Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 06:19:29 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam  (Đọc 54750 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #20 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 11:23:12 pm »


        I. CUỘC CHIẾN TRANH CHỐNG XÂM LƯỢC CỦA NHÀ HỒ

        Ý đồ chiến lược và chuẩn bị chiến tranh của hai bên.

        Trước tình hình nguy cơ xâm lược của nhà Minh đã rõ ràng, Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương một mặt mở rộng địa giới về phía Nam, đánh Chiêm Thành, Chiêm Thăng Hoa (Quảng Ngãi) đến tận Phan Rang, một mặt tích cực chuẩn bị kế hoạch và lực lượng để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược từ phương Bắc.

        Hồ Nguyên Trừng thú nhận “không sợ đánh giặc, mà chỉ sợ lòng dân không theo”. Triều Hồ đã đánh giá cực kỳ sai lầm tinh thần yêu nước của dân ta, mặc dù họ thừa nhận “lòng dân là một sức mạnh cực lớn”. Trước và trong chiến tranh, mục đích chính trị tổng quát mà họ theo đuổi vẫn là bảo vệ đặc quyền đặc lợi của tập đoàn đại quý tộc cầm quyền, củng cố chế độ chuyên chính quan liêu, quân phiệt của dòng họ Hồ. Do không có sự ủng hộ của nhân dân nên trong chiến lược của triều Hồ, chiến tranh không mang hình thức chiến tranh toàn dân, mà thuần túy chỉ là cuộc chiến tranh của triều đình và của quân đội. Ngay trước chiến tranh, triều Hồ đã ra lệnh thủ tiêu tổ chức dân binh ở các làng xã, cấm nhân dân mang vũ khí, tiếp tục đàn áp bằng vũ lực những cuộc đấu tranh của nhân dân, giáng vào quyền lợi kinh tế của tầng lớp địa chủ bình dân, thủ tiêu nốt độc quyền kinh tế của phe phái chống đối (thế lực dòng họ Trần). Để làm kế thanh dã, họ ra lệnh cho dân sống trên dải đất mầu mỡ giữa sông Thương, sông Cầu và sông Hồng, vùng trung du đang ở thời kỳ phát triển về kinh tế, bỏ ruộng đất phá nhà cửa, mang của cải về sống ở hữu ngạn sông Hồng...

        Tư tưởng chủ đạo làm cơ sở cho toàn bộ kế hoạch chiến tranh của triều Hồ là: “Có trăm vạn quân để đối địch với giặc phương Bắc”. Triều Hồ nhận rõ ý định xâm lược của đối phương, nhận định đúng đắn rằng sức mạnh kinh tế và quân sự thời đó cho phép nhà Minh theo đuổi một cuộc chiến tranh với những nỗ lực cần thiết để đạt mục đích của họ. Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng tính toán rằng để đối địch” với quân xâm lược trong một cuộc chiến tranh có thể lâu dài, cần có một tiềm lực kinh tế và nhân lực lớn, biểu hiện một cách cụ thể ở con số một triệu người cầm vũ khí, được huy động vào quân đội trong nhiều đợt.

        Do vậy, trong kế hoạch chiến tranh, triều Hồ xác định mục tiêu chính trị, quân sự hàng đầu mà quân đội phải thực hiện là bảo vệ vững chắc những khu vực kinh tế và nhân lực có tầm quan trọng sống còn đối với nhà nước, giữ vững được quyền làm chủ vùng đất đai rộng lớn từ châu thổ sông Hồng về phía Nam kéo dài đến Thăng Hoa (Quảng Ngãi). Không để cho quân xâm lược đánh chiếm được những khu vục cốt yếu đó cũng có nghĩa là bảo đảm có một triệu người nhập ngũ, có đủ lương thực, thực phẩm, có đủ vũ khí, phương tiện để “đối địch” với quân xâm lược, đồng thời gây cho nhà Minh những khó khăn lớn trong việc cung cấp, tiếp tế cho một quân đội đông người, cô độc trên một vùng núi cao thưa dân, ít của trong một cuộc chiến tranh kéo dài. Triều Hồ cho rời quốc đô từ Thăng Long bên sông Hồng đến Vĩnh Lộc bên sông Mã, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô, đặt tên Tây Đô cho Vĩnh Lộc. Triều đình cho tiến hành kiểm tra số dân trên cả nước, quy định chế độ quân dịch bắt buộc cho người dân từ tuổi 15 đến tuổi 60 để có đủ một triệu người có thể nhập ngũ.

        Vào cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, ở nước ta khoa học và kỹ thuật đã đạt được tiến bộ quan trọng trên nhiều lĩnh vực: toán học, hình học, cơ học, luyện kim, đúc súng, sử dụng năng lượng tự nhiên (sức gió, sức nước), năng lượng hóa học (thuốc súng), sử dụng vật liệu mới v.v... Mọi thành tựu khoa học và kũ thuật đó đã được nhà Hồ sử dụng vào mục đích quân sự như: đóng “cổ lâu thuyền”, chế tạo thần cơ sang, thần cơ pháo, dùng đá xây dựng các quân thành... Hỏa khí bắt đầu chiếm một thành phần quan trọng trong việc trang bị vũ khí, phương tiện chiến đấu của quân đội. Các nhà quân sự Đại Việt đã có nhiều suy tư, tìm tòi những hình thức và cách thức sử dụng hỏa lực trong lục quân và thủy quân để đánh địch, kết hợp hỏa lực với bạch binh, kết hợp hỏa lực với vận động, đột kích v.v...

        Về chiến lược quân sự, toàn bộ kế hoạch hành động của triều Hồ đều dựa trên tư tưởng: “Cầm cự với quân Minh, cố thủ nơi hiểm trở, không ra đánh để làm cho quân Minh mòn mỏi”. Trong đường lối đó, mục đích chiến lược thật rõ ràng: đánh cho quân Minh mòn mỏi. Ở đây, không có vấn đề đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng không đặt cho quân đội mình mục tiêu giành những chiến thắng quân sự quyết định, bằng việc thực hiện những đòn đánh tiêu diệt những tập đoàn chiến lược chủ yếu của quân xâm lược.

        Nhằm đạt mục đích đánh cho quân xâm lược mòn mỏi, làm cho triều Minh nản chí phải rút quân, phương thức tiến hành đấu tranh vũ trang lấy chiến lược phòng ngự làm quyết định.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #21 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 11:24:39 pm »


        Chiến lược phòng ngự của triều Hồ chống lại chiến lược tiến công của quân địch là có chủ đích, có chuẩn bị sẵn, nó dựa trên một hệ thống quân thành lớn rải ra từ biên giới đến trung tâm đất nước lấy tuyến sông Hồng làm tuyến chiến lược chủ yếu, tập trung chủ yếu lực lượng chủ yếu trên đoạn từ Bạch Hạc đến Đông Đô. Việc xây dựng tuyến phòng ngự chủ yếu này, bằng cách mở rộng, tôn cao, đóng cọc tre trên những đoạn hiểm yếu tuyến đê nam sông Hồng, sông Thái Bình, sông Kinh Thầy, đến tận cửa sông Bạch Đằng, đã phải dùng đến rất nhiều tiền của nhân lực. Trên hai đầu của tuyến phòng thủ quốc gia dài 800 dặm đó (450 km), ở đoạn sông Lô đổ vào sông Hồng, sông Bạch Đằng đổ ra biển, những xích sắt được giăng qua sông “khóa” các cửa sông đó, nhằm không cho thuyền chiến và thuyền vận tải địch vượt qua để vào sông Hồng và sông Bạch Đằng.

         Trên hai đường chiến lược từ Pha Lũy (ở biên giới giữa Lạng Sơn và Quảng Tây) đến Đông Đô và từ Phú Lệnh (ở biên giới giữa Tuyên Quang nay thuộc Hà Giang và Vân Nam) đến Bạch Hạc, đã xây dựng những quân thành quan trọng: Pha Lũy, Kê Lăng (Chi Lăng và Phú Lệnh) và nhiều đồn binh nhỏ. Trên hai sườn của tuyến phòng ngự chủ yếu, có hai quân thành lớn Bình Than và Bạch Hạc. Trên đoạn trung tâm có quân thành Đông Đô và Đa Bang. Trên sông Mã có quân thành Tây Đô. Bộ ba Đông Đô - Đa Bang - Tây Đô là những quân thành rất lớn, trong đó lớn nhất là Đa Bang, được Hán Thương xem là “địa điểm xung yếu nhất” của toàn bộ hệ thống quân thành, là “then chốt” của toàn bộ hệ thống phòng ngự. Mọi vật liệu, phương tiện kỹ thuật mới đều được dùng xây dựng thành Đa Bang (xã Cổ Pháp, huyện Quốc Oai, Sơn Tây).

        Lục quân đảm nhiệm vai trò chủ yếu của phòng ngự. Các đội quân địa phương (quân các lộ) được tập hợp lại, tổ chức thành những cụm quân chủ yếu là bộ binh, kể cả bộ binh giáo gươm và bộ binh cung nỏ, và một số “thần cơ sang”, mỗi cụm từ ba đến năm vạn người, làm nhiệm vụ đồn trú các quân thành trên dải biên giới ở Bình Than, Bạch Hạc. Những vệ quân thường trực tinh nhuệ, du quân (tức quân chủ lực cơ động) được hợp nhất lại thành cụm tập đoàn quân như tập đoàn ở Đa Bang có tới 10 vạn quân. Mỗi cụm như vậy có đủ bộ binh, thần cơ pháo, các đội kỹ thuật, quân vận tải… Tượng binh tập trung trong thành Đa Bang. Những cụm quân thường trực đóng trong 3 thành Đông Đô, Đa Bang, Tây Đô. Thủy quân làm nhiệm vụ hỗ trợ lục quân, cơ động trên các dòng sông thuộc hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã. Các nhà quân sự triều Hồ cho rằng mỗi quân thành, với khả năng kỹ thuật của nó, với một cụm quân mạnh, có kho dự trữ lương thực, thực phẩrn, khí giới, đạn dược, là một cơ sở có tính độc lập cao về chiến thuật, đủ khả năng đối địch với cuộc bao vây công kích lâu dài của quân Minh.

        Chiến lược phòng ngự sẽ được thực hiện bằng cách:

        - Làm thanh dã triệt để trên vùng thượng du và trung du trong một khu vực rộng lớn từ biên giới đến tả ngạn sông Lô, tả ngạn sông Hồng, tả ngạn sông Kinh Thầy. Trong khu vực đó quân xâm lược không còn có khả năng lợi dụng một cách đáng kể tài nguyên kinh tế và nhân lực của nước ta.

        - Cột chặt các cụm quân địch dưới quân thành trong thời gian dài, trên khu vực rừng núi sát biên giới cũng như trước tuyến sông Hồng, trong những trận chiến đấu kiên trì giữ thành, gây cho địch thật nhiều tổn thất.

        - Giành lấy thời gian để tích lũy lực lượng, phương tiện, lương thực, thực phẩm, đủ sức đối địch lâu dài với quân Minh.

        Bằng những cách đó các nhà chính trị và quân sự chiến lược triều Hồ mong đạt tới mục đích đánh mòn mỏi quân xâm lược cả về thể chất lẫn tinh thần, làm cho tướng lĩnh và binh sĩ Minh không tin vào thắng lợi, làm cho triều đình Yên Kinh phải tìm phương pháp khác để chấm dứt chiến tranh mà vẫn giữ được “thể diệt”.

        Đầu năm 1405, vua Minh ra lệnh tiến hành cuộc viễn chinh thứ nhất vào Đông Nam Á. Trong khi hạm đội Trịnh Hòa bắt đầu vượt biển đi đến các đảo Gia-va, Su-ma-tơ-ra và bán đảo Ma-la-ca và một bộ phận nhỏ của hạm đội này đã men theo bờ biển nước ta đến Chăm Pa, thì triều đình Yên Kinh đưa yêu sách đất đai với triều Hồ, một triều đình mà họ không hề công nhận. Hồ Quý Ly đã cắt 59 thôn thuộc khu Cổ Lâu để thỏa mãn một phần yêu sách bành trướng của nhà Minh.

        Giữa năm 1406, đồng thời với việc triều Minh ra lệnh cho đội quân xâm lược bắt đầu triển khai trên các khu vực xuất phát tiến công, một đạo quân Minh gồm 5.000 người hộ tống “An Nam Quốc vương” Thiên Bình từ đất Quảng Tây vượt biên giới vào nước ta, định tiến về Thăng Long. Hồ Quý Ly đã ra lệnh cho quân đội ở vùng biên giới chặn đánh chúng. Quân Minh bị tiêu diệt, Thiên Bình bị bắt rồi bị giết vì tội phản quốc.

        Cuộc chiến tranh xâm lược của nước Đại Minh đối với nước Đại Việt đang đến gần.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #22 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 11:26:18 pm »


        Còn nhà Minh, để đạt mục đích bành trướng, thống trị một miền đất mênh mông từ Đông Nam Á qua Nam Á đến Tây Nam Á, dự tính sử dụng một tiềm lực kinh tế và nhân lực rất lớn kể cả quân đội, hạm đội và dân di cư, thực hiện xâm lược bằng nhiều phương thức, theo từng giai đoạn nối tiếp nhau, rải ra trong nhiều chục năm. Đánh chiếm Đại Việt là mục tiêu quan trọng nhất trong kế hoạch quy mô lớn đó, đòi hỏi có lực lượng đông đảo và tinh nhuệ. Đi đôi với việc tiến công quân sự từ bên ngoài, các nhà chính trị và quân sự Minh còn đặt hy vọng vào những cuộc nổi dậy từ bên trong nước ta của các thế lực trung thành với nhà Trần, kể cả trong quân đội triều Hồ, thực hiện “ngoại công nội kích”, nhằm đạt mục đích chính trị của chiến tranh trong một thời gian không dài, trong khi vẫn chuẩn bị sẵn những lực lượng và phương tiện tăng viện đề phòng trong trường hợp chiến tranh kéo dài. Trong thực tế, sau khi đánh thắng quân đội triều Hồ, nhà Minh đã phải kéo dài cuộc xâm lược vũ trang gần hai mươi năm cho đến khi kiệt sức mất ý chí xâm lược.

        Trong đợt đầu, nhà Minh quyết định sử dụng tám mươi vạn quân, kể cả quân thường trực chuyên nghiệp và quân bổ trợ (chủ yếu làm nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân sự), thuộc lục quân là chính, và một số thuyền chiến có nhiệm vụ hộ tống đoàn thuyền vận lương. Ngoài ra, nhà Minh còn tập hợp một số tên quý tộc họ Trần làm tay sai, như phong “An Nam Quốc vương” cho Trần Thiên Bình.

        Về quân sự, mục đích chiến lược của quân xâm lược là đánh bại hoàn toàn quân đội triều Hồ, buộc nhà Hồ đầu hàng vô điều kiện. Họ cho rằng chỉ cần đạt được mục tiêu tiêu diệt lực lượng quân sự đối phương, nhất là quân đội thường trực tinh nhuệ: thì sẽ đạt được các mục tiêu khác như chiếm các trung tâm chính trị, các khu vực kinh tế.

        Biết rằng nhà Hồ đã hoàn thành việc xây dựng một hệ thống quân thành lớn, khá kiên cố, khó có thể vòng qua, các tướng Minh lựa chọn chiến thuật bao vây - công kích là chính. Đối với từng quân thành, họ sử dụng cụm quân bộ binh có các phương tiện công thành (như súng bắn đạn đồng đặc, máy phóng đá, máy phóng tên lửa, phóng chất cháy, thang vượt hào, thang leo thành cỡ lớn... ) và kỵ binh để hoàn thành nhiệm vụ vây - kích. Mọi kinh nghiệm tích lũy được từ những cuộc công phá các quân thành cỡ lớn của quân Nguyên ở Trung Quốc, mọi phương tiện kỹ thuật công thành có hiệu quả ở thời này, đều được quân Minh dùng trong cuộc chiến tranh xâm lược này.

        Chiến tranh chủ yếu sẽ diễn ra theo cách tiến công đồng thời trên các hướng chiến lược, bằng những cuộc vận động tiếp cận và bao vây công kích từng quân thành một, cho đến khi đạt tới mục tiêu đánh bại hoàn toàn đối phương. Đó là một cách tiến hành chiến tranh rất tốn kém, tiêu phí nhiều lực lượng và phương tiện.

        Diễn biến của cuộc chiến tranh.

        Ngày 19 tháng 11 năm 1406, quân Minh bắt đầu vượt biên giới. Ngay hôm đó, hai lộ quân Minh gồm 80 vạn quân xuất phát từ đất Quảng Tây, Vân Nam đồng thời tiến quân vào Đại Việt. Lộ quân chủ yếu, do tổng binh Trương Phụ trực tiếp chỉ huy, bắt đầu bao vây thành Pha Lũy. Lộ quân Vân Nam, do tổng binh Mộc Thạch chỉ huy, cũng bắt đầu bao vây thành Phú Lệnh. Đó không phải là một công việc dễ dàng, có thể làm xong trong một vào ngày, vì phải đưa những phương tiện công thành đến những vị trí có lợi, trên một địa hình hiểm trở. Nhưng các tướng lĩnh Minh không còn khả năng lựa chọn phương pháp nào khác hơn là “nhổ” từng thành một của đối phương để mở đường tiến vào sâu.

        Chiến đấu Pha Lũy: Trong quân thành Pha Lũy có 3 vạn quân nhà Hồ trú phòng. Số lượng thì lớn, nhưng vốn là quân địa phương từ nhiều lộ tập hợp lại, chưa được huấn luyện để chiến đấu giữ một thành quan trọng trên hướng tiến quân chủ yếu của địch. Thêm vào đó cụm quân ở vị trí chiến lược này lại kém về tinh thần chiến đấu, sau những tháng năm đóng quân sát địch mà thiếu sự cổ vũ, động viên về chính trị, ít được quan tâm tới đời sống vật chất. Do vậy, trong suốt thời kỳ quân địch tiến hành chiếm lĩnh các vị trí bao vây cụm quân ta “án binh bất động”, không có hành động tích cực nào để phá sự chuẩn bị của địch.

        Sau khi đưa được những phương tiện công thành đến những vị trí có lợi, những đội xung kích đến sát các hào thành, bắt đầu công kích vào cuối tháng 11. Sau vài ngày chiến đấu, mặc dù quân ta đã đẩy lùi những mưu toan vượt hào và leo thành của các đội xung kích địch, sự hoang mang dao động đã nảy sinh trong số các tướng lĩnh và binh sĩ ta trước sự công phá của các phương tiện phóng đạn đá, đạn đồng của địch. Mới thương vong vài trăm người mà đã hoang mang, dao động chỉ huy thành đã hạ lệnh bỏ thành rút chạy.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #23 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 11:27:58 pm »


        Chiến đấu Kê Lăng: So với Pha Lũy, thành Kê Lăng lớn hơn và kiên cố hơn nhiều. Cụm quân Hồ trú phòng tại đây có hơn 3 vạn người nhưng tinh thần chiến đấu chẳng hơn gì quân ở Pha Lũy. Tin mất thành Pha Lũy đã làm cho tướng lĩnh và binh sĩ giữ thành mất tinh thần.

        Quân Minh tiến đến bao vây thành Kê Lăng chuẩn bị công kích vào thượng tuần tháng 12. Cũng như ở Pha Lũy, quân ta đã không có hành động tích cực nào để phá sự chuẩn bị của địch, mặc dù ở đây với kỹ thuật cấu trúc thành tiên tiến, quân ta chiếm được những vị trí rất có lợi, có thể từ đó gây cho địch rất nhiều khó khăn trong việc chiếm lĩnh những vị trí bao vây, nhất là trong việc đưa các phương tiện công thành vào cự ly có hiệu quả.

        Trong vài ngày đầu quân ta đẩy lùi được các cuộc công kích của địch. Nhưng cũng như ở Pha Lũy, những thiệt hại đầu tiên về người do các phương tiện công thành của địch gây ra đã nhanh chóng gây hoang mang cho các tướng lĩnh toàn thành. Khi tổn thất vài trăm người thì tướng chỉ huy thành lại ra lệnh bỏ thành rút chạy. Chính trong quá trình thoát vây theo kiểu “mạnh ai nấy chạy”, quân ta bị thiệt hại nặng nề.

        Chiến đấu Phú Lệnh: Trên hướng Tuyên Quang - Bạch Hạc, thường là hướng tiến quân quan trọng nhưng là hướng thứ yếu so với hướng Lạng Sơn - Bắc Giang mà quân phương Bắc xâm lược quen dùng, nhà Hồ chỉ cho xây dựng một quân thành lớn, trên một địa hình rất hiểm trở, ở sát biên giới hai nước. Tại đây cũng có một cụm quân gồm trên dưới 3 vạn người, với chất tinh thần, chiến đấu còn kém hơn nhiều so với các cụm quân Pha Lũy, Kế Lăng.

        Trong tình hình đó mặc dù lộ quân Mộc Thạnh là một lộ quân có ít kinh nghiệm và phương tiện công thành hơn, cuộc chiến đấu đã diễn ra và kết thúc nhanh chóng hơn. Ở đây, một phần quan trọng tướng binh quân Hồ là quân địa phương miền núi lân cận. Họ đã bỏ thành chạy về quê hương mình, số còn lại đã tan vỡ trên hướng rút chạy về phía sau.

        Như vậy, trong vòng không đầy một tháng, trái với ý đồ và mong muốn của triều đình Hồ, là ghìm chân lâu dài đại quân Minh trên khu vực rừng núi cao biên giới, gần mười vạn quân địa phương ta đã bị loại khỏi vòng chiến và mất đi những quân thành lớn, những vị trí chiến lược quan trọng, gây thiệt hại không đáng kể cho địch. Tuyến chiến lược sông Hồng và những vùng trung tâm chính trị và kinh tế của đất nước đã bị trực tiếp đe dọa.

        Trên hướng tiến quân chủ yếu, đại quân Trương Phụ từ Chi Lăng bắt đầu tiếp cận tuyến sông Hồng. Đến Bắc Giang, lộ quân này chuyển sang hướng Tây Nam, đến sông Phú Lương, để giữ an toàn bên sườn. Để đánh lạc hướng đối phương, Trương Phụ, phái một đội kỵ binh tiếp tục tiến theo hướng Nam, nhằm vào Đông Đô. Đội kỵ binh này đã tiến tới Gia Lâm, cơ động “lởn vởn” trong khu vực này, một khu vực vườn không nhà trống.

        Lộ quân Mộc Thạnh tiến thẳng đến Bạch Hạc, đóng trên bờ Bắc sông Hồng, bắt đầu chuẩn bị tiến công vào cánh trái của tuyến phòng ngự của quân nhà Hồ. Đó là một nhiệm vụ rất nặng nề, đầy khó khăn, như chính Mộc Thạnh thú nhận: “Những hàng rào gỗ mà bên địch dựng lên đều sát liền sông, quân ta không thể tiến lên được”. Tác chiến của quân Minh khi bắt đầu vượt sông có thể bị thủy quân đối phương đánh vào hai sườn. Để chiếm được một đầu cầu khi đã leo qua hàng rào gỗ đó, lại phải tiếp cận rồi công phá một quân thành cỡ lớn như Bạch Hạc, thì biết bao nhiêu vấn đề về chiến thuật được đặt ra mà tướng lĩnh Minh phải giải quyết.

        Tổng binh Trương Phụ không có ý định vây kích thành Bạch.Hạc, cũng như thành Đông Đô, vì cho rằng để nhanh chóng phá vỡ tuyển phòng ngự chủ yếu của đối phương, phải công kích vào điểm then chốt của tuyến chiến lược đó, vào đoạn mạnh nhất của nó là quân thành Đa Bang. Mộc Thạnh được lệnh di chuyển lộ quân Minh đến khu vực phía Tây Bắc thành Đa Bang thuộc tả ngạn sông Hồng. Lộ quân Quảng Tây chiếm lĩnh vị trí Đông Nam trong khu vực phía nam Đa Bang. Vào đầu tháng 1 năm 1407, hơn 20 vạn quân Minh đã hoàn thành việc tập hợp tập đoàn chiến lược vây kích Đa Bang. So sánh Đa Bang với Bạch Hạc, Mộc Thạnh nhận định như sau: “Đa Bang là nơi đất cát bằng phẳng có thể đóng quân; nơi ấy tuy thành đất khá cao, bên sườn có mấy tầng hào, nhưng khí giới đánh thành của ta đều đầy đủ, đánh chiếm có phần dễ”. Trương Phụ chỉ thị cho Mộc Thạnh và các tướng lĩnh Minh dưới quyền: “Quân giặc (chỉ quân nhà Hồ) chỉ cậy có thành này, mà chúng ta lập công cũng có một trận này. Tướng sĩ nào trèo lên thành được trước sẽ được đặc cách hậu thưởng, không câu nệ theo thứ bậc thông thường”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #24 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 11:30:37 pm »


        Hội chiến Đa Bang: Như đã nói ở phần trên, trên tuyến phòng ngự chiến lược sông Hồng dài 900 dặm, Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng đã chọn đoạn Đa Bang. Hai quân thành lớn Đa Bang và Đông Đô được nối liền với nhau bằng đoạn đê có hàng rào gỗ liên tục trên 30 km; trên đoạn đê đó ở những địa điểm có ý nghĩa chiến thuật, những đồn binh được xây dựng, ngoài ra, ở những đoạn trống có quân tuần tiễu thường xuyên đi lại, cả ngày và đêm.

        Trên đoạn đó, Nguyên Trừng đã sử dụng 3/4 tổng số quân thường trực tinh nhuệ (khoảng 15 vạn người) phòng ngự. Trong đó riêng thành Đa Bang đã chiếm trên 10 vạn quân gồm đủ mọi binh chủng của lục quân.

        Thủy quân đóng căn cứ chủ yếu ở cửa sông Luộc và vùng Bạch Hạc, có nhiệm vụ chi viện chiến đấu và hậu cần cho tập đoàn chiến lược trên đoạn phòng ngự chủ yếu.

        Như vậy tại Đa Bang đã diễn ra cuộc hội chiến quyết định về chiến lược giữa các tập đoàn chủ lực hai bên. Sau khi chuẩn bị chu đáo, vào giữa tháng 1, quân Minh chuyển sang tiến công.

        Trong nhiều ngày liên tiếp, do thiếu thuyền, quân Minh chỉ có thể dùng những đội quân nhỏ vượt sông để đặt chân lên những bãi cát trên hướng Đông Nam và Tây Bắc Đa Bang. Pháo binh ta đã dùng thần cơ pháo bắn 300 bộ (khoảng 600 - 700 mét); bộ binh dùng thần cơ sang và nỏ, các đội dùng các loại máy phóng đá đánh tan những đội quân vượt sông định đánh chiếm đầu cầu của địch.

        Sau nhiều thất bại liên tiếp như vậy trên các hướng Đông Nam và Tây Bắc thành Đa Bang, viên tướng Minh phát hiện ra rằng trên chính diện của thành (ở hướng Đông) có những bãi cát dài nhô ra, mà nếu chiếm được sẽ tạo những bàn đạp rất tốt, vì ở ngoài tầm bắn có hiệu quả của mọi phương tiện hỏa lực. Y quyết định cho kỵ binh bất ngờ vượt sông trên đoạn đó.

        Ngày 20 tháng 1, đã xảy ra một sự kiện mà mới thoạt nhìn thì hình như không quan trọng lắm, song lại có một ý nghĩa quyết định tạo ra bước ngoặt của cuộc hội chiến.

        Theo thường lệ, nhưng với một cường độ lớn hơn nhiều so với trước quân Minh tiếp tục vượt sông đánh chiếm đầu cầu ở mặt Đông Nam và Tây Bắc, gắng sức mang cả súng, pháo và “vân thê” (loại thang leo thành cao) sang bờ Nam sông. Và cũng theo thường lệ, quân Hồ ra sức đẩy lùi mọi mưu toan đó, gây cho địch những thiệt hại nhất định. Các tướng lĩnh ta vẫn dồn sự quan tâm của mình trên hai hướng đó.

        Lợi dụng tình hình đó, kỵ binh đã thực hiện vượt sông ngay trên chính diện thành Đa Bang, từ mặt Đông. Người và ngựa địch đã bơi qua sông, kéo theo những tấm da ngựa khô bọc gươm kiếm, cung tên. Đến xế chiều, vài nghìn kỵ binh địch đã chiếm được dải bãi cát dài sát mép nước, một bàn đạp trước sự đối phó không có hiệu quả của quân thủ thành, vì mọi vũ khí phóng đều không “với” được tới chúng. Quân Minh vội vã chuẩn bị đưa qua sông những phương tiện công thành.

        Thấy rõ nguy cơ, Hồ Nguyên Trừng quyết định tung đoàn voi chiến hòng tiêu diệt kỵ binh địch, chiếm lại những bãi cát trước khi bộ binh và phương tiện công thành địch vượt sông. Các cửa thành được mở ra cho tượng binh tiến công. Tượng binh ta đã đè bẹp kỵ binh địch và đẩy chúng về phía bờ sông.

        Hiệu quả của đòn đột kích của tượng binh ta đã gây hốt hoảng cho kỵ binh địch. Chỉ huy kỵ binh địch lập tức tập hợp các đội kỵ binh còn ở ngoài khu vực đột kích của đàn voi, dàn đội hình và bắt đầu cơ động nhằm tăng viện cho nơi bị uy hiếp. Hành động của đối phương làm cho viên chỉ huy tượng binh ta hoảng sợ. Thấy lính cưỡi ngựa địch đông hơn gấp mấy lần lính cưỡi voi, thấy địch có thể bao vây mình, viên chỉ huy đó ra lệnh cho tượng binh chấm dứt đột kích, quay lại lao về các cửa thành. Kỵ binh địch cũng tức khắc chuyển sang “truy kích” tượng binh ta đến tầng hào đầu tiên ở ngoài thành. Địch đã phát triển được đầu cầu cửa chúng, đến tận gần chân thành.

        Lợi dụng tình thế có lợi đó, Trương Phụ lệnh cho bộ binh cùng các đội kỹ thuật công thành dưới sự che chở của kỵ binh vượt sông ồ ạt sang bàn đạp đã chiếm và mở rộng về phía Đông Nam và Tây Bắc. Trong mấy ngày tiếp sau, địch đã đưa được đại quân qua sông chiếm lĩnh các vị trí bao vây trên cả 3 mặt, Đông, Đông Nam và Tây Bắc thành Đa Bang. Thất bại của cuộc xuất kích của tượng binh, đã gây nên một tâm trạng hoang mang trong tướng sĩ giữ thành Đa Bang và cũng ảnh hưởng không lợi đối với tinh thần chiến đấu của những cụm quân Đông Đô, Bạch Hạc...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #25 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 11:33:26 pm »


        Trong những ngày cuối tháng giêng, địch công thành từ nhiều hướng. Những trận chiến đấu giữ thành đã diễn ra rất ác liệt. Trên mặt Đông và Đông Nam, quân ta đã làm thất bại các mưu toan vượt hào hoặc leo thành của địch. Nhưng ở mặt Tây Bắc, trước sự công kích tập trung của địch, với những thất bại đáng kể, quân ta không ngăn chặn được địch vượt hào và leo thành đã dùng hàng loạt thang cao, địch ồ ạt leo lên mặt thành, chiếm được một mảng thành. Thế lợi chiến thuật này của chúng hoàn toàn chưa phải đã quyết định đối với việc giữ thành. Tiếc thay, nó tác động khá mạnh đến tinh thần chiến đấu của tướng sĩ toàn thành. Lẻ tẻ có những tốp nhỏ quân Hồ đã mở trộm các cửa thành ở mặt Tây để chạy trốn. Trong những ngày tiếp sau, địch công kích mạnh mẽ hơn. Trước tình hình đó, Nguyên Trừng ra lệnh rút bỏ thành Đa Bang. Từ ba phía quân Minh ồ ạt leo lên thành và đánh chiếm thành.

        Sau khi rút khỏi Đa Bang, Hồ Nguyên Trừng đã ra lệnh cho các cụm quân Bạch Hạc, Đông Đô, Bình Than cũng bỏ thành rút về phía sau. Hội quân trong vùng từ cửa sông Luộc qua Mỹ Lộc (Nam Định) đến cửa Muộn Hải (nay thuộc Xuân Thủy - Hải Hậu, cửa sông Hồng) với ý định lập phòng tuyến mới để chặn cuộc tiến quân của Trương Phụ.

        Vốn thận trọng, Trương Phụ không cho quân thực hành truy kích, mà trước hết, chiếm đóng tuyến sông Hồng. Theo tuyến đê, các cụm quân Minh đã chiếm đóng Bạch Hạc, Đông Đô, Bình Than. Mộc Thạnh được lệnh tiến xuống cửa sông Luộc để “đối lũy”, quan sát đối phương.

        Trận cửa sông Luộc: Việc quân Minh tạm dừng tiến công để hoàn thành việc chiếm đóng những vị trí chiến lược xung yếu là một cơ hội có lợi cho quân ta. Hồ Nguyên Trừng đã lựa chọn cụm quân Mộc Thạnh làm mục tiêu cho cuộc tiến công đầu tiên của quân ta.

        Đây là cuộc tiến công do lục quân và thủy quân cùng phối hợp tiến hành. Một bộ phận quan trọng bộ binh tập hợp từ các cụm quân rút về phía Nam sông Luộc đến sông Ninh Giang cùng 300 thuyền chiến lớn được sử dụng cho cuộc tiến công. Tiếc thay, sự chuẩn bị khá rầm rộ đó đã giúp cho Mộc Thạnh đoán được ý định của Nguyên Trừng và những chỗ yếu của cuộc tiến công của quân ta. Trong khi đó các tướng lĩnh nhà Hồ lại không nắm được những chuẩn bị của đối phương nhằm đánh bại cuộc tiến công của mình.

        Đầu tháng 3, cuộc tiến công bắt đầu. Hai cánh lục quân và thủy quân ta tiến dọc theo hai bờ sông đã lọt vào một thế trận mà Mộc Thạnh đã khéo léo dàn sẵn và được ngụy trang khá chu đáo. Chờ cho phần lớn hai cánh quân ta lọt vào thế trận, quân Minh chuyển sang công kích. Bị đánh bất ngờ cả hai cánh quân lục - thủy nhanh chóng rơi vào tình trạng rối loạn, không còn khả năng chống trả có hiệu quả. Quân ta chịu những tổn thất nặng. Trong tình thế đó, Nguyên Trừng không còn cách nào khác là cho bộ phận còn lại rút lui về Muộn Hải. Quân Minh tiến đến phía Bắc sông Ninh Giang thì dừng lại.

        Trận Hàm Tử: Sau thất bại của trận tiến công đầu tiên, Nguyên Trừng ra lệnh cho tập đoàn chủ yếu của quân ta, lúc đó đóng trong khu vực từ sông Ninh Giang đến cửa Muộn Hải khoảng mười vạn người, “hết sức đắp đồn lũy, để tính kế cầm cự lâu dài”, vì cho rằng đại quân Trương Phụ sẽ tiếp tục tiến công.

        Nhưng Trương Phụ vẫn còn bận rộn vào việc củng cố những thắng lợi chiến lược đã giành được và chuẩn bị đầy đủ cho cuộc tiến công chiến lược từ tuyến sông Hồng đến tuyến sông Mã. Trong thế chờ đợi đó, biết rõ nguyện vọng của Nguyên Trừng muốn chuyển sang tiến công để có được một chiến thắng. Y ra lệnh cho Mộc Thạnh lui quân đến cửa Hàm Tử, chờ đối phương tiến quân mà tiêu diệt. Vào giữa tháng 3, cụm quân đi đầu của địch bắt đầu rời khỏi bờ bắc sông Ninh Giang và rút lên phía Bắc. Quân ta bám sát quân địch cho đến trước cửa sông Luộc thì dừng lại.

        Thấy Mộc Thạnh tiếp tục lui quân, Nguyên Trừng một lần nữa cho rằng đã có cơ hội thực hiện ý muốn tiến công của mình, nên quyết định đánh thẳng vào cụm quân địch ở Hàm Tử, cách Đông Đô không xa. Bảy vạn quân tinh nhuệ cùng một số lượng thuyền chiến quan trọng tham gia vào cuộc tiến công quy mô khá lớn này. Một lần nữa sự chuẩn bị chiến đấu của quân ta được tiến hành một cách rầm rộ, lộ liễu. Để làm lung lay tinh thần chiến đấu của quân Minh, Nguyên Trừng dùng biện pháp phao tin, khuếch đại số lượng tập đoàn tiến công của mình lên gấp hai, ba lần.

        Sự chuẩn bị diễn ra như vậy, một lần nữa, đã có thể thấy trước kết cục không tránh khỏi của cuộc tiến công.

        Cuối tháng 3, từ vùng cửa sông Luộc, tập đoàn tiến công bắt đầu cơ động đến Hàm Tử. Một lần nữa, quân ta đã lọt vào thế trận mai phục của địch, và bị địch đánh bất ngờ. Cuộc rút lui khỏi Hàm Tử biến thành một cuộc rút chạy hỗn loạn, một cuộc tan vỡ lớn.

        Từ Muộn Hải, bộ phận còn lại của quân đội triều Hồ rút về Thanh Hóa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #26 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 11:35:49 pm »

       
       Trận Lỗi Giang: Trong vòng 4 tháng chiến tranh, quân đội triều Hồ đã không giữ được khu vực phòng ngự biên giới, đã để mất tuyến phòng ngự chiến lược chủ yếu sông Hồng, đã mất những tập đoàn quan trọng nhất trong hội chiến phòng ngự Đa Bang và các trận chiến đấu cửa sông Luộc và Hàm Tử. Tương quan thế và lực đã chuyển biến một cách căn bản, rất có lợi cho quân Minh và rất bất lợi cho quân Hồ. Rút về Thanh Hóa để tổ chức phòng ngự trên tuyến sông Mã trong những điều kiện trên, triều Hồ chỉ còn trong tay những lực lượng quân sự yếu kém, một quân thành tuy lớn (Tây Đô) nhưng cô lập.

        Trương Phụ quyết định giành lấy thời gian, mở tiếp cuộc tiến công chiến lược, quyết định chĩa thẳng vào thành Tây Đô.

        Giữa tháng 4, vượt qua dãy núi Tam Điệp trên nhiều hướng, đại quân Minh nhanh chóng tiến đến bờ Bắc sông Mã, bắt đầu cuộc vây kích thành Tây Đô. Cuối tháng đó, những trận chiến đấu phòng ngự của quân Hồ dọc theo sông Lỗi Giang tại Tây Đô đã kết thúc bằng sự tan vỡ của những đội quân thường trực cuối cùng.

        Đầu tháng 6, trên đường truy kích đến Hà Tĩnh, đánh tan những đội quân địa phương yếu kém, quân Minh đã bắt được Hồ Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng và toàn bộ triều đình của họ tại Kỳ La.

        Ngay trong tháng 4, khi hành động quân sự vừa kết thúc trên sông Lỗi Giang, vua Minh đã ra chiếu tuyên bố thủ tiêu “vĩnh viễn” nền độc lập của Đại Việt, biến nước ta thành một quận của Trung Quốc, “giáo hóa” dân ta theo “phong hóa Trung Hoa”.

        Triều đình Minh không lường nổi trước rằng, nếu như cuộc chiến tranh giữa họ với triều đình và quân đội nhà Hồ đã kết thúc bằng thắng lợi của họ, thì họ đã đứng trước một cuộc chiến tranh khác, một cuộc chiến tranh thực sự của nhân dân Đại Việt, một cuộc chiến tranh mà kết cục sẽ là sự quét sạch quân xâm lược và bộ máy thống trị của nhà nước Minh ra khỏi Đại Việt, giành lại độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.

        Bài học về nghệ thuật quân sự.

        Thất bại của cuộc kháng chiến chống Minh do nhà Hồ lãnh dạo có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, sâu xa và trực tiếp. Trong những nhân tố chủ quan và trực tiếp quyết định thất bại của quân đội nhà Hồ có nhân tố hết sức quan trọng về nghệ thuật quân sự. Chỉ sau hơn một thế kỷ, nghệ thuật quân sự ưu việt của Đại Việt, với chiến thắng vẻ vang của nhà Trần chống Nguyên - Mông mạnh nhất trong thời đại đó, hầu như mai một, không còn có một biểu hiện nhỏ nào được vận dụng trong cuộc chiến tranh này.

        Những quan điểm “phải nới sức dân, làm kế rễ sâu, gốc vững”, “quốc gia tính lực, bỉ tự, tự cầm”, và “dĩ đoản chế trường” của Trận Hưng Đạo hầu như không còn dấu vết trong chiến lược quân sự của nhà Hồ. Nghệ thuật lập thế trận hiểm buộc địch phân tán, đưa địch vào thế buổi chiều, không lợi dụng được thế ban mai, khoét sâu sở đoản của một đội quân xâm lược từ xa tới, đánh vào hậu cần tiếp tế, chặn trước đánh sau, đưa địch vào hiểm địa, đánh những trận bất ngờ với tư tưởng tiến công kiên quyết của Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp, Bạch Đằng hầu như không còn trong nghệ thuật quân sự của cuộc chiến tranh chống xâm lược này.

        Truyền thống toàn dân đánh giặc không còn bóng dáng, mà được thay thế bằng một đội quân đánh giặc cô độc dựa vào thành quách với phương tiện vũ khí mạnh so với đương thời. Những ưu thế về số lượng, về lực lượng và phương tiện, tính chất chính nghĩa cùng với sự chuẩn bị từ trước, những kho tàng lương thực, khí giới, thành quách kiên cố đều không giúp ích gì cho quân đội triều đình Hồ. Đúng như Nguyên Trừng đã nghĩ “Chỉ sợ lòng dân không theo”.

        Mục đích chiến lược mà Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng xác định là đánh mòn mỏi quân xâm lược, đã thiếu hẳn tính chất kiên quyết của một cuộc chiến tranh tự vệ, chính nghĩa. Mục đích đó không phù hợp với những khả năng của nhà nước Đại Việt và tiềm lực của nhà nước Đại Minh, không phù hợp với tương quan lực lượng đã hình thành khi chiến tranh bắt đầu.

        Để đạt tới mục đích đó, triều đình Hồ đã xác định chiến lược là phòng ngự đơn thuần
, một đường lối có ảnh hưởng quyết định đến tính chất của đấu tranh vũ trang trong toàn bộ cuộc chiến tranh cũng như trên từng hướng tiến công của đối phương, trên từng điểm tiến công của chúng. Việc lựa chọn phòng ngự chiến lược làm hình thức cơ bản của đấu tranh vũ trang đã biểu hiện ở việc thực hiện nhiệm vụ tiêu hao địch, cố thủ các quân thành bằng gần toàn bộ lục quân và thủy quân, từ khu vực biên giới đến các khu vực trung tâm của đất nước trong cuộc chiến tranh kéo dài là biểu hiện nổi bật của ý định, phòng ngự thụ động, tiêu cực.


        Phòng ngự bị động, chờ địch đến đánh thì đỡ, địch đánh ở đâu thì ở đó chịu đỡ đòn, mất đất thì lùi về phá sau, cũng là phương thức hành động của toàn bộ các cụm quân các tập đoàn tác chiến chiến lược của quân đội và hạm đội triều đình. Phương thức hành động này làm cho các cụm quân, các tập đoàn tác chiến của ta luôn luôn rơi vào một tình thế hiểm nghèo. Trong điều kiện về tương quan lực lượng tổng quát, nếu như quân đội triều Hồ có ưu thế số lượng so với quân xâm lược, thì trên mỗi địa điểm và ở từng thời điểm, quân Hồ luôn luôn rơi vào thế lực yếu hơn nhiều so với quân Minh đối diện. Thật vậy, ở bất cứ nơi nào, từ thời kỳ đầu cũng như các thời kỳ tiếp sau, trước từng quân thành như Pha Lũy, Kê Lăng, Phú Lệnh, cả Đa Bang nữa, bao giờ quân Minh cũng tập hợp đủ lực lượng và phương thức hành động đó của quân Hồ là một điều kiện khách quan giúp cho quân Minh lần lượt hủy diệt hết quân thành này đến quân thành khác, hết cụm quân, tập đoàn này đến cụm quân, tập đoàn khác của ta.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #27 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 11:41:34 pm »


        Cũng cần nêu lên rằng từ thế kỷ XIV trở về trước các nhà chiến lược Đại Việt đã từng lựa chọn phòng ngự chiến lược là hình thức và phương thức quan trọng của hành động quân sự. Nhưng đó là phòng ngự tích cực, kể cả trong phòng ngự bị bắt buộc hay phòng ngự có ý định trước, phòng ngự kết hợp với tiến công, phòng ngự có phản công và chuyển sang tiến công cho đến khi hoàn toàn đánh bại quân xâm lược. Đó là phòng ngự tạo những điều kiện có lợi để chuyển sang đánh những đòn tiêu diệt lớn đối với quân địch như Lý Thường Kiệt đã phòng ngự trên tuyến sông Như Nguyệt. Hệ thống các quân thành tự nó không phải là vô dụng. Trong điều kiện kỹ thuật của thế kỷ XV, để công phá một quân thành kiên cố (như các quân thành nhà Hồ) phải mất vài ba tháng, thậm chí hàng năm, với những tổn thất đáng kể. Cố nhiên, với điều kiện quân thủ thành có chiến thuật chiến đấu tốt và tinh thần chiến đấu cao. Một mạng lưới quân thành chỉ có tác dụng chiến lược khi giữa những quân thành đó có những cụm và tập đoàn cơ động mạnh tiến công cả tập đoàn địch, vây kích để phối hợp với lực lượng giữ thành. Nhà Hồ hoàn toàn không tổ chức những cụm cơ động như vậy.

        Chỉ sau khi tuyến phòng ngự chiến lược chủ yếu bị chọc thủng và bị tan vỡ, Hồ Nguyên Trừng mới chuyển sang hình thái tác chiến cơ động phương thức hành động có tính chất tiến công, làm cho chiến lược mang một tính tích cực nào đó. Những trận phản kích cửa sông Luộc và Hàm Tử nói lên điều đó. Song cuộc phản kích do những đội quân vừa bị đánh thua từ nhiều quân thành vội vã tập hợp lại, chưa quen tiến hành những cuộc cơ động tiến công, công tác chuẩn bị không giữ được bí mật nên đã bị thất bại hết sức nặng nề.

        Tính thụ động, tiêu cực cửa phòng ngự chiến lược cũng có biểu hiện nổi bật trong việc quân đội nhà Hồ hoàn toàn không tổ chức và tiến hành bất cứ hoạt động nào để đánh chặn, tiêu hao địch trong quá trình chúng vận động tiếp cận từ quân thành này đến quân thành khác, từ khu vực biên giới đến tuyến chủ yếu của phòng ngự, cũng như trong quá trình chúng thực hiện bố trí bao vây công kích các quân thành.

        Chiến thuật giữ thành, nổi rõ trong những trận chiến đấu và hội chiến nối tiếp nhau, cũng mang một tính chất thụ động tương tự. Trước khi địch tiến hành công kích, toàn cụm quân giữ thành đều tự trói mình trong thế chờ đợi tiêu cực. Khi địch công kích, trong lúc các đội súng “thần cơ”, các đội máy phóng đá hoạt động thì bộ binh ngồi không; khi địch bắc thang vượt hào và leo lên mặt thành, thì một bộ phận bộ binh hoạt động, còn đại bộ phận bộ binh và các binh chủng khác không có hoạt động gì. Đó là những trận chiến đấu và hội chiến không có xuất kích, không có phản kích, chẳng những “không ra đánh”, mà cũng không thực hiện được “cố thủ nơi hiểm trở”. Trận xuất kích duy nhất của tượng binh trước thành Đa Bang do tượng binh đơn độc tiến hành không có sự hỗ trợ của bộ binh và các binh chủng khác, nên bị thất bại.

        Sự thiển cận và tính mạo hiểm của họ đã thể hiện trong việc tiến hành chiến tranh theo ý đồ “cầm cự lâu dài” mà không có lực lượng dự bị chiến lược, không có lực lượng cơ động chiến lược. Trong quá trình chiến tranh, khả năng lập ra và sử dụng những cụm dự bị cơ động như vậy không phải không có. Hai cụm quân Bình Than và Bạch Hạc đã trở thành vô dụng gìn giữ mãi những thành mà quân địch không đánh, thậm chí không kìm chế, vẫn “án binh bất động” trong khi cả hai lộ quân Trương Phụ và Mộc Thạnh phơi bày cạnh sườn, không có gì bảo đảm an toàn khi chúng vận động qua trước mặt hai cụm quân trên để đến bờ bắc sông Hồng đối diện với Đa Bang. Hai cụm quân đó cũng còn “án binh bất động” khi địch vây kích quân thành Đa Bang, để rồi cuối cùng rút lui về phía sau.

        Và nói chung, trong từng thời kỳ, từng trận chiến đấu và hội chiến, cũng như trong toàn bộ cuộc chiến tranh, họ đã không hề giải quyết được một trong những vấn đề phức tạp của chỉ huy quân đội là vấn đề tổ chức sự phối hợp hành động giữa lục quân và thủy quân, giữa các tập đoàn và cụm quân.

        Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trong việc lãnh đạo đấu tranh vũ trang và chỉ huy quân đội.

        Nghệ thuật lãnh đạo chính trị - quân sự của họ trong toàn bộ cuộc chiến tranh cũng như trong từng thời kỳ đều dừng lại ở một trình độ thấp, trước nhất thể hiện nổi bật ở sự bất lực của họ trong việc sử dụng ưu thế vốn có của tính chất chính nghĩa của một cuộc chiến tranh tự vệ, ưu thế đã được tạo ra về số lượng của quân đội, cả về chất lượng của một số binh khí kỹ thuật, thể hiện cả ở việc họ để mất quyền chủ động chiến lược vào tay quân xâm lược và không hề có quyết tâm giành lại quyền chủ động đó.

        Nghệ thuật quân sự của quân đội Đại Việt thời nhà Hồ đều mang những hình thức và phương thức hành động cứng đờ máy móc, nghèo nàn. Đó là những hình thức và phương thức không phù hợp với tình hình. Những quyết định chiến lược chiến thuật của họ không gây được một bất ngờ đáng kể nào cho địch, không gây được khó khăn nào cho địch, không buộc Trương Phụ, Mộc Thạnh phải thay đổi ý định của chúng.

        Trình độ nghệ thuật quân sự thấp đặc biệt thể hiện trong việc phân tán lực lượng và phương tiện của mình, trong việc sử dụng lãng phí những lực lượng và phương tiện đó, trong việc họ không biết cách phân tán lực lượng của địch, để cho Trương Phụ và Mộc Thạnh tự do tập trung lực lượng và phương tiện của chúng trên hướng chủ yếu, trên từng địa điểm và thời điểm, nhất là trên điểm then chốt như Đa Bang.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #28 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 11:56:47 pm »


        II - CUỘC KHÁNG CHIẾN THỜI HẬU TRẦN(1407 - 1414).

        Cuộc kháng chiến thất bại của nhà Hồ đã đưa lịch sử dân tộc ta đến trước một thảm họa. Âm mưu của nhà Minh là không những chiếm nước ta làm thuộc quốc, mà còn muốn thực hiện dã tâm đồng hóa, vĩnh viễn xóa bỏ nước ta và sát nhập hẳn vào lãnh thổ Trung Quốc. Nhưng chúng đã vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của nhân dân Đại Việt, những cuộc khởi nghĩa vẫn liên tiếp nổ ra.

        Mùa thu năm 1407, ngay sau khi đánh bại nhà Hồ, nền đô hộ của nhà Minh vừa được thiết lập thì nhân dân các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu (Nghệ An) đã nổi lên đốt phá nhà ngục, giết chết bọn quan huyện của địch. Nhân dân thiểu số vùng Châu Quảng Nguyên, Thất Nguyên (Cao Bằng) cũng nổi dậy chống quân Minh. Tổ chức nghĩa quân dựa vào địa thế hiểm trở vùng rừng núi chống cự với giặc, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Ngay ở các vùng như Tây Đô (Thanh Hóa), Từ Liêm (Hà Nội), Thạch Thất (Hà Tây), Đông Triều (Quảng Ninh), v.v... cũng có những nhóm nghĩa quân hoạt động. Đến mức nhà Minh coi những nơi đó là những “ổ quân ác nghịch” như lời Hiếu Thanh nội quan của nhà Minh tâu về triều rằng: “Tại các phủ Tân An (Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh), Kiến Bình (Hà - Nam - Ninh), Lạng Giang (Bắc Giang), các châu Đông Hồ (Đông Triều, Quảng Ninh), Thái Nguyên và vùng sông Sinh Quyết (sông Đáy) dân Nam không phục, họp nhau làm loạn”.

        Trong số những cuộc khởi nghĩa này có các cuộc khởi nghĩa tương đối lớn như:

        - Cuộc khởi nghĩa của Phạm Chấn, một thổ hào ở Đông Triều nổi dậy ở Bình Than vào cuối năm 1407. Phạm Chấn lập Trần Nguyệt Hồ làm vua và nghĩa quân tự xưng là quân Trung nghĩa. Nhưng nghĩa quân vừa mới nhóm lên đã bị quân Minh kéo đến đánh bại. Trần Nguyệt Hồ bị bắt, còn Phạm Chấn trốn thoát và về sau vẫn tiếp tục đấu tranh chống quân Minh.

        - Cuộc khởi nghĩa của Phạm Tất Đại ở Lục Nam (huyện Lục Ngạn, Bắc Giang), nổi dậy chiếm cứ các hang động miền lục Nam (vào cuối năm 1407).

        - Cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyên Thôi ở huyện Nguyên Lang (Vĩnh Phú) và Trần Nguyên Kháng, Nguyễn Đa Bí ở châu Thái Nguyên, nổ ra vào đầu năm 1408.

        Những cuộc khởi nghĩa trên đây nổ ra trong từng địa phương nhỏ hẹp, lại không liên kết được với nhau, nên lực lượng phân tán và dễ bị quân địch đàn áp, lần lượt bị thất bại. Nhưng đó cũng là những cuộc đấu tranh đầu tiên sau khi cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, mở màn cho cả một phong trào kháng Minh rộng rãi về sau này.

        Tiêu biểu cho các cuộc khởi nghĩa trong thời kỳ này, thể hiện tinh thần dân tộc quyết không chịu khuất phục ách nô lệ của nhà Minh là cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi và Trần Quý Kháng.

        Trần Ngỗi là con thứ của vua Trần Nghệ Tông (1370 - 1372), đời Trần đã được phong làm Giản Định vương. Sau khi chiếm được nước ta, nhà Minh ra lệnh tìm bắt con cháu và quan lại nhà Trần đem giải về nước. Trần Ngỗi phải lẩn tránh vào bến Yên Mô (Ninh Bình).

        Có một người yêu nước ở Thiên Trường (Hà - Nam - Ninh) là Trần Triệu Cơ lúc bấy giờ đang chuẩn bị khởi nghĩa liền đem quân đón Trần Ngỗi lên lập thành minh chủ. Ngày 1 tháng 11 năm 1407, Trần Ngỗi tự xưng làm Giản Định hoàng đế, đặt niên hiệu là Hưng Khánh, lập hành cung ở Yên Mô phát động cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh nhằm khôi phục lại cơ nghiệp nhà Trần. Tham gia khởi nghĩa có Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là hai thủ lĩnh chủ chốt của nghĩa quân.

        Sau khi cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyệt Hồ thất bại, Phạm Chấn cũng theo Trần Ngỗi. Một số thủ lĩnh khác ở miền Bắc như Trần Nguyên Tôn, Trần Lương Đình, Trần Nghiên Chiêu cũng dần dần tập hợp lực lượng xung quanh Trần Ngỗi.

        Khi nghĩa quân của Trần Ngỗi vừa mới tập hợp lại ở Yên Mô, bị quân Minh đến đánh. Trần Ngỗi phải rút lui vào Nghệ An. Đến cuối năm 1407, Trần Ngỗi đã tập hợp được một lực lượng khá lớn ở Nghệ An. Đầu năm 1408, nghĩa quân đánh bại và giết chết bọn quí tộc đầu hàng, chiếm giữ miền Nghệ An, Diễn Châu. Ngay sau đó Trương Phụ điều quân vào đàn áp. Trước sức tiến công mạnh của địch, nghĩa quân phải rút vào Hóa Châu. Trương Phụ củng cố ngụy quyền xong, liền rút quân về Đông Quan. Coi như cuộc xâm lược nước ta đã hoàn thành, nhà Minh ra lệnh cho Trương Phụ rút quân viễn chinh về nước, giao việc cai trị cho chính quyền đô hộ vừa được thành lập. Tháng 4 năm 1408, Trương Phụ và Mộc Thạnh rút quân về nước.

        Lợi dụng thời cơ đó, nghĩa quân Trần Ngỗi tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tiến đánh từ Hoa Châu chiếm lại Nghệ An, tiến vào Tân Bình chiếm Quảng Bình. Sau đó nghĩa quân tiến ra chiếm lấy cả Diễn Châu, Thanh Hóa, giải phóng một vùng rộng lớn. Đó là một thắng lợi to lớn của nghĩa quân, đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #29 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 11:59:29 pm »


        Ở miền Bắc, phong trào đấu tranh của nhân dân các nơi cũng lên cao, làm cho quân Minh phải đối phó nhiều mặt. Nhân đó, tháng 11 Trần Ngỗi mở cuộc tiến công lớn ra Bắc. Nghĩa quân đã tiến qua các miền Trường Yên (Ninh Bình), Phúc Thành (Hồng Lạc), rồi tiến đánh các căn cứ quân Minh. Nghĩa quân đã mở nhiều cuộc tiến công vào các căn cứ quan trọng của địch như đồn Bình Than, cửa Hàm Tử, chặn đường qua lại ở Tam Giang (Phú Thọ, Tuyên Quang) và đánh phá ngoại vi thành Đông Quan. Thanh thế của nghĩa quân vang dậy khắp nơi.

        Trước sự hoạt động mạnh mẽ của nghĩa quân, như lời tâu của bọn quan lại đô hộ nhà Minh về triều rằng: “Thế lực của giặc ngày một mạnh, quan quân nhiều lần không đánh nổi...”1, vua Minh phải phái Mộc Thạnh, điều động 4 vạn quân ở Vân Nam, Quế Châu, Thành Đô, Tứ Xuyên theo đường Vân Nam tiến sang nước ta tiếp viện cho bọn quan đô hộ Lư Nghi và ra lệnh cho bọn này chuẩn bị sẵn sàng 2 vạn thủy quân cùng với thuyền bè khí giới để phối hợp với viện binh.

        Cuối năm 1408, 10 vạn viện binh của Mộc Thạnh tiến vào thành Đông Quan hợp lực với quân của Lư Nghi chuẩn bị tiến đánh nghĩa quân. Quân địch tập trung ở bến Bô Cô (Ý Yên, Hà Nam Ninh). Nghĩa quân đóng cọc ở lòng sông và đắp lũy ở hai bên bờ để phòng ngự. Sau khi đánh bại cuộc tiến công của địch, nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Đặng Tất đã tiến công Bô Cô và đánh giặc giỏi, phá tan đại quân của giặc, 10 vạn quân giặc bị giết, Mộc Thạnh cùng với tàn quân giặc chạy thoát vào thành Cổ Động ở gần đó.

        Chiến thắng Bô Cô là một chiến thắng lẫy lừng của nghĩa quân Trần Ngỗi. Sau chiến thắng Bô Cô, Trần Ngỗi chủ trương: “Bây giờ nhân thế chẻ tre, đánh quét một trận ruỗi dài, khiến cho chúng không kịp bịt tai khi bị sét đánh, rồi tiến công thành Đông Quan thì tất phá được”2. Nhưng tướng Đặng Tất lại cho rằng: “Hãy bắt hết bọn giặc còn sống sót để trừ mối lo về sau”3. Giữa lúc vua tôi đang bàn cãi chưa ngã ngũ thì viện binh của địch đã kịp đến đón Mộc Thạnh từ thành Cổ Động về thành Đông Quan cố thủ. Thời cơ truy kích tiêu diệt hiếm có đã bị bỏ lỡ, nên mặc dù Đặng Tất có cố gắng chia quân bao vây các thành và truyền lệnh đi các lộ để hội binh chuẩn bị tiến công thành Đông Quan, nhưng không thành. Từ đó trong nội bộ nghĩa quân lại nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Vì địa vị và quyền lợi ích kỷ của mình, Trần Ngỗi đã nghe lời dèm pha, lừa giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là hai tướng trụ cột của phong trào.

        Cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi đang trên đà phát triển thắng lợi, từ đó bị hao mòn và suy yếu nhanh chóng. Nguyên nhân thất bại chính là vì những người cầm đầu thiếu sự đồng tâm nhất trí với nhau và thiếu khả năng huy động tập hợp lực lượng kháng chiến của toàn dân.

        Tháng 4 năm 1408, tức một tháng sau khi Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân bị giết, con của các ông là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đã đem một bộ phận nghĩa quân ở Thuận Hóa đón Trần Quý Kháng, cháu nội của Trần Nghệ Tông lập làm vua, xưng là Trung Quang Đế. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn mạnh hơn cả và tồn tại trong thời gian hơn 6 năm.

        Trần Quý Kháng đã hợp nhất được với lực lượng nghĩa quân Trần Ngỗi, khi làm chủ được khu vực từ Thanh Hóa trở vào, lại tiếp tục tiến ra Bắc hoạt động. Trần Ngỗi tiến đánh miền Hạ Hồng (Hải Hưng). Trần Quý Kháng đóng ở Bình Than. Nhân dân và hào kiệt các nơi nổi dậy hưởng ứng phong trào lại được hồi phục nhanh chóng. Quân Minh phải đóng chặt cửa thành để cố thủ chờ viện binh. Thanh thế của nghĩa quân khá mạnh, lại liên kết được với các nước láng giềng phía Tây và được những nước này giúp đỡ về lương thực.

        Khi nhận được tin Mộc Thạnh bị bại trận, nhà Minh gấp rút điều thêm quân tiếp viện và cử Trương Phụ làm tổng binh, Vương Hữu làm phó tổng binh đem 47.000 quân sang phối hợp với Mộc Thạnh đàn áp nghĩa quân.

        Trương Phụ là một viên tướng khét tiếng gian ác và rất am hiểu tình hình, địa thế nước ta. Tháng 6-1409 đạo quân của Trương Phụ từ Nam Ninh (Quảng Tây) qua cửa Pha Lũy hành quân theo con đường lưu vực sông Thương là con đường mà ba năm trước đã tiến đánh nhà Hồ. Trương Phụ đóng quân vào thành Đông Quan phối hợp với Mộc Thạnh tiến hành trấn áp những hoạt động của nghĩa quân ở vùng ngoại vi và vùng Đông Bắc thành Đông Quan.

        Trước sực tiến công của quân Minh, nghĩa quân vẫn hoạt động mạnh ở lưu vực sông Nhị và sông Thái Bình. Những trận đánh lớn đã diễn ra. Nghĩa quân, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Cảnh Dị, đã bao vây căn cứ Bình Than và giết chết Từ Chính, làm chủ vùng lưu vực sông Thái Bình. Trương Phụ đã huy động một lực lượng khá lớn mở cuộc tiến công vào cửa Hàm Tử nhằm chiếm lại vùng đồng bằng. Nghĩa quân lập doanh trại trên bờ sông, bố trí hơn 600 chiến thuyền ở giữa lòng sông và đóng cọc ở bờ Nam để chống cự. Quân Minh do Trương Phụ chỉ huy theo sông Nhị đánh vào căn cứ của nghĩa quân. Theo chính sử của nhà Minh thì trận đánh ở cửa Hàm Tử rất quyết liệt. Lực lượng nghĩa quân ở đây có khoảng 2 vạn. Bấy giờ vào khoảng hạ tuần tháng 8 âm lịch, gió tây bắc thổi mạnh, rất lợi cho cuộc tiến công của địch. Nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, nhưng thế yếu, nên thất bại, phải rút lui.

--------------
1 - 3. Hoàng Minh thực lực.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM