Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:44:30 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam  (Đọc 54483 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #110 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 08:17:45 pm »


        Ta đã đập tan hoàn toàn bộ máy quân sự khổng lồ và hiện đại của chính quyền tay sai của Mỹ được xếp vào loại mạnh nhất ở Đông Nam Á; loại khỏi vòng chiến đấu trên 1 triệu quân địch, tiêu diệt và làm tan rã 4 quân đoàn gồm 13 sư đoàn, nhiều trung đoàn, lữ đoàn bộ binh, lính dù, lính thủy đánh bộ, quân biệt động, 6 sư đoàn không quân, 22 trung đoàn thiết giáp, 22 trung đoàn hải quân, 66 tiểu đoàn pháo binh, toàn bộ lực lượng cảnh sát dã chiến, bảo an, dân vệ cùng mọi tổ chức quân sự khác của chúng.

        Ta đã phá hủy và thu toàn bộ vũ khí, phương tiện, thiết bị, căn cứ quân sự, hệ thống kho tàng, sân bay, hải cảng gồm hàng ngàn máy bay, hàng ngàn xe tăng, xe bọc thép, hàng ngàn tàu chiến, hàng ngàn khẩu pháo, nhiều kho dự trữ chiến lược lớn, nhiều sân bay, hải cảng lớn và hiện đại. Ta đã quét sạch bộ máy ngụy quyền, bộ máy kìm kẹp to lớn và tàn bạo được dày công xây dựng trong hơn 20 năm qua, làm tan rã hàng chục vạn nhân viên ngụy quyền, đập tan mọi đảng phái và tổ chức phản động.

        Ta đã giải phóng hoàn toàn 44 tỉnh và thành phố ở miền Nam, tất cả các hải đảo do quân ngụy chiếm giữ, bao gồm cả vùng đất, vùng trời và vùng biển của miền Nam.

        Nhân dân ta đã giành được độc lập tự do hoàn toàn cho Tổ quốc, giành lại trọn vẹn chủ quyền dân tộc, quyền làm chủ hoàn toàn đối với đất nước thân yêu của mình. Lần đầu tiên sau 117 năm, trên đất nước ta hoàn toàn không còn một bóng tên xâm lược. Họa đất nước bị chia cắt được thanh toán. Nam Bắc nối liền một dải. Nguyện vọng tha thiết trên 100 năm nay của dân tộc ta giành độc lập tự do và thống nhất đất nước đã được thực hiện.

        Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất.

        Đây là thất bại quân sự và chính trị lớn nhất của đế quốc Mỹ từ trước đến nay.

        Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới tàn bạo nhất trong lịch sử của đế quốc Mỹ đã bị thất bại. Âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng, chia cắt vĩnh viễn đất nước ta đã bị đập tan. Ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ trên miền Nam nước ta đã bị quét sạch. Chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ và chức năng sen đầm quốc tế cùng uy tín của tên đế quốc đầu sỏ đã bị giáng một đòn rất nặng.

        Rõ ràng, đây là thất bại có tầm lịch sử, thất bại nghiêm trọng nhất trong toàn bộ lịch sử 200 năm của Hoa Kỳ. Đế quốc Mỹ đã bị đánh bại trong cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới, quy mô lớn nhất và dài nhất từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Thất bại này đã làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của tên đế quốc đầu sỏ, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng thấy, thu hẹp và làm suy yếu hơn nữa hệ thống đế quốc chủ nghĩa, củng cố tiền đồ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam Á và châu Á; mở rộng và tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của cách mạng thế giới.

        Thắng lợi của Việt Nam cũng là thắng lợi to lớn của các lực lượng độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.

        Tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, đế quốc Mỹ không những nhằm đè bẹp cách mạng Việt Nam, mà còn nhằm ngăn chặn và dập tắt phong trào độc lập và chủ nghĩa xã hội ở khu vực Đông Nam Á và các nơi khác trên thế giới. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược là hình ảnh của cuộc đấu tranh rộng lớn đang diễn ra trên thế giới, giữa một bên là các lực lượng xã hội chủ nghĩa, dân tộc dân chủ và hòa bình và một bên là chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ cùng mọi lực lượng phản động khác. Ý nghĩa thời đại của cuộc chiến đấu của chúng ta chính là ở chỗ đó và chúng ta nhận thức sâu sắc rằng thắng lợi của Việt Nam cũng chính là thắng lợi của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, dân tộc, độc lập, hòa bình trên thế giới. Thắng lợi của Việt Nam có ý nghĩa lịch sử hết sức quan trọng đối với tiền đồ phát triển của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, làm phá sản hoàn toàn học thuyết Ních-xơn ở một trọng điểm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Nhân dân ta đã phá vỡ khâu mạnh nhất trong phòng tuyến của chủ nghĩa đế quốc ở Đông Nam Á; góp phần to lớn làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ và mở ra một thời kỳ mới, vô cùng thuận lợi cho phong trào cách mạng thế giới.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #111 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 08:21:42 pm »

       
NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ TRONG TRẬN QUYẾT CHIẾN CHIẾN LƯỢC MÙA XUÂN 1975

        Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam trên 50 năm qua, Đảng ta đã đưa dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đánh bại những tên đế quốc Nhật, Pháp, Mỹ, mạnh nhất trong thời đại.

        Cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt, lâu dài, nhưng thắng lợi vang dội của dân tộc ta mang tính chất lịch sử lớn lao và có ý nghĩa quốc tế to lớn. Biết bao kinh nghiệm, bài học xương máu mà thế hệ Hồ Chí Minh đã sáng tạo trong cuộc đấu tranh gian khổ quyết liệt này còn có giá trị mãi mãi cho các thế hệ tiếp nối của dân tộc và cống hiến cho cuộc đấu tranh cách mạng trên toàn thế giới, chống đế quốc và phản động bành trướng bá quyền. Trong kho tàng quý báu và lớn lao đó, trong phần này, tôi chỉ xin trình bày một số kinh nghiệm rút ra về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược trong trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh, mà Đảng ta đã chỉ đạo, giành thắng lợi giòn giã trong chiến tranh giải phóng miền Nam với trận quyết chiến chiến lược mùa xuân năm 1975, tiêu diệt hơn 1 triệu quân ngụy Sài Gòn trong 55 ngày đêm lịch sử.

        Đặc điểm nổi bật của trận quyết chiến chiến lược này là, một cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở giai đoạn cuối của một cuộc chiến tranh lâu dài, diễn ra theo quy luật phát triển biện chứng, tuần tự đến nhảy vọt, về chiến lược. Việc tạo ra thời cơ chiến lược và chỉ đạo sự phát triển của tình hình biến động to lớn và nhanh chóng của cuộc chiến chiến lược kịp nắm bắt thời cơ mới để giành chiến thắng quyết định trong chiến tranh đòi hỏi một nghệ thuật chỉ đạo chiến lược năng động sắc bén. Nghệ thuật chỉ đạo chiến lược này bao gồm nhiều mặt, diễn ra trong một quá trình, thể hiện trên một loạt yếu tố có quan hệ hữu cơ với nhau, mà bốn vấn đề sau có thể là các yếu tố chính:

        1. Vấn đề quyết tâm chiến lược.

        2. Lực lượng và thế chiến lược.

        3. Tạo thời cơ và nắm thời cơ chiến lược.

        4. Quy hoạch chiến lược.

        1. Quyết tâm chiến lược trong quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh.

        Mục đích của trận quyết chiến chiến lược này là giành thắng lợi cho cuộc chiến tranh mà thể hiện chủ yếu là phải tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ hệ thống ngụy quân, ngụy quyền toàn miền Nam.

        Trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp giải phóng miền Bắc, chống Mỹ và tay sai giải phóng miền Nam, một kinh nghiệm hết sức quan trọng là diễn biến chiến cuộc hết sức nhanh. Trong Đông Xuân 1953 - 1954 chỉ 55 ngày đêm, trong mùa xuân 1975 cũng chỉ 55 ngày đêm. Nếu ta mở rộng ra liên hệ với chống chiến tranh xâm lấn biên giới Tây Nam, thì trong cuộc giải phóng Cam-pu-chia khỏi tay bọn diệt chủng cũng chỉ trong thời gian 1 tuần, chiến tranh lớn kết thúc với thời gian hết sức ngắn.

        Quy luật vận động theo bước nhảy vọt của thời cơ chiến lược trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, đã được thể hiện rất rõ trong các trận quyết chiến chiến lược.

        Quyết tâm ban đầu tháng 10-1974, giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976 đã được bổ sung trong hội nghị Bộ Chính trị tháng 1-1975 bằng việc đánh giá tình hình có thể phát triển nhanh, dự kiến thời cơ chiến lược cụ thể có thể đến sớm và chủ trương chuẩn bị thêm phương án nhanh chóng nắm lấy thời cơ, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.

        Tiêu diệt hơn 1 triệu quân, trang bị hiện đại với 1 hệ thống kìm kẹp dày đặc được tổ chức khá chặt chẽ, ràng buộc hàng chục triệu dân không phải dễ dàng gì giải quyết được trong thời gian ngắn. Đặt thời hạn trong cuộc tổng công kích và nổi dậy kết thúc chiến tranh theo 2 phương án, phương án 2 năm và phương án chớp thời cơ giải quyết trong 1 năm cũng đã thể hiện tính khoa học và vững chắc.

        Quyết tâm tháng 1 - 1975 của Bộ Chính trị lại đã được thực hiện với một sự chỉ đạo hết sức nhạy bén, kịp thời khuếch trương thắng lợi trước sự suy sụp đột biến của địch sau chiến thắng Tây Nguyên 3-1975 của ta, cho nên thời gian giành toàn thắng chỉ trong 5 ngày đêm là ngoài dự kiến ban đầu.

        Bài học quan trọng rút ra từ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam là nó đã dựa trên một sự phân tích tình hình chiến lược hết sức chính xác và Bộ Chính trị đã xác định một ý định chiến lược tài tình.

        Đánh giá tình hình trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh về mặt chiến lược để hạ quyết tâm chiến lược, giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc chiến tranh, là một yếu tố quan trọng đòi hỏi phải nắm vững phương pháp luận biện chứng duy vật. Phải căn cứ vào thực tiễn diễn ra trên chiến trường trong thời kỳ cuối của chiến tranh và xem xét thực tế địch, ta về mặt chiến lược với con mắt biện chứng của sự vận động mâu thuẫn đối kháng trong thời kỳ biến chuyển chất lượng của chiến tranh theo bước nhảy vọt.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #112 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 08:22:32 pm »


        Bộ Chính trị đã nghiên cứu toàn diện các yếu tố chiến lược cả về quân sự, chính trị, kinh tế của cả địch và ta, so sánh các mặt cả về lực lượng và thế trận, chú ý phân tích cả tình hình trong nước và thế giới, đặc biệt là nghiên cứu khả năng can thiệp của Mỹ khi ta tổng công kích.

        Không phải chỉ nhìn tình hình với các hiện tượng đang diễn ra trên chiến trường, mà còn dự kiến được khả năng phát triển, khuynh hướng vận động của tình hình theo quy luật chuyển hóa, từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất của phép biện chứng duy vật đặc biệt là trong bước nhảy vọt cuối cùng của chiến tranh.

        Trong khi phân tích tình hình, Bộ Chính trị đã suy xét cụ thể các vấn đề thực tiễn đang diễn ra trên chiến trường trong 2 năm 1973 - 1974, giai đoạn trực tiếp của tổng công kích và nổi dậy:

        - Về địch:

        Quân ngụy còn hàng triệu quân, còn chiếm giữ đại bộ phận các địa bàn chiến lược quan trọng. Nổi lên là so sánh tương quan lực lượng về số lượng quân đội, tổng số địch còn nhiều hơn ta (địch 690.000, ta 418.225), nhưng chủ lực quân của địch ít hơn ta (địch 336.500, ta 364.498) còn về lực lượng địa phương thì địch hơn ta với tỷ lệ 4,9/1 (địch 353.500, ta 71.727). Tổng quát diễn biến trên chiến trường cho thấy, tuy số lượng địch còn đông, chúng còn chiếm giữ các thành phố thị xã, còn khống chế các vùng chiến lược đồng bằng, đô thị nhưng liên tiếp bị thất bại, mất đâu bỏ đó, ngay việc mất thị xã Phước Long địch cũng chịu không phản công lấy lại được. Ngay sát Sài Gòn 40km mà cuộc hành quân càn quét của nhiều sư đoàn địch cũng thất bại. Tại đồng bằng sông Cửu Long chỉ trong 3 tháng mà địch bị tiêu diệt 20.000 tên. Quân chủ lực ngụy không còn lực lượng dự bị cơ động chiến lược, 2 sư đoàn thủy quân lục chiến, sư đoàn dù đều phải triển khai phòng thủ ở Quân khu 1.

        - Về ta:

        Ta đã giành được thắng lợi trên các chiến trường, đang nắm quyền chủ động chiến dịch tiến công địch. Bộ đội chủ lực của ta được tăng cường trang bị, chất lượng chiến đấu được nâng lên, đã triển khai trên các địa bàn chiến lược trọng yếu có khả năng đánh địch trên toàn địa bàn chiến lược, có thể thực hiện đánh chia cắt chiến lược, hoặc cơ động tập trung đánh vào các trung tâm đô thị, như Sài Gòn, Đà Nẵng. Các quân đoàn chủ lực đã được thành lập, có khả năng cơ động cao hơn và tiêu diệt được sư đoàn địch, giải phóng thị xã, vùng giải phóng của ta đã nối liền từ Bắc đến Nam, hệ thống đường giao thông chiến lược được củng cố, phát triển. Tuy lực lượng địa phương số lượng phát triển còn ít, nhưng chất lượng có tiến bộ, sức mạnh phối hợp tiến công với chủ lực ngày càng cao ở đồng bằng đông dân.

        Trước thực tiễn chiến trường này, với sự phân tích tình hình sắc bén trong sự so sánh cả về lực và thế chiến lược, Bộ Chính trị đã kết luận: Rõ ràng ta đang ở thế thắng, thế đi lên, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua thế đi xuống, thế bị động và khó khăn. Chiều hướng này không thể đảo ngược lại được. Những chỗ mạnh của địch chỉ là tạm thời, chứa đầy mâu thuẫn bên trong, không những không phát huy được mà đang giảm sút dần. Chúng suy yếu một cách toàn diện với nhịp độ ngày càng nhanh. Do hoạt động của ta, lại do mâu thuẫn và khó khăn nội bộ của chúng, địch có thể trải qua những bước xuống dốc nghiêm trọng.

        So sánh lực lượng địch, ta trên phạm vi cả nước cũng như trên chiến trường miền Nam đã có những chuyển biến cơ bản và rõ rệt có lợi cho cách mạng, ta đã mạnh hơn địch. Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

        Rõ ràng kết luận đã đặt vấn đề thế chiến lược và thời cơ chiến lược lên vị trí quyết định. Lực lượng của địch còn đông trên 1 triệu, lực lượng của Mỹ vẫn khá mạnh, nhưng thế của ngụy là thế thua, thế đi xuống, thế bị động và khó khăn, thế của Mỹ là thế khó quay trở lại trước sự chán ghét chiến tranh của nhân dân Mỹ và sau vụ Oa-tơ-ghết mà tổng thống Pho nắm chính quyền không qua bầu cử, khó có thể quyết định mang quân trở lại can thiệp sau nhiều năm thất bại trên chiến trường miền Nam và đã phải rút quân về nước.

        Ý định chiến lược là hạt nhân của quyết tâm chiến lược đã được Bộ Chính trị xác định trên cơ sở chọn phương hướng đột kích chủ yếu mở đầu vào Tây Nguyên, lấy Buôn Ma Thuộc làm mục tiêu chủ yếu của chiến dịch, trong thế trận chiến lược của 3 đòn tiến công chiến lược đồng thời và liên tiếp trên ba hướng là Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và Sài Gòn, mà tiến công Sài Gòn là đòn quyết định cuối cùng, giải quyết toàn bộ mục đích của chiến lược. Đánh và giành thắng lợi ở Sài Gòn, thủ đô của ngụy quyền để giải quyết chiến tranh là một quyết tâm có tính chất kinh điển trong nghệ thuật quân sự thế giới như đã diễn ra trong chiến tranh thế giới thứ hai giữa Liên Xô và phát xít Đức - Ý với chiến dịch công phá Béc-lin hoặc trong nhiều cuộc chiến tranh cổ kim khác.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #113 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 08:23:55 pm »


        Nhưng quyết tâm giải phóng miền Nam với tình hình tương quan thế lực như đã trình bày ở trên, không thể chỉ bằng một đòn đánh thẳng vào Sài Gòn mà phải trên cơ sở một cuộc tiến công chiến lược với 3 đòn liên tiếp, làm thay đổi tương quan thế lực có ý nghĩa chiến lược.

        Giá trị của từng đòn, quy hoạch thứ tự và sự tập trung nỗ lực của từng đòn là hạt nhân trong quyết tâm, để tạo ra sự phát triển bùng nổ dây chuyền mà trong nghệ thuật quân sự thường được gọi là sự tiếp nối của phá vỡ với khuếch trương chiến quả (Dislocaton et Exploitation).

        Xuất phát từ mục tiêu chiến lược của cuộc tiến công, căn từ vào tương quan thế lực địch ta cụ thể lúc đầu cuộc quyết chiến, liên tục giáng nhiều đòn mạnh nối tiếp, tạo ra thế mới, lực mới để tiến từ mục tiêu này tới mục tiêu khác mà cuối cùng là chiến dịch đánh vào Sài Gòn với thế chẻ tre, trên cơ sở tự tan vỡ chiến lược của địch cả về quân sự, chính trị tinh thần, cả về thế và lực.

        Quyết tâm chiến lược ban đầu phải được thực hiện với nhiều quyết tâm tiếp nối liên tục trước các biến động, thời cơ mới xuất hiện theo quy luật vận động đột biến, nhảy vọt về chiến lược.

        Bài học quan trọng trong quyết tâm chiến lược là, với lực lượng không hơn địch mà biết bố trí, sử dụng lực lượng vào thế buộc địch phân tán, dàn mỏng lực lượng, tạo ra sơ hở ở khu vực hiểm yếu, để ta tập trung mọi lực lượng, và chỉ đạo đánh đòn mở đầu làm cho địch choáng váng, vỡ thế chiến lược, từ đó mà phát triển các đòn tiếp nối và đòn quyết định, đánh bại hoàn toàn quân địch ở điểm quyết định cuối cùng.

        Nghệ thuật quân sự của Đông Xuân 1953 - 1954 đã thể hiện rõ tư tưởng chỉ đạo này và cuộc tổng công kích năm 1975 cũng đã khẳng định nghệ thuật quân sự ưu việt truyền thống của ta.

        55 ngày đêm thật là nhanh như trở bàn tay để tiêu diệt hơn một triệu quân đang chiếm giữ hầu hết địa bàn chiến lược ở miền Nam Việt Nam với một bộ máy chính trị đã được xây dựng 20 năm trời.

        Thực tiễn đã chứng minh là, hạ quyết tâm trong trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh phải nắm vững quy luật bước nhảy vọt của phương pháp luận duy vật biện chứng mà Bộ Chính trị của ta đã nắm và vận dụng hết sức nhuần nhuyễn.

        Với việc tiêu diệt quân địch, giải phóng Tây Nguyên, toàn bộ hệ thống phòng ngự chiến lược của địch đã nhanh chóng bị chia cắt và rung chuyển mạnh. Quân khu 1 bị cô lập, Quân khu 3 trong đó có cả Sài Gòn, Gia Định bị uy hiếp trực tiếp. Thế chiến lược của địch đã bị suy yếu nghiêm trọng. Lực lượng của địch tuy còn đông (tổng quân số địch còn 625.000 mà ta có 451.200), nhưng chủ lực địch so với chủ lực ta đã thay đổi (địch còn 299.800 ta có 374.473 với tỷ lệ 1/1,26), tinh thần chúng hoang mang cao độ, đang đứng trước nguy cơ tan rã từng mảng lớn. Thời cơ chiến lược mới đã xuất hiện, và sau thời gian ngắn, khi chiến dịch Huế - Đà Nẵng đã kết thúc thắng lợi ngày 29-3-1975, đã xuất hiện thời cơ nhảy vọt để đạt mục tiêu cuối cùng.

        2. Vấn đề lực lượng và thế chiến lược trong trận quyết chiến chiến lược.

        Lực lượng và thế trận là cơ sở vật chất để hạ quyết tâm chiến lược, và quyết tâm chiến lược phải chỉ ra phương hướng để xây dựng lực lượng, sử dụng bố trí lực lượng vào thế trận chiến lược và luôn phát triển thế chiến lược có lợi, tạo ra các thời cơ chiến lược mới, đi tới kết thúc thắng lợi của chiến tranh.

        a) Vấn đề xây dựng và sử dụng lực lượng:

        Trong mỗi thời kỳ khác nhau của chiến tranh, việc xây dựng lực lượng, xác định vị trí của các lực lượng cách mạng và chiến tranh cách mạng, và sử dụng các lực lượng đều có khác nhau, nó phục tùng mục tiêu chiến lược và phương thức tiến hành chiến tranh của từng giai đoạn.

        Trong cuộc quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh, để thực hiện mục tiêu chiến lược, tiêu diệt hàng triệu quân, phá tan cả một bộ máy chính trị phản động lớn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, Đảng ta đã phát triển chưa từng có việc động viên và xây dựng lực lượng cả về số lượng và chất lượng với nhưng hình thức tổ chức thích hợp, bảo đảm thực hiện quyết tâm chiến lược, kể cả khi có bước nhảy vọt lớn của cục diện chiến tranh.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #114 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 08:25:47 pm »

        Trên cơ sở đường lối xây dựng lực lượng của Đảng là, động viên và tổ chức toàn dân xây dựng lực lượng chính trị rộng rãi của quần chúng, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh gồm ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, phát huy sức mạnh tổng hợp của hai lực lượng chính trị và quân sự trong trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh. Chúng ta thấy trong quyết tâm chiến lược, Đảng đã chỉ rõ vai trò đòn bẩy của chủ lực thúc đẩy các lực lượng khác cùng phát triển để giải quyết nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu nhất của chiến tranh là tiêu diệt lực lượng vũ trang đối phương mà trước hết là khối chủ lực của địch. Khối chủ lực của ta trong giai đoạn cuối của chiến tranh đã có các quân đoàn chủ lực binh chủng hợp thành, được trang bị mạnh, có pháo binh, cơ giới và cả xe tăng thiết giáp trong biên chế, có khả năng tổ chức chiến dịch hiệp đồng binh chủng trên từng hướng chiến dịch và có bộ máy chỉ huy chiến dịch chiến lược quy mô nhiều quân đoàn để tiêu diệt trung tâm Sài Gòn, do nhiều sư đoàn địch phòng giữ. Các chiến dịch quy mô quân đoàn đã diễn ra liên tiếp và đồng thời trên các chiến trường chiến lược như Tây Nguyên Trị Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, miền Đông Nam Bộ.

        Trên bản thống kê tương quan lực lượng giữa ta và địch, chúng ta đã thấy trong trận quyết chiến chiến lược với quy luật nhảy vọt, lực lượng khi mở đầu chiến cuộc chỉ xấp xỉ, nhưng tương quan lực lượng đã thay đổi hết sức nhanh chóng sau từng chiến dịch lớn.

        Nói tới lực lượng là phải nói đến vật chất, lương thực đạn dược, xăng dầu bảo đảm và cả số quân bổ sung với số lượng đủ cho các chiến dịch lớn liên tiếp trong thời gian ngắn. Thành công lớn của ta là, đã bảo đảm tốt các yêu cầu vật chất các loại với một khối lượng lớn mà nếu không có sự chuẩn bị trước, khi mở đầu chiến cuộc đã được bố trí vào các địa bàn dự kiến, thì không thể bảo đảm kịp thời. Cụ thể, trong mùa Xuân 1975 khối lượng vật chất bảo đảm đã lên tới 576.963 tấn, đã phải sử dụng tới trên 17.000 chiếc ô tô, xe xích, 270 tàu thuyền và xà lan, 300 toa xe lửa và nhiều chuyến máy bay để vận chuyển.

        Một vấn đề lớn trong chuẩn bị lực lượng cho trận quyết chiến chiến lược là, lực lượng dự bị chiến lược và quân bổ sung. Chúng ta đã có một quân đoàn, 3 sư đoàn dự bị chiến lược ngoài 3 khối chủ lực mạnh đã bố trí sẵn trên 3 chiến trường chủ yếu khi mở đầu chiến cuộc, và đến khi tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh, trong tay Bộ tổng tư lệnh còn 4 sư đoàn mạnh. Ngoài ra ta đã chuẩn bị một lực lượng quân bổ sung đông đảo trong 2 năm 1973 - 1974 là 26 vạn, riêng mấy tháng đầu năm 1975, đã huy động 23 vạn quân bổ sung. Con số hết sức lớn nếu so với tổng số quân là 418.225 lúc mở đầu chiến dịch.

        Xây dựng, tích lũy và sử dụng tối ưu các lực lượng dự bị chiến lược các loại là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chỉ đạo chiến lược. Đó là một trong những nhân tố để giành và giữ quyền chủ động chiến lược. Xây dựng những binh đoàn dự bị lớn trong một thời hạn ngắn và bất ngờ đối với địch, sẽ có thể có được ưu thế quyết định về lực lượng và khi có thời cơ, kịp thời nắm thời cơ chiến lược quyết định trạng thái chiến tranh. Việc này không thể làm trong một vài tháng mà có kết quả lớn về chiến lược được, cần phải làm một cách có kế hoạch. Trái lại, lực lượng dự bị chiến lược của địch lại bị phân tán, bó chân vào các chiến trường, không thể huy động để đối phó với các tình huống chiến lược khẩn cấp, do đó tác dụng của chủ lực cơ động tập trung vào trọng điểm lại càng lớn.

        Xác định vai trò, vị trí các lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, của đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, của khởi nghĩa, tổng khởi nghĩa và tiến công quân sự, tổng công kích trong mối quan hệ kết hợp giữa hai mặt đấu tranh của một phương thức tổng thể trong quy luật chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam, mà thế giới đã từng gọi là một phát minh của thời đại, là một vấn đề lớn trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, chiến tranh và cả trong lý luận cách mạng của Đảng ta trong suốt ba chục năm tiến hành chiến tranh giải phóng đất nước.

        Những quan điểm, luận điểm khác nhau đã nổi lên trong quá trình lãnh đạo cách mạng và chiến tranh giải phóng miền Nam trong 20 năm là:

        1. Giải quyết cách mạng miền Nam bằng khởi nghĩa tiến lên tổng khởi nghĩa của lực lượng chính trị, có phối hợp với lực lượng vũ trang của chiến tranh du kích để giành chính quyền về tay nhân dân, mà lực lượng chính trị giữ vai trò chính1.

        2. Giải quyết chiến tranh giải phóng miền Nam bằng tổng khởi nghĩa của quần chúng có phối hợp với tổng công kích của lực lượng vũ trang thực hiện nhiệm vụ chiến lược quan trọng là tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền2.

        3. Giải quyết chiến tranh bằng kết hợp tổng tiến công và tổng khởi nghĩa, lấy đòn tổng công kích là đòn “quan trọng” từ Mậu Thân 1968 đến hết năm 19693.

        4. Và cuối cùng, trong tổng công kích và nổi dậy mùa xuân 1975, tổng công kích phải đi trước một bước.

--------------
        1. Thư vào Nam. Lê Duẩn, tr. 31.

        2. Thư vào Nam. Lê Duẩn, tr. 36.

        3. Nghị quyết Quân ủy Trung ương.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #115 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 08:28:16 pm »

        Trong mỗi thời kỳ khác nhau của chiến tranh, việc xây dựng lực lượng, xác định vị trí của các lực lượng cách mạng và chiến tranh cách mạng, sử dụng các lực lượng đều khác nhau, nó phục tùng mục tiêu chiến lược và phương thức tiến hành chiến tranh của từng giai đoạn. Như trong thư gửi Trung ương Cục miền Nam của đồng chí Lê Duẩn, tháng 7-1970, đã viết: Phải đánh giá đúng lực lượng so sánh cụ thể giữa ta và địch trong từng thời gian, ở từng vùng để có phương hướng đúng đắn trong việc xây dựng, phát triển lực lượng cũng như trong việc phối hợp các mặt đấu tranh, đặc biệt phải đánh giá thật đầy đủ vai trò của quần chúng nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của ba thứ quân. Chúng ta chủ trương kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, nhưng có khi chính trị đi trước, có khi quân sự đi trước, rồi mới thực hiện được đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị kết hợp, mới có thể thực hiện phương châm: hai chân, ba mũi1. Trong trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh, chúng ta thấy vai trò đòn bẩy của chủ lực giải phóng nhiệm vụ cơ bản chủ yếu nhất của chiến tranh là, tiêu diệt lực lượng vũ trang mà chủ yếu là khối chủ lực của địch. Khối chủ lực của ta trong giai đoạn cuối cùng chiến tranh so sánh với khối chủ lực của địch là: ta: 1,03 (35 vạn); địch: 1 (34 vạn). Ta đã có các quân đoàn chủ lực binh chủng hợp thành được trang bị mạnh, có pháo binh cơ giới (riêng trong chiến dịch Hồ Chí Minh ta đã dùng 50 tiểu đoàn pháo) và cả xe tăng thiết giáp trong biên chế (trên 600 chiếc), có khả năng tổ chức chiến dịch hiệp đồng binh chủng trên từng hướng chiến dịch và có bộ máy chỉ huy chiến dịch chiến lược quy mô nhiều quân đoàn để tiêu diệt trung tâm Sài Gòn, do nhiều sư đoàn địch phòng giữ. Các chiến dịch quy mô quân đoàn đã diễn ra liên tiếp và đồng thời trên các địa bàn chiến lược, như Tây Nguyên, Trị Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, miền Đông Nam Bộ.

        Chủ lực ta trong thực tiễn cuộc tổng công kích và nổi dậy mùa xuân 1975 đã giữ vai trò trực tiếp, quyết định tiêu diệt quân chủ lực ngụy, xương sống của “Việt Nam hóa chiến tranh” trong 3 chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chiến dịch Hồ Chí Minh, đã kéo theo sự sụp đổ của bộ máy ngụy quyền, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy, đã chứng minh sự chỉ đạo đúng đắn của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Trong cuộc chiến tranh cách mạng, vai trò của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương có ý nghĩa chiến lược to lớn đã từng là lực lượng chủ yếu để giành thắng lợi chiến lược trong đồng khởi 1959 - 1960, trong quá trình chiến tranh đã buộc đế quốc Mỹ và tay sai phải dàn mỏng lực lượng, chủ lực cơ động chiến lược cũng bị phân tán đối phó với từng địa phương, tạo điều kiện cho chủ lực ta tập trung giáng đòn quyết định ở nơi quyết định. Riêng trong cuộc tổng công kích và nổi dậy cuối cùng, kết thúc chiến tranh, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương cũng đã góp phần có ý nghĩa chiến lược cùng chủ lực giành thắng lợi hoàn toàn, mặc dầu, trong giai đoạn cuối, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương của ta không sung sức bằng trước trong so sánh với địch, đặc biệt ở các thành thị, trung tâm của các đòn tiến công của chủ lực. Trong thực tiễn chiến cuộc, lực lượng vũ trang địa phương đã tranh thủ đánh địch khắp nơi, tiêu diệt, làm tan rã nhiều địch, bức hàng hàng ngàn đồn bốt, đánh phá giao thông, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch ở cơ sở, trực tiếp hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở địa phương, kể cả việc giải phóng quận lỵ, thị trấn, thị xã. Nhờ có lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương ta đã nhanh chóng đập tan lực lượng vũ trang và chính trị tại chỗ của địch, nhanh chóng xây dựng chính quyền cách mạng, các lực lượng và đoàn thể cách mạng, mà chủ lực có điều kiện cơ động nhanh chóng lên phía trước, giải quyết liên tục các mục tiêu chiến lược của tổng tiến công. Đặc biệt là, sau khi ngụy quyền trung ương đầu hàng ở Sài Gòn, thì trên 20 tỉnh còn lại ở Nam Bộ hầu hết đều do lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương giải phóng.

        Ngay ở các trọng điểm tiến công của chủ lực, như ở Đà Nẵng, Sài Gòn, lực lượng vũ trang địa phương cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc nổ súng đánh chiếm một số yếu điểm trong trung tâm thị xã, góp phần làm cho kẻ địch thêm rối loạn, hoang mang, tăng thêm tác động của đòn chủ lực, làm tan rã quân địch, giống như trên bàn cờ, khi một tốt đã đứng ở trong cung đối phương, thì tác dụng của xe, pháo lại càng lớn.

 ---------------
       1. Thư vào Nam. Lê Duẩn, tr. 225.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #116 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 08:32:43 pm »


        Nếu không có lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương, ta có thể khẳng định chiến thắng của chủ lực không thể giòn giã nhanh chóng như vậy, và không có sự vùng lên của lực lượng chính trị thì không sao ta có thể nhanh chóng giữ vững trật tự an ninh, khôi phục lại các sinh hoạt bình thường ở cả miền Nam rộng lớn mà địch đã thống trị trong bao nhiêu năm ròng.

        Thực tiễn diễn biến của tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 thành công đã thể hiện đúng quy luật của chiến tranh cách mạng trong việc đặt mối quan hệ giữa tổng công kích và tổng khởi nghĩa: Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 1-1975 cũng như đồng chí Lê Duẩn đã viết trong thư gửi thành ủy Sài Gòn và Gia Định ngày 1-7 năm 1967: Kinh nghiệm ở nước ta cũng như nhiều nước cho thấy khởi nghĩa chỉ có thể nổ ra và thành công khi kẻ thù không còn khả năng cai trị được nhân dân như trước nữa, đông đảo quần chúng quyết tâm vùng lên chiến đấu, khi các công cụ bạo lực trong tay giai cấp thống trị bị tê liệt, lực lượng vũ trang bị suy sụp, tan rã do chiến tranh đế quốc hoặc do nội chiến. Nếu bọn thống trị có lực lượng quân sự mạnh thì khởi nghĩa khó thành công. Chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam vừa là chiến tranh chống xâm lược, vừa là nội chiến cách mạng, cuộc tổng khởi nghĩa, nhất là các cuộc khởi nghĩa ở thành thị, muốn thành công thì về quân sự phải giành cho được thắng lợi cơ bản, làm cho quân ngụy bị tiêu diệt một bộ phận quan trọng, đi đến tan rã, không còn khả năng phục hồi. Như vậy trong quá trình khởi nghĩa đứng về toàn cục mà xét, chúng ta không chỉ đánh địch bằng lực lượng chính trị mà còn phải đánh địch bằng lực lượng quân sự mà tổng công kích về quân sự phải đi trước một bước. Thực tiễn chiến tranh qua các thời kỳ 1965, 1968, 1972 và 1975 đều thể hiện sự chính xác của quan điểm này.

        Ví như cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa bắt đầu vào mùa xuân năm 1968 đã đánh vào cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn và các thành thị ở miền Nam, đồng thời đánh địch trên nhiều vùng quan trọng chiến lược, cả nông thôn và rừng núi, đã giành được thắng lợi chiến lược, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang, thay đổi chiến lược quân sự của chúng, buộc Mỹ phải chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, nhận dự hội nghị bốn bên tại Pa-ri, mở đầu cho việc “đánh cho Mỹ cút”, tạo điều kiện cho thắng lợi hoàn toàn “đánh cho ngụy nhào”. Nhưng tổng công kích và tổng khởi nghĩa 1968 chưa thực hiện được những đòn tiêu diệt lớn quân chủ lực địch, cả Mỹ và ngụy, chưa phá vỡ được thế chiến lược của chúng trên những địa bàn chiến lược quan trọng ở rừng núi và đồng bằng, chưa làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng và cục diện chiến trường ở miền Nam, vì vậy chưa tạo điều kiện thực hiện mục tiêu cao nhất đề ra cho tổng công kích và tổng khởi nghĩa là giành chính quyền về tay nhân dân và ta đã gặp nhiều khó khăn trong một thời gian. Nghị quyết Trung ương 21 đã nêu nguyên nhân của thiếu sót này là chủ quan trong đánh giá tình hình, cho nên đề ra yêu cầu chưa thật sát với thực tế lúc đó, nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta chưa thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta, không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch bình định nông thôn nhằm thực hiện chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn. Ngoài ra, tôi nghĩ, việc kết hợp tổng công kích và nổi dậy, lấy đòn chính của ta nhằm vào các thành thị quan trọng, bằng kết hợp lực lượng xung kích về quân sự với lực lượng chính trị của quần chúng, đánh sụp cơ quan đầu não của Mỹ và ngụy, đánh phá các hậu cứ, còn đòn tổng công kích của chủ lực lại nhằm căng địch trên khắp chiến trường có lợi, kéo chủ lực địch ra nhằm đánh gục các binh đoàn chủ lực địch, ra sức kiềm chế và phân tán lực lượng quân sự của địch để phục vụ cho đòn chính là tổng khởi nghĩa ở các đô thị lớn Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, thì đó cũng chưa phải là một chủ trương hoàn toàn chính xác.

        Trong điều kiện chiến tranh đã phát triển cao, địch có lực lượng quân sự mạnh, chúng không từ bất cứ một thủ đoạn bạo lực phản cách mạng nào để chống trả quyết liệt, thì không thể có khởi nghĩa ở các thành thị chủ yếu, nếu như không tiêu diệt và làm tan rã về cơ bản quân đội đối phương, đặc biệt là trong giai đoạn kết thúc chiến tranh. Quy luật của chiến tranh cách mạng giải phóng miền Nam đã được Đảng ta tổng kết, là sự phát triển quan điểm của Ăng-ghen: “một dân tộc muốn giành độc lập cho mình thì không được tự giới hạn trong những phương thức tiến hành chiến tranh thông thường (là chỉ bằng đấu tranh vũ trang của quân đội chính quy). Khởi nghĩa của quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du kích ở khắp mọi nơi, đó là phương thức duy nhất mà một dân tộc nhỏ có thể thắng một dân tộc lớn, mà một quân đội ít mạnh hơn có thể đương đầu với một quân đội mạnh hơn và có tổ chức hơn”. Rõ ràng, từ đồng khởi đến Xuân Mậu Thân (1968) đến tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là một bước phát triển mới của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng, trong việc kết hợp các đòn khởi nghĩa của quần chúng với đấu tranh vũ trang của quân đội.

        Tổng tiến công và nổi dậy biểu hiện cụ thể sự kết hợp của khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh trong chiến tranh cách mạng, trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, tổng công kích phải đi trước một bước, phải là đòn chủ yếu trong chiến tranh cách mạng.

        Khởi nghĩa, tổng khởi nghĩa hoặc nổi dậy và nổi dậy đều khắp trong chiến tranh cách mạng phải tuân theo quy luật của chiến tranh cách mạng. Bài học của khởi nghĩa Pa-ri 1871 trong chiến tranh Pháp - Phổ, bài học của khởi nghĩa ở Ba Lan, Tiệp Khắc trong chiến tranh thế giới thứ 2, bài học của nổi dậy đều khắp của Mậu Thân 1968 và mùa Xuân 1975, đều chứng minh quy luật này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #117 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 08:35:51 pm »


        b) Vấn đề thế trận trong trận quyết chiến chiến lược.

        Lực lượng là một yếu tố quan trọng để tạo nên sức mạnh hơn địch để chiến thắng. Nhưng lực lượng có khi đông hơn cũng chưa phải đã giành chiến thắng nếu không biết sử dụng một cách khéo léo. Khi lực lượng không ưu thế hơn mà muốn thắng kẻ địch đông hơn thì nghệ thuật quân sự lại càng phải cao hơn. Quá trình chống ngoại xâm của dân tộc ta trong nhiều nghìn năm lịch sử, kẻ địch thường đông hơn ta, do có truyền thống của nghệ thuật quân sự Việt Nam là lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh. Nghệ thuật quân sự tài giỏi của dân tộc đã được phát huy tới đỉnh cao trong thời đại Hồ Chí Minh, mà một nội dung quan trọng là lập thế ta và phá thế địch, để với một lực lượng ít hơn tạo ra một sức mạnh lớn hơn đối phương để giành chiến thắng.

        Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 với lực lượng địch còn hơn ta 1,7/1, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 1-1975 đã quyết định: “phải hướng mũi nhọn tiến công vào những nơi yếu nhất của địch là nông thôn, rùng núi, đồng bằng và ven đô thị, nhưng muốn giành được thắng lợi hoàn toàn thì cuối cùng phải tập trung lực lượng tiêu diệt lực lượng quân sự địch trên chiến trường được lựa chọn, đồng thời tiến công vào sào huyệt của chúng là thành thị, đánh đổ chính quyền đầu não của chúng, giành toàn thắng về tay nhân dân”. Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh của ta đã lập thế trận chiến lược rất hiểm, cho nên đã tạo nên một sức mạnh áp đảo, giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn.

        Thế trận được thể hiện trên cơ sở ta đã triển khai được cả lực lượng quân sự, chính trị, cả 3 thứ quân vào một thế chiến lược hiểm và cơ động. Nòng cốt của thế trận này là thế trận của khối chủ lực và trên các hướng gồm các quân đoàn, sư đoàn của các quân khu và của Bộ tổng tư lệnh. Ta bố trí 3 khối chủ lực lớn ở Tây Nguyên - Huế - Quảng Nam, miền Đông Nam Bộ, có khả năng giáng những đòn tiêu diệt lớn về chiến dịch trên từng khu vực và khi cần có thể tập trung nhanh chóng tạo được thế áp đảo trên hướng quyết định.

        Ngoài lực lượng chủ lực, ta đã biết tập trung các lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng chính trị vào các thành phố, thị xã, quận lỵ, chi khu để sẵn sàng phối hợp với chủ lực khi có thời cơ.

        Thế trận này đã tạo ra các khả năng:

        Một là, vừa đánh được địch trên diện rộng lại vừa tập trung được lực lượng đánh địch mạnh trên hướng chủ yếu, đánh được địch trên cả ba vùng chiến lược, rừng núi, đồng bằng, đô thị và khi cần nhanh chóng tập trung vào đô thị, trung tâm quân sự chính trị, kinh tế của từng vùng, cũng như toàn miền Nam, buộc địch phân tán lực lượng, kể cả khối chủ lực cơ động chiến lược, không sao tập trung nổi.

        Hai là, thế trận có thể chia cắt chiến lược ở Tây Nguyên và miền Trung, bao vây, cô lập cụm quân phía Bắc, không cho địch rút lui, co cụm chiến lược, không cho địch ứng cứu lẫn nhau.

        Ba là, có thể cơ động lực lượng, tập trung nhanh chóng, chớp thời cơ chiến lược mới xuất hiện vào hướng chủ yếu là Sài Gòn - Gia Định.

        Bốn là, có thể cho phép ta bằng đòn tiến công mạnh vào nơi hiểm yếu của địch là Tây Nguyên, tạo nên một phản ứng mạnh làm cho địch rối loạn và suy sụp nhanh chóng, có tính chất dây chuyền ở từng khu vực cũng như trên quy mô toàn bộ chiến trường. Thế trận này bảo đảm đánh địch trong phương án thời cơ, bảo đảm giành thắng lợi của cuộc tổng tiến công theo quy luật nhảy vọt của giai đoạn kết thúc chiến tranh.

        Thế trận thể hiện nghệ thuật sử dụng lực lượng trong mối tương quan với kẻ địch cụ thể, cả về lực và thế - thế trận không phải chỉ là biết tập trung lực lượng vào địa điểm và thời cơ có lợi để đánh đòn tiêu diệt, mà còn để biết phân tán địch cao độ, điều khiển được địch theo ý muốn của ta trong quá trình diễn biến tác chiến.

        Thế trận vận động, chuyển hóa trên toàn chiến trường chiến lược chứ không tĩnh tại ở một khu vực, một điểm, nó bao gồm cả tập trung lực lượng ta, phân tán lực lượng địch, tạo nên sự phát triển dây chuyền, từ phá vỡ đối phương đến khuếch trương thắng lợi và tiêu diệt địch khi thời cơ đến, cho nên không nên hiểu thế trận chỉ là bố trí lực lượng.

        Bài học quan trọng là, với lực lượng không hơn địch mà biết bố trí, sử dụng lực lượng vào thế buộc địch phải phân tán dàn mỏng lực lượng, tạo ra sơ hở ở khu hiểm yếu, để tập trung mọi nỗ lực chủ yếu của lực lượng và chỉ đạo đánh đòn mở đầu choáng váng, phá vỡ thế chiến lược, đó mà phát triển các đòn tiếp nối và đòn quyết định đánh bại hoàn toàn quân địch ở điểm quyết định cuối cùng.

        Có thế trận lợi hại thì lực lượng nhỏ cũng thành sức mạnh lớn, lực lượng lớn lại càng phát huy tác dụng gấp nhiều lần và có thể tạo nên một sức mạnh gấp bội áp đảo đối phương, giành thắng lợi trong thời gian ngắn với hiệu suất cao. Đại thắng mùa xuân năm 1975 cũng như đại thắng Đông Xuân 1953 – 1954, đã thể hiện nghệ thuật quân sự tài tình của ta trong việc lập thế trận ta và phá thế trận địch. Chỉ trong một thời gian ngắn mà hàng triệu quân địch trong một thế trận ổn định, xây dựng hàng chục năm trời cũng tan vỡ ra từng mảnh rất nhanh. Nghệ thuật lập thế, tạo thế được thể hiện cụ thể trên quyết tâm ở việc xác định đúng phương hướng và mục tiêu tiến công. Bộ máy chiến tranh của địch được bố trí trên toàn bộ chiến trường miền Nam rộng lớn, làm thế nào chọn hướng và mục tiêu để đánh đòn chủ yếu quyết định tiêu diệt, làm tan rã địch trên quy mô lớn, phá vỡ thế bố trí chiến lược tạo ra một phản ứng dây chuyền làm rung chuyển thế chiến lược, dẫn đến đòn quyết định nhất. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 ta đã chọn thủ đô ngụy là Sài Gòn - Gia Định làm phương hướng và mục tiêu chủ yếu quyết định số phận của ngụy quân và ngụy quyền. Nhưng với lực lượng có hạn, phải dùng 3 đòn liên tiếp có tác động dây chuyền thì việc chọn hướng và mục tiêu cho đòn mở đầu cuộc tổng tiến công có tác dụng thối động là hết sức quan trọng, chứ không thể đánh mở đầu ngay vào Sài Gòn mà kết thúc được chiến tranh. Bộ Chính trị đã chọn Tây Nguyên là nơi định yếu hơn cả, nhưng lại hiểm yếu có tác dụng chia cắt chiến lược, cô lập Quân khu 1 và khi cần có thể tập trung lực lượng nhanh vào hướng chủ yếu. Thắng lợi ở Tây Nguyên vừa có ý nghĩa tiêu diệt một lực lượng quân sự có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa phá thế phòng ngự hoàn chỉnh về chiến lược của địch và có khả năng thực tế tạo ra một thế mới để khuếch trương thắng lợi, chuyển thắng lợi cục bộ thành thắng lợi toàn bộ. Như vậy, bắt đầu vào chỗ yếu nhưng hiểm yếu, kết thúc vào nơi quyết định nhất của phòng ngự chiến lược của địch, là thủ đô của ngụy quyền.

        Giá trị của từng đòn, trình tự và tập trung nỗ lực của từng đòn là hạt nhân trong quyết tâm để tạo ra sự phát triển bùng nổ dây chuyền mà trong nghệ thuật quân sự thường được gọi là sự nối tiếp của phá vỡ với khuếch trương chiến quả của chiến lược yếu đánh mạnh ít địch nhiều. Ta có thể dùng mấy câu thơ sau để mô tả chiến lược này:

                                       Một trận đầu, Miền Nam đứt đoạn,
                                       Trận thứ hai, nửa Bắc sạch trơn.
                                       Thế chục năm, vụt đã rối loạn,
                                       Trận cuối cùng, tan nát triệu quân.

        Khác với nghệ thuật quân sự của các nước có sức mạnh quân sự thường đánh vào chỗ mạnh bằng một đòn chết tươi. Bài học nghệ thuật quân sự của ta trong chiến tranh giải phóng, trong lấy ít định nhiều, lấy yếu đánh mạnh này đã được Nguyễn Trãi, nhà lý luận thiên tài của dân tộc khái quát trong mấy câu thơ:

                                       Một tiếng trống, ngạc kình đứt đoạn
                                       Hai tiếng trống, chim muông sợ tan
                                       Tổ kiến hổng, làm toang đê vỡ.
                                       Trận gió rung, rụng trút lá khô.

        Nghệ thuật này đã được phát huy trong chiến tranh chống Pháp với đỉnh cao là chiến cục Đông Xuân 1953 - 1954 bằng năm đòn liên tiếp, buộc định phân tán và đòn quyết định kết thúc chiến tranh chống Pháp ở Điện Biên Phủ. Trong chiến tranh giải phóng miền Nam: nghệ thuật này đã được phát triển đến đỉnh cao và còn có giá trị về sau này đối với chúng ta trong chiến tranh bao vệ Tổ quốc
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #118 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 08:37:27 pm »


        3. Vấn đề tạo thời cơ và tận đụng thời cơ chiến lược:

        Trong nghệ thuật đấu tranh cách mạng cũng như nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, Đảng ta rất coi trọng nhân tố thời cơ, coi thời cơ là lực lượng hết sức quan trọng.

        Thời cơ do nhiều nhân tố phát triển đến chín muồi tạo thành, gồm cả nhân tố chủ quan và khách quan, cả về địch và ta, tác động lẫn nhau. Những nhân tố đó đều có quá trình phát triển tiệm tiến, ta có thể nhận thức được xu thế phát triển của nó. Muốn tạo và vận dụng thời cơ phải nắm vững các nhân tố, nắm được xu hướng phát triển của nó và phải có nỗ lực chủ quan để tác động thúc đẩy chúng phát triển chín muồi, hạn chế những nhân tố không có lợi và nỗ lực chuẩn bị những điều kiện chủ quan để tận dụng thời cơ. Các chiến dịch Biên Giới 1950, Điện Biên Phủ 1954, cuộc tiến công và nổi dậy 1968, đặc biệt là tổng công kích và nổi dậy Xuân 1975 đều là những điển hình thành công về sáng tạo và tận dụng thời cơ chiến lược một cách có ý thức và có hệ thống của ta.

        Thời cơ chiến lược của trận quyết chiến chiến lược Xuân 1975 tạo ra bước nhảy vọt của chiến tranh đã được xác định trong quyết tâm của Bộ Chính trị, tháng 1-1975 trên cơ sở phân tích các yếu tố địch, ta đã trình bày và đặc biệt được xác định sau chiến thắng Buôn Ma Thuộc và Tây Nguyên. Trong nghị quyết Bộ Chính trị ngày 18 và 25-3-1975 đã xác định thời cơ chiến lược mới trên cơ sở các yếu tố sau:

        - Một là, tinh thần quân ngụy đã có bước sa sút mới, đòn Tây Nguyên làm rung động cả đồng bằng và đô thị.

        - Hai là, ta đã phá vỡ thế chiến lược phòng ngự của địch xây dựng từ 20 năm nay, buộc địch phải điều chỉnh bố trí chiến lược.

        - Ba là, chỉ đạo của quân ngụy bắt đầu rối loạn và mất hiệu lực, có triệu chứng bước đầu của sự tan rã và suy sụp lớn.

        - Bốn là, khả năng can thiệp của Mỹ, một lần nữa, tỏ ra rất hạn chế.

        - Năm là, ta còn sung sức, khí thế ngày càng cao, lực lượng và khả năng chiến đấu được tăng thêm, đã tạo ra một thế chiến lược mới rất cơ động và có lợi.

        Trình độ chiến đấu của chủ lực đã có bước phát triển mới, có khả năng đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, giải quyết nhanh gọn một thị xã lớn và đánh tiêu diệt gọn từng đơn vị cấp sư đoàn của địch.

        Như vậy, rõ ràng đến 24-3-1975 tổng số quân địch tuy còn lớn (trên 60 vạn), trong đó có 30 vạn quân chủ lực, gồm 10 sư đoàn và 8 trung đoàn, nhưng thế và tinh thần chiến đấu của chúng hoàn toàn khác.

        Thời cơ chiến lược được tạo ra do hành động tích cực của ta mà thể hiện chủ yếu là đòn tiêu diệt lớn ở Tây nguyên và nó cũng còn do địch phạm sai lầm nghiêm trọng về chiến lược, là vội vã rút bỏ Tây Nguyên một cách thiếu tổ chức.

        Thời cơ xuất hiện trong một thời gian nhất định, kịp thời nắm thời cơ chiến lược là một vấn đề quyết định của thắng lợi. Lúc này, thời gian là lực lượng mọi hành động phải theo đúng phương châm “kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất, chắc thắng”. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và cả chiến dịch Hồ Chí Minh đều là sản phẩm của nghệ thuật chỉ đạo tài tình về nắm thời cơ và tạo thời cơ mới liên tiếp trong quy luật nhảy vọt của giai đoạn kết thúc chiến tranh. Nắm thời cơ thể hiện ở chỗ, nắm vững địch, đặc biệt thế chiến lược của chúng, có dự kiến đối với sự phát triển tuần tự và nhảy vọt của chiến tranh, có chuẩn bị mọi mặt cả lực lượng, vật chất, sẵn sàng ứng phó với tình thế, đồng thời nắm vững lực lượng dự bị chiến lược, kịp thời cơ động lực lượng để khuếch trương chiến quả. Chỉ trong vài ngày 40 vạn quân địch đã bị tiêu diệt. Điều đó không thể có được nếu không có thời cơ chiến lược và không có sự chỉ đạo kiên quyết, tài giỏi và nghệ thuật tổ chức chỉ huy, tập trung lực lượng, hiệp đồng tác chiến của chiến dịch chiến lược nhiều quân đoàn và phát động được các lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương phối hợp hành động.

        Thời cơ tới phải có sức mạnh của quần chúng, sự nhất trí từ trên xuống dưới và hành động nhanh chóng, kịp thời của các cấp chỉ huy binh đoàn đến phân đội và lãnh đạo chính trị các cấp xuống quần chúng nhân dân trong lực lượng chính trị.

        Nghệ thuật tạo thời cơ, nắm thời cơ có liên quan mật thiết đến nghệ thuật tạo lực lượng, sử dụng lực lượng và nghệ thuật lập thế trận.

        Lực - Thế - Thời là ba yếu tố có quan hệ hữu cơ với nhau tạo ra chiến thắng, đặc biệt là đối với các cuộc chiến tranh, chiến dịch, chiến đấu mà lực lượng ta ít hơn đối phương thì thời thế lại có tác dụng quyết định đến sự phát huy lực lượng nhỏ thành sức mạnh lớn hơn địch để chiến thắng đối phương. Đúng như Nguyễn Trãi đã viết: “Có thời, có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn. Không thời mất thế thì mạnh hóa ra yếu, yên lại thành nguy, sự thay đổi đó chỉ trong trở bàn tay mà thôi”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #119 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 08:38:30 pm »


        4. Vấn đề quy hoạch chiến lược:

        Tổng công kích và nổi dậy trong trận quyết chiến chiến lược giai đoạn kết thúc chiến tranh phải được thực hiện bằng những chiến dịch đồng thời và kế tiếp nhau và cuối cùng kết thúc bằng chiến dịch chủ yếu quyết định. Muốn vậy, phải có quy hoạch chiến lược. Ăng-ghen đã viết: “chiến tranh bao gồm một loạt các chiến dịch quân sự liên hệ chặt chẽ với nhau bằng một kế hoạch chiến lược nhằm đạt được mục đích chiến lược”.

        Quy hoạch chiến lược là xây dựng những dự án chiến lược nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược một cách khoa học, chủ động, tránh được tình trạng rời rạc lẻ tẻ, ngăn chặn được sự mất phương hướng trong chỉ đạo chiến lược. Quy hoạch chiến lược gồm nhiều chiến dịch chiến lược. Mỗi chiến dịch đều phải dựa vào quyết tâm chiến lược, xác định rõ nhiệm vụ vị trí, vai trò của từng chiến dịch, có kế hoạch hiệp đồng các chiến dịch đồng thời và kế tiếp theo ý định chiến lược.

        Trong kháng chiến chống Pháp quy hoạch chiến lược của chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 gồm 2 thời kỳ. Một là tiến công tiêu diệt địch ở những hướng quan trọng tương đối sơ hở của địch, buộc chúng phải phân tán binh lực và bị động đối phó bằng 5 đòn chiến lược: giải phóng Lai Châu, bao vây Điện Biên Phủ, giải phóng Thà Khẹt; giải phóng cao nguyên Bô Lô Ven, A-tô-pơ, giải phóng Kon Tum Bắc Tây Nguyên; giải phóng Phông Xa Lỳ, khu vực Nậm U, uy hiếp Luông-phra-băng.

        Hai là, tiến công tiêu diệt Điện Biên Phủ.

        Trong tổng công kích và nổi dậy mùa xuân 1975 quy hoạch chiến lược đã mở đầu bằng chiến dịch Tây Nguyên và kết thúc bằng chiến dịch tiến công vào Sài Gòn thủ đô ngụy, ở giữa có một loạt chiến dịch song song và kế tiếp ở Quân khu 1 và Quân khu 3 của địch, tiêu diệt Huế - Đà Nẵng, giải phóng miền trung Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ.

        Chúng ta đã giành thắng lợi bằng một loạt các chiến dịch đồng thời và kế tiếp nhau nhằm từng bước tiêu diệt từng bộ phận lực lượng quan trọng của địch, làm tan rã từng mảng lớn quân địch, cuối cùng tập trung lực lượng áp đảo, mở chiến dịch cuối cùng đánh vào Sài Gòn.

        Các chiến dịch đều có quy mô từ quân đoàn trở lên và càng về sau càng lớn, với lực lượng ngày càng mạnh, có sức đột kích lớn, hỏa lực mạnh và sức cơ động cao, có khả năng thọc sâu vào trung tâm chiến lược của địch, với các binh đoàn xe tăng, thiết giáp và cơ giới cơ động nhanh.

        Các trận đánh quy mô sư đoàn là hết sức phổ biến trong chiến dịch chiến lược.

        Quy hoạch chiến lược này “được sắp xếp theo thứ tự hành động có tác động của nghệ thuật tạo thời cơ, lập thế trận và sử dụng lực lượng cụ thể, trong điều kiện thế của chiến trường có thể bảo đảm các mặt cho sự vận động, triển khai, quy hoạch được tiến hành thuận lợi bằng việc tích lũy vật chất, kỹ thuật ở những nơi dự kiến của chiến trường và một mạng lưới giao thông cơ giới chiến lược và chiến dịch được tính toán kỹ cả đường ta và đường địch sau khi ta giải phóng.

        Tính mục đích và tính kế hoạch là những điều kiện quan trọng của thắng lợi trong đấu tranh vũ trang. Việc bảo đảm có được những tính đó phụ thuộc vào kinh nghiệm, tri thức và tài nghệ của cán bộ chỉ huy và cơ quan các cấp, đặc biệt của cấp chiến lược và chiến dịch.

        Trận quyết chiến chiến lược diễn ra trên một không gian rộng lớn, một thời gian dài, với quy mô lực lượng lớn, với chi phí một số lớn vật chất kỹ thuật, đòi hỏi trình độ khoa học và nghệ thuật chỉ đạo chiến lược cao mà Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu ta đã điều khiển cuộc tổng công kích nổi dậy Xuân 1975 một cách tài tình, sắc bén.

        Những bài học rút ra trên đây chỉ nói lên được một phần những nghệ thuật chỉ đạo chiến lược thành công của ta trên khía cạnh vận động của quy luật nhảy vọt trong giai đoạn kết thúc chiến tranh.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM