Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 10:12:34 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam  (Đọc 54735 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #10 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 10:17:37 pm »

       
II

ĐẠI THẮNG MÔNG – NGUYÊN THỜI TRẦN THẾ KỶ XIII

        Ở thế kỷ XIII, trong vòng ba chục năm, dân tộc Việt Nam đã tiến hành liên tiếp ba cuộc kháng chiến, giành thắng lợi oanh liệt trước một đối tượng xâm lược hùng mạnh và tàn bạo vào bậc nhất trong lịch sử lúc đó, đế quốc Mông - Nguyên.

        Nhiều nhà sử học trên thế giới và trong nước đã, đang và sẽ còn nghiên cứu, miêu tả, phân tích ngày càng rõ ràng, chính xác hơn về quá trình bành trướng của đế quốc Mông Cổ nói chung và 3 cuộc kháng chiến quyết liệt và tài tình của dân tộc Việt Nam nói riêng. Dựa trên những tài liệu lịch sử hiện có, chúng tôi sẽ cố gắng không lặp lại việc miêu tả, mà chú trọng phân tích trên góc độ nghệ thuật chiến tranh, tìm hiểu xem vì sao và bằng cách nào một nước nhỏ, dân thưa, quân ít, tiềm lực có hạn, lại có thể đứng vững, đánh thắng và chặn đứng tên xâm lược khổng lồ, lắm quân, nhiều ngựa, thuyền, khí giới, điều dộng từ một vùng đất mênh mông đã chinh phục được, buộc chúng phải từ bỏ mộng tưởng thâu tóm và nô dịch thế giới.

        Kinh nghiệm lịch sử đã chứng minh, muốn buộc một kẻ địch mạnh từ bỏ mục tiêu xâm lược thì không có cách nàokhác là phải đánh bại ý chí xâm lược của nó bằng cách phá các biện pháp chiến lược chủ yếu và tiêu diệt bộ phận lực lượng chiến lược của nó.

        Quân dân Đại Việt đầu triều Trần đã làm được điều đó. Với ý chí sắt đá bảo vệ độc lập, chủ quyền, với tình đoàn kết keo sơn cả nước một lòng, với tinh thần xả thân, sẵn sàng chịu đựng và vượt qua những hy sinh, tổn thất to lớn, và quan trọng nhất là với tầm cao của trí tuệ và sức sáng tạo trong vận dụng nghệ thuật quân sự, tổ tiên ta trong cuộc đọ sức chênh lệch này đã càng đánh càng mạnh, càng chủ động dồn địch vào thế càng hung hăng thì càng bị động, càng thua lớn cuối cùng phải cam chịu thảm bại.

        Quá trình không diễn ra đơn giản, trơn tru, mà có vấp váp có thất bại tạm thời, có hiểm nguy căng thẳng. Đó là quá trình tìm hiểu, nhận thức đối tượng, sử dụng các biện pháp để tìm ra biện pháp có hiệu quả nhất nhằm chiến thằng địch.

        Như chúng ta đều biết, ba lần đọ sức của quân dân Đại Việt với đế quốc Mông Cổ diễn ra trong khoảng thời gian 30 năm, trong các bối cảnh khác nhau. Lần thứ nhất (1258) diễn ra sau khi đế quốc Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn thành lập từ năm 1206, đã bành trướng nhanh chóng ra đại bộ phận lục địa Á - Âu từ bờ Bắc Hải tới Thái Bình Dương diệt Tây Hạ, diệt Kim, Tây Liêu chiếm Triều Tiên, diệt Tống, đẩy Tống xuống phía Nam Trường Giang, rồi quay sang chiếm Trung Á, chiếm vùng Lưỡng Hà, lập ra nước Hãn Ba Tư, chiếm đại bộ phận nước Nga, chiếm Ba Lan, Hung-ga-ri, lập ra nước Hãn lều vàng (Kim Trường). Để chuẩn bị tiêu diệt Nam Tống, một cánh quân Mông Cổ đã đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam ngày nay). Lần đọ sức thứ hai (1285) và thứ ba (1288) diễn ra khi đại hãn Khu Bi Lai (Hốt Tất Liệt) đã hoàn thành việc tiêu diệt Nam Tống, thâu tóm toàn Trung Quốc và thành lập triều đại Nguyên, tiến đánh Miến Điện và Chiêm Thành.

        Lần kháng chiến thứ nhất (1258)

        Đặc điểm của lần xâm lược này là nó được tiến hành với mục đích lấy đất Đại Việt để tổ chức mũi vu hồi sau lưng Nam Tống. Nếu chiếm được Đại Việt thì chúng sẽ định kế ở lâu dài nhưng không đặt nhiệm vụ này ưu tiên hơn việc đánh Nam Tống. Chính vì vậy, số quân được sử dụng không nhiều, chỉ gồm từ 2 đến 3 vạn quân Mông Cổ và 2 vạn quân đầu hàng của vua Đại Lý, tổng số là 4 - 5 vạn tên. Tuy nhiên đây cũng là 1 đạo quân kỵ mạnh do tên tướng giỏi và nhiều kinh nghiệm U-ri-ăng-kha-đai chỉ huy.

        Về phía ta, theo dõi sát quá trình xâm lược, bành trướng của đế quốc Mông Cổ do những người lái buôn Tây Dương, Ba Tư, Ấn Độ, Tây Vực... tới buôn bán ở vùng ven biển nước ta cung cấp và tìm hiểu qua việc giao thiệp với triều Tống, triều đình và nhân dân Đại Việt đã sớm nhận thấy làn sóng xâm lược đang tràn tới từ phương Bắc. Vì vậy, ngay từ khi mới lên cầm quyền, triều Trần đã tiến hành nhiều biện pháp chuẩn bị để tăng cường sức mạnh giữ nước. Tuy nhiên, do chưa trực tiếp đánh nhau với địch, quân dân ta chưa thể đánh giá thật xác đáng về sức mạnh của quân xâm lược cũng như sở trường, sở đoản của chúng.

        Với số quân cấm vệ và quân các lộ gồm mười vạn người, có đủ các binh chủng bộ binh, kỵ binh, tượng binh và thủy binh đã được thao luyện chu đáo nên triều đình nhà Trần đã đề ra kế hoạch chặn địch và tiêu diệt chúng trước kinh thành Thăng Long. Nhưng đồng thời, cũng dự kiến phương án khi cần sẽ rút khỏi kinh thành.

        Theo kế hoạch đó, cuối tháng 12 năm 1257, khi nhận được tin cấp báo địch đã vượt biên giới, vua Trần lập tức “thân đem sáu quân đi chống giặc”1.

        Trong trận đánh chặn ở Bình Lệ, mặc dù nhà vua “thân tự cầm quân đốc chiến, đi trước công phá tên đạn”2, các tướng lĩnh, tiêu biểu là Lê Tần hết sức bình tĩnh dũng cảm, binh sĩ chiến đấu gan dạ, nhưng tượng binh của ta không phát huy được sức mạnh công phá trận địch như dự kiến, lại bị quân thiện xạ đánh lui, trận địa bị núng trước làn sóng xung kích mãnh liệt của kỵ binh thiện chiến của địch.

---------------
1. “Để thân xuất lục sứ ngự khẩu”. “Lục sứ”, tức sáu quân, là các quân Thiên Thuộc, Thiên Chương, Thánh Dực, Chương Thánh, Thần Sách, Củng Thần. Đó là toàn bộ quân chủ lực của nhà Trần lúc đó.

2. Đại Việt sử ký toàn thư bản ký, Quyển 5, tờ 22a.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #11 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 10:21:34 pm »


        Không khăng khăng bám giữ ý định cũ, vua Trần đã nghe theo lời khuyên sáng suốt của Lê Tần, tạm lui quân để tránh nhuệ khí ban đầu của địch. Cuộc lui quân về Phủ Lỗ, rồi về Thăng Long và sau cùng bỏ Thăng Long, rút về vùng sông Thiên Mạc, tuy vội vã nhưng được tiến hành tương đối tốt. Các tướng làm nhiệm vụ chặn địch đã có tinh thần anh dũng hy sinh, bảo đảm an toàn cho đại quân và dân chúng kinh thành di chuyển. Dù vội vã nhưng nhân dân ta vẫn kiên quyết chấp hành lệnh thanh dã (làm vườn không nhà trống), tạo điều kiện thuận lợi cho phản công. Vì vậy, vào chiếm kinh thành bỏ ngỏ, U-ri-ăng-kha-đai không gặt hái được thắng lợi như thường lệ mỗi khi chiếm được quốc đô của các quốc gia Âu - Á khác. Ý đồ chiến lược tiêu diệt lực lượng kháng chiến Đại Việt không đạt được. Kinh thành vắng lặng, không một người dân, không một hạt lương thực trong kho và ngoài đồng ruộng, không một chiếc thuyền ngoài bến sông. Bốn vạn quân mã chiếm đóng ngay từ đầu đã lâm vào khó khăn vì thiếu ăn. Đoàn kỵ binh thiện chiến bất lực nhìn dòng nước sông Hồng đã đưa quân đội Đại Việt xuôi về phía nam mà không có cách gì truy kích.

        Sau khi sục sạo và phá phách kinh thành, quân Mông không dám giam vó ngựa trong phố phường chật hẹp, đã ra lập trại ngoài bến Đông Bộ Đầu để tính kế tiến lui và tiện đối phó với quân ta. Những toán quân giặc đi lùng cướp lương thực vùng xung quanh kinh thành đều bị dân các thôn ấp đánh cho tơi tả. Nhuệ khí ban đầu của giặc không còn nữa. Thời cơ phản công của quân dân Đại Việt đã tới.

        Ngay sau khi rút xuống vùng Thiên Mạc, quân đội triều Trần được chỉnh đốn, bổ sung. Vũ khí, phương tiện được thu thập, kể cả những thuyền các gia đình đi lánh nạn. Mọi mặt tinh thần vật chất đều sẵn sàng.

        Ngày 20-1-1258, đại quân ta tiến đánh thẳng vào trại giặc ở Đông Bộ Đầu. Hiện không còn tài liệu miêu tả chi tiết trận đánh này. Ta chỉ được biết trận đánh do Trần Thái Tôn đích thân chỉ huy, có vị tướng trẻ Trần Quốc Tuấn (lúc đó mới khoảng 20 - 25 tuổi) “tiết chế mọi việc quân”. Tham gia trận đánh còn có đủ mặt vương hầu tướng lĩnh quan trọng như Trần Thủ Độ, Lê Tần. Thái tử Hoàng lúc đó 18 tuổi cũng tham gia trận đánh.

        Như vậy, đây là trận phản công toàn lực của quân Đại Việt. Địch không chống đỡ nổi, phải mở đường máu chạy về Vân Nam. Dọc đường, giặc còn bị dân binh địa phương chặn đánh, gây tổn thất lớn.

        Cuộc xâm lược chấm dứt. Giặc không thực hiện được mục đích đề ra. Số quân Mông bị tổn thất ở Đại Việt không thấy ghi rõ trong sử sách, ta chỉ biết U-ri-ăng-kha-đai dẫn quân từ Vân Nam qua đường Quảng Tây lên Châu Ngạc hội quân với Hốt Tất Liệt thì số quân còn lại không quá 5 nghìn. Như vậy là 15 nghìn quân đã bị mất trong cuộc xâm lược Đại Việt và trên chặng đường hành quân Vân Nam - Hồ Bắc. Điều chắc chắn là phần lớn trong số 15 nghìn quân đó đã bỏ xác tại Đại Việt.

        Lãnh thổ Đại Việt được khôi phục. Dù chưa tiêu diệt gọn quân xâm lược, nhưng trận đọ sức trực tiếp đầu tiên với bọn giặc hung hãn nhất của thời đại đã có giá trị lớn, giúp ta rút ra những bài học quý.

        Nó củng cố lòng tin cho dân tộc ta vì tuy chưa huy động hết tiềm lực của đất nước, đã có thể đánh lui bọn giặc cuồng bạo và thiện chiến, từng thôn tính dễ dàng các quốc gia khác.

        Về nhận thức đánh giá địch, ta thấy cụ thể hơn về sức mạnh của kỵ binh địch vừa cơ động nhanh trên bộ, vừa tạo thành sức mạnh xung kích ào ạt trong công phá trận địa phòng thủ mà tượng binh nặng nề và xoay trở chậm hơn không ngăn chặn được. Nhưng địch cũng bộc lộ những nhược điểm lớn như tác dụng của kỵ binh bị hạn chế trên chiến trường có nhiều sông ngòi ngang dọc; quân tiến công không thể mang theo nhiều lương thực, nếu không có nguồn tiếp tế tại chỗ thì không thể tác chiến dài ngày.

        Về nghệ thuật quân sự, ta tìm ra những biện pháp hạn chế và tránh chỗ mạnh của địch (kỵ binh, trường trận), lợi dụng, khoét sâu và đánh vào chỗ yếu của chúng (thủy quân, tiếp lương). Tư tưởng “lấy nhàn chờ nhọc” “dùng đoản binh thắng trường trận” của Trần Quốc Tuấn chắc đã nảy nở và chín dần trong và sau lần kháng chiến này.

        Về mặt tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc, qua kinh nghiệm thắng lợi của dân binh vùng Sơn Vị, Bạch Hạc (Phùng Lộc Hộ) và Quê Hóa (Hà Bổng), triều đình càng thấy rõ hơn vai trò quan trọng của lực lượng tại chỗ trong việc ghìm chân, quấy rối và chặn đánh địch để vận dụng rộng rãi trong các lần kháng chiến sau, và tác dụng lớn của việc nhân dân làm chước thanh dã.


        Tất nhiên, về phía địch, chúng cũng hiểu ta hơn, không dám quá chủ quan, coi thường ta và phải chuẩn bị thật đầy đủ, kỹ càng hơn, tìm tòi phương kế và biện pháp hiểm độc hơn cho lần xâm lược sau.

        Tóm lại, đối với cả hai bên, cuộc đọ sức quyết liệt thật sự còn chưa tới. Diễn biến và kết cục của nó sẽ phụ thuộc vào mức độ chuẩn bị, nỗ lực chủ quan và tài nghệ của mỗi bên.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #12 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 10:27:27 pm »


        Lần kháng chiến thứ hai (1285)

        Đặc điểm của lần kháng chiến thứ hai này là quân xâm lược Mông Cổ đã tiêu diệt xong nhà Tống, thành lập triều đại Nguyên và lấy Đại Việt làm mục tiêu chính và trực tiếp của hành động tiếp tục bành trướng xuống phương Nam. Vì vậy địch đã huy động một lực lượng khổng lồ là 50 vạn quân tiến vào nước ta từ hai hướng Đông Bắc và Tây Bắc, phối hợp với gần 10 vạn quân đã ở sẵn Chiêm Thành, đánh ra nước ta từ phía Nam. Về mặt chiến cụ và lương thực, địch cũng chuẩn bị kỹ càng và đầy đủ hơn lần trước nhiều.

        Về phía ta, sau mấy chục năm bồi dưỡng sức dân, tăng cường lực lượng của triều đình cũng như của vương hầu quý tộc và dân binh ở các địa phương, sức mạnh giữ nước của dân tộc ta đã trưởng thành vượt bậc. Ngoài ra, công việc chuẩn bị động viên tinh thần cho quân dân được tiến hành hết sức chu đáo. Triều đình nhà Trần đã định ra kế hoạch phòng giữ tỷ mỹ, có tập duyệt ngay tại các vùng dự kiến sẽ có giao chiến với giặc.

        Rút bài học kinh nghiệm của lần kháng chiến thứ nhất và xét tinh hình cụ thể của lần tiến quân này của giặc, triều Trần đã bố trí nhiều tuyến ngăn chặn mạnh trên hướng đông bắc để làm chậm, tiêu hao và nếu điều kiện cho phép thì chặn đứng và tiêu diệt, không cho chúng vào Thăng Long, đồng thời cũng chuẩn bị kỹ cho phương án rút bỏ kinh thành và cơ động tránh giặc theo đường sông và đường biển.

        Nhưng vì điều kiện địch đã khác trước rất xa nên diễn biến của lần kháng chiến này rất phức tạp, xuất hiện những tình huống đòi hỏi từ vua quan đến tướng sĩ và nhân dân Đại Việt phải cố gắng và sáng tạo cao độ mới giành được thắng lợi.

        Ngày 27-1-1285, đại quân địch trên hướng Đông Bắc tiến vào Lộc Bình. Những cuộc ác chiến diễn ra giữa ta và địch suốt theo chiều sâu từ biên giới xuống. Qua 6 ngày kịch chiến và chịu nhiều tổn thất, địch đến được trước ải Nội Bàng, một trong điểm phòng ngự do đích thân tiết chế Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Ngày 2-2-1285, quân địch chia làm 6 mũi tiến đánh Nội Bàng. Với lực lượng tại chỗ, Trần Quốc Tuấn định chặn đứng đường tiến quân của giặc. Nhưng quân giặc quá đông, tiến đánh ào ạt, trong lúc đó, một cánh quân khác của địch đã vượt qua được ải Khâu Ôn và Lao Thủ (Chi Lăng). Tình thế buộc vị tướng soái phải chọn lựa: hoặc là tiếp tục chặn địch, một việc khó thực hiện, hoặc rút đi tạm tránh cái mạnh nhất thời của địch để khỏi bị tổn thất nhiều. Và Trần Quốc Tuấn, vị tướng tài trí, nhà chiến lược đã viết Binh thư yếu lược, và Vạn Kiếp tông bí truyền thư, đã xử trí đúng như tình thế đòi hỏi, lui quân về Vạn Kiếp. Làm như vậy, Trần Quốc Tuấn đã thực hiện điều mà bản thân đã từng suy nghĩ “vì là biết khó mà lui, lường thế không thể thắng được, bèn thu vén quân mà rút lui, hơn là tiến để mà mất vậy”1.

        Cuộc lui quân về Vạn Kiếp được thực hiện tốt theo một kế hoạch chặt chẽ. Tại phòng tuyến này, các vương hầu đem quân đến hội, theo sử chép, tổng số quân lên tới 20 vạn. Một lần nữa, Trần Quốc Tuấn đã bố trí tại đây một tuyến phòng ngự mạnh, dựa vào thế sông và thế núi vùng Vạn Kiếp, Bình Than, Phả Lại. Với số quân chủ lực lớn và với thế bố trí này, ta thấy ông vẫn có ý định chặn bước tiến của giặc ở đây. Đồng thời, ông cũng tăng cường chiều sâu phòng tuyến để giữ an toàn đường lui quân về Thăng Long, không cho địch có thể vu hồi, bọc hậu.

        Hai khối quân chủ lực lớn đối mặt nhau. Địch mạnh về quân kỵ, ta mạnh về quân thủy. Thoát Hoan và U-ri-ăng-kha-đai buộc phải dừng lại, đóng thuyền chiến cấp tốc tổ chức một đội quân thủy lớn giao cho Ô Mã Nhi thống lĩnh. Sau mười ngày hối hả chuẩn bị, ngày 11-2-1285 đích mở đợt tiến công mới vào phòng tuyến Bình Than - Vạn Kiếp. Cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Vua Trần thân dẫn quân Thánh Dực và hơn 1.000 thuyền chiến đến tăng viện cho Trần Quốc Tuấn. Địch bị tổn thất lớn, nhưng cậy quân đông vẫn liều mạng công kích, quyết phá vỡ trận địa ta. Kéo dài cuộc chiến sẽ không có lợi, vì vậy ngày 14-2-1285, quân ta rút khỏi phòng tuyến. Vua Trần và Trần Quốc Tuấn đem binh thuyền theo sông Đuống, về Thăng Long, rồi từ đó tổ chức cuộc sơ tán triều đình và dân kinh thành.

        Ngày 19-2-1285, sau nhiều trận bị chặn đánh, quân giặc mới vào được Thăng Long, sau khi triều đình và quân đội đã rút lui an toàn về Thiên Trường. Cánh quân của Trần Nhật Duật, sau khi hoàn thành việc đánh chặn cánh quân Tây Bắc của địch, đã về hội với quân triều đình ở đây.

        Địch vào Thăng Long, vẫn chỉ chiếm được một tòa thành trống như đã diễn ra năm 1258. Nhưng với một số quân đông hơn trước gấp nhiều lần và với một số lượng lương thực đủ ăn trong mấy tháng. Thoát Hoan vẫn còn hung hăng và điên cuồng muốn đuổi theo tiêu diệt quân ta.

        Như vậy, ý định của ta tiến hành phòng ngự chiến lược để chặn đứng quân địch không thực hiện được, bởi vì ý định đó tuy đã dựa trên sự tính toán về lực lượng địch ta, nhưng vẫn chưa thật sát với tình hình mới của năm 1285 này. Địch mạnh hơn ta dự kiến và tràn đầy kiêu ngạo, ngông cuồng, tin chắc sẽ nuốt chửng được Đại Việt, một nước nhỏ.

--------------
1. Binh thư yếu lược, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, trang 385.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #13 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 10:34:17 pm »

       
        Phải rút khỏi phòng tuyến, lại bỏ ngỏ kinh thành cho giặc, chúng ta đã đạt được một thắng lợi quan trọng, là chuyển từ phòng ngự chiến lược sang rút lui chiến lược một cách tài tình. Một đội quân lớn, một tổ chức triều đình đồ sộ đã di chuyển và phân tán tại chỗ theo một kế hoạch chặt chẽ, một trật tự hoàn bị, không để xảy ra rối loạn khiến địch có thể lợi dụng. Đây là điều hiếm thấy trong lịch sử chiến tranh. Đây cũng là điều kiện quan trọng quyết định để tiếp tục đưa cuộc kháng chiến vượt qua những thử thách hiểm nghèo và giành thằng lợi cuối cùng.

        Vào tới Thiên Trường, Trường Yên, quân ta lại tập hợp được một lực lượng đông đảo. Tại đây, bộ chỉ huy quân Đại Việt phải lo đối phó với địch ở cả hai mặt Bắc và Nam. Đối với đại quân Thoát Hoan từ phía Bắc tiến xuống, thì sau khi Trần Bình Trọng chặn đánh tại khúc sông Thiên Mạc và anh dũng hy sinh, áp lực của địch càng mạnh. Đích thân Trần Quốc Tuấn cùng với Phạm Ngũ Lão lại đem hơn 1.000 thuyền chiến từ Long Khánh ngược sông Thái Bình kéo lên đóng lại tại Vạn Kiếp chơi trò xoay vòng với giặc, tạo thành thế uy hiếp sau lưng chúng, khiến cho Thoát Hoan, với số quân rất lớn, vẫn kinh hoàng vì “bị treo lơ lửng ở giữa”1. Để lo đối phó với quân Toa Đô từ Chiêm Thành tiến ra, Trần Quốc Tuấn đã cử Trần Nhật Duật vào trấn giữ Nghệ An, Trần Kiệm vào trấn giữ Thanh Hóa và tiếp đó, lại đề nghị vua Trần cử Trần Quang Khải vào Nghệ An tăng viện cho Trần Nhật Duật. Nhưng khi Trần Nhật Duật vừa vào tới Nghệ An và Trần Quang Khải chưa vào kịp, thi Toa Đô đã đem quân tiến ra.

        Trần Nhật Duật không cản được, phải rút lui. Giặc thẳng đường tiến ra Thanh Hóa. Thêm một biến cố bất ngờ làm tăng thêm khó khăn cho ta. Ngày 8-3-1285, Trần Kiệm tuy có trong tay một vạn quân để trấn giữ Thanh Hóa nhưng đã đầu hàng giặc, tạo một lỗ hổng lớn trên tuyến phòng giữ mặt Nam. Do sự phản bội của bọn Trần Kiệm, giặc đã tập kích, gây tổn thất cho trại quân ta ở Vệ Bố và cho toán quân của Trần Quang Khải khi ghé thuyền vào bến Phúc Tân.

        Quân triều đình đứng giữa hai gọng kìm của địch: quân Thoát Hoan từ mặt Bắc đánh xuống Thiên Trường, quân Toa Đô từ mặt Nam đánh vào Trường Yên. Tình thế trở nên nguy kịch. Nếu không xử trí nhanh chóng và quyết đoán thì quân ta (gồm cánh quân vua Trần và cánh quân của Trần Quốc Tuấn mới từ Vạn Kiếp quay về tiếp ứng) sẽ khó tránh khỏi hiểm họa. Vua Trần và tiết chế Trần Quốc Tuấn đã tổ chức một cuộc thoát hiểm đầy mưu trí: mau lẹ và bí mật đưa toàn quân rút ra cửa biển Giao Hải, xuống thuyền ra biển. Để tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc rút lui, ta đã dùng mưu cầu hòa để giặc ngừng tiến quân. Vì vậy, chỉ sau khi vồ hụt vào chỗ trống, giặc mới biết là ta đã “đưa cả nước đi ra biển” (nguyên văn: “cứ quốc hàng hải”). Giặc chưng hửng vì mất mục tiêu, điên cuồng lùng sục và bắt bớ, nhưng không đạt kết quả gì ngoài việc làm cho mấy tên quý tộc bạc nhược như Trần Tú Hoãn, Trần Ích Tắc phải ra hàng để chịu chung tình cảnh khốn quẫn với chúng.

        Trong khi đó, vua Trần và Trần Quốc Tuấn đã chuẩn bị kế hoạch phản công. Bằng nhiều hành động đánh lạc hướng giặc, hai cánh quân lại trở về vị trí cũ: Trần Quốc Tuấn về Vạn Kiếp, hai vua Trần về Thanh Hóa, nơi cánh quân Toa Đô đã đi qua.

        Đạo quân khổng lồ của Thoát Hoan sau bốn tháng loay hoay mãi không thi thố được sở trường, không tìm được đối phương để giao chiến, sức chiến đấu của chúng giảm sút rõ rệt, phần vì bị tổn thất qua các cuộc đụng độ với quân địa phương và dân binh, phần vì bệnh tật do không quen khí hậu, thời tiết. Nhưng điều nguy ngập lớn nhất của địch là hết lương ăn mà hệ thống đường tiếp tế từ Thăng Long lên biên giới lại luôn bị đánh chặn, không duy trì được. Do khó khăn đột xuất này mà hai đạo quân Thoát Hoan, Toa Đô mấy tháng trước còn tìm mọi cách để gặp nhau, nay đã gặp nhau rồi lại không cưu mang được nhau nữa, Thoát Hoan buộc phải lệnh cho Toa Đô đóng lại ở Trường Yên để “kiếm lương”, “đóng cách đại bản doanh hơn hai trăm dặm”2.

        Giặc quẫn bách, thời cơ phản công chiến lược đã tới. Rất nhạy bén, quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn lại nhanh chóng vào Thanh Hóa cùng vua Trần và thượng tướng thái sư Trần Quang Khải hoạch định kế hoạch phản công.

        Tháng 5 năm 1285, Trần Quốc Tuấn cùng với Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đem quân ra Bắc, còn cụm quân vua Trần ở lại Thanh Hóa để thanh toán cánh quân Toa Đô. Theo kế hoạch cánh quân ra Bắc phân làm hai tập đoàn kỳ, chính: Tập đoàn quân của Trần Quang Khải đánh hệ thống đồn giặc trên sông Hồng phía Nam Thăng Long rồi tiến lên giải phóng kinh thành, tập đoàn quân của Trần Quốc Tuấn sẽ đi vòng qua các lộ phía Đông, tiến về Vạn Kiếp, nơi đã có quân các vương hầu chờ đón để cùng tiến đánh quân địch từ phía sườn và phía sau, tiêu diệt quân địch rút chạy. Lúc này quyền chủ động đã hoàn toàn nằm trong tay ta, tình hình diễn biến không ngoài dự kiến của quốc công tiết chế. Đặc điểm nổi bật trong lần tiến công chiến lược này là bên cạnh mưu kế hoàn hảo, còn có sự thực hiện kiên quyết, phối hợp chặt chẽ giữa chính binh và kỳ binh. Có thể coi tập đoàn quân của Trần Quang Khải đánh vào hệ thống đồn lũy dọc sông Hồng và vào Thăng Long là chính binh, còn tập đoàn quân của Trần Quốc Tuấn ở Phả Lại đánh vào sườn và phía sau địch giữ vai trò kỳ binh. Nhận định như vậy cũng chỉ là tương đối, bởi vì, như binh pháp cổ đã nói: “Phàm chiến đấu, lấy đạo chính để hợp, lấy đạo kỳ để thắng. Cho nên người giỏi dùng kỳ thì vô cùng như là trời đất, không hết như là sông biển... Thế chiến thắng chẳng qua chính với kỳ, chính kỳ biến hóa không cùng vậy. Chính kỳ sinh ra nhau như vòng xoay tròn không có đầu mối ai biết thế nào là cùng”3.

        Bốn câu thơ của Trần Quang Khải viết sau chiến thắng năm 1285 đã nói lên vai trò quan trọng của cánh quân tiến công chính diện vào quân Mông - Nguyên:

                                           Đoạt sáo Chương Dương Độ
                                           Cầm hồ Hàm Tử Quan
                                           Thái bình tu nỗ lực
                                           Vạn cố thủ giang san.


        Và các trận Quế Dương và Sông Sách cũng như các trận truy kích ở Vĩnh Bình của cánh quân do Trần Hưng Đạo chỉ huy trực tiếp ở Vạn Kiếp đã phối hợp nhịp nhàng ăn khớp, quyết định sự tan vỡ của trên 60 vạn quân Mông - Nguyên.

        Đúng như vậy, hai tập đoàn quân của Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải phối hợp chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề và điều kiện cho nhau để làm nên chiến thắng giòn giã của đợt tiến công chiến lược, đồng thời cũng tạo điều kiện cho tập đoàn của hai vua Trần tiêu diệt gọn ghẽ đạo quân Toa Đô ngày 24-6-1285.

-------------
1. Nguyên sử, quyển 13, trang 8b.

2. Nguyên sử, quyển 129, trang 8.

3. Binh thư yếu lược, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, năm 1970, trang 253.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #14 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 10:37:01 pm »

       
        Vậy là chỉ trong thời gian một tháng, từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 6 năm 1285, chiến thắng đã nối tiếp chiến thắng như diệt A Lổ, Giang Khẩu, Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, giải phóng Thăng Long, truy kích và diệt địch trên đường rút ở Quế Võ, Sông Sách, Vĩnh Bình, giết Lý Hằng, Lý Quán, buộc Thoát Hoan phải chui vào ống đồng, cùng một nhóm tàn quân trốn qua biên giới về nước.

        Trải qua những cuộc đấu trí và đấu sức cực kỳ căng thẳng, cuộc kháng chiến đã kết thúc bằng thắng lợi oanh liệt của quân dân Đại Việt. Qua cuộc kháng chiến này, nhân dân ta đã thu được những bài học kinh nghiệm vô giá, và có thể nói là, đã tìm ra được bí quyết để giành thắng lợi.

        1. Điều quyết định trước hết là đã xây dựng được ý chí quyết chiến quyết thắng trong cả nước từ triều đình, vương hầu, quý tộc đến toàn thể dân chúng. Từ hội nghị Bình Than đến hội nghị Diên Hồng, tinh thần yêu nước đã được khơi dậy, lòng căm thù giặc đã được hun đúc, phương lược công thủ đã được bàn bạc và hoạch định. Vì vậy, khi tình hình diễn biến khẩn trương, nguy ngập, ngoại trừ sự dao động cá biệt của mấy phần tử quý tộc đã xa lìa dân tộc, toàn thể quân dân đã giữ vững quyết tâm “Sát Thát”, gắn bó thành một khối sắt thép, góp trí, góp sức, đem mồ hôi và xương máu của mình phục vụ cho sự nghiệp giữ nước.

        2. Sức mạnh của ta không chỉ ở quân triều đình có sức “nuốt sao ngưu” của quân đội có những tướng tài như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái, Trần Quốc Toản, Yết Kiêu, Dã Tượng v.v… mà cả ở dân binh mạnh mẽ của Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp phối hợp đánh Thăng Long; của Nguyễn Truyền, Hà Đắc, Hà Chương ở Vĩnh Phú, của Nguyễn Lộc ở Lạng Sơn và còn biết bao dân binh ở các châu Hà Bắc, Kim Môn, Ninh Bình, Kim Yên v.v... Nguyên sử còn ghi trận Thăng Long lịch sử: “Quân thủy và quân bộ đến đánh đại bản doanh, vây quanh thành mấy vòng, tuy chết nhiều nhưng quân tăng thêm càng đông, quan quân (chỉ quân Nguyên) có đánh từ sáng đến tối, mỏi mệt, thiếu thốn; khí giới đều hết”... và quân mà Mông Cổ không thi thố được tài năng, phải liều chết phá vòng vây chạy khỏi thành Thăng Long. Rõ ràng quân Mông - Nguyên đi kháp Á, Âu, đánh thắng hàng mấy chục nước, đã thua quân Đại Việt trong trận quyết chiến chính quy trước các thành lũy và trên chiến trường đồng bằng. Trần Hưng Đạo đã xác định đúng nguyên tắc chỉ đạo tác chiến, ông nói: “Địch cậy trường trận, ta cậy đoản binh, dĩ đoản chế trường là lẽ thường của binh pháp”.

        3. Trong lần xâm lược này, quân Mông - Nguyên đã huy động đến đỉnh cao sức mạnh của nó, quân số đông, kỵ binh tinh nhuệ, đội hình dày đặc, tiến công ồ ạt cơ động nhanh chóng trên bộ. Nhưng chúng cũng bộc lộ những điểm yếu chí tử: càng xa hậu phương thì tiếp tế càng khó khăn, không thể bảo vệ được kho tàng, trạm trại trước các đòn đột kích của các đội quân nhỏ của ta; không quen thời tiết, khí hậu nhiệt đới, đóng quân càng lâu thì bệnh tật càng nhiều, sức chiến đấu bị giảm sút. Vì vậy, địch đã chú ý chọn mùa đông để tiến quân, với tham vọng tiêu diệt quân ta trước mùa hè. Khi tham vọng này không đạt được thì địch lâm vào thế bị động, lúng túng và dễ bị đánh bại. Về phương tiện cơ động, giặc chỉ sở trường về kỵ binh. Nhưng kỵ binh có thể phát huy được tác dụng trên địa hình đồng cỏ. Còn ở chiến trường nhiều sông ngòi chia cắt, tác dụng của nó bị hạn chế nhiều. Để bổ xung chỗ yếu này, địch đã vội vã tổ chức thủy quân, nhưng chất lượng kém, chỉ huy và sử dụng không thành thạo, không thể so sánh với thủy binh thiện chiến của ta. Địch có mang theo một số pháo và phương tiện đánh thành, nhưng vì ta không chủ trương cố giữ một nơi nào, nên pháo binh địch trở nên vô dụng. Nhìn chung lại, địch có cái mạnh ồ ạt ban đầu, nhưng khi trải rộng đội hình và qua mấy tháng tìm diệt không kết quả, thì những khó khăn sẽ dồn dập nảy sinh và sức chiến đấu của chúng nhanh chóng bị giảm sút, tự phơi bày những điểm yếu mà ta có thể khoét sâu và lợi dụng.

        Vì vậy, về nghệ thuật quân sự, ta đã phát huy được tư tưởng quân sự của vua Trần và “quân giặc đi xa lâu năm, đem lương muôn dặm ắt phải mệt nhọc, lấy nhàn đợi mệt, trước làm nhụt nhuệ khí của chúng, tất phá tan được”.

        Và Trần Hưng Đạo đã đưa ra nguyên tắc quân sự độc đáo trong chống quân Mông Nguyên mạnh nhất thời đó, đặc biệt là kỵ binh Mông Cổ:

        “Dĩ đoản chế trường là lệ thường của binh pháp”

        Ta có thể hiểu nhiều nghĩa:

        Đoản binh là bộ binh, mà trường trận là kỵ binh. Dĩ đoản là dùng bộ binh, chế trường là kiềm chế kỵ binh.

        Dĩ đoản còn có thể hiểu về nghệ thuật quân sự là lợi dụng chỗ yếu của đối phương như đường xa, quân mệt, lương thảo khó khăn, kỵ binh không phát huy được ở địa hình sông lạch, lầy thụt của đồng bằng Bắc Bộ, tiến công thì mạnh nhưng phòng ngự trong thành quách thì yếu.

        Chế trường còn là phải kìm chế sở trường của địch là giỏi kỵ binh, giỏi đánh thành lũy của quân Mông Cổ, nên quân Trần đã tận dụng đường thủy để cơ động tiến lui: cả trong rút lui chiến lược cũng như tiến công chiến lược đều dùng đường sông để cơ động, kỵ binh không đuổi kịp. Còn khi tiến công vào các căn cứ, thì kinh nghiệm trận Đông Bộ Đầu năm 1258 đã được phát huy với hàng loạt trận thắng oanh liệt ở A Lỗ, Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, buộc đội quân của Thoát Hoan phải rút chạy và bị tiêu diệt trên đường lui quân.

        Qua kinh nghiệm lần kháng chiến thứ nhất và giai đoạn phòng ngự chiến lược của lần kháng chiến này, rõ ràng việc dàn quân đối lũy với địch khi sức chúng còn hăng là không có lợi, thậm chí là không thể thực hiện được. Nhận ra điều đó, ta đã kịp thời cơ động, buộc địch dàn mỏng lực lượng, loay hoay đối phó với ta không kết quả lâm vào cảnh khốn quẫn vì thiếu lương ăn, ốm đau bệnh tật, mất hết nhuệ khí ban đầu, không còn quyền chủ động và lòng tin vào thắng lợi. Lúc đó, bằng đòn phản công và tiến công chiến lược mau lẹ, đều khắp, phốp hợp chặt chẽ giữa các chiến trường, các thứ quân, ta đã tiêu diệt hoàn toàn đạo quân xâm lược khổng lồ mà trước đó mấy tháng tưởng chừng như không ai có thể đương đầu được.

        Qua thực tiễn phong phú của hai cuộc kháng chiến, nhất là cuộc kháng chiến lần thứ hai, quân dân Đại Việt đã đạt tới sự nhận thức hoàn chỉnh về phương lược giữ nước, đối phó với giặc Mông - Nguyên cường bạo, để có thể quả quyết rằng sẽ giữ được “non sông muôn thuở vững vàng”. Và Trần Quốc Tuấn, đứng trước cuộc xâm lược lần thứ ba, đã có thể nhận định một cách đầy tự tin rằng “Năm nay, thế giặc dễ đánh” (nguyên văn: Kim niên tắc nhàn).
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Chín, 2016, 10:50:08 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #15 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 10:48:53 pm »

         
       Lần kháng chiến thứ ba (1288)

        Lần kháng chiến này xảy ra khi đế quốc Mông Cổ đã đạt tới điểm giới hạn trong hành động bành trướng của nó. Qua các lần xâm lược không thành công vào Đại Việt và Nhật Bản, nguyên thế tổ Hốt Tất Liệt điên cuồng và cay cú tìm mọi cách trả thù, tập trung vào Đại Việt. Đồng thời, trên lãnh thổ mênh mông của đế chế vừa dựng lên, nó cũng bận bịu đối phó với các cuộc nổi dậy của nhân dân bị thống trị. Vì vậy, để có đủ quân đánh Đại Việt, nó đã phải vơ vét, vá víu để tổ chức nên đoàn quân viễn chinh với thành phần không thuần nhất, gồm quân Mông Cổ, quân Hán (tức quân Trung Quốc phương Bắc), quân tân phụ (tức quân Trung Quốc phương Nam), quân người Di ở Vân Nam, quân người Lê ở đảo Hải Nam, quân người Choang ở Quảng Tây, v.v... Tổng số quân giặc theo ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư lên tới 50 vạn. Ngoài bộ binh và kỵ binh, lần này địch tổ chức một đoàn thuyền chiến mạnh 500 chiếc với gần 2 vạn quân giao cho Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy. Để tránh việc vận chuyển lương thực trên đường bộ, địch cũng tổ chức một đoàn thuyền lương do tên cướp biển Trương Văn Hổ chỉ huy mang theo 17 vạn thạch lương tức là một số lương thực nhiều gấp 5 lần so với lần xâm lược thứ hai. Đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi có nhiệm vụ hộ tống đoàn thuyền lương này vào Đại Việt.

        Để tạo danh nghĩa cho cuộc xâm lược, địch gấp rút tổ chức một chính quyền bù nhìn, phong Trần Ích Tắc làm An Nam quốc vương, Trần Tú Hoàn làm phụ nghĩa công cho theo đoàn quân xâm lược về nước.

        Như vậy là, do nôn nóng muốn báo thù, mặc dù có nhiều khó khăn trong nước, địch vẫn cố gắng tổ chức một đạo quân lớn đủ cả thủy bộ, mang theo nhiều lương thực, quyết chinh phục bằng được nước Đại Việt cứng đầu. Nhưng đội quân viễn chinh lần này giảm sút về chất lượng, không còn khí thế của đạo quân bách chiến bách thắng như những năm trước nữa, nhưng cũng có thêm kinh nghiệm qua thất bại của lần trước.

        Về phía ta, sau chiến thắng năm 1285, triều đình Đại Việt không một phút lơi lỏng, đã có nhiều biện pháp để ổn định đời sống nhân dân và tăng cường sức mạnh giữ nước.

        Tháng 7-1286, Trần Nhân Tông ra lệnh cho tất cả vương hầu, tôn thất mộ thêm binh lính. Các chiến thuyền, khí giới được tu sửa và chế tạo thêm. Cả nước rộn ràng luyện tập chiến đấu. Các tướng lĩnh được phái đem quân đi đóng giữ các nơi hiểm yếu. Cả nước là một chiến trường với lực lượng bố trí sẵn khắp nơi và lực lượng cơ động mạnh trong tay triều đình. Tất cả lại được đặt dưới quyền của quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn. Thế trận đã bày xong. Ta sẵn sàng đợi giặc với niềm tin chắc thắng của toàn dân.

        Ngày 11-11-1287, đạo quân xâm lược xuất phát từ Ngọc Chân dưới quyền thống lĩnh của Thoát Hoan và A Bát Xích. Ngày 25-12-1287, cánh quân từ Quảng Tây sang tiến qua biên giới bằng hai mũi, trong khi cánh quân từ Vân Nam xuống, do A Bát Xích chỉ huy đã vượt biên giới, đến Bạch Hạc ngày 11-12-1287. Thủy quân giặc vào vùng biển nước ta vào cuối tháng 12, vượt qua tuyến đánh chặn của Trần Khánh Dư, tiến về Vạn Kiếp hội quân với Thoát Hoan.

        Trên khắp các ngả đường tiến quân, giặc đều bị chặn đánh kịch liệt. Nhưng theo đúng kế hoạch, sau khi tiêu hao và làm chậm bước tiến của giặc, các cánh quân ta đều để địch đi qua và khép vòng vây lại, hoạt động phía sau lưng chúng. Trong khi đó, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ vì chở nặng, đi chậm, mãi tới đầu tháng 1-1288 mới tới Vạn Đồn, bị Trần Khánh Dư tập kích, tiêu diệt toàn bộ. Như vậy là vừa mới ra quân địch đã mất sạch lương dự trữ. Đoàn quân viễn chinh bị lâm ngay vào cảnh thiếu đói, không còn mong kéo dài được cuộc chiến. Tiền đề cho thắng lợi của ta và thất bại của giặc đã được tạo ra. Rút kinh nghiệm trận trước, Thoát Hoan cho xây dựng đồn trại, chiếm giữ Vạn Kiếp.

        Tháng 1-1288, giặc theo hai đường thủy bộ tiến xuống Thăng Long. Sau trận đánh chặn ở sông Đuống và phục kính ở Gia Lâm, quân ta chủ động rút lui. Ngày 2-2-1288, Thoát Hoan đem quân vào Thăng Long bỏ trống, tràn xuống Long Hưng phá phách, rồi lại phải trở về Thăng Long, không thấy dấu vết quân Trần. Cuối cùng, do túng quẫn về lương thực, lại sợ bị tiến đánh như lần trước tại Thăng Long, địch phải lui về hội tại Vạn Kiếp. Tại đây, sau một thời gian liên tục bị bao vây, tấn công, tiêu hao, chúng không còn hy vọng giành được chiến thắng, sợ bị tiêu diệt, và như Nguyên sử đã chép:

        “Tướng sĩ phần nhiều bị bệnh dịch, không tiến lên được... những nơi xung yếu đã chiếm được nay lại mất hết”1 và “Ở Giao Chỉ không có thành để giữ, không có lương thực để ăn, mà thuyền lương của Trương Văn Hổ lại không đến, vả lại, khí trời nóng nực, số lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống giữ lâu được, làm hổ thẹn cho triều đình, nên đem toàn quân mã về thì hơn. Nên Thoát Hoan phải tính kế rút quân về nước”2. Nhưng số phận giặc đã được định đoạt: trên cả hai đường thủy bộ, quân ta đã chờ sẵn để tiêu diệt chúng.

------------
1. Nguyên sử, quyển 120, trang 2a.

2. Nguyên sử, quyển 209, trang 9b.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #16 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 10:56:18 pm »


        Trận đánh tiêu diệt trên sông Bạch Đằng là một mẫu mực về mọi phương diện: chuẩn bị chu đáo, tỷ mỉ, giữ bí mật cao độ, tính toán thời gian chuẩn xác, mưu kế tài tình, tiến công mãnh liệt. Trận đánh trên bộ cũng là kết quả tất yếu của thế bố trí chủ động, không kẽ hở. Trên đường rút chạy, địch liên tục bị đánh chặn phía trước, truy kích phía sau. Cả một đoàn quân lớn tan tác, không ứng cứu được nhau, lần lượt bị tiêu diệt và bắt sống, chỉ còn một nhóm nhỏ chạy thoát về bên kia biên giới.

        Cuộc kháng chiến lần thứ ba thắng lợi oanh liệt. Ý chí xâm lược của địch hoàn toàn bị bẻ gãy. Tên hoàng đế kiêu ngạo Hốt Tất Liệt buộc phải thừa nhận sự tồn tại của nước Đại Việt.

        Bằng cuộc kháng chiến này, quân dân Đại Việt đã thực hiện được điều mà Tôn Tử đã nói trong binh pháp “Biết mình biết địch, trăm trận không thua”1. Do biết mình biết địch nên quân ta đã tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, khi địch nôn nóng muốn đánh thì ta không đánh, khi chúng hoang mang mỏi mệt thì ta nhất tề tiến đánh khiến địch không phương chống đỡ. Do giữ quyền chủ động từ đầu đến cuối nên ta đã ghìm địch, không cho chúng tự do hành động. Trong Binh thư yếu lược có viết:

        “… địch đem quân đến, thế không thể ở lâu được thì ta cầm. Thế bách, kíp, muốn thắng ngay, thì ta cầm... Nó ở thế hiểm, ta ở thế yếu, thì ta cầm. Thiên thời sắp bại, địa nạn sắp hãm, nhuệ khí sắp nhụt, thì ta cầm. Cầm cho nó mệt, bấy giờ ta nổi dậy mà đánh thì sức vẹn mà công nhiều... đó là điều bí mật của phép binh”2.

        Có thể nói, cuộc kháng chiến lần thứ ba đã thể hiện cao độ nghệ thuật quân sự tài ba của Trần Hưng Đạo trong việc đánh bại quân xâm lược mạnh hơn bằng cách lập thế trận phù hợp với thời tiết, địa hình và toàn dân có quyết tâm cao, tin tưởng tất thắng, ta đưa địch vào thế trận hiểm không có lối thoát.

        Đó là sự sáng tạo trên cơ sở kế thừa và phát huy đầy đủ những ưu điểm của hai lần kháng chiến trước, nổi lên là những quan điểm tư tưởng quân sự như sau:

                                      Quân thần đồng tâm
                                      Huynh đệ hòa mục
                                      Quốc gia tinh hơn
                                      Phòng tự trị lâm
                                      Thiên tử nhiên da


        1. Một vấn đề quan trọng bậc nhất đã được Trần Hưng Đạo nêu với vua Trần vào năm 1300, trước khi mất trong khi trả lời vua Anh Tôn về kế sách giữ nước là: “Mới rồi, Toa Đô và Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi cùng lòng, anh em hòa mục, nước nhà góp sức, lẽ trời tạo ra tật nhiên giặc tự bị bắt, đó là vậy.

        Tóm lại giặc cậy trường trận, ta cậy đoản binh, dĩ đoản chế trường là lệ thường của binh pháp. Nếu thấy quân giặc đến ồ ạt như lửa cháy, gió thổi thì dễ chế ngự. Nếu nó đi chậm như cách tằm ăn, không cầu của dân, không cầu được chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy theo thời cơ mà làm, thu hút được quân lính một lòng như cha con một nhà thì mới có thể dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước”. Những lời súc tích trên là kết quả của quá trình thực tiễn và chiêm nghiệm trong suốt cuộc đời đánh giặc của vị Quốc công tiết chế. Nó vượt ra khỏi khuôn khổ những tri thức quân sự thuần túy mà đề cập đến lĩnh vực trị nước lấy dân làm gốc.


        Lấy toàn dân chiến đấu, đoàn kết vua quan, anh em, lãnh đạo và quần chúng, quân dân, tướng binh như cha con một nhà làm quyết định chiến thắng.

        Trên cơ sở tư tưởng toàn dân chiến đấu mà tổ chức các thứ quân, gồm quân triều đình, quân các vương hầu trấn giữ các trại ấp và hương binh ở các thôn xã, cho nên lực lượng vũ trang lên đến mấy chục vạn. Lực lượng vũ trang bố trí khắp các nơi trên toàn quốc, giặc đi đến đâu cũng bị đánh. Ta hình thành thế bao vây toàn diện và từng điểm, quân địch càng vào sâu càng mắc kẹt, phải phân tán đối phó khắp nơi. Địch muốn đánh lớn, tìm quân chủ lực để tiêu diệt nhưng không được, mà luôn luôn bị tiêu hao, bị đánh tỉa, đến lúc mệt mỏi, hết lương, tinh thần rã rời, bải hoải thì cũng là lúc chủ lực quân thiện chiến của triều đình Trần xuất hiện, đánh những đòn tiêu diệt lớn.

-----------
1. Nguyên văn chữ Hán “Tri kỷ tri bỉ bách chiến bất bại”.

2. Binh thư yếu lược, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr 190.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #17 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 10:58:38 pm »


        2. Địch cậy trường trận, ta cậy đoản binh, dĩ đoản chế trường là lẽ thường của binh pháp.

        Đây là một nguyên tắc lớn và độc đáo của nghệ thuật quân sự nhà Trần. Trương Phổ, học giả đời Minh, trong bài bình sách Nguyên sử ký sự bản mạt, cũng có những nhận xét xác đáng: “trấn Nam vương Thoát Hoan tiến binh, An Nam vương Trần Nhật Huyên chống lại. Quân Thoát Hoan tuy có ngựa mạnh, rong ruổi nhanh như chớp, đánh thành phá ấp, nhưng giữa đường phải quay giáo tháo lui, quân lính bị tan nát trong chốn của quân kia. Toa Đô, Lý Hằng đồng thời bị giết...

        Thoát Hoan xuất quân lần nữa, Nhật Huyên lại đi, để rồi đón lúc về, đánh lúc mệt. Quân Nguyên lại thất bại... Trần Nhật Huyên giấu mình nơi biển khơi, giấu quân chốn ải hiểm, tránh cái thế hăng hái lúc ban mai, đánh khi tàn lụi, buổi chiều... Quân Nguyên tuy hùng hổ kéo đến, nhưng chưa thắng được một trận nào, có thể nói là Nhật Huyên có tải dùng binh vậy”.

        Trần Hưng Đạo đã giải quyết một cách tài tình mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ: giữ đất và tiêu diệt địch. Trong hai lần kháng chiến đầu, vì không muốn địch xâm phạm kinh thành, ta đã tổ chức phòng ngự chiến lược, nhưng đều không ngăn được địch, và trong lần kháng chiến thứ hai, đã phải rút lui chiến lược với biết bao tình huống hiểm nghèo. Trong lần kháng chiến thứ ba, với thế trận đã chuẩn bị, ta hoàn toàn chủ động, buộc địch phải dàn mỏng lực lượng, từ chủ động chuyển thành bị động, từ tiến công chuyển sang phòng ngự và rút lui, từ mạnh chuyển thành yếu. Đây chính là thời cơ để tiến hành phản công chiến lược, tiêu diệt địch và giải phóng đất nước. Chỉ có “tránh cái thế hăng hái lúc ban mai” của địch, để địch vào sâu đất nước ta, kéo dài đường tiếp tế, bị quân ta triệt lương, lại gặp dân ta làm thanh dã, lâm vào cảnh thiếu, đói, địch mới nhanh chóng rơi vào thế “tàn lụi lúc buổi chiều” và lợi dụng sở đoản, kiềm chế sở trường của chúng là nguyên tắc của nghệ thuật quân sự, phép dùng binh của Trần Quốc Tuấn.

        Trần Quốc Tuấn đã nêu rõ: lấy đoản binh thắng trường trận là việc thường của binh pháp. Đoản binh là chỉ bộ binh của ta, một đội quân với số lượng không nhiều nhưng được huấn luyện tinh nhuệ, biên chế gọn nhẹ là cái mạnh của ta. Kỵ binh và quân đông, sức cơ động nhanh là cái mạnh của địch. Nhưng khi trường trận bị dàn mỏng ra, bị phân tán, dứt quãng, không được tiếp tế đầy đủ, không ứng cứu được nhau và lâm vào tử địa, do địa hình không phát huy được, thì trở thành yếu, dễ bị công kích và tan vỡ. Như trong trận Đông Bộ Đầu, trận chiến đấu diễn ra ban đêm, quân địch dày đặc nhưng không kịp lên ngựa, bị những đoàn binh nhẹ mang vũ khí ngắn của ta xông vào chém giết, đã hỗn loạn và tan tác. Hoặc như trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, một đoàn dài thuyền lớn, nặng nề chậm chạp của địch đã bị những thuyền nhẹ của ta từ những ngách sông xông ra đón đánh, đã không xoay trở chạy kịp, đâm vào cọc nhọn bị chìm và bị tiêu diệt.

        Rõ ràng dĩ đoản chế trường là một sáng tạo sâu sắc của ta dùng để chống lại một kẻ địch đông đảo và trang bị mạnh hơn mình. Sáng tạo này cho tới nay vẫn giữ nguyên giá trị.

        Bảy trăm năm đã trôi qua. Chiến công oanh liệt của ba lần kháng chiến chống xâm lược Mông - Nguyên (trong vòng 30 năm) ngày càng chói sáng trên những trang sử Việt Nam. Những bài học về nghệ thuật đánh tiêu diệt đội quân xâm lược mạnh nhất của thời đại lúc đó đã được phát huy đến đỉnh cao trong thời đại Hồ Chí Minh chống đế quốc Mỹ hùng mạnh và hung hãn nhất trong thế kỷ XX này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #18 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 11:02:12 pm »

       
III

CHIẾN TRANH BẢO VỆ VÀ GIẢI PHÓNG TỔ QUỐC, CHỐNG XÂM LUỢC CỦA NHÀ MINH
1406-1427

        Sau ba lần đánh thắng oanh liệt quân xâm lược nhà Nguyên, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, nước Đại Việt đã giành được những điều kiện có lợi để thực hiện một chính sách ngoại giao hòa hảo với các nước láng giềng, để dân ta khắc phục những hậu quả nghiêm trọng của chiến tranh, khôi phục nền kinh tế, dựng lại làng xã, thị thành mà quân xâm lược đã tàn phá. Trong khoảng hơn một trăm năm nước ta không bị đe dọa bởi nạn ngoại xâm đến từ phương Bắc.

        Cũng trong khoảng thời gian trên, đặc biệt vào nửa cuối thế kỷ thứ XIV, cả nước ta và đế quốc phương Bắc đã diễn ra những quá trình xã hội phức tạp, dẫn đến những kết quả rất khác nhau, tác động mạnh đến quan hệ giữa hai nước.

        Tình hình nước Đại Việt và nước Đại Minh trong nửa đầu thế kỷ thứ XIV.

        Bước sang thế kỷ thứ XIV, những mâu thuẫn vốn có trong chế độ xã hội, kinh tế Đại Việt ngày càng trở nên trầm trọng. Tập đoàn phong kiến cầm quyền nhà Trần đại diện của giai cấp quý tộc thống trị mà cơ sở kinh tế là chế độ đang rơi vào trạng thái tan rã tất yếu, chẳng những hoàn toàn bất lực trong việc đề ra những cải cách xã hội, kinh tế tiến bộ mà còn lao sâu vào việc thực hiện những chính sách đối nội, đối ngoại mang tính chất “chỉ vì ích kỷ phì gia”, “chẳng nghĩ khổ dân hại nước” (như sau này Nguyễn Trãi đã phê phán), làm cho những mâu thuẫn nói trên trở nên hết sức gay gắt. Ngay từ cuối những năm 20 thế kỷ XIV, những biến động xã hội đã nổ ra, dưới hình thức những cuộc nổi dậy liên tiếp của nông dân, nô lệ các điền trang và các tầng lớp dân nghèo khác chống giai cấp quý tộc. Bộc lộ bản chất phản động của mình, nhà Trần đã dùng vũ lực đàn áp mạnh mẽ những cuộc nổi dậy đó.

        Từ giữa thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XV cuộc đấu tranh vũ trang của các tầng lớp bình dân diễn ra liên tục và ngày càng mở rộng, mặc dù bị quân đội nhà nước phong kiến đàn áp dữ dội. Những đòn giáng mạnh mẽ đó đã làm cho toàn bộ chế độ xã hội - kinh tế phong kiến quý tộc suy yếu đến tận gốc và đặt chế độ nhà Trần trước nguy cơ bị sụp đổ. Trong tình hình đó, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, lập ra triều đại mới, vào năm 1400. Một chế độ tập quyền càng quan liêu, quân phiệt hơn nữa ra đời. Nếu như về cơ bản, triều đình mới tiếp tục theo đuổi đường lối chính trị của triều đại trước, Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương đã cho thực hiện biện pháp mang hai tính chất, vừa trắng trợn tàn bạo, vừa khéo léo mị dân. Nhà Hồ đã tự ham mình vào một thế cô lập rất nguy hiểm, đồng thời phải chống lại tập đoàn quý tộc đã bị đánh đổ của nhà Trần.

        Trong bài chiếu cấm các đại thần, tổng quản cùng các quan ở viện sảnh, cục tham lam lười biếng do Nguyễn Trãi thảo tháng 7 năm thứ 3, năm Canh Tuất (1430) thảo chỉ thị của Lê Lợi sau khi giành được độc lập đã nói lên tình hình trên: “trước kia họ Trình (tức họ Trần) cậy mình mạnh giầu, mặc dân khốn khổ, chỉ ham vui chơi, đắm đuối tửu sắc. Những việc vô ích bầy ra hàng ngày, nào là đánh bạc, vây cờ, chọi gà, thả chim, nào là cá vàng nuôi chậu, chim rừng nhốt lồng khoe tốt, tài năng nhỏ mọn, giành lấy hơn thua, quên hẳn thiên hạ lớn lao, chẳng hề nghĩ kẻ oan uổng bị khổ ở chỗ kìm giam, hai ba năm không được xét hỏi, người thân sơ phải khuất ở tay nội giám, hai ba tháng mà việc chưa xong, khanh tướng lập đảng riêng tây: triều đình thiếu người can giám, cho đến nỗi con vua, cháu chúa bị hại bởi kẻ gian thần, quyền lớn việc to đều lọt vào tay xiểm nịnh. Nhân dân oán ghét mà không biết, lòng trời khiển trách mà chẳng kinh. Chính giao do đó mà suy đồi, kỷ cương do đó mà rối loạn. Họ Hồ đã dùng gian trí để cướp lấy nước, lại lấy gian trí để hiếp lòng dân. Lệnh bảo sao (tiền giấy Hồ Quý Ly ban hành năm 1395) ban bố và mọi người oán nỗi thường sinh; việc di dân thi hành mà mọi người kêu bề thất sở. Giả dĩ thuế má phiền hà, giao dịch nặng, pháp luật ngặt, hình phạt nghiêm. Chỉ vì ích kỷ phì gia, chẳng nghĩ khổ dân hại nước. Yêu người gần, vì tình riêng, họ hàng thì người thấp cũng tôn quý, tiểu nhân mà người nịnh cũng tin dùng. Nhân mừng mà khen thưởng, nhân giận mà phạt giết. Người trung thực phải khóa miệng, kẻ lương thiện phải ngậm oan. Thế mà còn cứ kiêu ngạo, tự tôn, không sợ mệnh trời gieo họa”1.

        Cũng vào giữa thế kỷ XIV, tại phương Bắc, xã hội phong kiến Trung Quốc đã diễn ra những biến động lớn, với những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh nông dân chống giai cấp phong kiến liên tiếp nổ ra. Cầm đầu phong trào này, Chu Nguyên Chương đã lợi dụng được tình cảm Đại hán Tộc trong nhân dân để lật đổ triều đại nhà Nguyên, lập nên một triều đại mới, nhà Minh, năm 1368. Cũng như mọi hoàng đế Trung Hoa trước đó, ở buổi đầu cầm quyền, vua Minh đã lập tức cho chuẩn bị các mặt để thực hiện giấc mộng “bình thiên hạ” cổ truyền, trước nhất là bành trướng trên hướng Đông Nam Á và Nam Á. Theo rõi chặt chẽ tình hình bên trong Đại Việt, ngay từ năm 1377, trong triều đình nhà Minh đã có chủ trương “muốn nhân kẽ hở, tính chuyện xâm chiếm” nước ta. Song giới chóp bu cho rằng thời cơ chưa đến.

-----------
1. Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1969, tr. 135 – 136.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #19 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 11:04:41 pm »

       
        Nhằm thực hiện kế hoạch đánh chiếm Đại Việt, mở đường tràn vào các nước Đông Nam Á, tiểu lục địa Nam Á, đến tận các nước ven vịnh Pec-xích, triều đình Minh đã bắt tay xây dựng một quân đội thường trực chuyên nghiệp mạnh và một hạm đội trên biển với những thuyền chiến và thuyền vận tải cỡ lớn. Đến đời Minh Thành Tổ (1402-1424), nhà Minh đạt tới giai đoạn cường thịnh nhất, cũng là giai đoạn trực tiếp thực hiện kế hoạch bành trướng nói trên.

        Ở nước ta, cả hai tập đoàn Trần - Hồ đều đã biết những gì đã diễn ra trên đất đai của đế chế phương Bắc từ cuối thế kỷ XIV, đều nhận thấy hiểm họa ngoại xâm đè nặng lên vận mệnh của Đại Việt. Thế nhưng, do bản chất phản dân hại nước của một giai cấp thống trị đã bị lịch sử lên án, cả hai tập đoàn ấy đều tỏ ra hoàn toàn bất lực trong việc thay đổi đường lối chính trị, trong việc đề ra những chính sách, biện pháp có thể động viên lòng yêu nước của toàn dân, thực hiện đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm.

        Tình hình Đại Việt sau sự kiện nhà Hồ cướp ngôi Trần được nhà Minh xem là một điều kiện rất có lợi để họ chuyển sang hành động xâm lược vũ trang. Với việc Minh Thành Tổ lên nằm quyền, triều Minh đã đẩy quan hệ giữa hai nước lao nhanh đến chỗ kết cục theo ý của họ: chiến tranh. Về phía họ, đó là một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ngọn cờ mà nhà Minh giương lên, “phù Trần diệt Hồ”, “đánh kẻ có tội, để dựng lại nước đã bị diệt, cứu vớt dòng họ đã bị tuyệt” cố nhiên chỉ là một thủ đoạn nham hiểm hòng tạo điều kiện chính trị có lợi để đạt tới mục đích của chiến tranh là thủ tiêu nền độc lập của dân tộc Việt, biến Đại Việt thành quận, huyện trong đế quốc phương Bắc, làm bàn đạp để tràn xuống Đông Nam Á.

        Chiến tranh xâm lược của nhà Minh đã diễn ra trên đất nước Đại Việt suốt 20 năm trường, đưa nhân dân Việt vào một cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ, đầy hy sinh, như trong Bình Ngô Đại Cáo đã viết:

              “Thui dân đen trên lò bạo ngược.
               Hãm con đỏ dưới hố tai ương
               Dối trời lừa người, kế gian đủ muôn nghìn khóe.
               Cậy binh gây hận, ác chứa gần hai chục năm
               Bại nghĩa thương dân trời đất tưởng chừng muốn đứt.
               Vét vơ thuế má trăm núi chẳng còn tí gì...
               Tát cạn nước Đông Hải không thể rửa hết nhơ.
               Chặt hết trúc Nam Sơn chẳng đủ ghi hết tội ác”.


        Cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhân dân ta bắt đầu với sự thất bại nhanh chóng của Hồ Quý Ly trong điều kiện lòng dân ly tán “quân trăm vạn người trăm vạn lòng”. Nhưng quân Minh xâm lược đã phải liên tiếp đối phó với các cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt suốt 20 năm trường với 7 năm kháng chiến liên tục thời hậu Trần, từ 1407 đến 1414 và cuối cùng nhân dân Việt đã giành thắng lợi, tiêu diệt và bắt sống hàng mấy chục vạn quân tướng nhà Minh, giải phóng đất nước sau cuộc chiến tranh 10 năm từ 1417 đến 1427 dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, cho nên,

              “Xã tắc do đó được yên
              Non sông do đó đổi mới
              Càn khôn đã bí mà lại thái
              Nhật Nguyệt đã mờ mà lại trong
              Để rửa nỗi sỉ nhục ngàn thu”.

Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM