Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:00:33 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam  (Đọc 54474 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #130 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 11:22:51 pm »


        Ở giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ, đấu tranh quân sự được thực hiện bằng các chiến dịch khác nhau của lực lượng vũ trang ba thứ quân, kết hợp với lực lượng chính trị. Nghệ thuật quân sự Việt Nam đã phát triển lên một trình độ mới và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn quý báu, độc đáo.

        - Những chiến dịch tổng hợp ở mặt trận đồng bằng, nông thôn, kết hợp tiến công quân sự với khởi nghĩa vũ trang của lực lượng chính trị của quần chúng, đập tan hệ thống kìm kẹp, đánh bại kế hoạch “bình định” của địch, tiêu diệt lực lượng quân sự của chúng, giải phóng nông thôn.

        - Những chiến dịch tiến công của các binh đoàn chủ lực trên chiến trường có lựa chọn nhằm tiêu diệt lực lượng quân sự chủ yếu là quân chủ lực cơ động của địch.

        - Những chiến dịch lớn tiến công vào các đô thị (hoặc những chiến dịch tổng hợp có kết hợp với nổi dậy của lực lượng chính trị ở các đô thị) đánh vào cơ quan đầu não của địch, kết hợp vây hãm, tiến công quân sự với khởi nghĩa vũ trang để giải phóng thành phố, thị xã.

        Đặc biệt từ năm 1973 trở đi, sau khi ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, trước âm mưu phá hoại và lấn chiếm của địch, từ những cuộc chống lấn chiếm, bình định, giữ vững vùng giải phóng, chúng ta đã chuyển sang những chiến dịch tiến công tổng họp, phá vỡ từng mảng hệ thống kìm kẹp của địch ở các địa bàn xung yếu, uy hiếp mạnh các vùng ven đô và các thị trấn, thị xã.

        Với phương thức liên tục tiến công và nổi dậy, đẩy mạnh việc tiêu diệt và tiêu hao lực lượng quân sự của địch trên các vùng chiến lược, phá vỡ từng mảng hệ thống kìm kẹp của địch ở cơ sở thôn xã, giành dân, giành quyền làm chủ, ta đã dồn địch vào thế bị bao vây, căng kéo, buộc chúng phải phân tán lực lượng chủ lực đối phó khắp mọi nơi, không còn đủ lực lượng cơ động mạnh trên các địa bàn quan trọng hoặc chi viện, ứng cứu cho các chiến trường. Lực lượng bảo an, dân vệ bị tan rã, mất tinh thần, không đủ sức đương đầu với lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng.

        Thực hiện đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt, sắc bén, có hiệu lực đã dồn địch vào thế bị động của chiến lược và chiến dịch từ những sụp đổ chiến thuật chuyển hóa thành bùng nổ dây chuyền mạnh mẽ mang ý nghĩa chiến địch và chiến lược.

        Cùng với những chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, với sức cơ động cao, đột phá mạnh, liên tục, chọc thủng các hệ thống và khu vực phòng ngự chiến lược của địch, tiêu diệt và làm tan rã các binh đoàn chủ lực chủ yếu của chúng, nắm vững thời cơ ở các tỉnh, huyện bộ đội địa phương cùng với dân quân du kích, tự vệ đã phát triển tiến công, bao vây các đồn bốt, tiêu diệt, gọi hàng, diệt ác, trừ gian, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá tan kìm kẹp của địch, xây dựng chính quyền cách mạng.

        Bằng chiến lược tổng hợp, từ khởi nghĩa vũ trang phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp đấu tranh chính trị quân sự, ngoại giao, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, bằng ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, phát triển tuần tự đến nhảy vọt, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từ đồng khởi 1959 - 1960 đến tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), với tiến công chiến lược 1975, chúng ta đã phát triển tư tưởng quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh lên đỉnh cao mới, kết hợp tính truyền thống dân tộc với tính thời đại.

        Chiến lược tổng hợp thể hiện tinh thần sáng tạo của Đảng ta. Với chiến lược tổng hợp, chúng ta đã động viên được sức mạnh của toàn dân, sức mạnh chính trị và quân sự cả nước, sức mạnh từ hậu phương đến tiền tuyến, sức mạnh cả dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh của độc lập dân tộc với sức mạnh của chủ nghĩa xã hội tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn vô địch của chiến tranh nhân dân đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, kẻ thù mạnh nhất của thời đại.

        Muốn thắng được một kẻ địch có sức mạnh vật chất lớn, có lực lượng quân sự và trang bị kỹ thuật mạnh, hiện đại, ta nhất thiết phải có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, dựa vào sức mạnh của toàn dân, phát huy cao độ nhân tố chính trị, tinh thần, phải tạo ra được sức mạnh tổng hợp to lớn và ngày càng phát triển.

        Với đường lối xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, Đảng ta đã đặt lên hàng đầu quan điểm “lấy dân làm gốc” trong xây dựng và củng cố quốc phòng. Từ quan điểm “lấy dân lành gốc”, chúng ta đã thực sự phát huy được sức mạnh của toàn dân, của cả nước, tập hợp và huy động cao nhất sức mạnh của nhân dân và sức mạnh của thời đại để đánh thắng kẻ thù.

        Bài học về chiến lược tổng hợp không chỉ là kinh nghiệm đã qua mà còn là bài học lớn, nóng hổi mãi mãi sau này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #131 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 11:26:20 pm »


CHƯƠNG III

TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI


I

TRUYỀN THỐNG QUÂN SỰ VIỆT NAM
LẤY NHỎ THẮNG LỚN, LẤY ÍT ĐỊCH NHIỀU, LẤY YẾU CHỐNG MẠNH.

        Trên mấy nghìn năm lịch sử, từ khi vua Hùng dựng nước Văn Lang đến nay, dân tộc ta đã bao lần chiến đấu chống ngoại xâm phong kiến phương Bắc và đế quốc Âu, Mỹ thường mạnh hơn ta về tiềm lực chiến tranh.

        Biết bao chiến tích oai hùng trước những kẻ thù mạnh nhất thời đại, như các đế chế phong kiến Trung Quốc đời Tần, Đường, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, thực dân Pháp, và đế quốc Mỹ, còn vang dậy trong lòng nhân dân Việt Nam và được nhiều người trên thế giới biết đến và đánh giá cao.

        Nước ta ở vào một vị trí địa lý đặc biệt, nơi tiếp xúc giữa đất liền và hải đảo, nằm ở góc cực Đông Nam của đại lục châu Á, nhìn ra Thái Bình Dương, ở trên con đường giao thông thủy bộ thuận lợi từ Nam lên Bắc, từ Đông sang Tây... Mặt khác nước ta vốn từ xưa đã nổi tiếng là nơi có “rừng vàng biển bạc”. Với vị trí trọng yếu và những nguồn tài nguyên phong phú, nước ta đã trở thành nơi gặp gỡ nhiều nhóm dân cư trên đường thiên di, nơi giao lưu nhiều luồng văn hóa phương Đông và cũng là địa bàn chiến lược, mà nhiều thế lực xâm lược thèm khát, nhòm ngó. Bởi vậy, ngay từ buổi đầu dựng nước, nhiệm vụ chống ngoại xâm đã trở nên cấp thiết trong sự nghiệp giữ nước. Quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước đã ăn sâu trong đầu óc người dân Việt Nam. Bác Hồ yêu quý của chúng ta đã căn dặn quân đội ta ngay từ khi giải phóng hoàn toàn miền Bắc năm 1954: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau ra sức giữ nước”.

        Kẻ thù muốn đánh chiếm nước ta không chỉ để bóc lột nhân dân, vơ vét của cải, khai thác nguồn tài nguyên phong phú, mà còn muốn biến nước ta thành một đầu cầu chiến lược để bành trướng khắp vùng Đông Nam Á. Vì thế, trong tiến trình lịch sử, dân tộc ta phải luôn luôn trong tư thế sẵn sàng chống xâm lược và liên tiếp phải đương đầu với nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của những thể lực bành trướng cường bạo.

        Trong lịch sử đấu tranh giữ nước nói chung, hầu hết các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta đều diễn ra trong hoàn cảnh so sánh lực lượng rất chênh lệch. Kẻ xâm lược là những quốc gia phong kiến lớn, là những đế quốc cường bạo vào bậc nhất thế giới.

        Cuộc đụng đầu lịch sử đầu tiên giữa dân tộc ta với thế lực phong kiến bành trướng phương Bắc xảy ra vào thế kỷ thứ III trước công nguyên, cũng là một cuộc chiến tranh có quy mô lớn, nhưng lực lượng hai bên rất khác nhau. Bấy giờ, đế chế Tần đã lập ra một đế quốc phong kiến rộng lớn, còn nước Văn Lang mới có số dân khoảng 2 triệu, cư trú chủ yếu trên địa bàn rừng núi phía Bắc tổ quốc; Thế kỷ thứ X - XI, dân tộc ta hai lần kháng chiến chống xâm lược Tống. Lúc đó, nước Tống có khoảng trên 50 triệu dân, còn Đại Việt chỉ có chừng 4 triệu người.

        Ở thế kỷ XIII, giặc Mông - Nguyên ba lần sang xâm lược Đại Việt. Ai cũng biết, đế chế Mông - Nguyên là một đế quốc khổng lồ, tàn bạo nhất thế giới đương thời, đang nuôi tham vọng làm bá chủ thế giới. Trước khi đánh vào Đại Việt, bè lũ Mông - Thát đã kiến lập được một đế quốc rộng lớn từ Bắc Á đến Đông Âu. Khi nhà Nguyên thành lập (1279), chúng đã thu phục cả lục địa Trung - Hoa và trở nên một đế quốc rộng lớn với số dân khoảng 60 triệu. Đến thế kỷ thứ XVIII, dân tộc ta có trên dưới 10 triệu người mà đã anh dũng chống lại và chiến thắng đế quốc Mãn Thanh to lớn, kẻ đã chinh phục thống trị cả một miền rộng lớn với trên 300 triệu dân. Trong thời kỳ cận đại và hiện đại, dân tộc ta đã phải chiến đấu chống đế quốc Pháp, Mỹ. Chúng đều là những đế quốc mạnh, không những đông quân hơn ta, mà còn hơn hẳn ta về trình độ phát triển kinh tế, kỹ thuật, trang bị và vũ khí.

        Là những kẻ thống trị ôm mộng bá chủ thế giới, bọn đế quốc chủ tâm xây dựng những đạo quân lớn mạnh chuyên để đàn áp và xâm lược. Về quân số, kẻ thù bao giờ cũng có số lượng gấp ta nhiều lần.

        Tóm lại, một quy luật phổ biến trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta là kẻ thù thường là những nước lớn, có quân đội đông, còn ta là một nước nhỏ, ít quân. Về số lượng quân đội của kẻ xâm lược bao giờ cũng gấp ta nhiều lần.

        Thực tế trên chiến trường, quân địch đã tạo được một binh lực lớn hơn ta. Tạo nên được ưu thế lớn hơn đối phương về binh lực và hỏa lực là một nhân tố thắng lợi trên chiến trường. Song, trong chiến tranh, dân tộc ta không có điều kiện để thực hiện điểm này. Ta là một nước nhỏ, dân số ít, nên khả năng huy động quân đội ra chiến trường của ta có hạn. Trái lại, do tiềm lực của nước lớn, các đế chế Trung Quốc và Âu, Mỹ có khả năng huy động được những đạo quân xâm lược có ưu thế về số lượng, về trang bị, tiếp tế và có nguồn bổ sung to lớn.

        Do đó, nhìn về binh lực trong các cuộc chiến tranh trước đây, ban đầu bao giờ quân xâm lược cũng có ưu thế hơn ta rất nhiều. Lý chống Tống (1077) ta có 10 vạn, địch có 30 vạn quân. Trần chống Mông - Nguyên lần thứ hai (năm 1285) và lần thứ ba (1288) ta có 20 vạn quân, địch có 50 vạn quân, thời kỳ Quang Trung chống quân xâm lược nhà Thanh: ta có 10 vạn, địch có 30 vạn quân. Trong chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ ta so với địch cả về số lượng và trang bị đều thua kém nhiều. Trong chiến tranh tháng 2-1979 chống xâm lược biên giới phía Bắc: ta 10 sư đoàn, đối phương 32 sư đoàn.

        Như vậy, dân tộc ta không những phải chống ngoại xâm thường xuyên, mà còn phải chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, ác liệt với so sánh lực lượng hết sức chênh lệch. Lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều là một quy luật xuyên suốt trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta. Phải thắng mọi thế lực xâm lược, bất kể đó là những thế lực to lớn và phản động như thế nào; phải bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc là một yêu cầu khách quan trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước.

        Nhìn lại lịch sử trong suốt hơn 2.000 năm (từ thế kỷ thứ III trước công nguyên đến nay), dù kẻ thù là đế quốc Tần hung ác, dù chúng là Tống, Nguyên, Minh, Thanh, hay Pháp, Mỹ to lớn, đông quân, lắm mưu mô xảo quyệt và tàn bạo, dù chúng là những đội quân đã lừng danh trên thế giới từ những cuộc chiến tranh nội bộ hay từ những cuộc chinh phục Đông - Tây, nhưng khi vào Việt Nam, cuối cùng chúng đều không thoát khỏi thất bại thảm hại. Tại sao vậy? Tại sao một nước nhỏ, dân ít mà lại chiến thắng những đế quốc to lớn gấp nhiều lần? Tại sao một đội quân không đông mà đánh tan những đạo quân viễn chinh khổng lồ, hiếu chiến và tàn bạo? Những kinh nghiệm truyền thống của dân tộc Việt Nam chống xâm lược đối với chúng ta thật có ý nghĩa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #132 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2016, 04:45:20 am »


LÒNG YÊU NƯỚC NỒNG NÀN.

        Bác Hồ, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã từng nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.

        “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, là quyết tâm sắt đá của dân tộc Việt Nam.

        “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”1.

        Những lời nói đanh thép của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm rung động lòng người dân Việt Nam, như những lời nhắc nhủ, lời kể chuyện của ông bà, cha mẹ cho trẻ thơ Việt Nam. Đã là người Việt Nam, không ít thì nhiều, ai cũng nhớ trong tâm trí câu chuyện Phù Đổng Thiên Vương, hình ảnh chú bé làng Gióng “roi ngà, mảnh áo nhung, Thiên Vương 3 tuổi đã anh hùng”.

        Ngay từ buổi đầu tiên kháng chiến chống xâm lược của nhà Tần, tinh thần thà hy sinh tất cả, chứ không đầu hàng giặc đã nổi bật trong nhân dân Âu Lạc. Sử ký Tư Mã Thiên chép: “Quân Tần đánh giữ lâu ngày, lương thực bị tuyệt và thiếu. Quân Tần đóng ở đất vô dụng, tiến không được, thoái cũng không xong”. Và Hoài Nam Tử thời Hán, trong Nhân gian huấn đã ghi: “Người Việt đều vào rừng ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người tuấn kiệt lên làm tướng, ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư. Quân Tần thân phơi máu chảy hàng mấy chục vạn người”.

        Tinh thần bất khuất thà hy sinh tất cả, bỏ hết tài sản ruộng vườn, vào rừng sống với cầm thú để kháng chiến, nhất định không chịu sống nô lệ, đã ngày càng ăn sầu vào târn tư dân Việt trong quá trình mấy ngàn năm lịch sử chống ngoại xâm.

        Biết bao lời kêu gọi của các lãnh tụ và hành động quyết hy sinh vì Tổ quốc đã được ghi trong sử sách và đã được thể hiện đậm nét qua cuộc kháng chiến trường kỳ giải phóng và bảo vệ Tổ quốc chống đế quốc Pháp - Mỹ vừa qua. Một câu nói tương truyền là lời Bà Triệu phát ra trên núi Nghĩa nghìn thu còn vang: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang san, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người ta”.

        Bài thơ của Lý Thường Kiệt từ thể kỷ XI, đã nói lên quyền độc lập thiêng liêng của dân tộc Đại Việt.

                                   “Nam quốc sơn hà nam đế cư,
                                   Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
                                   Như hà nghịch lỗ, lai xâm phạm
                                   Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”


        Bài hịch kêu gọi tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã rung động lòng quân dân thời Trần:

        “Từ xưa đến nay, trung thần nghĩa sĩ dâng mình cho nước, đời nào lại không có?... Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ giận không được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Tuy trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thân ta bọc trong da ngựa cũng nguyện xin làm... Làm sao bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở nơi cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai”.

        Trong Đại Cáo Bình Ngô sau thắng lợi chống xâm lược nhà Minh năm 1427, có viết về tinh thần không đội trời chung với giặc thù như sau:

                                    “Như nước Đại Việt ta từ trước
                                    Vốn dựng nền văn hiến đã lâu,
                                    Cõi bờ sông núi đã riêng,
                                    Phong tục Bắc Nam cũng khác.
                                    Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước,
                                    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương.
                                    Tuy mạnh, yếu có lúc khác nhau,
                                    Mà hào kiệt không bao giờ thiếu.
                                    Quân Minh cường bạo thừa dịp hại dân,
                                    Đảng ngụy gian tà, manh tâm bán nước…
                                    Tát cạn nước Đông Hải không rửa sạch tanh hôi,
                                    Chặt hết trúc Nam Sơn khó ghi đày tội ác…
                                    Nghĩ khó đội trời cùng quân địch,
                                    Thề không chung sống với giặc thù”…


        Trước khi xuất quân tiêu diệt quân Mãn Thanh xâm lược, Quang Trung đã kêu gọi tướng sĩ “Đánh cho nó chích luân bất phản, đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.

        Các lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc từ xưa đến nay đều nói lên quyết tâm của nhân dân Việt Nam quyết giữ quyền độc lập của dân tộc và trong hành động thực tế của quá trình lịch sử, biết bao anh hùng đã hy sinh cho Tổ quốc.

        Lời của Trần Bình Trọng “thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” trong kháng chiến chống Mông -Nguyên năm 1285 còn hòa vang với lời hô cuối cùng của Nguyễn Văn Trỗi và biết bao người con anh hùng của dân tộc trên đoạn đầu đài, trước khi bị kẻ thù xử tử. Biết bao người Việt Nam sẵn sàng đem hết tài sản và cả tính mạng mình hiến dâng cho Tổ quốc. Không phải bất cứ đâu trên trái đất này, người dân đều sẵn sàng làm thanh dã, phá cửa nhà, phá bỏ các thành phố để đánh giặc. Nhưng nhân dân Việt Nam đã thực hiện tiêu thổ kháng chiến trong chống Pháp, phá các đô thị không cho địch lợi dụng, tản cư đi kháng chiến. Hàng triệu bà mẹ Việt Nam đã hiến dâng những đứa con thân yêu của mình cho Tổ quốc.

        Truyền thống anh dũng bất khuất, yêu nước nồng nàn đã cứu dân Âu Lạc (Việt) khỏi bị Hán hóa đã hun đúc tinh thần quyết chiến quyết thắng, đánh Pháp, Nhật, Mỹ, quét sạch bóng quân xâm lược ra khỏi nước ta. Truyền thống đó là lời cảnh cáo với mọi kẻ thù muốn xâm lược, bắt dân Việt Nam lệ thuộc, dù chúng mạnh như thế nào đi chăng nữa. Những kẻ còn có ảo tưởng muốn xâm chiếm biên giới, hải đảo, lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam, muốn bắt chúng ta khuất phục trước sức của chúng.

        Việt Nam trên bước đường tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn nhiều khó khăn, còn có nhược điểm, khuyết điểm, thậm chí có lúc có sai lầm nghiêm trọng, nhưng dân tộc Việt Nam đã có một lịch sử lâu dài chứng minh tinh thần bất khuất của mình. Những kẻ xâm lược mạnh nhất của thời đại, như Mông - Nguyên ở thế kỷ thứ XIII và đế quốc Mỹ trong thế kỷ thứ XX đã thất bại trước dân tộc Việt Nam, là bài học đáng nhớ cho những kẻ ôm mộng xâm lược.

--------------
        1. Hồ Chí Minh, Tuyển tập, Nxb Sự Thật, t. 2, 1980, tr. 430.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #133 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2016, 04:49:15 am »


CẢ NƯỚC CHUNG SỨC ĐÁNH GIẶC
CHIẾN TRANH TOÀN DÂN.

        Tổng kết thắng lợi của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên, Trần Quốc Tuấn nêu lên một nguyên nhân chủ yếu là “bây giờ vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức chiến đấu, nên giặc phải bó tay”! sách An Nam chí lược cũng ghi rằng, đời nhà Trần “toàn dân đánh giặc”. Nhà sử học Phan Huy Chú cũng viết trong tác phẩm của mình “Đời nhà Trần nhân dân ai cũng là binh nên mới phá được giặc dữ làm cho thế nước được mạnh”. Đó là những biểu hiện cụ thể, là những tổng kết và kinh nghiệm lịch sử xuất phát từ những quan điểm chiến lược có ý nghĩa trong hệ thống tri thức quân sự, không chỉ thể hiện ở thời Trần mà cả trong tiến trình lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta.

        Mỗi khi có xâm lăng, bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân sống trên lãnh thổ này. Ý thức độc lập tự chủ là tư tưởng, tình cảm của dân tộc. Ý thức đó, từ rất sớm đã trở thành mục đích đấu tranh chung của tất cả các tầng lớp, mọi dân tộc trong nước. “Tình làng nghĩa nước”, “nước mất thì nhà tan” là nếp sống, là những suy nghĩ chung. Cho nên, người dân ta từ ngàn xưa đã có ý thức rất sâu rộng, nếu để kẻ thù cướp nước dày xéo quê hương, thì mất cả gia đình, mất cả của cải, mất cả nền văn hóa dân tộc, mất cả lẽ sống và đạo lý làm người. Tất cả nhân dân đều nhận thức rằng: “Quốc gia hữu sự toàn dân hữu trách” (Quốc gia có ngoại xâm thì toàn dân đều phải có trách nhiệm). Đó là tình cảm lớn nhất thúc đẩy mỗi người dân yêu nước đứng lên chiến tranh giữ nước với những thử thách gian lao, dân tộc ta ai cũng hiểu rõ giá trị thiêng liêng của độc lập dân tộc, nên đã “dĩ thân tuẫn quốc” (sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc). Sự sống còn của dân tộc đoàn kết toàn dân, thúc đẩy mọi tầng lớp góc sức chiến đấu và chiến thắng quân thù cường bạo.

        Ở nước ta, sức mạnh giữ nước không chỉ là sức mạnh của một nhà nước, mà là sức mạnh của cả nước. Thấm nhuần quan điểm đó trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh giặc Pháp cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, ai không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước”.

        Quan điểm chiến tranh toàn dân được Đảng ta xác định năm 1951, trong chính cương của Đảng ở đại hội Đảng lần thứ 2, đã bắt nguồn từ truyền thống lịch sử lâu đời đó của dân tộc.

        Tư tưởng chiến lược “cả nước chung lòng, toàn dân đánh giặc” cũng xuất phát từ yêu cầu khách quan của các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Đất nước ta đất không rộng, người không đông, nhân tài vật lực của ta có hạn, lực lượng quân đội của ta không nhiều. Trái lại, kẻ thù của dân tộc có đất rộng, người đông, có tiềm lực quân sự và kinh tế mạnh, chúng cậy số đông, trang bị mạnh và có nhiều kinh nghiệm trong chiến tranh xâm lược. Với điều kiện tương quan lực lượng giữa ta và địch như vậy, nếu dùng lực lượng quân đội đơn thuần thì chắc chắn không thể đánh thắng được. Muốn thắng quân thù to lớn và cường bạo, thì phải dựa vào sức mạnh cả nước, huy động toàn dân đánh giặc.

        Trải qua các giai đoạn lịch sử, tổ tiên ta đều nhận thức một các rõ ràng vai trò của toàn dân đánh giặc giữ nước. Quan điểm quốc phú binh cường thì gốc rễ là ở dân thể hiện trong nhiều triều đại. Cho nên, để động viên được sức mạnh tiềm tàng đó, tổ tiên ta đã phải thi hành nhiều chính sách tiến bộ để “an dân”. Lý Thường Kiệt coi “đủ ăn” là nguyện vọng của dân. Trần Quốc Tuấn chủ trương “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”. Buổi đầu đời Lê, triều đình đã ban lệnh “Không được khinh động đến sức dân” và Nguyễn Trải cho “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đến thế kỷ thứ XVIII, Nguyễn Huệ đã có nhiều biện pháp để làm nước giàu, quân mạnh, trong đó có chủ trương “làm sao cho dân yên ổn, có ruộng cày...” hoặc “mở mang cửa ải, thông chợ búa, khiến cho các hàng hóa không ứ đọng, làm lợi cho dân”. Các triều đại phong kiến tiến bộ ở nước ta đều chú ý bồi dưỡng, khoan thư sức dân, ra chiếu khuyến nông, chăm lo thủy lợi, có khi giảm miễn tô thuế một phần để mở mang kinh tế, phần nữa để tăng cường khối đoàn kết giữa các dân tộc, giữa triều đình và dân chúng.

        Khi quyền lợi của giới quý tộc phong kiến chưa đối lập với quyền lợi của bình dân, khi quyền lợi của giai cấp còn gắn liền với quyền lợi của dân tộc, thì các triều đại phong kiến có khả năng động viên được đông đảo nhân dân tham gia kháng chiến. Vào những thời kỳ đó, những chính sách tiến bộ của nhà nước là một nhân tố để triều đình tập họp toàn dân đánh giặc. Mặt khác, do hoàn cảnh luôn luôn bị kẻ thù hung bạo đe dọa xâm lược, nên các triều đại phong kiến đều chăm lo xây dựng tiềm lực đất nước.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #134 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2016, 04:50:04 am »

     
        Vì lợi ích của toàn dân Việt Nam mà phải bảo toàn nền độc lập của dân tộc, chủ quyền của đất nước, điều đó đã ăn sâu vào lòng người Việt Nam, trong bất kỳ tầng lớp nào qua các thời đại. Vì toàn dân mà cũng phải do toàn dân làm mới đánh được kẻ thù hung bạo mạnh hơn, cho nên, chính sách đúng đắn của các chính quyền nhà nước qua quá trình lịch sử Việt Nam, đều phải có sức phát huy khối đoạn kết toàn dân, chung sức đánh giặc.

        Trong cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong chiến tranh giải phóng cũng như bảo vệ Tổ quốc, mục đích vì dân và do dân lại càng được phát huy lên trình độ cao, vì quyền lợi của chính quyền nhà nước, của giai cấp công nhân, của Đảng vô sản, cũng là quyền lợi của toàn dân.

        Tư tưởng “Tận dân vi binh” được thực hiện ở các triều đại phong kiến ở nước ta. Tổ chức lực lượng quân sự phải như thế nào để khi cần nhân dân ai cũng có thể là binh. Đó cũng là đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Ở thế kỷ thứ X, triều đình Đinh, Lê tổ chức lực lượng theo chế độ “thập đạo quân”. Về danh nghĩa, trong nước có một đạo quân đông đến một triệu người, song trên thực tế đó là chế độ tổ chức quân đội theo “ngạch biên số”. Lúc hòa bình, hầu hết số quân đó ở nhà sản xuất, lúc có chiến tranh, tất cả được huy động vào đội ngũ đã định sẵn. Đó là tiền đề của quốc sách “ngụ binh ư nông” của thời Lý - Trần. Theo cách hiểu của sử gia Ngô Thì Sĩ thì “bấy giờ binh và nông chưa chia, khi có việc thì gọi ra, xong việc lại giải tán về làm ruộng”1. Đây là biện pháp tổ chức toàn dân là lính, toàn dân tham gia luyện tập quân sự.

        Tổ chức lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân, có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ như hiện nay để làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc bắt nguồn từ truyền thống tổ chức ba thứ quân, gồm quân triều đình, quân các lộ và hương quân của tổ tiên từ thời Lý, Trần.

        “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” là câu ngạn ngữ có từ ngàn xưa. Những tấm gương liệt nữ trong chiến tranh cứu nước triều đại nào cũng có: Hai Bà Trưng cùng các nữ tướng của mình đã anh dũng khởi nghĩa giành lại giang sơn và hy sinh trong cuộc kháng chiến chống quân Đông Hán xâm lược. Thái hậu Dương Vân Nga và sau đó là Ỷ Lan phu nhân, đã thể hiện vai trò lớn lao trong kháng chiến chống xâm lược Tống. Linh từ quốc mẫu, vợ thái sư Trần Thủ Độ trong kháng chiến chống quân Nguyên, nữ tướng Bùi Thị Xuân chỉ huy đạo tượng binh Tây Sơn hồi thế kỷ XVIII. Trong cuộc kháng chiến lâu dài vừa qua của dân tộc ta, biết bao phụ nữ đã tham gia đóng góp sức mình cho chiến thắng lịch sở của dân tộc. Đó là những biểu hiện cụ thể của truyền thống anh hùng của phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh giữ nước của dân tộc.

        Hình ảnh Thánh Gióng là biểu tượng của thiếu nhi Việt Nam trong chiến tranh chống xâm lược với câu “phá tặc đản, hiếm tam tuế văn” (trừ giặc còn hiếm ba tuổi là muộn). Trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên, hình ảnh Trần Quốc Toản bóp nát quả cam vì hận mình còn nhỏ tuổi không được dự bàn kế đánh giặc ở Bình Than còn đậm sâu trong trí óc của người Việt Nam. Già, trẻ, trai, gái cùng đánh giặc là một hiện tượng phổ biến trong lịch sử nước ta. Truyền thống này lại càng được phát huy mạnh mẽ trong thời đại Hồ Chí Minh.

        Trong đội ngũ điệp trùng chống xâm lăng có đủ các thành phần dân chúng, các tầng lớp dân tộc từ khắp mọi miền đất nước. Trên chiến trường diệt quân xâm lược Tống cùng với Lý Thường Kiệt, Hoàng Chấn, Chiêu Văn, có cả Tôn Đản, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, là những tộc trưởng của các dân tộc ít người. Trong quân đội thời Trần, bên cạnh những tướng chỉ huy xuất thân từ hàng ngũ quý tộc như Trần Quốc Tuấn, Trần Khánh Dư v.v... còn có những người xuất thân từ tầng lớp bình dân như Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng. Người anh hùng “áo vải cờ đào” ở thế kỷ XVIII, được nhiều sĩ phu yêu nước cộng sự nhiệt tình trong kháng chiến. Nhân dân đứng lên tham gia kháng chiến đông đảo, hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp đánh giặc diệt thù “từ việc rèn đúc vũ khí, chuẩn bị chiến thuyền, sửa chữa cầu đường, đóng góp lương thực, vận tải tiếp tế cho quân đội, đến việc cất giấu lương thực, có khi đốt cả lúa má để thóc gạo khỏi lọt vào tay giặc” hoặc chạy vào rừng quyết không hợp tác với giặc, hoặc nhiều hình thức đánh giặc ngay ở các bản làng, thôn ấp, bảo vệ quê hương sứ sở của mình. Toàn dân là lính, cả nước chung sức đánh giặc là nét đặc sắc, một truyền thống lâu đời của dân tộc ta.

        Việc Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương để mất nước là mối hận của mỗi một người dân Đại Việt thời bấy giờ. Nhà Hồ có quân đông, có vũ khí tốt và thành lũy kiên cố, nhưng do sai lầm về đường lối chính trị, đã không huy động được sức mạnh chiến đấu của toàn dân và do không có phương pháp đánh địch thích hợp, nên đã chịu thất bại cay đắng, để rồi dân tộc ta phải tiến hành cuộc kháng chiến kéo dài hơn chục năm mới đánh đuổi được giặc Minh, giành lại nền độc lập.

-------------
        1. Theo Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương loại chí, binh chế chí. NXB Sử học, Hà Nội, 1961, Tập 4, trang 4.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #135 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2016, 04:51:47 am »


        Người xưa nói “chúng chí thành thành”, nghĩa là ý chí của quần chúng là bức thành kiên cố.

        Từ những nhận thức như vậy, các quan lại, quý tộc nhà Trần đều vững lòng tin vào sức mạnh của lực lượng kháng chiến. Lòng tin đó thể hiện trong hành động, trong chiến đấu và ngay cả trong những lời nói khảng khái trước mặt quân thù. Như trước sự hăm dọa láo xược của vua Nguyên là sẽ tiếp tục tiến công đập nát thành Thăng Long, sứ giả Đại Việt, Đào Tử Kỳ đã hiên ngang nói: “Thành Thăng Long kia chỉ là vật nhỏ mọn để phòng kẻ trộm cướp vặt, phá tan nó có khó gì. Còn như để chống với kẻ địch bên ngoài đến chực ăn cướp nước chúng tôi thì chúng tôi đã có một tòa thành vững vàng như núi, không kẻ nào phá được, đó là sức mạnh của nhân dân chúng tôi”.

        Truyền thống chiến tranh toàn dân, toàn diện đã được phát triển cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh, trong kháng chiến chống Pháp và đặc biệt là trong chiến tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam. Đế quốc Mỹ mạnh nhất trong phe đế quốc hiện đại, có một tiềm lực quân sự, kinh tế lớn nhất thế giới đã huy động trên một triệu quân Mỹ và chư hầu (trong đó có trên 50 vạn quân Mỹ), với các phương tiện vũ khí hiện đại có uy lực lớn, có sức cơ động rất cao, hòng đè bẹp lực lượng kháng chiến Việt Nam. Chúng đã sử dụng lực lượng quân sự hùng hậu và sức mạnh kinh tế lớn lao của tên đế quốc giàu nhất thế giới vào cuộc chiến tranh mà từ xưa đến nay kẻ thù của nhân dân Việt Nam chưa hề có và sử dụng. Không những ta phải đấu tranh vũ trang chống lại một đạo quân đông, trang bị hiện đại, mà còn phải đấu tranh toàn diện trên các mặt kinh tế, chính trị, ngoại giao chống một kẻ thù giàu có và nhiều thủ đoạn chính trị ngoại giao xảo quyệt. Đế quốc Mỹ không phải chỉ dùng quân sự đánh ta mà còn dùng sức mạnh kinh tế để buộc dân ta phải khuất phục. Chúng đã dồn dân vào các ấp chiến lược, các thị trấn, thành phố hòng cô lập cách mạng, đây là một thủ đoạn hết sức nguy hiểm mà từ xưa đến thời kỳ kháng chiến chống pháp chưa từng có.

        Đối với một kẻ thù như vậy, nhân dân Việt Nam đã phát huy mạnh mẽ chiến tranh toàn dân, toàn diện, đấu tranh của toàn dân trên các mặt trận chính trị, kinh tế, đã phối hợp với đấu tranh quân sự của lực lượng vũ trang trên quy mô chưa từng có trong lịch sử. Sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh đã đánh bại tên hung nô của thời đại, làm cho toàn thế giới sửng sốt, khâm phục và đem lại lòng tin cho cách mạng của các dân tộc nhỏ chống các đế quốc to trên phạm vi thế giới.

        Sức mạnh đó được phát huy cao như vậy vì có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động Việt Nam, có sức mạnh của chính nghĩa độc lập dân tộc chống ngoại xâm. Nó đã đoàn kết toàn dân và phát huy tinh thần chiến đấu chống kẻ thù. Nó tạo ra sức sáng tạo phong phú trong việc tìm kiếm các thủ đoạn đánh địch trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế của mọi tầng lớp, mọi thành phần trong xã hội. Trong thời đại Hồ Chí Minh, phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân của ta là huy động toàn dân đánh giặc một cách toàn diện trên cả ba vùng chiến lược, phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và binh địch vận; kết hợp khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh, kết hợp nổi dậy của quần chúng với tác chiến của lực lượng vũ trang; kết hợp tiêu diệt địch với giành và giữ quyền làm chủ của dân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy.

        Chiến tranh nhân dân ở nước ta đã huy động được hàng triệu người ra tiền tuyến, đã khai thác và phát huy đến mức cao nhất tiềm lực cửa đất nước.

        Nó đã làm cho đội quân xâm lược khổng lồ bị sa lầy trong biển lửa của toàn dân, bị lúng túng, bị động, bị cột chặt vào mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung, giữa phòng ngự và tiến công, giữa đánh nhanh và đánh kéo dài, làm cho lực lượng địch ngày càng hao mòn, ý chí xâm lược ngày càng sa sút. Và cuối cùng, đế quốc Mỹ, đế quốc mạnh nhất thời đại chưa hề bị thất bại, đã phải nuốt hận chịu thua trong cuộc chiến tranh kéo dài nhất và tốn kém nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #136 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2016, 04:57:17 am »

       
NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ ĐỘC ĐÁO

        Từ khi Vua Hùng dựng nước Văn Lang đến nay, dân tộc ta đã trải qua nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm. Từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo, dân tộc Việt Nam đã mấy chục năm liên tiếp chiến đấu quyết liệt.

        Trên các trang lịch sử còn lưu lại, ngay từ thế kỷ III trước công nguyên, nhân dân Việt (Âu Lạc) đã phải chống quân Tần xâm lược và đã chiến thắng. Trên 10 vạn quân Tần đã chịu thất bại trong một cuộc chiến tranh kéo dài 10 năm trên đất nước Âu Lạc.

        Trong 1.000 năm Bắc thuộc, bắt đầu từ năm 179 trước công nguyên, An Dương Vương để mất nước trước mưu sâu của Triệu Đà, dân tộc Việt đã bao lần nổi dậy khởi nghĩa giành lại chủ quyền và kiên cường chiến dấu giữ chính quyền mới giành được. Cuộc đấu tranh anh dũng và bền bỉ của dân tộc chống xâm lược, chống đồng hóa dân tộc đã diễn ra hết sức quyết liệt trải qua bao thành công oanh liệt và cả thất bại đẫm máu. Bắt đầu bằng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Tnmg giành quyền trên 65 thành rồi đến các cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, cuộc chiến tranh du kích kéo dài của Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử. Và kết thúc 1.000 năm Bắc thuộc với chiến thắng trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền dựng nước Đại Việt.

        Từ thế kỷ thứ X, năm 938, với sự ra đời của nước Đại Việt tới nay, dân tộc ta đã phải trải qua trên 10 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và giải phóng dân tộc chống ngoại xâm. Các cuộc chiến tranh chống Tống xâm lược năm 981 của Lê Hoàn và cuộc kháng chiến đời Lý năm 1077, dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt đã đem lại cho dân tộc ta gần 200 năm hòa bình xây dựng đất nước.

        Sau khi đánh bại nhà Tống, đế quốc Mông - Nguyên trong 30 năm, từ 1258 đến 1288 đã gây 3 cuộc chiến tranh xâm lược lớn vào nước ta, có cuộc chúng huy động đến 60 vạn quân thiện chiến nhất của thời đại, như cuộc xâm lăng lần thứ hai năm 1285. Trong 3 lần kháng chiến đó, dân tộc Việt Nam đã lập nên những chiến công hiển hách ở Đông Bộ Đầu, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp, Bạch Đằng giang. Những thắng lợi rực rỡ đó đã bảo vệ nền độc lập của ta, đưa lại hòa bình cho đất nước trên 100 năm, và cũng góp phần chặn làn sóng xâm lăng xuống Đông Nam Á của đế quốc Mông Cổ hung bạo nhất thời đó.

        Nhưng khi giành được chính quyền, nhà Minh lại mở cuộc xâm lăng Đại Việt. Cuộc kháng chiến chống nhà Minh xâm lược kéo dài 20 năm, bắt đầu từ 1407 với sự thất bại của Hồ Quý Ly, do sai lầm về chiến lược dựa vào phòng ngự cố thủ các thành quách kiên cố, ỷ vào quân đông 100 vạn, súng pháo mạnh. Nhân dân ta không cam chịu ách đô hộ của ngoại bang, đã liên tiếp đứng dậy kháng chiến dưới thời hậu Trần 7 năm ròng, và cuối cùng nhân dân ta đã chiến thắng trong một cuộc chiến tranh giải phóng bền bỉ, kiên cường trong suốt 10 năm trường, dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi. Cuộc kháng chiến oanh liệt của nhân dân ta chống nhà Minh xâm lược đã làm nhụt ý đồ bành trướng của vua quan nhà Minh, và trên 300 năm đất nước ta không bị ngoại xâm từ phương Bắc.

        Khi nhà Thanh giành được quyền cai trị Trung Quốc, lợi dụng lúc Đại Việt rối ren dưới thời vua Lê, chúa Trịnh, lúc Tây Sơn mới nắm được quyền lực trên một phần đất nước, vua Càn Long nhà Thanh lại phát động một cuộc chiến tranh xâm lược nước ta.

        Năm 1788, 29 vạn quân Thanh, dưới sự thống lĩnh của Tôn Sĩ Nghị đã bị Quang Trung tiêu diệt trong một trận phản công mãnh liệt ngay tại Thăng Long, chỉ trong gần 10 ngày đêm, đất nước ta lại sạch bóng quân thù.

        Bước vào lịch sử cận đại, từ thế kỷ XIX dân tộc ta lại bị thực dân Pháp xâm lược. Do sự sai lầm về chiến lược là chỉ dựa vào quân thành để phòng ngự bị động và đầu hàng giặc một cách hèn hạ của triều đình nhà Nguyễn, mà dân tộc ta đã bị rơi vào ách nô lệ gần trăm năm. Trong suốt thời gian dài này, nhân dân ta đã anh dũng nổi dậy kháng chiến khắp nơi, từ Nam đến Bắc. Các cuộc nổi dậy liên tiếp nổ ra dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Đốc Ngũ, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám, và các cuộc nổi dậy, khởi nghĩa ở Yên Bái, Nghệ An, Bắc Sơn, Nam Kỳ, bị dìm trong bể máu, cho tới tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 thành công. Tiếp ngay sau đó, cuộc kháng chiến trường kỳ liên tục 30 năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đã kết thúc với thắng lợi giải phóng hoàn toàn cả nước năm 1975.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #137 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2016, 04:57:56 am »


        Thắng lợi huy hoàng của nhân dân ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, kẻ thù mạnh nhất của thế giới tư bản đế quốc trong thời đại, đã đem lại độc lập và thống nhất cho Tổ quốc Việt Nam, góp phần vào việc chôn vùi chủ nghĩa thực dân cũ và làm thất bại bước đầu chủ nghĩa thực dân mới Mỹ, đã tô đậm nền nghệ thuật quân sự Việt Nam trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và giải phóng dân tộc.

        Trên 10 năm qua, nhân dân ta mong muốn được sống hòa bình, xây dựng đất nước, nhưng kẻ thù không để ta yên. Các cuộc chiến tranh xâm chiếm biên giới từ phía Tây Nam, và phía Bắc lại nổ ra và nhân dân Việt Nam lại phải vừa xây dựng Tổ quốc vừa phải chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu chống xâm lược dưới mọi hình thức.

        Những chiến công chói lọi trong các cuộc chiến tranh yêu nước đó, chứng tỏ sức mạnh vật chất và tinh thần, phẩm giá cao quý và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam

        Trong quá trình đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm, dân tộc ta đã có quyết tâm lớn, có tinh thần yêu nước cao, và có nhiều sáng tạo kiệt xuất trong việc tổ chức lực lượng và nghệ thuật đánh giặc cứu nước.

        Nghệ thuật đánh giặc cứu nước truyền thống được tích lũy trong mấy nghìn năm lịch sử chống ngoại xâm, mang tính đặc biệt của một dân tộc nhỏ, tiềm lực kinh tế, quân sự đều yếu so với đối phương, nhưng dân tộc đó có tinh thần yêu nước cao, có truyền thống toàn dân quả cảm chống xâm lược, chứ không phải chỉ có quân đội đánh theo kiểu chiến tranh thông thường.

        Nghệ thuật đó có những đặc trưng cơ bản sau đây:

        Phương thức tiến hành chiến tranh:

        Phương thức tiến hành chiến tranh của hai loại hình (chiến tranh bảo vệ tổ quốc và chiến tranh giải phóng dân tộc) có cái chung của chiến tranh toàn dân, nhưng cũng có đặc điểm riêng. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ta có chính quyền nhà nước, có quân đội, và lực lượng vũ trang. Công cuộc bảo vệ Tổ quốc đã được triển khai trong toàn dân ngay từ thời bình, được tổ chức, chuẩn bị theo một thế trận đã được hoạch định, từ trước khi quân địch tiến công. Quân địch phải từ ngoài tiến vào chứ không có sẵn trong nước, nên dù có sức mạnh và chủ động tiến công, chúng cũng có nhiều khó khăn, như bảo đảm hậu cần, không thông thuộc địa hình, không quen chịu đựng khí hậu khắc nghiệt của đất nước ta.

        Để chống lại quân thù mạnh hơn, nhân dân ta đã có nhiều phương thức tiến hành chiến tranh khác nhau, trong điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau.

        Về cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân nhà Tần ở thế kỷ thứ III trước công nguyên, lịch sử còn ghi:

        “Người Âu Lạc đã rút vào rừng, tổ chức lực lượng kháng chiến, cử người giỏi làm tướng, phục kích ban đêm, đánh hàng chục năm ròng rã, diệt hàng chục vạn quân Tần”.

        Sử ký Tư Mã Thiên chép: “Lúc bấy giờ, nhà Tần ở phía Bắc thì mắc họa với người Hồ, ở phía Nam thì mắc họa với người Việt. Đóng quân ở đất vô dụng, tiến không được, thoái cũng không xong. Trải hơn 10 năm, đàn ông phải mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi, người ta thắt cổ tự tử trên cây dọc đường, người chết trông nhau, kịp khi Tần Thủy Hoàng mất (209 trước công nguyên) thì cả thiên hạ nổi lên chống”.

        Như vậy phương thức cơ bản để đánh bại quân xâm lược là toàn dân chiến đấu, bất hợp tác với quân thù, rút vào rừng đánh du kích trong một cuộc kháng chiến trường kỳ 10 năm ròng. Cuối cùng khi quân Tần kiệt sức, khổ cực không sống nổi, và nhân lúc Tần Thủy Hoàng chết, thì ta tiến hành tổng khởi nghĩa và tiến công tiêu diệt quân thù, tướng Tần là Đồ Thư bị giết, quân Tần phải rút chạy về nước.

        Sau khi đánh bại quân Tần, Âu Lạc nhanh chóng chuẩn bị để đề phòng xâm lược.

        Sử chép rằng “Thục Phán dựng nước Âu Lạc, xưng là An Dương Vương, rời đô xuống Cổ Loa xây thành (207 - 208 trước công nguyên) với hàng vạn nhân công, 3 vòng quanh co 9 lớp, chân kè đá, mặt có ụ đất cao nhô ra làm vọng canh và pháo đài bắn cung tên. Ngoài có hào sâu và rộng thuyền bè đi được, có đầm Cả chứa được mấy trăm thuyền chiến. Thành có 4 cửa: Đông Nam; Tây Nam, Đông Bắc và Tây Bắc. Riêng ở 2 cửa Đông Bắc và Tây Bắc có hai tầng hào lũy, là hướng phòng ngự chủ yếu. Vận dụng địa hình lấy sông làm hào, gò cao làm lũy thành ở giữa vùng đầm vực, lầy úng, vừa là căn cứ bộ binh, vừa là căn cứ thủy binh quan trọng. Thuyền chiến có thể vận động suốt 3 vòng hào, phối hợp tác chiến với bộ binh, có thể từ Cổ Loa tỏa ra Hoàng Giang, theo sông Hồng, sông Thương ra biển. Vũ khí đã có nỏ Liên Châu với mũi tên đồng ba cạnh (năm 1959, phát hiện ở chân thành ngoài, phía Nam một kho hàng vạn chiếc, cùng với xiên đồng, qua đồng).
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #138 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2016, 04:59:15 am »


        “Năm 207 trước công nguyên, Triệu Đà và quan lại nhà Tần, chiếm cả ba quận Nam Hải, Quế Lâm, Tượng, lập nước Nam Việt, xưng vương, đánh Âu Lạc nhiều lần không thắng phải rút về núi Vũ Minh cầu hòa”. Đó là kẻ xâm lược thứ hai bị An Dương Vương đánh bại, lần này không chỉ bằng cách rút vào rừng, dùng phục kích, tập kích, mà bằng cách phòng giữ Loa thành, đánh quân xâm lược cả bằng thủy binh và bộ binh.

        Phải đến năm 179 trước công nguyên, tức là gần ba chục năm sau, Triệu Đà trá hàng, sai Trọng Thủy dò xét được các bí mật quân sự của An Dương Vương, dùng kế nội gián mới chiếm được Âu Lạc. Như vậy ta thấy, sau khi rời đô từ vùng rừng núi về đồng bằng, xây dựng một nước đã có nhiều nghề. Ngoài nghề nông, săn bắn, đã có các nghề khác như nuôi tằm, dệt lụa, đồ gốm, rèn sắt đồng, làm mộc, nung gạch ngói, xây thành, đóng thuyền, sản xuất nỏ Liên Châu có mũi tên đồng. Quân đã chia ra quân thủy và quân bộ. An Dương Vương đã chọn phương thức phòng ngự dựa vào thành kiên cố được xây dựng trên địa hình hiểm trở để chống ngoại xâm kết hợp với chiến tranh du kích đã có kinh nghiệm trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc lần vừa qua.

        Phương thức này cũng đã thắng được quân của Triệu Đà nhiều lần tiến công xâm lược, An Dương Vương để mất nước do mắc mưu nội gián.

        Từ khi Đại Việt dựng nước, nhiều lần quân phong kiến phương Bắc đã tiến hành xâm lược, nhiều cuộc chiến tranh đã giải quyết xong, chỉ trong một trận. Như cuộc kháng chiến của Ngô Quyền chống quân Nam Hán, với 2 vạn quân đã đánh bại 5 vạn quân bộ và 3 vạn quân thủy, kết thúc bằng trận thủy chiến mưu lược, giết tướng Hoàng Thao trên sông Bạch Đằng năm 938. Hoặc như cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất, mà Lê Hoàn, với 5 vạn quân, đã đánh bại quân xâm lược gồm 10 vạn ở Bạch Đằng và Chi Lăng, giết tướng Hầu Nhân Bảo năm 981.

        Phương thức cơ bản tiến hành chiến tranh lúc đó chủ yếu là dùng trận chiến tiến công quy mô chiến lược của quân triều đình, đánh bại quân xâm lược mạnh hơn trên cơ sở thiết lập thế trận mai phục ở những địa hình hiểm trở, ở Bạch Đằng Giang, Chi Lăng lịch sử mà Nguyễn Trãi trong bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” đã có câu:

                               “Quan hà bách nhị do thiên thiết
                               Hào kiệt công danh thử địa tầng”.


        (Trời dựng nên sông núi hiểm trở, ở đó 2 vạn người có thể địch nổi 100 vạn người; trên đất này người hào kiệt đã từng lập nên công danh).

        Đến cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống Tống lần thứ hai năm 1077, Lý Thường Kiệt đã đánh bại đạo quân xâm lược 30 vạn của Quách Quỳ bằng phương thức phòng ngự tích cực, tiến công phá căn cứ chuẩn bị tiến công của đối phương ngay trên đất địch, rồi thiết lập phòng tuyến trên sông Như Nguyệt, tạo thế buộc quân địch phương Bắc mạnh về kỵ binh lâm vào thế bị chặn phía trước, bị đánh phía sau, thiếu thốn lương thực do dân ta làm thanh dã và thuyền thương bị chặn, quân sĩ ốm đau vì thủy thổ không hợp. Địch tiến công vượt sông không nổi, bị suy yếu, tiến công không được rút không xong, bị ta phản công tiêu diệt. Trong thế trận chiến tranh nhân dân được phát huy sau lưng địch, chủ lực thiện chiến của triều đình đã tiến hành phòng ngự tích cực kết hợp chặt chẽ phòng ngự với tiến công và phản công, theo phương châm “kiên thủ chờ suy, hoàn kích”.

        Nhà Lý có thế lực mạnh, đúng như Trần Hưng Đạo đã nhận xét, có tướng giỏi như Lý Thường Kiệt biết phát huy sức mạnh của quân triều đình và quân địa phương, chọn địa lợi, xây dựng phòng tuyến, kiềm chế được kỵ binh địch, phát huy được sức mạnh của bộ binh và thủy binh ta, nên đã chiến thắng.

        Dưới thời nhà Trần, từ 1258 đến 1288, ba lần quân Mông - Nguyên mạnh nhất thời đại lúc đó, “có kỵ binh mạnh, rong ruổi nhanh như chớp, đánh thành phá ấp” (theo Trương Phổ, học giả thời Minh), xâm lược Đại Việt có lần quân lên tới 60 vạn đều đã bị quân dân Đại Việt tiêu diệt phải tháo chạy về nước.

        Phương thức tiến hành chiến tranh trong hai cuộc chiến tranh năm 1258 và 1285, vua Trần và tiết chế quận công Trần Hưng Đạo lúc đầu đã thiết lập trận địa phòng ngự chặn địch trên địa bàn Trung Du ở Bình Lệ (1258) và Nội Bàng, Vạn Kiếp (1285), nhưng đều không chặn nổi quân Mông - Nguyên, phải thực hiện rút lui chiến lược, rời bỏ Thăng Long để bảo toàn lực lượng, tránh sức mạnh lúc khởi đầu của đối phương. Với phương thức mới, toàn dân làm thanh dã, các vương hầu cùng hương binh trên các địa phương kiên quyết chặn đánh quân giặc làm chúng mệt mỏi tiêu hao, phải dàn mỏng quân đối phó khắp nơi. Phương thức này xuất phát từ quan điểm mà Trần Hưng Đạo đã viết trong Binh thư yếu lược: “Địch đem quân đến, thế không thể ở lâu được thì ta cầm... Nó ở thế hiểm, ta ở thế yếu thì ta cầm. Cầm cho nó đã mệt, bấy giờ ta nổi dậy mà đánh, thì sức vẹn mà công nhiều... đó là điều bí của phép binh”1. Sau đó ta tổ chức thực hiện phản công chiến lược, đánh vào quân địch ở Thăng Long, buộc địch phải rút chạy mà tiêu diệt chúng trên đường thoái lui.

--------------
        1. Binh thư yếu lược - Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1977, tr. 190.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #139 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2016, 04:59:48 am »


        Phương thức tiến hành chiến tranh sáng tạo của nhà Trần đã được thể hiện trong cuộc chiến tranh chống Mông - Nguyên lần thứ ba năm 1288, với những tư tưởng mà Trần Hưng Đạo nêu với vua Trần vào năm 1300 về kế sách giữ nước như sau:

        - Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức.

        - Giặc cậy trường trận, ta cậy đoản binh, dĩ đoản chế trường.

        - Tướng và binh một lòng như ruột thịt.

        - Khoan thư sức dân, làm kế sâu gốc bền là thượng sách để giữ nước.

        - Tránh thế giặc lúc buổi đầu còn mạnh, đánh địch khi tàn lụi lúc buổi chiều.

        Lấy toàn dân chiến đấu, đoàn kết vua quan, lãnh đạo và quần chúng, quân dân, tướng binh như cha con một nhà làm quyết định chiến thắng.

        Trên cơ sở tư tưởng toàn dân chiến đấu mà tổ chức các thứ quân, gồm quân triều đình, quân các vương hầu, trấn giữ các trại ấp và hương binh ở các thôn xã cho nên lực lượng vũ trang lên đến mấy chục vạn. Lực lượng vũ trang ta bố trí khắp nơi trên toàn quốc, giặc đi đến đâu cũng bị đánh. Ta hình thành thế bao vây toàn diện và từng điểm, quân địch càng vào sâu càng mắc kẹt, phải phân tán đối phó khắp nơi.

        Địch muốn đánh lớn, tìm quân chủ lực để giáp chiến, tiêu diệt mà không được, lại luôn bị tiêu hao, đánh tỉa, đến lúc mệt mỏi hết lương, tinh thần rã rời bải hoải thì cũng là lúc chủ lực quân thiện chiến của triều đình Trần xuất hiện, đánh những đòn tiêu diệt lớn.

        Trần Hưng Đạo đã giải quyết một cách tài tình mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ: giữ đất và tiêu diệt địch. Qua kinh nghiệm 2 lần kháng chiến, vì không muốn địch xâm phạm kinh thành, ta tổ chức phòng ngự chiến lược, nhưng đều không ngăn được địch, và trong lần kháng chiến thứ hai, ta buộc địch rút lui chiến lược, với biết bao tình huống hiểm nghèo. Lần kháng chiến thứ ba, với thế lực đã chuẩn bị sẵn, ta hoàn toàn chủ động, buộc địch phải dàn mỏng lực lượng, từ chủ động chuyển thành bị động, từ tiến công chuyển sang phòng ngự và rút lui, từ mạnh chuyển thành yếu. Đây chính là thời cơ để ta tiến hành phản công chiến lược tiêu diệt địch và giải phóng đất nước. Chỉ có “tránh cái thế hăng hái lúc ban mai” của địch, để địch vào sâu đất nước ta, kéo dài đường tiếp tế, bị quân ta triệt lương, lại gặp lúc dân ta làm thanh dã, lâm vào cảnh thiếu đói, địch mới nhanh chóng rơi vào thế “tàn lụi lúc buổi chiều”. Lợi dụng sở đoản, kiềm chế sở trường của địch là nguyên tắc của nghệ thuật quân sự phép dùng binh của Trần Quốc Tuấn.

        Như Trần Quốc Tuấn đã nêu rõ: Lấy đoản binh thắng trường trận là việc thường của binh pháp; Đoản binh là chỉ bộ binh của ta, một đội quân với số lượng không nhiều nhưng tinh nhuệ, biên chế gọn nhẹ là cái mạnh của ta. Kỵ binh và quân đông, sức cơ động nhanh là cái mạnh của địch. Nhưng khi trường trận bị dàn mỏng ra, bị phân tán, đứt quãng, không được tiếp tế đầy đủ, không ứng cứu được nhau và lâm vào tử địa, sức không phát huy được thì trở thành yếu, dễ bị công kích và tan vỡ. Như trong trận Đông Bộ Đầu, chiến đấu diễn ra ban đêm, quân địch không kịp lên ngựa, bị những bộ binh nhẹ mang vũ khí ngắn của ta xông vào chém giết đã hỗn loạn và tan tác. Hoặc như trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, 1 đoàn thuyền lớn, nặng nề chậm chạp của địch đã bị những thuyền nhẹ của ta từ các nhánh sông lao ra đón đánh, đã không xoay trở kịp, chạy đâm vào cọc nhọn, bị đắm chìm và bị tiêu diệt.

        Rõ ràng “dĩ đoản chế trường” là một sáng tạo độc đáo của ta dừng để chống lại một kẻ địch đông và trang bị mạnh hơn mình.

        Nguyên nhân thất bại của nhà Hồ trong cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhà Minh là do không tin vào dân, không được dân ủng hộ, chỉ dựa vào phòng ngự chiến lược thụ động, trên cơ sở cố thủ các quân thành vững chắc, có thành cao hào sâu, quân đông, pháo mạnh để mong đạt mục đích chiến lược là làm đối phương mòn mỏi không thắng nổi mà cầu hòa.

        Phương thức chiến tranh toàn dân, phòng ngự tích cực, tiến công, phản công kiên quyết, chủ động, chọn địa điểm xây dựng thế trận có lợi để phát huy sở trường của ta, đánh vào sở đoản của địch, hạn chế sở trường của chúng, giành chiến thắng vẻ vang trong truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên ta đã không được phát huy, mà còn bị quên lãng.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM