tiến công.

        Khi anh Hùng, anh Trà lên đường, ở trong này chúng tôi tiếp tục triển khai cụ thể theo quyết tâm cơ bản được Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền thống nhất, có sự chỉ đạo trực tiếp của Phó tư lệnh thường trực Lê Đức Anh.

        Đảng uỷ và Bộ tư lệnh chúng tôi họp xác định nhiệm vụ của Quân đoàn trong chiến dịch tiến công này là tiêu diệt hai chi khu một yếu khu và toàn bộ hệ thống đồn bót địch, giải phóng Đường 14. Nếu chủ lực địch lên thì tiêu diệt từ 1 - 3 tiểu đoàn, giữ vững vùng giải phóng. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Quân đoàn để một trung đoàn giữ đường 14, còn lại lui về củng cố, chuẩn bị cho bước hai chiến dịch.

        Sau khi cân nhắc mọi mặt, Bộ tư lệnh Quân đoàn xác định quyết tâm lần cuối: Hướng chủ yếu là chi khu quân sự Đồng Xoài hướng thứ yếu là chi khu quân sự Bù Đăng, hướng phát triển là đường 391 và Phước Vĩnh. Đường Bảy Ngang (nơi sư đoàn 9 đang hoạt động) là khu vực ngăn chặn, kiềm chế lực lượng cơ động quân đoàn 3 nguỵ, không cho chúng lên chi viện Phước Long khi thị xã này bị ta tiến công đánh chiếm.

        Trên dưới thông suốt, tất cả các đơn vị trực thuộc, phối thuộc, tăng cường đều bắt tay vào triển khai công việc phải làm theo nhiệm vụ cụ thể được giao với tinh thần tích cực và hào hứng.

        Thời điểm lúc này là cuối tháng 11, yêu cầu công việc chuẩn bị đặt ra hết sức khẩn trương, làm sao đến cuối tháng 12 hoặc đầu tháng 1 năm 1975 là có thể bắt đầu.

        Ngay trước khi chưa có chủ trương mở chiến dịch, từ tháng 7 năm 1974, Quân đoàn đã dự kiến nếu chiến dịch được mở thì Sư đoàn 7 (lúc này đang đứng chân ở đông đường 13) sẽ là lực lượng trực tiếp tiến công căn cứ quân sự Đồng Xoài vì Sư đoàn 9 trước sau vẫn chốt giữ đường Bảy Ngang vừa để ngăn chặn địch lấn chiếm vùng giải phóng của ta ở hướng tây-bắc Sài Gòn vừa làm nhiệm vụ nghi binh chiến dịch. Vì vậy từ cuối năm 1973, Quân đoàn đã giao cho Sư đoàn 7 các công việc chuẩn bị cụ thể như nghiên cứu nắm địch, tổ chức trinh sát thực địa đường 14 - Đồng Xoài. Tháng 7, rồi tháng 10 năm 1974, Sư đoàn 7 lại tổ chức tiếp hai đợt trinh sát thực địa Đồng Xoài và các vùng phụ cận, đắp cả sa bàn căn cứ này để diễn tập thực hành tiến công.

        Các kế hoạch chung và cụ thể đều đã thống nhất, công việc chuẩn bị coi như đã hoàn thành. Việc phân công trong Bộ tư lệnh cũng đã được triển khai: Tôi phụ trách hướng Đồng Xoài, anh Bùi Cát Vũ, phó tư lệnh phụ trách hướng Bù Đăng đang chuẩn bị lên đó chỉ đạo triển khai kế hoạch.

        Mọi việc đang diễn ra suôn sẻ, thì liên tiếp có điện từ Hà Nội: Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sau cùng là đồng chí Lê Duẩn nhắc: Đợt này chỉ được đánh chi khu Bù Đăng nhưng không được sử dụng xe tăng và pháo 130 ly.

        Tại sao? Một thắc mắc được nêu lên sau khi nhận điện, không trừ một ai. Nhưng cũng không ai trả lời gãy gọn. Tiếp đó là những cuộc tranh luận nhỏ diễn ra ngay trong cơ quan Quân đoàn bộ, sôi nổi nhưng khó phân ranh được vấn đề! Có ý kiến cho rằng sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ, số khác thừa nhận khó khăn nhưng từ trước đến nay nhiều trận đánh rất gay cấn, ta chưa có tăng, có pháo hạng nặng mà vẫn hoàn thành nhiệm vụ; có anh em thì khẳng định - đã là mệnh lệnh thì chỉ có nhiệm vụ tìm biện pháp chấp hành.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #135 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 09:24:08 am »


        Riêng tôi không phải không biết lý do. Qua điện của anh Giáp, anh Ba đều nhấn mạnh: cần phải tiết kiệm vũ khí, nhất là đạn pháo mặt đất cỡ lớn để dành cho các đợt tiến công sau lớn hơn. Ta phải "vừa đánh vừa theo dõi phản ứng của địch để kịp thời đối phó"1. Nhưng làm sao giải thích được cái lý do thật cô đặc nêu trong điện từ Hà Nội vào để anh em thông suốt trong lúc này! Cứ đưa vấn đề một cách tự nhiên có khi lại sinh thêm phức tạp. Cuối cùng tôi thấy phải quay về với nguyên tắc cơ bản "quân lệnh như sơn" để ổn định tư tưởng anh em.

        Thắc mắc rồi cũng qua đi, có thể đã thông suốt, có thể chỉ tạm xếp lại chờ ngày tìm hiểu, vì trước mắt có biết bao công việc bộn bề đòi hỏi phải giải quyết. Tất cả gần như phải làm lại từ đầu Đồng Xoài từ hướng chủ yếu chuyển thành mục tiêu kìm chế, bao vây. Bù Đăng từ thứ yếu chuyển lên hướng chủ yếu, không gian chiến dịch có thu hẹp, tính từ cầu 11 (đông Đồng Xoài) đến Bù Đăng.

        Ngày 19-11-1974, tôi điện cho Bộ tư lệnh Sư đoàn 7: "Đánh Đồng Xoài không phải là trận mở màn nữa. Bước đầu chiến dịch, sư đoàn chỉ có một trung đoàn đi phối thuộc với sư đoàn 8 tiến công tiêu diệt chi khu Bù Đăng và các đồn bót dịch trên đường 14 từ Bù Đăng đến Bù Na. Lực lượng còn lại sẵn sàng đánh viện và sẵn sàng tiến công tiêu diệt Đồng Xoài khi có lệnh".

        Quyết tâm cuối cùng của Bộ tư lệnh Quân đoàn nhằm thực hiện ý kiến chỉ đạo của anh Giáp, anh Ba:

        - Hướng chủ yếu là khu vực Bù Đăng do Sư đoàn 3 thiếu (chỉ có hai trung đoàn), Trung đoàn 165 (sư đoàn 7), một tiểu đoàn đặc công (trung đoàn đặc công 429 của Miền), một đại đội địa phương huyện Bù Đăng, bốn khẩu 120 ly, hai khẩu 105 ly, sáu khẩu pháo nòng dài 85 ly, tám khẩu 37 và 57 ly đảm trách. Một đại đội của Trung đoàn 165 làm nhiệm vụ lực lượng dự bị.

        - Hướng thứ yếu là yếu khu Bù Na do hai tiểu đoàn (trung đoàn đặc công 429) và hai tiểu đoàn bộ binh thộc Trung đoàn 209 (sư đoàn 7) đảm nhận, lực lượng dự bị của hai hướng này là một tiểu đoàn của Trung đoàn 201.

        - Hướng phối hợp là chi khu Bù Đốp (lưu vong) do đặc công tỉnh Bình Phước2 đảm nhận.

        Ngoài khu vực chiến dịch Đường 14 - Phước Long kể trên, Quân đoàn vẫn duy trì hai khu vực hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến chiến dịch (xem như là khu vực phối hợp): khu vực Đồng Xoài, do một đại đội 122 ly khống chế, các Trung đoàn 141 và 209 (sư đoàn 7) đứng chân ở căn cứ sẵn sàng đánh địch viện lên Đồng Xoài, khu vực đường 14 và đường Bảy Ngang do Sư đoàn 9 phụ trách, có nhiệm vụ kìm chân, ngăn chặn lực lượng cơ động quân đoàn 3 nguỵ.

        Sau khi điều chỉnh quyết tâm, Quân đoàn cho các đơn vị tranh thủ huấn luyện bộ đội tiến công bằng bộ binh và pháo mang vác, coi đây như là một nội dung của công tác chuẩn bị phục vụ cho thay đổi cách đánh hợp đồng binh chủng không có xe tăng và pháo 130 ly.

        Phân công trong Bộ tư lệnh Quân đoàn cũng có sự điều chỉnh.

        Anh Vũ ở lại có nhiệm vụ tổ chức, chỉ huy các đơn vị đứng chân ở đây làm nhiệm vụ bao vây khống chế chi khu quân sự Đồng Xoài Tôi lên khu vực Bù Đăng. Sự hoán vị được thực thi ngay sau đó, thượng tuần tháng 12 năm 1974, sau khi xiết chặt tay anh Ba Vũ, chúng tôi tạm biệt và chúc nhau hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ. Tôi lên đường cùng với một bộ phận nhẹ của sở chỉ huy nhẹ quân đoàn.

        Thế là ngót mười năm tôi lại trở về với Phước Long, với đường 14 - mảnh đất thân quen đã để lại nhiều kỷ niệm sâu đậm trong thời kỳ tôi giữ chức phó tư lệnh chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài lần thứ nhất đầu mùa khô năm 1965. Nay những kỷ niệm đó lại hiện về có sức thôi thúc, vẫy gọi và nâng bước tôi đi. Lần ấy lực lượng tham chiến là ba trung đoàn độc lập sau chiến dịch này trở thành Sư đoàn 9. Lần này trở lại, lực lượng là một quân đoàn, được bắt nguồn từ yêu cầu đánh lớn kể từ hồi ấy.

---------------
        1. Nghị Quyết Quân uỷ Trung ương, tháng 4 năm 1974.

        2. Theo tổ chức chiến trường của ta, Bình Phước là do hai tỉnh Bình Long và Phước Long hợp lại. Theo tổ chức hành chính của địch, Phước Long như các tỉnh khác, là một đơn vị hành chính thuộc nguỵ quyền trung ương Sài Gòn. Về quân sự là một tiểu khu thuộc quân khu 3 nguỵ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #136 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 09:24:37 am »


        Ra trận trong thế mới và lực mới, bớt đi nhiều những vất vả cũ phải chui lủi, phải lo toan đủ thứ, cả những ấu trĩ tất nhiên của sự trưởng thành. Đường ra trận đã có cái thênh thang, bớt phải cắt rừng, thoảng lại qua vùng giải phóng, đi trên vùng chủ quyền thuộc về ta, bắt gặp những nụ cười, những nét mặt rạng rỡ, được nghe cá những tràng pháo tay của nhân dân chào đón, tiễn đưa đoàn quân ra trận, thật ấm lòng những người sắp bước vào cuộc chiến đấu. Qua Đắc Ơ nhớ về sóc Bom Bo nghe như có tiếng chày cắc cùm cum giã gạo nuôi quân trong chiến dịch Phước Long ngày nào văng vẳng đâu đây.

        Ngày 2-12-1974, sở chỉ huy tiền phương chiến dịch đến địa điểm tập kết cách Bù Đăng 15 ki-lô-mét về phía bắc. Thời tiết đang vào giữa mùa khô mà bầu trời và mặt đất nơi đây vần vũ, ẩm ướt, như mùa mưa ngoài Bắc. Mặc dầu đã biết sẽ không có xe tăng, pháo cỡ lớn, nhưng khi gặp tôi anh Sáu Hưng tư lệnh Sư đoàn 3 vẫn có cái gì đó băn khoăn về trận đánh sắp tới.

        Nghe xong tôi hỏi:

        - Sư đoàn có mấy xe tăng?

        - Báo cáo tư lệnh, có 9 chiếc.

        - Có cách khác rồi! - Tôi nói.

        - Cách gì, thưa tư lệnh?

        - Tôi thay 9 tăng bằng 9 pháo.

        Nhìn nét mặt Sáu Hưng như có cái gì khó hiểu, chưa kịp hỏi lại, tôi tranh thủ nói luôn:

        - Thay 9 pháo, trong đó có 6 khẩu 85 ly loại pháo bắn thẳng này cơ động thuận tiện, tiếp cận được mục tiêu, lại có sức công phá lớn, hiệu quả phá hoại và sát thương cao, yểm trợ đắc lực cho bộ binh. Còn xe tăng trong điều kiện rừng núi như ở Bù Đăng có những hạn chế rất khó khắc phục, trước hết là cơ động không thuận tiện. Lại nữa tăng của ta thuộc loại chạy dầu, phả nhiều khói, tiếng động kêu to địch dễ phát hiện, đối phó trước khi tiến vào vị trí xuất phát tiến công, rất có thể bị địch tiêu hao trước khi qua cửa mở.

        Sáu Hưng nghe tôi thân tình trình bày những suy nghĩ của mình, tuy không nói ra cụ thể, nhưng qua nét mặt thấy anh cũng đồng tình với những điều tôi lý giải. Cả hai đều thấy có lý mà không hề nguỵ biện, ít ra trong bối cảnh của trận đánh cụ thể mà chúng tôi đang chuẩn bị. Hơn nữa cả hai chúng tôi đều ý thức được lúc này không thể ngồi đó mà phàn nàn, thắc mắc.

        Không thấy Sáu Hưng tranh luận lại, tôi biết anh đã thông cảm, đồng tình với tôi là hãy tìm cách khắc phục.

        Sau đó tôi làm việc với đồng chí Phẩm, trưởng phòng trinh sát của quân đoàn được phái lên trước một tuần lễ nghiên cứu nắm địch, chuẩn bị địa bàn cho tư lệnh chiến dịch đi trinh sát thực địa. Qua nghe báo cáo, các việc đều có làm nhưng chưa tốt, do thiếu kinh nghiệm thực tế vì đồng chí Phẩm từ miền Bắc mới bổ sung vào là tham gia chiến đấu luôn. Chọn địa điểm quan sát và trinh sát chỉ chấm trên bản đồ và qua ống nhòm để xác định là chưa ổn. Nắm quy luật tuần phòng, canh gác của địch dựa vào dân, theo dân kể lại là đúng nhưng không bố trí người bí mật tiếp cận để theo dõi xác minh. Nhưng cận ngày rồi, không thể cầu toàn, cứ phải tiến hành vừa làm điều chỉnh khi thực tế tình hình thay đổi.

        Theo báo cáo của Phẩm, cứ 16 giờ hàng ngày toán cảnh giới từ xa của địch rút về đồn, thì 16 giờ 8 phút đoàn trinh sát thực địa chúng tôi xuất phát, phải vượt sông Đắc Lập, một nhánh của thượng nguồn Sông Bé, lòng sông hẹp nhưng sâu, nước chảy xiết.

        Từ sông đến chi khu quân sự Bù Đăng còn khoảng 10 ki-lô-mét.

        17 giờ, tất cả vượt sang bờ nam sông an toàn. Đi được nửa đường để đến địa điểm quan sát thì gặp hai trung đội lính Thượng phục kích, chúng chặn đầu, khoá đuôi. Tình hình nguy ngập, địch đông, chủ động, ta ít lại bị động. Tôi hạ lệnh chia thành hai tổ, tìm cách thoát vây. Tổ tôi có trưởng phòng trinh sát quân đoàn, đồng chí tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 271) lực lượng chủ công đánh chiếm chi khu quân sự Bù Đăng, đồng chí Khởi y sĩ và một chiến sĩ, tất cả năm người, có ba súng ngắn, không mang theo AK. Trên đường vận động vượt trở lại bờ bắc sông, thấy Khởi bò, đầu sát đất, mông nhô cao, tôi nói nhỏ: "Mông thấp nhưng đầu phải cao để quan sát địch. Địch bắn, ta bắn trả lại". Địch chỉ còn cách ta 500 mét, tôi phân công: Phẩm, đồng chí tiểu đoàn trường tiểu đoàn 2 và chiến sĩ cần vụ bắn yểm trợ, tôi và Khởi vượt sông, sang đó chúng tôi bắn yểm trợ để các đồng chí sang sông tiếp. Hai chúng tôi vượt sông nước chảy xiết, tôi níu lấy bụi tre, lên được bờ. Khởi trôi xa tới một ki-lô-mét, tôi phải đuổi theo kéo Khởi lên bờ. Đến nơi chúng tôi vừa bắn vừa hô xung phong nhằm nghi binh, uy hiếp tinh thần địch, chúng tưởng lực lượng ta nhiều mà bỏ cuộc.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #137 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 09:25:14 am »


        Hôm sau bước trinh sát thực địa vẫn được tiếp tục và đạt kết quả tốt vì kế hoạch tiến hành được thay đổi toàn bộ cả giờ xuất phát, đường đi và địa điểm tiến hành. Qua trinh sát, tôi quyết định điều chỉnh một số điểm trong quyết tâm, tuy nhỏ nhưng rất quan trọng: đánh chi khu vòng theo hướng nam lên, chỉ dùng pháo chế áp khi tiến công khu trại biệt kích.

        Ngày 6-12-1974, một ngày làm việc căng thẳng và hào hứng suốt từ sáng đến tối khuya.

        Tại một địa điểm bắc sông Đắc Lập, cách chi khu quân sự Bù Đăng khoảng sáu ki-lô-mét có mặt đầy đủ các đồng chí chỉ huy các đơn vị làm nhiệm vụ chiến đấu; có các đồng chí Nguyễn Đình Kính, thường vụ tỉnh uỷ Bình Phước, Phan Bình Minh, huyện uỷ Bù Đăng; Năm Tròn, Ba Lẹ, huyện đội Phước Long.

        Tất cả đã trải qua vất vả hành quân, vận động nhân dân đưa đường, vận chuyển súng đạn, tiếp tế lương thực, tiếp cận vào các mục tiêu để quan sát, đo đạc cho pháo, tìm đường cho bộ binh tiến công, đếm từng hàng rào kẽm gai, bãi mìn để tính lượng bộc phá cần có. Tiêu biểu cho những người có mặt trong buổi họp này là anh Phan Bình Minh. Ngày 4-12-1974, anh nhận chỉ thị của Thường vụ huyện uỷ Bù Đăng giao nhiệm vụ đưa trung đội bộ đội địa phương của huyện vượt đường 14 sang tham gia chiến đấu và báo kế hoạch nổi dậy của huyện phối hợp với mũi tiến công quân sự. Đường đi cực kỳ gian khổ và nguy hiểm. Ngày đầu tưởng đã chót lọt nào ngờ anh Tạc, quê Hải Hưng, trung đội trưởng trinh sát bộ đội chủ lực đi cùng đạp phải mìn lá. Mìn nổ, anh hy sinh. Giữa lúc ấy pháo địch cấp tập và cho quân bổ vây nơi vừa xảy ra tiếng mìn nổ. Chúng đoán có "Việt cộng" vượt đường. Nhưng tất cả đã thoát khỏi vòng nguy hiểm. Anh Minh lại dẫn đoàn tiếp tục hành quân. Không có con đường nào khác, đoàn quân phải đi vòng, cách chốt Bù Lô khoảng 10 mét đành phải dừng lại. Đợi trăng vừa khuất, anh lệnh cho đoàn vượt qua, rồi đi gấp đến sở chỉ huy tiền phương chiến dịch lúc mờ sáng, để kịp ngày họp như đã quy định.

        Trước khi đi vào các vấn đề cụ thể, tôi quán triệt thêm tư tưởng chỉ đạo của Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền, đồng thời trao đổi những suy nghĩ riêng của mình về trận đánh đang tới gần.

        Trong mùa khô 1974-1975, trên chiến trường B2 chúng ta chủ trương mở chiến dịch Đường 14 - Phước Long là chọn vào một địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng nhưng lực lượng địch ở đây lại yếu và có những sơ hở rất khó khắc phục. Đây là một thuận lợi rất cơ bản đảm bảo chắc thắng. Và khi chiến dịch thắng lợi, nó sẽ góp phần đáng kể làm chuyển biến cục diện có lợi cho ta ở Đông Nam Bộ nói riêng và toàn B2 nói chung. Đây là một quyết định có sự tính toán nhìn xa. Bù Đăng cách Đức Lập 50 ki-lô-mét, ở đó đường Trường Sơn phía đông đang được mở thông, xuôi về hướng Bù Gia Mập - Lộc Ninh.

        Nếu ta tiến công giải phóng Bù Đăng thì từ Bù Bông - Kiến Đức có thể rẽ nhánh xuôi theo hướng nam tạo thành một hành lang xuống Tân Uyên, chiến khu Đ, bắc Biên Hoà, trong đó Bù Đăng trở thành một căn cứ tập kết lực lượng, một chân hàng rất tốt từ miền Bắc chuyển vào. Từ Bù Đăng đi các hướng theo đường 14 tuy rải đá, nhưng đuờng đã định hình từ lâu, mặt đường cứng, rất thuận lợi cho vận chuyển cơ động lực lượng và vũ khí, đạn dược áp sát Sài Gòn từ phía bắc.

        Rõ ràng Bù Đăng là một trong những vị trí quan trọng tạo thế đáp ứng yêu cầu và thời cơ mới, nhưng lại là điểm yếu, địa đầu của quân đoàn 3 nguỵ, khả năng chi viện của địch gặp nhiều khó khăn nếu khi bị đối phương tiến công. Chọn hướng chủ yếu nơi đây trong đợt đầu của chiến dịch là ta nắm chắc phần thắng, những sự cố xảy ra gần như rất ít nếu không nói là không có so với Đồng Xoài. Đây chính là dịp để chúng ta thực hiện phương thức "vừa đánh vừa theo dõi địch để kịp thời đối phó" như Quân uỷ Trung ương đã chỉ đạo.

        Bù Đăng, Bù Na thất thủ, các đồn bót sẽ tan rã, không những có giá trị tiến công tâm lý địch mà còn tạo thế uy hiếp mạnh Đồng Xoài, vì vỏ ngoài của nó bị vỡ, điều kiện giải quyết Đồng Xoài trở nên chín muồi, có khi giải phóng Đồng Xoài lại ít tốn súng đạn hơn các trận đánh trước.

        Sau khi thông qua quyết tâm chung và phương án tác chiến cụ thể của Trung đoàn 271 về tiến công chi khu quân sự Bù Đăng, tôi làm việc thêm với các đồng chí cấp uỷ địa phương về kế hoạch nổi dậy phối hợp với tiến công quân sự, về bảo vệ dân, thực hiện chính sách vùng mới giải phóng, nhanh chóng ổn định cuộc sống của nhân dân.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #138 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 09:26:46 am »


        Út Minh vẻ vẫn còn mệt mỏi vì hai đêm thức trắng vượt đường 14, nhưng khi đến lượt, anh tỉnh táo rất nhanh. Anh không có văn bản chuẩn bị, cứ thế nói rất rành rẽ, đầy đủ các vấn đề cả số liệu như đã có sẵn trong đầu về tình hình vùng phụ cận phố thị Bù Đăng: ở đây có hai xã (Bù Đăng, Vĩnh Thiện) với tám thôn ấp (Hoà Đồng 1, 2, Vĩnh Thiện 1, 2, Bình Lộc, Bình Thọ, Bù Nguôi, Bù môn), có ngót 8.000 dân, 200 héc-ta canh tác, năm thôn đã có chi bộ đảng, 70 đoàn viên. Địch có 14 trung đội dân vệ, quân số khoảng 350 tên, 20 cảnh sát an ninh, 50 cảnh sát dã chiến. 14/14 trung đội dân vệ có cơ sở binh vận của ta, hoạt động theo phương thức bắn chỉ thiên khi đi càn, gặp Quân giải phóng không bắn, đụng độ thì bỏ chạy, viện cớ "Việt cộng" mạnh. Đã có một trung đội trưởng ác ôn được vợ (cơ sở của ta) tuyên truyền giác ngộ, vận động dẫn chồng mang theo 15 súng ra đầu hàng cách mạng, được ta khoan hồng.

        Tôi thực sự xúc động khi nghe anh Minh báo cáo về những con số thật quý giá, nó thực sự là những hạt giống cách mạng đã nẩy mầm; nó như một dòng suối nhỏ hoà thành dòng sông thắng lợi đang ào ào nhấn chìm những cặn bã, những rác rưởi bẩn thỉu, phản động. Thật đáng quý biết bao, ở một vùng sâu chưa được biết ánh sáng cách mạng, chưa được nhìn thấy cụ thể độc lập tự do là gì. Sự suy nghĩ của đồng bào thật đơn giản, chỉ tin, chỉ nghe điều gì nhìn thấy. Vậy mà đồng bào đã ngả theo cách mạng, ngả theo kháng chiến, đã nuôi giấu cán bộ, chắt chiu từng hạt gạo, củ khoai để tiếp tế cho cán bộ.

        Nhân lúc anh Minh cầm bát nước, tôi hỏi xen vào:

        - Anh Minh quê ở Bù Đăng? (vì anh nói tiếng Kinh đích thị là người Kinh rồi).

        - Báo cáo anh, tôi không phải - anh Minh thanh minh.

        - Anh quê vùng Bến Cát, Thuận An? - Tôi lại hỏi (vì nghe anh nói giọng Nam Bộ nhưng không hoàn toàn Nam Bộ).

        Anh Minh cười, kể:

        - Tôi quê Quảng Nam. Năm 1954 tập kết ra Bắc tuổi còn rất trẻ, được phân về công tác tại Đoàn thanh niên xung phong Trung ương, tham gia phục hồi đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan, Hà Nội - Nam Định, tham gia tiễu phỉ Vàng Pao (Lào) nổi loạn quấy vùng Quỳ Châu (Nghệ An) giáp biên giới Việt - Lào. Đầu năm 1962 tôi được lệnh vào Nam chiến đấu. Đoàn chúng tôi có anh Vũ Đình Tuyến, quê Quảng Ngãi, hiện là bí thư huyện uỷ Bù Đăng, anh Lê Quang Giang, Trần Ngọc Châu, Bảy Thạnh. Tất cả hơn 80 anh em đều quê Khu 5. Cuộc hành quân đầy gian khổ ròng rã ba tháng mới tới bắc Bù Đăng, thượng nguồn sông Đồng Nai. Tất cả được phân đi nhiều ngả, riêng tôi được phân về khu vực Bù Đăng với nhiệm vụ gây cơ sở ở Hoà Đồng, Vĩnh Thiện, lúc ấy là những xã trắng chưa có cơ sở của ta.

        Những ngày nằm rừng, gai cứa rách áo quần, châm vào da thịt gây ứa máu, chịu đói, chịu khát cồn cào ruột gan đi đứng xiêu vẹo nhìn vào đâu cũng thấy một màu vàng và có cả các thứ hoa đủ hình thù, lúc ẩn lúc hiện. Nhưng khi nằm xuống, úp ngực vào mặt đất, tự nhiên thấy dâng lên chí căm thù và cả mơ ước, chờ đợi, cứ kiên nhẫn chờ đợi sẽ có ngày tiếp xúc được với đồng bào, vận động được đồng bào tham gia kháng chiến, chống quân xâm lược, để thoát cảnh áp bức, kìm kẹp, ruồng bố. Những ngày như thế thật dài. Gạo hết, nước không. Có lúc còn gạo mà phải nhịn đói, có nước mà khát không được xuống suối để uống, còn thuốc mà đành chịu lạnh lòng, vì sợ lộ, địch phát hiện sẽ lùng sục, bao vây. sẽ trở thành công dã tràng.

        Rồi cuộc sống dạy khôn, nhắc nhở phải tồn tại không phải cho mình mà cho cái chung, cho phong trào, đã lần tìm củ nần, củ chụp1 mà sống. Nhưng rồi ngay cả những thứ tự nhiên tưởng như vô tận cũng cạn dần.

        Cứ thế hết ngày này qua ngày khác, cuộc sống vẫn vắng lặng. Qua kẽ lá từ trên đỉnh núi cao nhìn xuống chỉ thấy đồn binh và ấp chiến lược buồn tẻ, chỉ thấy đến giờ nhất định lác đác có người ra sau dó lại vào, đồng ruộng, đường sá không bóng người qua lại, dăm chiếc xe nhà binh tuần tra trên mặt đường, bắn loạn xạ các loại đạn, rồi lại chui vào một đồn bót gần đấy. Nhưng ước mơ và sự kiên nhẫn đã chiến thắng, đã vượt qua. Được gặp dân, cùng giúp dân làm nương rẫy, qua đó mà tâm tình, trao đổi, kết hợp so sánh với thực tế mà vạch định, nêu ra, từ đó có cái "cầu" dân để chúng tôi vào tận ấp chiến lược, nằm lại dưới hầm bí mật để tuyên truyền, tổ chức.

        Cơ sở cứ lan ra, rộng khắp. Phong trào đang có đà, bốn bề có địch mà cuộc sống không thấy cô đơn, vì đâu cũng có dân đùm bọc, chở che.

        Qua rất nhiều công tác, từ cán bộ cơ sở, chánh văn phòng huyện uỷ, chánh văn phòng tỉnh uỷ rồi lại trở về quê hương Bù Đăng (anh xây dựng gia đình với một phụ nữ cán bộ dân tộc Sơ tiêng) để hôm nay được thường vụ huyện uỷ giao trách nhiệm sang báo cáo với các đồng chí trong Bộ chỉ huy chiến dịch về kế hoạch nổi dậy phối hợp với các đơn vị trong chiến dịch giải phóng quê hương.

---------------
        1. Như loại củ mài, củ nâu ở vùng núi phía bắc, có thể ăn và sống qua ngày.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #139 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2016, 09:27:24 am »


        Là chiến dịch mở đầu giai đoạn kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng, vấn đề chính trị nổi lên như là một trong hai nội dung chính phải chuẩn bị trước ngày N và giờ G.

        Một loạt vấn đề được bàn bạc thống nhất giữa chúng tôi và các đồng chí cấp uỷ địa phương như: chuẩn bị lực lượng quần chúng, cơ sở binh vận nổi dậy khi mũi quân sự tiến công; tổ chức sơ tán nhân dân tạm lánh ra khỏi vùng có chiến sự, vận động nhân dân trở lại làm ăn, giữ dân lại chống âm mưu dồn dân di tản; tổ chức cứu tế và hoạt động dịch vụ bảo đảm đời sống nhân dân sớm trở lại bình thường; tổ chức tuần tra canh gác bảo vệ an ninh trật tự thôn ấp xã phường. Chúng tôi đã thống nhất với anh Út Minh, quy định chiến lợi phẩm - vũ khí quân trang quân dụng giao cho Sư đoàn 3 và hậu cần Miền thu giữ, quản lý, phân phối phục vụ chiến đấu; gạo, muối do ban quân quản thu giữ, quản lý, cần thiết có thể tạm vay của một số tư thương ở thị trấn Bù Đăng để cấp phát phân phối, cứu tế nhân dân kịp thời, đúng đối tượng hoặc bán cho những người có nhu cầu, thu được tiền trả lại cho người vay.

        Ngày 13-12-1974, công tác chuẩn bị chiến đấu của ta cơ bản hoàn thành, các mũi các hướng đều giữ được bí mật tốt.

        Nguyễn Thống Thành, đại tá tiểu khu trưởng Phước Long cùng một số sĩ quan tùy tùng ngay sáng 13 đã đáp trực thăng xuống Bù Đăng để "kiểm tra định kỳ". Sau đó y trở lại Phước Long theo đường bộ tiếp tục kiểm tra các vị trí phòng thủ trên đường 14. Đến đâu Thành đều được nghe báo cáo "tình hình rất yên tĩnh". Nhưng ngay đêm 12, sở chỉ huy chiến dịch nhận được điện báo cáo của tiểu đoàn 4, Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) diệt đồn bảo an cây số 19.

        Vì tính chất quan trọng của vị trí này, tôi lệnh cho đồng chí Lê Tấn Đạt cán bộ tác chiến của sư đoàn đi cùng với mũi này, trực tiếp chỉ huy tiểu đoàn 4, thực hiện ý định chia cắt địch trên đường 14, phát triển chi viện chung.

        Trên khu vực Bù Đăng, các đơn vị bắt đầu hành quân chiếm lĩnh các vị trí xuất phát tiến công. Trưa 12 tháng 12, trời đổ mưa, một trận mưa bất chợt, trái mùa nhưng rất to. Nước các khe, suối chảy tràn xối xả, đường ngập trơn. Các chiến sĩ bộ binh và pháo mang vác phải bỏ dép, đi chân đất. Xe kéo pháo bị sa lầy ở đoạn đường xuống ngầm sông Đắc Lập, vất vả suốt một đêm mới đưa được ba khẩu pháo sang bờ nam sông. Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) sau khi cắt rừng, vượt qua gần 100 ki-lô- mét đường từ Đồng Xoài lên, đến đêm 11 tháng 12 mới vượt đường 14, bắt đầu triển khai lực lượng tiếp cận mục tiêu khu hành chính chi khu. Đây là một cố gắng đáng biểu dương của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 165. Chỉ giao nhiệm vụ và kế hoạch hiệp đồng chủ yếu bằng phương tiện điện vô tuyến, mà trung đoàn đã nắm bắt chính xác, thực hiện nghiêm chỉnh, biểu hiện trách nhiệm cao đối với trận đánh mở đầu.

        Như vậy là trong đêm đầu, cả hai hướng chủ yếu và thứ yếu, không thực hiện được kế hoạch chiến dịch, chưa tiếp cận được mục tiêu. Nguyên nhân không phải do lạc đường (vì các mũi, các hướng đã có 50 thanh niên người dân tộc ở địa phương xin tình nguyện dẫn đường) mà do thời tiết xấu, mưa quá lớn ở khu vực Bù Đăng. Ở hướng thứ yếu, hai tiểu đoàn đặc công (Trung đoàn 429) không thực hiện được nhiệm vụ nổ súng trước, diệt yếu khu Bù Na, do đặc công tỉnh Bình Phước nổ súng sớm hơn ở khu vực Bù Đốp, địch ở đây đã chuẩn bị đề phòng.

        Trước tình hình trên, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định hoãn thời gian tiến công, chậm lại một ngày để xốc lại đội hình, điều chỉnh vũ khí.

        Ngày 14-12-1974, ngày N của chiến dịch bắt đầu.

        Nhân tố bất ngờ gần như đã hết, phải thực hành cường tập trên cả hai hướng chiến dịch. Rạng ngày 14, Trung đoàn 271 nổ súng tiến công chi khu Bù Đăng. Tại đây đã diễn ra cuộc chiến đấu gay go quyết liệt.

        Chi khu đặt trên một quả đồi cao, to, nằm ngay bên đường 14, có cấu trúc địa hình rất phức tạp. Cả ba mặt bắc, nam và đông đều dốc, có chỗ dốc gần như thằng đứng, chỉ có mặt phía tây dốc hơi thoải nhưng từ chân lên đỉnh là đoạn đường dài hơn 100 mét, qua nhiều tuyến phòng ngự phụ. Cũng có quãng đường lên khá dốc. Ta chọn mặt đồi phía bắc là hướng đột phá chủ yếu vì địch chủ quan, ta tiếp cận vào dễ. Nhưng đến gần mới rõ, dưới chân đồi có con suối tuy nhỏ nhưng lòng sâu, nước to và chảy xiết vì vừa có mưa. Nếu dùng xe tăng thì không có tác dụng ngay cả pháo cầu vòng và pháo 85 ly bắn thẳng cũng bị hạn chế. Để tiến vào tung thâm chi khu chỉ còn cách dùng bộc phá, nhưng ở đây chúng giăng tới chín hàng rào kẽm gai.

        Sau hai giờ chiến đấu ta mới mở được hai hàng rào, các hướng đều phát triển chậm, vì địch dựa vào công sự vững chắc và lưới lửa hoả lực dày đặc, bắn chặn rất ác liệt. Đại đội chủ công của ta chỉ còn 12 chiến sĩ, bị chặn lại ở hàng rào thứ tám.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM