Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 10:49:58 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam  (Đọc 54494 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #90 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 06:25:58 pm »


        Tuy nhiên, trong điều kiện địch còn hơn 1 triệu quân, tiềm lực chiến tranh lớn, có một bộ máy chính quyền phản động từ Trung ương đến địa phương, do đó, việc tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa sẽ gặp nhiều khó khăn ác liệt. Bộ Chính trị dự kiến, có 3 khả năng:

        Một là tổng công kích, tổng khởi nghĩa thành công, ta giành được thắng lợi lớn, địch bị thua, phải thương lượng với ta, dần dần kết thúc chiến tranh theo điều kiện ta đặt ra.

        Hai là, ta giành thắng lợi có mức độ, địch vẫn còn giữ được những vị trí quan trọng, nhất là các đô thị lớn, liên tiếp chống lại ta.

        Ba là, Mỹ tăng thêm lực lượng mở rộng chiến tranh ra cả phần lãnh thổ miền Bắc, Lào, Cam-pu-chia, hòng xoay chuyển cục diện chiến trường, gỡ thế thất bại, khả năng này có ít, nhưng phải đề phòng.

        Một vấn đề quan trọng mà Bộ Chính trị vạch ra là: tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một quá trình ta tiến công và nổi dậy liên tục để đè bẹp sức kháng cự của địch, đồng thời cũng là quá trình địch phản công ác liệt để giành lại vị trí đã mất.

        Bộ Chính trị giao cho Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh xây dựng phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa.

       Nội dung chính của phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đề ra là: cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở chiến trường chính là đường số 9 - Khe Sanh nhằm tiêu diệt, thu hút ghìm chân lực lượng chiến lược của Mỹ, mỗi đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã, quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng ở nông thôn và đô thị mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và các thành phố lớn, trọng điểm là Sài Gòn.

        Trong thư gửi cho Trung ương Cục và Quân ủy miền Nam ngày 18-1-1968, đồng chí Lê Duẩn viết: “Đế quốc Mỹ đang ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. So với mục đích chính trị, kinh tế xã hội của nước Mỹ, thì những cố gắng chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam hiện nay đã lên đến đỉnh cao nhất... Tình hình trên đây cho phép ta có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa... giáng cho chúng những đòn tiến công sấm sét, làm thay đổi cục diện chiến tranh, làm lung lay hơn nữa ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc phải thay đổi chiến lược, phải xuống thang chiến tranh...”.

        Để phân tán lực lượng định và hỗ trợ cho nhau, Đảng ta và Đảng nhân dân cách mạng Lào thống nhất chủ trương mở chiến dịch Nậm Bạc. Từ 12-1 đến 27-1-1968 ta tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 11 tiểu đoàn địch, loại khỏi vòng chiến đấu 3000 tên.

        Thực hiện chủ trương tổng công kích, tổng khởi nghĩa của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, trong lúc ta và bạn đang mở chiến dịch Nậm Bạc thì ngày 21-1-1968, chủ lực ta bất ngờ nổ súng tiến công vào toàn bộ tuyến phòng thủ đường 9 của địch, trọng điểm là Khe Sanh, Hương Hóa, tiêu diệt quận lỵ Hương Hóa và làng Vây, uy hiếp Tà Cơn.

        Đòn tiến công này đã làm cho bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn bất ngờ, lúng túng. Chúng vội vàng điều ngay ra Trị Thiên sư đoàn 1 kỵ binh bay và 2 lữ đoàn dù, thuộc sư đoàn 101 vừa từ Mỹ sang.

        Cùng thời gian này, các chiến trường Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên đẩy mạnh hoạt động, thu hút, phân tán lực lượng địch, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng.

        Trong lúc địch đang lúng túng, bị động, thì đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 tức là đêm giao thừa Tết Mậu Thân, quân dân miền Nam đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường, đánh vào 5 trong 6 thành phố, 37 trong 44 thị xã và hàng trăm quận lỵ, căn cứ, kho tàng, sở chỉ huy của địch.

        Tại Sài Gòn, từ đêm 30-1-1968, ta phối hợp lực lượng trong và ngoài thành phố tiến công Tòa đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu, Đài phát thanh, Bộ tư lệnh biệt khu thủ đô, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tư lệnh hải quân v.v... Lực lượng tự vệ và nhân dân ta đã tiến công các cơ quan ngụy quyền.

        Tại Huế, ta tiến công và làm chủ phần lớn thành phố, cắm cờ mặt trận lên cột cờ thành Huế. Trên 30 thành phố, thị xã đồng loạt bị tiến công. Trong vài ngày đầu năm hầu hết các thị trấn, thị xã ở miền Nam đều có tiến công và nổi dậy của quân dân ta.

        Địch bị một đòn bất ngờ, choáng váng trước quy mô tiến công và nổi dậy của ta. Nhiều tuyến giao thông bị cắt đứt, tê liệt. Khí thế cách mạng dâng cao. Nhân dân nô nức, hết lòng giúp lực lượng vũ trang, tiếp tế, cứu chữa thương binh, tiêu diệt ác ôn...

        Địch phải điệu đồng quân dù, lính thủy đánh bộ, máy bay, xe tăng, cảnh sát dã chiến để phản kích. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trong những khu phố, căn nhà kéo dài cả tháng 1 và tháng 2.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #91 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 06:27:06 pm »


        - Kết thúc đợt 1 cuộc tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường miền Nam, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 100 ngàn tên địch (có 43 ngàn tên Mỹ) gần 20 vạn ngụy quân đào, rã ngũ, một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh bị phá huỷ (2.370 máy bay, 1.700 xe tăng, xe bọc thép, hàng ngàn ô tô, trên 1 triệu tấn vật tư chiến tranh).

        Quần chúng ở nhiều vùng nông thôn nổi dậy giành quyền làm chủ, thành lập chính quyền cách mạng. Hơn 1,2 triệu dân được giải phóng.

        Thắng lợi quan trọng của đòn tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân có ý nghĩa chiến lược to lớn.

        Tập đoàn cầm quyền ở Mỹ bị phân hóa và dao động cao độ. Ngày 22 tháng 3 năm 1968, Giôn-xơn ra lệnh cách chức tướng Oét-mo-len, từ bỏ chiến lược “tìm diệt”, chuyển sang chiến lược “quét và giữ”.

        Ngày 31-3 Giôn-xơn ra lệnh ngừng nén bom miền Bắc, từ vĩ tuyến 20 trở lên, đồng thời thông cáo quyết định không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 2, và cứ đại diện đàm phán với đại diện chính phủ ta tại Pa-ri.

        Cuối tháng 4-1968, Bộ Chính trị họp đánh giá tình hình và kết quả đợt hoạt động Tết Mậu Thân và ra nghị quyết, tiếp tục mở đợt tổng tiến công đợt 2 (bắt đấu từ 4-5-1968).

        Đến tháng 8-1968, Bộ Chính trị họp và quyết định đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh thế tiến công toàn diện quân sự, chính trị, bằng 3 mũi giáp công, nhằm đạt được mục tiêu chiến lược đã đề ra, giành thắng lợi quyết định, làm cho địch thất bại ở chiến trường, thất bại ở các thành thị lớn và thất bại ở ngay nước Mỹ.

        Đợt tổng tiến công thứ 3 bắt đầu tù 17-8 đến 30-9-1968.

        Mặc dù đã co cụm về phòng giữ hết sức cẩn mật các thành phố, thị xã, các đường giao thông chiến lược quan trọng và tổ chức nhiều cuộc hành quân giải tỏa các vùng, quân địch vẫn bị ta tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ và chi khu, các căn cứ, kho tàng, sân bay...

        Đường 9 và Khe Sanh là một trong những mục tiêu quan trọng, có ý nghĩa chiến lược mà theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Giôn-xơn, địch đã tập trung một lực lượng lớn để phòng giữ bằng bất cứ giá nào, không để xảy ra một “Điện Biên Phủ” thứ 2 ở đây.

        Trong quá trình bị bao vây, địch đã sử dụng hàng chục tiểu đoàn pháo để chi viện, đã sử dụng 100 nghìn tấn bom của máy bay B52 và máy bay chiến đấu chiến thuật, tiếp tế đường không khoảng 15 ngàn tấn hàng, dùng 9.100 lượt máy bay lên thẳng để chuyên chở quân và thương binh.

        Chiến dịch Khe Sanh đã thu hút và giam chân một lực lượng quan trọng của Mỹ. tạo điều kiện cho các hướng khác tổng tiến công và nổi dậy từ Tết Mậu Thân.

        Trước sức ép nặng nề về quân sự, để tránh một Điện Biên Phủ, ngày 26-6-1968 quân Mỹ đã rút chạy khỏi Khe Sanh. Sau 170 ngày vây hãm và đánh địch rút chạy, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên địch (có 13.000 tên Mỹ), bắn rơi và bị thương 4.800 máy bay, phá hủy 120 xe quân sự, 65 đại bác và súng cối, thu hàng ngàn tấn vũ khí và đạn dược, giải phóng hoàn toàn quận Hương Hóa, với hơn 1 vạn dân. Một tuyến phòng thủ chiến lược quan trọng, kéo dài gần 40 km, trên đường 9, từ Lao Bảo đến Ca Lu bị bỏ ngỏ. Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược.

        Kết thúc năm 1968, miền Nam giành thắng lợi lớn, loại khỏi vòng chiến đấu gần 630 ngàn tên (có 230 ngàn tên Mỹ và chư hầu), bắn rơi và phá hủy 600 máy bay các loại, diệt 13.500 xe quân sự các loại, san bằng, bức rút 1500 đồn bốt, giành chính quyền cách mạng ở 1.000 thôn ấp với trên 2 triệu dân.

        Mặc dù đế quốc Mỹ đã đưa số quân viễn chinh lên đến gần 53 vạn tên cuối năm 1968, nhưng vẫn không xoay chuyển nổi tình hình chung trên chiến trường. Việc đánh phá và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc không thu được kết quả đáng kể, nội bộ tập đoàn cầm quyền Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ lên cao, vấn đề Việt Nam đã trở thành hàng đầu trong cuộc tranh cử tổng thống vào tháng 11 năm 1968 của Đảng dân chủ đang cầm quyền ở Mỹ.

        Trước tình hình đó, ngày 1-11-1968, chính quyền Giôn-xơn buộc phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom bắn phá miền Bắc nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bằng không quân, hải quân và pháo binh, chấp nhận họp hội nghị bốn bên về Việt Nam tại Pa-ri, có đại diện của Mặt trận dân tộc giải phóng, để tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #92 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 06:45:58 pm »

         
ĐÁNH GIÁ THẮNG LỢI VÀ NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA  TRONG GIAI ĐOẠN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
(1965 - 1968)

        Từ 1965 đến 1968, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc vô cùng khốc liệt, hòng khuất phục nhân dân ta.

        Bằng cuộc chiến tranh nhân dân thần kỳ, nhân dân ta đã từng bước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của chúng trên cả 2 miền, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, chịu ngồi vào đàm phán ở Hội nghị Pa-ri và tìm cách rút dần ra khỏi Việt Nam.

        Sức mạnh khổng lồ của đế quốc Mỹ, cả về kinh tế và quân sự đã không thắng nổi cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta, không cứu được chúng khỏi thất bại thảm hại ở Việt Nam.

        Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ có một ý nghĩa vô cùng to lớn. Trước tiên, nó chứng minh cho nhân dân thế giới thấy rõ sức mạnh và khả năng to lớn của cách mạng và của chiến tranh cách mạng có thể thắng được các thế lực đế quốc xâm lược hao người tốn của ghê gớm như cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.

        Đánh bại chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, chúng ta đã tạo được thế và lực mới để tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn trong những năm tiếp theo và giành thắng lợi cuối cùng trong năm 1975.

        Thắng lợi của nhân dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc, đánh bại chiến tranh cục bộ và chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đã tạo cơ sở quan trọng và vững chắc cho việc hoàn thành nhiệm vụ chiến lược “đánh cho Mỹ cút”.

        Không đánh thắng “chiến tranh cục bộ” trong những năm 1965 và 1968, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, thì không có điều kiện và tiền đề để giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để trong cuộc kháng chiến.

        Từ những thắng lợi chiến lược đã giành được và cả những khuyết điểm, hạn chế trong chỉ đạo chiến lược, rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng về chỉ đạo chiến tranh.

        Trước nhất là phải có tinh thần dám đánh và quyết đánh Mỹ, từ đó sẽ dần tìm ra cách đánh tốt nhất để thắng chúng.

        Khi Mỹ đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bằng không quân và hải quân ở miền Bắc, không phải không có những bạn bè lo lắng cho chúng ta, liệu chúng ta có đủ sức đương đầu nổi với tên đế quốc đầu sỏ không? lấy gì để chống Mỹ?

        Nhưng nhân dân Việt Nam với truyền thống yêu nước đã được thử thách và tôi luyện, sẵn sàng chấp nhận, bước vào cuộc đọ sức mới. Đế quốc Mỹ đã gặp phải một đối tượng là dân tộc Việt Nam, một dân tộc luôn luôn giữ vững lời thề “thà hy sinh tất cả chứ không chịu làm nô lệ”. Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, chúng đã khơi dậy sức mạnh yêu nước tiềm tàng của dân tộc và càng làm cho dân tộc Việt Nam đoàn kết lại.

        Trong lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-7-1966 Người chỉ rõ “Giôn-xơn và bè lũ phải biết rằngchúng có thể đưa 50 vạn quân, một triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc, nhưng chúng quyết không lay chuyển được ý chí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng... Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do...”.

        Sau khi đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam tháng 3-1965, đến 27-5-1965 bộ đội Quân khu 5 đã tiến công tiêu diệt gọn 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ ở Núi Thành. Tiếp theo là trận Vạn Tường, giữa ban ngày, 1 trung đoàn chủ lực của ta cùng với bộ đội địa phương và dân quân du kích xã đánh bại cuộc hành quân tìm diệt của hơn 8.000 quân Mỹ, có máy bay, xe tăng, hải quân chi viện.

        Những trận thắng Mỹ đầu tiên có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó vạch ra một đáp án để đánh thắng Mỹ, đó là phải dám đánh Mỹ. Và khi đã dám đánh Mỹ thì sẽ dần tìm ra cách đánh hay nhất, tốt nhất để đánh thắng chúng.

        Sau Núi Thành, Vạn Tường, tiến đến Plây-me, Đất Cuốc, Dầu Tiếng, Bầu Bàng, Đồng Dương, khách sạn Mê-tơ-rơ-pôn, chúng ta đã thắng Mỹ liên tiếp, trận sau lớn hơn trận trước và tiếp theo là bẻ gãy 2 đợt phản công chiến lược của địch trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 để đến Xuân 1968, bằng các đợt tổng tiến công và nổi dậy, chúng ta đánh thắng chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang và quyết định rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #93 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 06:48:14 pm »


        Thứ hai đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch:

        Khi đế quốc Mỹ đưa 20 vạn quân vào trực tiếp chiến đấu, tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam thì hội nghị Trung ương lần thứ 14 (tháng 12-1965) đã xem xét, đánh giá và rút ra kết luận vô cùng quan trọng:

        “Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn”.

        Rút ra kết luận trên đây là xuất phát từ các căn cứ:

        - Đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam trong thế thua để cứu cho ngụy quân, ngụy quyền khỏi sụp đổ, nên bị động về chiến lược trong một cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Vừa leo thang chiến tranh từng bước, vừa phải thăm dò dư luận trên thế giới và trong nước Mỹ. Đế quốc Mỹ đưa quân vào trong hoàn cảnh cách mạng miền Nam đang trưởng thành, đang phát triển, đã đủ sức đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, có khả năng tiêu diệt chế độ ngụy quyền ở miền Nam.

        Về lực lượng quân sự, đã hình thành thế trận chiến tranh nhân dân với 3 thứ quân, đứng vững trên tất cả các địa bàn quan trọng cả 3 vùng, đã xây dựng được thế trận xen kẽ, có lực lượng cắm sâu tận sào huyệt địch.

        - Địch vào tuy đông, nhưng không thể điều động lực lượng theo ý muốn ban đầu. Do phải đối phó với thế trận chiến tranh nhân dân không chiến tuyến phát triển nên chỗ nào cũng thấy hở, địch phải dàn mỏng lực lượng và dốc toàn lực để tiến công chiến lược, tiến từ tuyến này đến tuyến khác.

        Việc hội nghị Trung ương lần thứ 14 đánh giá so sánh tương quan lực lượng địch, ta đúng đắn, chính xác và rất khoa học, có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng, vì nó là cơ sở để định hướng cho quyết tâm chiến lược.

        Thứ ba: quyết tâm giữ vững và phát triển chiến lược tiền công.

        Từ đánh giá so sánh tương quan lực lượng, mặc dù để quốc Mỹ đưa vào hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng so sánh tương quan thế, lực ta và địch vẫn không thay đổi lớn, ta đã hạ quyết tâm tiếp tục đẩy mạnh chiến lược tiến công mà không quay về phòng ngự chiến lược, là một chủ trương sáng suốt, dũng cảm.

        Nhờ tiếp tục đẩy mạnh thế tiến công, nên ta đã đẩy quân địch vào thế bị động chiến lược. Đặc biệt việc lập quân khu Trị Thiên và mở mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị để đẩy địch vào thế lúng túng, bị động đối phó, giam chân một lực lượng chủ lực lớn của Mỹ vào chiến trường rừng núi, trực tiếp đương đầu với chủ lực miền Bắc của ta, tạo điều kiện cho các chiến trường khác giành quyền chủ động.

        Trên cả 3 vùng, ta đều căng địch ra mà đánh, nơi nào chúng cũng bị đánh, bị tiêu hao, tiêu diệt bằng những trận tập kích, phục kích, vận động, tiến công bất ngờ.

        Khi địch mở các cuộc phản công chiến lược hy vọng giành lại thế chủ động thì đã bị ta đánh bại. Chiến thắng đợt phản công chiến lược lần 1 của địch, tạo điều kiện, tiền đề để tập tan đợt phản công chiến lược lần 2, giành thắng lợi lớn hơn, đặc biệt việc đập tan cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti có ý nghĩa quan trọng cả về chiến lược và chiến thuật.

        Sau khi đánh bại 2 cuộc phản công chiến lược, không để cho địch có thời gian củng cố, ta tiếp tục phát triển tiến công địch trên tất cả các chiến trường Tây Nguyên, mở chiến dịch Đắc Tô, tập kích một loạt căn cứ của địch ở Trị - Thiên.

        Địch đã bị động càng thêm bị động, vội vã điều quân về giữ các khu trọng điểm then chốt ở Trị Thiên, Tây Nguyên và quanh Sài Gòn.

        Một đạo quân 1,1 triệu tên phải sa vào thế phân tán, bị động để đối phó với thế tiến công rộng khắp của chiến tranh nhân dân ta.

        Toàn bộ âm mưu chiến lược “tìm diệt” và “bình định” đều bị thất bại - thất bại cả quân sự và chính trị, ngoại giao.

        Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã quyết định phát triển chiến lược tiến công lên một đỉnh cao mới; tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, đưa cuộc chiến tranh cách mạng sang thời cơ mới. Và cuộc tổng tiến công nổi dậy Xuân 1968 lại giáng thêm một đòn chí tử vào chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của chúng, làm đảo lộn thế chiến lược của địch, buộc chúng từ bỏ chiến lược “tìm diệt” quay sang chiến lược “quét và giữ”, xuống thang chiến tranh.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #94 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 06:49:57 pm »


        Thứ tư: nghệ thuật chọn hướng tổng tiến công bất ngờ Xuân 1968.

        Trong khi địch có trên 1,1 triệu quân, trang bị hiện đại, bố trí thành 1 hệ thống phòng thủ chiến lược với nhiều căn cứ, nhiều tập đoàn phòng ngự ở khắp nơi, ta đã phát hiện đúng nơi hiểm yếu và sơ hở của địch. Đó là các đô thị, thành phố, các sở chỉ huy, căn cứ hậu cần, sân bay của địch.

        Phát hiện chính xác nơi sơ hở và hiểm yếu về chiến lược của địch, tập trung cao nhất mọi nỗ lực cố gắng của ta, tiến hành tổng công kích và nổi dậy một cách mạnh mẽ, bất ngờ, đồng loạt giáng cho địch một đòn hiểm hóc, giành thắng lợi chiến lược to lớn. Thắng lợi trong cuộc tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân là một thành công to lớn về vận dụng, quán triệt chiến lược tiến công, trong điều kiện lực lượng địch mạnh hơn ta nhằm đánh bại ý chí xâm lược của chúng.

        Thứ năm: nghệ thuật tổ chức thực tiễn tài giỏi của ta.

        Bác Hồ thường dạy: quyết tâm 10, biện pháp 20. Nghĩa là muốn biến quyết tâm thành thắng lợi hiện thực, đòi hỏi phải có công tác tổ chức thực tiễn tài giỏi.

        Trong hoàn cảnh địch tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, gây cho ta muôn vàn khó khăn tưởng chừng như không vượt nổi, nhưng với sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân, chúng ta đã khắc phục hết khó khăn này đến khó khăn khác, để giành thắng lợi từng bước, từ thấp đến cao cho đến đợt tổng tiến công Mậu Thân, là một quá trình nỗ lực phấn đấu hy sinh vô bờ bến của nhân dân cả hai miền và đặc biệt của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

        Miền Bắc vừa phải đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, vừa phải tổ chức chi viện sức người, sức của cho miền Nam, hệ thống đường chiến lược Trường Sơn ngày càng phát triển và không ngừng được củng cố chi viện chiến lược theo đường biển cũng được tổ chức thực hiện.

        Ở miền Nam, việc phát triển và củng cố 3 thứ quân cả vế số lượng và chất lượng, nhất là quân chủ lực, bộ đội đặc công và pháo binh được phát triển và củng cố nhanh chóng đã bảo đảm sức mạnh tổng hợp của 3 thứ quân được nâng lên rõ rệt.

        Việc tổ chức mạng lưới tình báo chiến lược, chiến thuật thành công vững chắc đã góp phần quan trọng cho việc chỉ huy lãnh đạo, hạ quyết tâm có cơ sở chắc chắn đánh bại được các cuộc phản công chiến lược của địch và tổ chức thắng lợi các đợt tiến công của ta.

        Thứ sáu: có một chiến lược tổng hợp để phát huy sức mạnh của dân tộc, của cả nước và sức mạnh của thời đại.

        Phải phát huy được sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao của chiến tranh cách mạng, toàn dân, toàn diện.

        Chiến lược tổng hợp trong giai đoạn đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ từ 1965 đến 1968, khi Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường Việt Nam, không những đã phát huy được sức mạnh của dân tộc ta, của lòng yêu nước, chống đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc và yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, làm chủ của nhân dân lao động, mà còn phát huy sức mạnh của thế giới tiến bộ, của ba dòng thác cách mạng. Tác động của nó vượt ra ngoài lĩnh vực hoạt động quân sự, ngoài không gian của chiến trường Việt Nam, đi vào toàn thế giới, trong đó có cả nước Mỹ và các nước chư hầu, có quân đội trực tiếp tham chiến ở Việt Nam.

        Chiến lược tổng hợp của Đảng ta, đã xác định mục tiêu phù hợp và đề ra phương hướng, phương châm, nguyên tắc cơ bản để xây dựng tổ chức lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, và có phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự chính xác, khoa học.

        Trong giai đoạn này, Đảng ta đã đề ra mục tiêu chiến lược được Bác Hồ khái quát ngắn gọn “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Mục tiêu này xác định mức độ, yêu cầu đạt được với từng kẻ thù mà đặc biệt là cần có với kẻ thù chủ yếu, là đội quân viễn chinh của Mỹ và chư hầu, Đảng ta không đặt yêu cầu quá cao là diệt hết quân Mỹ đang tiến hành chiến tranh trên lãnh thổ Việt Nam, mà phải đánh làm sao cho Mỹ cút.

        Đứng về chiến lược trong chiến tranh, muốn buộc quân Mỹ phải cút, qua kinh nghiệm chiến thắng đế quốc Mỹ ở miền Nam và miền Bắc Việt Nam, thì quan trọng nhất là phải làm cho chúng một ý chí xâm lược, trên cơ sở các biện pháp chiến lược của chúng bị thất bại.

        Còn quân đông mà phải rút khỏi nước ta, đó là kinh nghiệm của Việt Nam chống xâm lược có tính chất truyền thống dân tộc chống kẻ thù mạnh hơn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #95 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 06:51:10 pm »


        Trải qua lịch sử chiến tranh Việt Nam, quân Tống đã phải rút chạy sau thất bại trước phòng tuyến sông Như Nguyệt; quân Mông Nguyên 3 lần bị tiêu diệt trong quá trình xâm lược, phải rút chạy về nước. Quân Pháp đã phải rút khỏi Điện Biên Phủ 1954. Đế quốc Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ và mạnh nhất phe đế quốc tư bản, có tiềm lực quân sự, kinh tế mạnh, có quyết tâm chống cộng sản, hết sức ngoan cố, sẵn sàng đi bất cứ đâu để bảo vệ chế độ tự do tư sản, như tổng thống Ken-nơ-đi đã từng tuyên bố, khi can thiệp vào Việt Nam.

        Đánh cho Mỹ mất ý chí xâm lược, phải xuống thang chiến tranh và rút quân viễn chinh trên 50 vạn tên khỏi nước ta, không phải dễ dàng có thể xác định được ngay, khi Giôn-xơn tuyên bố đưa quân Mỹ trực tiếp tham chiến vào năm 1965.

        Buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận từ bỏ chiến lược “chiến tranh cục bộ”, thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh” khi quân Mỹ trực tiếp tham chiến với lực lượng cao nhất, là một nghệ thuật. Ngay tướng Oét~mo-len, tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở miền Nam cũng phải nhận rằng Mỹ đã thua và ta đã giành được thắng lợi tâm lý ở Mỹ, ảnh hưởng đến tổng thống Giôn-xơn và các cố vấn dân sự của ông ta, buộc Giôn-xơn phải chấp nhận xuống thang chiến tranh, tuyên bố không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ thứ 2 và cách chức Oét-mo-len.

        Mất ý chí đem quân trực tiếp tham chiến, thất bại trong “chiến tranh cục bộ”, Mỹ phải quyết định “phi Mỹ hóa chiến tranh” để đến năm 1975, toàn bộ chính quyền ngụy với trên 1 triệu quân đổ nhào, chỉ là một diễn biến tất yếu của sự thất bại của chiến tranh cục bộ năm 1968.

        Mỹ phải cút, mất ý chí xâm lược, phải chịu xuống thang vì các biện pháp chiến lược tìm diệt và bình định của Mỹ đều thất bại trên 2 năm tham chiến trực tiếp. Mỹ đã không thắng nổi chiến tranh toàn dân của Việt Nam, Mỹ đã phải chấp nhận những trận chiến đấu theo ý đồ của đối phương, trong khi họ định đi tìm đối phương để diệt. Quân Mỹ trên chiến trường đã không phát huy được sở trường, sức mạnh của hỏa lực phi pháo, sức đột kích của xe tăng thiết giáp. Trái lại, cái sở đoản của đội quân cơ giới hợp đồng binh chủng khi bị đánh bất ngờ, mặt đối mặt với bộ binh tinh nhuệ của đối phương đã lúng túng giống như quân kỵ binh Mông Cổ giáp dầy giáo dài bị tập kích ban đêm, quân không kịp lên ngựa, bị các chiến binh ta dùng đoản binh chém giết, không chống đỡ nổi. Các chiến dịch tiến công, phản công vận động với các trận phục kích, tập kích, vận động tiến công đưa địch vào thế trận đã chuẩn bị của ta, buộc địch đánh trong thế bị động. Lấy phát huy tinh thần và cách đánh bám thắt lưng địch mà đánh, đã làm cho quân đội chính quy hiện đại của Mỹ khó trở tay kịp và cũng không biết cách đối phó ra sao. Đúng như Mo-sơ-đai - Jăng nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Ixraen khi đi thăm quân Mỹ ở miền Nam, đã phát biểu: “Chỉ nằm mơ mới thấy lực lượng của Hoa Kỳ triển khai tác chiến ở Việt Nam, nhưng lực lượng Mỹ đi tìm diệt thì đi đến đâu đối phương cũng biết. Trái lại, Việt Cộng chỉ chấp nhận chiến đấu khi họ muốn; Mỹ như một võ sĩ hạng nặng nhưng bị bịt cả hai mặt, trái lại, Việt Cộng như võ sĩ hạng nhẹ nhưng có cả hai mắt ở sau gáy”.

        Hai đợt phản công trong năm 1966 và trong năm 1967 đều thất bại, không tìm - diệt được đối phương mà lại còn bị thiệt hại nặng. Trên 200.000 quân (có 100.000 Mỹ và Nam Triều Tiên) bị loại khỏi vòng chiến đấu; trên 1.000 máy bay, trên 1.000 xe bọc thép bị phá hủy.

        Năm 1968, với đòn tổng tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam, đã làm cho địch thiệt hại lớn chưa từng có:

        - Trên 600.000 địch bị loại khỏi vòng chiến đấu, trong đó có trên 200.000 lính Mỹ, 6000 máy bay bị phá hỏng, 13.500 xe quân sự các loại bị phá hoại, 15.000 đồn bốt phải rút bỏ, trên 1.000 thôn ấp với trên 2 triệu dân được giải phóng.

        Biện pháp “tìm diệt” không có kết quả cộng với sự thất bại của “bình định”, mà một đòn sét đánh vào dịp Tết Mậu Thân, 5 trong 6 thành phố, 37 trong 44 thị xã và hàng trăm quận lỵ, căn cứ kho tàng, sở chỉ huy nằm sâu trong hậu phương địch đồng loạt bị tiến công, ngay đến tổng hành dinh của Mỹ, ngụy cũng đều bị đánh. Chỉ trong 1 tháng mà trên 100.000 tên địch, trong đó có trên 40.000 tên Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu, 20 vạn ngụy quân rã ngũ, 2.370 máy bay, 1.700 xe tăng, xe bọc thép trên 1.200.000 dân được giải phóng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #96 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 06:53:07 pm »


        Cuộc tiến công Tết Mậu Thân 1968 có ý nghĩa to lớn, vì nó nổ ra sau hơn 2 năm quân Mỹ trực tiếp tham chiến và nó diễn ra ngay sau khi tổng tư lệnh Mỹ Oét-mo-len báo cáo cho tổng thống Mỹ, là chủ lực Việt Cộng đã bị đẩy ra xa gần biên giới và nông thôn, đô thị miền Nam cơ bản đã được bình định.

        Nó thể hiện phương hướng tác chiến chiến lược của Đảng đề ra đã có hiệu lực lớn, chiến tranh du kích đã được phát triển lên đỉnh cao, đã tiêu hao, phân tán, ghìm chân địch, đập tan các cuộc càn quét, đánh bại âm mưu bình định, uy hiếp các đô thị của địch.

        Trên cơ sở 2 biện pháp chiến lược “tìm diệt” và “bình định” của địch bị đánh bại, chiến tranh nhân dân của ta ngày càng vững vàng, các phương thức tác chiến chiến lược được đề ra đã phát huy hiệu quả đánh địch trên toàn bộ chiến trường miền Nam.

        Các căn cứ hậu cần, sân bay, hải cảng bị đánh phá.

        Các đường giao thông thủy bộ quan trọng của địch đều bị đánh, tạo ra thế chia cắt, bao vây địch, buộc chúng phải đi vào phòng ngự.

        Trong các đô thị, việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang phát triển.

        Tác chiến kết hợp với binh vận, làm địch tan vỡ, ly khai, phát huy hiệu lực cao, đặc biệt trong tổng công kích và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân.

        Sáu phương thức tác chiến chiến lược là bài học kinh nghiệm quan trọng, đã trở thành những tư tưởng quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

        Thứ bảy là theo tôi trong giai đoạn này, trong lãnh đạo chiến tranh ta cũng có khuyết điểm ảnh hưởng đến kết quả của chiến thắng, gây thiệt hại và kéo dài thời gian chiến tranh.

        - Ý định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định mà Nghị quyết hội nghị Trung ương 14 đề ra, tháng 12-1967 vượt khả năng thực tế của ta lúc đó, vì kẻ địch còn hơn 1,1 triệu quân, được trang bị hiện đại, được bố trí thành hệ thống phòng thủ chặt chẽ trên khắp miền Nam.

        - Cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân mang tính chất và hình thức là một cuộc tổng tiến công chiến lược, hay tập kích chiến lược nhiều hơn là tổng tiến công, tổng khởi nghĩa. Trên thực tế, lực lượng sử dụng tổng tiến công không nhiều, sức mạnh tổng khởi nghĩa chưa thật rõ nét và đồng loạt mà mới biểu hiện ở một số nơi, còn chủ yếu là sự tham gia giúp đỡ của nhân dân trong việc đưa đường, tiếp tế nuôi giấu thương binh.

        - Cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân giành thắng lợi to lớn và có ý nghĩa chiến lược chủ yếu và tập trung là ở đợt một.

        Sau đợt 1, yếu tố bất ngờ đã mất, địch đã chuẩn bị đối phó quyết liệt.

        Nếu sau đợt 1, ta rút về củng cố các khu căn cứ và vùng giải phóng, đẩy mạnh chống phá “bình định”, củng cố lực lượng, thì thắng lợi sẽ lớn hơn, ít bị tổn thất. Việc đặt vấn đề tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một quá trình, và tổ chức liên tiếp hết đợt 1, sang đợt 2 và đợt 3, là một sai lầm, đã gây cho ta nhiều thiệt hại và khó khăn lớn. Thực tiễn chứng minh, với tương quan lực lượng thực tế lúc đó việc đặt ra mục đích đánh đổ ngụy quyền, cô lập và buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, chấp nhận chính quyền liên hiệp là không phù hợp.

        Dù sao thắng lợi của tổng tiến công Tết Mậu Thân, kết thúc giai đoạn đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, đã có ý nghĩa chiến lược to lớn. Bằng sức mạnh của chiến tranh nhân dân phát triển cao, kết hợp chặt chẽ hai phương thức tiến hành chiến tranh, bằng sức mạnh của cả lực lượng chính trị và vũ trang, tiến công địch trên cả 3 vùng chiến lược, nắm đúng thời cơ và tạo thời cơ, phá chiến lược, “tìm diệt” và “bình định” của đế quốc Mỹ, đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của chúng, buộc chúng phải xuống thang, phải ngồi vào bàn thương lượng.

        Thắng lợi của giai đoạn 1965 - 1968 đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lên một bước mới, giành thắng lợi to lớn hơn trong cuộc chiến tranh giải phóng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #97 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 06:58:59 pm »

       
ĐỘNG VIÊN NỖ LỰC CAO NHẤT CỦA CẢ NƯỚC, KIÊN QUYẾT ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” VÀ CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
(1969 - 1973)

        Cuối những năm 60, tương quan lực lượng trên thế giới biến đổi bất lợi cho Mỹ. Sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa được nâng lên rõ rệt, trào lưu cách mạng giải phóng dân tộc tiếp tục nâng cao, một số nước đồng minh của Mỹ cũng bước vào cạnh tranh mạnh với Mỹ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã tác động sâu sắc đến tình hình chính trị, kinh tế xã hội và tinh thần nước Mỹ và là một trong những nhân tố chủ yếu làm thay đổi các mối liên hệ chiến lược nói trên.

        Lợi dụng thất bại của chính quyền Giôn-xơn trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Ních-xơn đã trúng cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 1969 - 1973. Trước di sản nặng nề mà chính quyền cũ để lại, chính quyền mới ở Mỹ cho ra đời học thuyết “Ních-xơn” và chiến lược quân sự toàn cầu “ngăn đe thực tế” thay thế cho chiến lược “phản ứng linh hoạt” đã bị phá sản. Học thuyết Ních-xơn vẫn nhằm chống phá xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, duy trì vị trí của Mỹ trên thế giới, nhưng bằng cách cố gắng cải thiện nội tình chính trị, kinh tế - xã hội nước Mỹ, tăng cường lợi dụng mâu thuẫn giữa một số nước xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh việc sử dụng các đòn bẩy ngoại giao, nhất là với các nước lớn, sử dụng tối đa các đạo quân tay sai ở các khu vực để có thể giảm bớt gánh nặng quân sự cho Mỹ và “thay đổi màu da xác chết”.

        Đối với miền Nam Việt Nam, chính quyền Mỹ tiến hành “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Dùng người Việt đánh người Việt” với vũ khí trang bị và chỉ huy của Mỹ. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” bao gồm 3 giai đoạn:

        - Giai đoạn 1: Làm cho ta suy yếu, nâng cao sức mạnh quân ngụy Sài Gòn, chuyển giao dần nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho quân ngụy, rút từng phần quân chiến đấu Mỹ về nước.

        - Giai đoạn 2: Làm cho ta suy yếu thêm 1 bước nghiêm trọng, buộc ta phải lui vào phòng thủ và hoạt động nhỏ, rút phần lớn quân Mỹ về nước.

        - Giai đoạn 3: Hoàn thành việc rút quân Mỹ, củng cố sự kiểm soát của ngụy quân, ngụy quyền ở Nam Việt Nam.

        Mỹ đã ráo riết thi hành nhiều biện pháp kết hợp để thực hiện kế hoạch chiến lược này.

        Chúng ra sức tăng cường ngụy quân, củng cố ngụy quyền. Tới cuối năm 1971, quân ngụy đã có tới 1,04 triệu tên, được trang bị thêm nhiều máy bay, tàu chiến, xe tăng, pháo. Chúng quan tâm củng cố bọn tay sai chóp bu, chấn chỉnh chính quyền các cấp ở tỉnh, quận, gắng phục hồi kinh tế Nam Việt Nam vừa để lừa bịp, vừa để giảm gánh nặng cho Mỹ.

        Lợi dụng sự thiệt hại của ta qua 2 năm liên tiếp tiến công bộc lộ lực lượng chúng chủ trương tiến hành đồng thời ba loại chiến tranh: chiến tranh giành dân, chiến tranh ngăn chặn và bóp nghẹt, chiến tranh hủy diệt. Lực lượng Mỹ, ngụy kết hợp đã liên tiếp mở các cuộc hành quân phản kích, dùng B52 và các máy bay chiến thuật đánh phá ác liệt để đẩy lùi các đơn vị bộ đội chủ lực của ta ra xa các vùng xung yếu. Địch tiến hành “chiến dịch bình định”, lấy các vùng ven thành phố, thị xã làm trọng điểm rồi loang rộng dần với mục đích gom dân, phá các cơ sở cách mạng và du kích.

        Không dừng ở đó, địch còn đẩy mạnh “chiến tranh đặc biệt” ở Lào, giật dây bọn Lon Non tay sai, làm đảo chính lật Xi-ha-núc (3-1970), mở rộng chiến tranh sang Cam-pu-chia. Từ tháng 4-1970 đến hết năm 1971, địch đã liên tiếp mở các chiến dịch tiến công sang Cam-pu-chia và Lào. Mục đích của Mỹ là lập một liên minh phản động khu vực, cô lập, bóp nghẹt cách mạng miền Nam Việt Nam và áp đặt sự thống trị lên cả ba nước Đông Dương.

        Đối với miền Bắc Việt Nam, Mỹ vi phạm điều cam kết ngừng ném bom, bắn phá và các hành động chiến tranh khác, chúng dùng máy bay trinh sát và đánh phá án liệt tuyến vận chuyển chiến lược.

        Cùng với hành động đẩy mạnh chiến tranh, chính quyền Ních-xơn đã tích cực xúc tiến các hoạt động ngoại giao xảo quyệt. Chúng cố tình dây dưa ở Hội nghị Pa-ri, lợi dụng hội nghị để tuyên truyền lừa bịp. Chúng chơi trò ngoại giao giữa “các trung tâm sức mạnh”, gây sức ép trong việc ép nhân dân Việt Nam phải nhân nhượng Mỹ.

        Mỹ đã có tham vọng rất lớn khi đề ra chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” cùng với những biện pháp thực hiện thâm độc, xảo quyệt được tính toán kỹ lưỡng. Song ngay bản thân chiến lược này đã chứa đựng những mâu thuẫn không khắc phục được. Việc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn bán đảo Đông Dương và gây lại cuộc chiến tranh phá hoại tàn bạo, quy mô lớn đối với miền Bắc Việt Nam (tháng4-1972 - 12-1972) không chỉ buộc Mỹ lại phải dính sâu vào cuộc chiến tranh, mà còn chứng tỏ “học thuyết Ních-xơn” áp dụng vào Việt Nam đã tỏ ra bất lực.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #98 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 07:00:13 pm »


        Cuối năm 1968, sau các đợt tổng tiến công đợt 2, đợt 3 của ta không dứt điểm, không đạt được mục tiêu đề ra, địch đã tập trung sức phản kích quyết liệt. Ta bị tổn thất lớn. Nửa đầu năm 1969, ta vẫn gặp nhiều khó khăn. Vùng giải phóng bị thu hẹp, mất đất, mất dân. Địch đã bình định cấp tốc trên 9.200 ấp với số dân gần 16 triệu, trong tổng số 12.395 ấp với 17,5 triệu dân. Nhiều cơ sở bị vỡ, thế chiến tranh nhân dân suy giảm. Lực lượng chủ lực tuy còn đủ số lượng sư đoàn, nhưng không đủ sức thực hiện các chiến dịch tiến công quy mô vừa và lớn; một số sư đoàn chủ lực ở Khu 5 và Nam Bộ phải ra đứng chân ngoài biên giới Cam-pu-chia và Hạ Lào. Các căn cứ hậu cần, kho tàng bị địch đánh thiệt hại, khả năng bổ sung tại chỗ rất hạn chế.

        Trong điều kiện có những khó khăn to lớn trước mắt như vậy, đầu năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi cả nước và vạch rõ phương hướng phát triển của cách mạng miền Nam là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Tháng 4-1969, Bộ Chính trị họp và nhận định rằng “Việt Nam hóa chiến tranh” là một chủ trương đề ra trong thế thất bại, chứa dựng đầy những mâu thuẫn không thể khắc phục được nó rất xảo quyệt, thâm độc và tàn bạo, nhưng là sự phản ánh thế đi xuống, thế thua của Mỹ.

        Tháng 1-1970 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 18 để xem xét nghiêm túc các khuyết điểm, điểm yếu của ta, phân tích kỹ lưỡng tình hình, lực lượng địch và đề ra nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong bước chuyển biến mới của tình hình. Hội nghị nhấn mạnh phải “... tiếp tục phát triển chiến lược tấn công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và kinh tế, kết hợp tiến công ngoại giao, vừa tiến công địch, vừa ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh... Đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy phải suy sụp, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất đất nước”. Trung ương Đảng và Bộ Chính trị nêu rõ, công tác hậu cần có tầm quan trọng chiến lược, đề ra yêu cầu phải chuẩn bị tốt về mọi mặt, chủ động trước tình hình diễn biến phức tạp ở Cam-pu-chia và Lào có thể làm cho việc vận chuyển chi viện cho Nam Bộ và Tây Nguyên gặp nhiều khó khăn.

        Nắm vững tinh thần chỉ đạo của Trung ương và Bộ Chính trị, ta đã từng bước khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, chuyển hướng đấu tranh trên cả 3 vùng chiến lược, kiên cường chống phá “bình định” nông thôn của địch và củng cố vùng giải phóng. Một số đơn vị chủ lực được phân công xuống các địa phương để củng cố cơ sở, phục hồi và phát triển chiến tranh du kích, xây dựng và củng cố bộ đội địa phương, dân quân du kích. Các Đảng bộ, đảng viên ở các cơ sở còn lại, quyết tâm bám trụ, vượt qua những thử thách ác liệt nhất để lãnh đạo phong trào. Ở các vùng giải phóng, bộ đội và nhân dân vừa đánh giặc vừa ra sức tăng gia sản xuất, cố gắng tự túc một phần lương thực.

        Kết quả là, quá trình “bình định” của địch từng bước bị chặn đứng, đẩy lùi. Từ cuối quý ba 1969, lực lượng vũ trang của ta lại bắt đầu mở các hoạt động quân sự có hiệu quả.

        Ngày 2-9-1969 Bác Hồ qua đời. Trong di chúc, Người căn dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”. Trước tổn thất vô cùng lớn lao đó, một phong trào “biến đau thương thành hành động cách mạng” đã được phát động trong cả nước. Ở miền Nam, ta đã mở hàng loạt các cuộc tiến công vừa và nhỏ ở Phước Long, Quảng Đức, Đà Lạt, Rạch Giá, Mỹ Tho, Bến Tre, Kiến Tường, An Giang, Tây Nguyên, Thừa Thiên. Đặc biệt tháng 11-1969 lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã đánh bại cuộc hành quân của địch ở Chư Pa và Tây Bắc Kon Tum, đồng thời phá vỡ tuyến phòng thủ Tây Nam Đắc Lắc của địch, uy hiếp Buôn Ma Thuộc. Ta còn tiến hành tập kích vào các thành phố Đà Nẵng, Huế, Quy Nhơn, Cần Thơ, Sài Gòn, gây cho địch nhiều thiệt hại.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #99 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2016, 07:01:09 pm »


        Phối hợp với chiến trường miền Nam, quân và dân bạn cùng lực lượng vũ trang ta đã thu được những thắng lợi quân sự quan trọng trên các chiến trường Lào và Cam-pu-chia. Quân dân Lào, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, đã đánh bại cuộc hành quân lớn nhất của địch ra Cánh Đồng Chum (9-1969 đến tháng 1-1970). Cuối tháng 4-1970, liên quân Lào - Việt tiến công giải phóng thị xã A-tô-pơ (Hạ Lào), rồi thừa thắng tiến công thị xã Sa-ra-van (9-6-1970), giải phóng một vùng rộng lớn ở Nam Lào. Tháng 4-1970 Mỹ ngụy sử dụng tới 5 vạn quân Mỹ và 5 vạn quân ngụy tiến sang Đông Bắc Cam-pu-chia, hy vọng đập tan căn cứ đầu não và hậu cần của ta. Song cuộc hành quân lớn này của địch đã bị chặn đánh quyết liệt. Tính đến tháng 6-1970 lực lượng vũ trang ta và bạn đã loại khỏi vòng chiến đấu 17 nghìn quân Mỹ ngụy, phá hỏng 15.000 xe quân sự có 750 xe tăng và xe bọc thép, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh ở Đông Bắc Cam-pu-chia, và phần lớn nông thôn của 10 tỉnh khác, hình thành một vùng giải phóng rộng lớn.

        Như vậy là vào nửa đầu năm 1970, một vùng căn cứ giải phóng liên hoàn đã hình thành, kéo dài từ Thượng Lào xuống Trung, Hạ Lào, nối liền với Đông Bắc Cam-pu-chia, liên kết với Tây Trị Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
 
        Trước tình hình nghiêm trọng mới do Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương, cũng như thế trận thuận lợi cho bước phát triển mới của cách mạng ba nước, ngày 19-6-1970 Bộ Chính trị ra nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ mới của chúng ta, là “động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cả hai miền Nam - Bắc nước ta, tăng cường khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương thành một khối thống nhất, có chiến lược chung, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ba nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai”. Bộ Chính trị chỉ rõ: Miền Nam là “chiến trường quan trọng nhất” trong cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước chiến trường Cam-pu-chia là khâu yếu nhất của địch; chiến trường Lào có vị trí hiểm yếu, nhất là Trung và Hạ Lào, vì đó là hành lang nối liền hậu phương miền Bắc với chiến trường miền Nam và Cam-pu-chia; còn miền Bắc là hậu phương chung của tiền tuyến lớn miền Nam, cũng như của cách mạng Lào và Cam-pu-chia.

        Bước vào năm 1971, mặc dù đã thua đau trên chiến trường ba nước Đông Dương, đế quốc Mỹ vẫn không cam chịu thất bại, tiếp tục lao vào cuộc phiêu lưu mới. Ngày 8-2-1971 Mỹ ngụy bắt đầu mở cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh lên khu vực biên giới Đường 9 - Nam Lào, đưa đại bộ phận lực lượng dự bị chiến lược quân chủ lực ngụy, có sự chi viện tối đa của hỏa lực không quân, pháo binh Mỹ vào tham chiến. Âm mưu của địch là cắt đứt hành lang vận chuyển chiến lược của ta, lập tuyến ngăn chặn cắt đôi Đông Dương. Cuộc hành quân này cũng nhằm vào thử thách công thức bộ binh ngụy cộng hỏa lực Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Phối hợp với hướng Đường 9 - Nam Lào và để phân tán lực lượng của ta, địch còn mở cuộc hành quân “Toàn thắng 1971” đánh sang Công Pông Chàm, Kra Chiê (Cam-pu-chia) và cuộc hành quân “Quang Trung” đánh ra vùng Ba biên giới tại Tây Nguyên.

        Ngày 9-2-1971, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị “tập trung lực lượng, kiên quyết tiêu diệt nhiều sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, bảo vệ bằng được con đường chi viện cho tiền tuyến, phối hợp với các chiến trường, với nhân dân Lào và Cam-pu-chia anh em, đập tan hành động phiêu lưu quân sự của đế quốc Mỹ và tay sai”.

        Chiến dịch phản công của ta ở Đường 9 - Nam Lào kéo dài từ ngày 8-2-1971 đến 23-3-1971 đã kết thúc thắng lợi, làm phá sản hoàn toàn âm mưu và tham vọng của địch. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 23 nghìn tên địch, phá hủy và bắn rơi gần 500 máy bay, phá hủy và thu gần 600 xe quân sự, 150 khẩu pháo. Cùng với thắng lợi vang dội trên mặt trận Đường 9 - Nam Lào, ta đã cùng với bạn Cam-pu-chia đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 171” của quân ngụy Sài Gòn (4-2 - 31-5-1971), tiêu diệt gần 20 nghìn tên địch, chủ yếu là quân ngụy Sài Gòn.

        Cuối năm 1971, bộ đội ta cùng với quân dân Cam-pu-chia và Lào giành tiếp những thắng lợi to lớn, đánh bại cuộc hành quân Chen-la II của quân ngụy Lon Non (có sự yểm trợ mạnh mẽ của không quân Mỹ và ngụy Sài Gòn), cuộc hành quân của một lực lượng lớn quân Thái Lan và Vâng Pao lấn chiếm Cánh Đồng Chum và cuộc hành quân của quân ngụy Lào và Thái Lan lấn ra vùng giải phóng A-tô-pơ Xa-ra-van.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM