Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:03:32 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến thắng Điện Biên Phủ - Sự kiện - Hỏi và Đáp  (Đọc 17779 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #10 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2016, 04:07:51 pm »


25. Cuộc tiến công mở màn chiến cục Đông Xuân diễn ra như thế nào?

Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân mở màn bằng việc ta đánh địch ở Lai Châu ngày 10 tháng 12 năm 1953.

Ngày 7 tháng 12 năm 1953, địch bắt đầu rút khỏi Lai Châu để về Điện Biên Phủ. Ta lập tức điều một bộ phận của Đại đoàn 316 nhanh chóng theo đường 41 đánh thẳng vào thị xã Lai Châu, đại bộ phận lực lượng còn lại của đại đoàn tập trung cắt đứt con đường Lai Châu - Điện Biên Phủ, không cho địch rút về Điện Biên Phủ, đồng thời không cho quân địch ở Điện Biên Phủ rút chạy.

Ngày 10 tháng 12 năm 1953, ta tiêu diệt đồn Pa Ham, một vị trí tiền tiêu của địch cách Lai Châu khoảng 30 km. Ngày 12 tháng 12 năm 1953, quân ta tiến vào giải phóng thị xã Lai Châu.

Sau hơn mười ngày đêm chiến đấu, truy kích, bao vây và tiêu diệt địch, quân ta đã tiêu diệt và bức hàng 24 đại đội địch, giải phóng toàn bộ Lai Châu, đập tan kế hoạch lấy quân ở Lai Châu để tăng cường cho Điện Biên Phủ của địch, đồng thời uy hiếp Điện Biên Phủ từ phía bắc. Để tránh nguy cơ bị tiêu diệt, Nava buộc phải điều thêm 6 tiểu đoàn quân cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ lên tăng cường cho Điện Biên Phủ. Tới thời điểm này, sau đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ đã trở thành nơi tập trung binh lực thứ hai của địch.

26. Cuộc tiến công ở Trung Lào diễn ra như thế nào?

Đêm 21 tháng 12 năm 1953, Tiểu đoàn 274 và 328 (Đại đoàn 325) bất ngờ tập kích đồn Khăm He, nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ tiểu đoàn lính Âu - Phi và một đại đội pháo binh địch. Ngày 22 tháng 12 năm 1953, Trung đoàn 66 (Đại đoàn 304) tấn công Mụ Giạ, Ba Na Phào. Quân địch rút chạy bằng cơ giới. Tiểu đoàn 782 của ta đuổi theo, vượt qua sông Sê Bang Phai đón đánh địch và tiêu diệt gọn Tiểu đoàn số 2 bộ binh của địch, bắt sống 460 tên ở Pa Cuội. Trong ba ngày, ba tiểu đoàn lính Âu - Phi cơ động và một tiểu đoàn pháo binh gồm 2.200 tên đã bị tiêu diệt.

Ngày 25 tháng 12 năm 1953, Liên quân Lào - Việt đã tiến đến sông Mê Công, giải phóng thị xã Thà Khẹt.

Sau đó, Trung đoàn 66 tiếp tục tiến công tiêu diệt địch ở Hìn Xìu, Đồng Hến, Pha Lan, Mường Phìn, cắt đường số 9 và giải phóng miền Đông Xavanakhet, đồng thời phối hợp với Trung đoàn 101 và Quân giải phóng Pathet Lào giải phóng phần lớn vùng Trung Lào.

Để đối phó, địch đã phải gấp rút điều động nhiều đơn vị cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ và các chiến trường khác lên cứu nguy, tổ chức Xavanakhet thành một tập đoàn cứ điểm mới.

27. Cuộc tiến công ở Hạ Lào và Campuchia diễn ra như thế nào?

Phát huy thắng lợi ở Trung Lào, Tiểu đoàn 436 (Trung đoàn 101) cấp tốc tiến quân xuống Hạ Lào. Ngày 31 tháng 1 năm 1954, Tiểu đoàn 436 cùng các bạn Lào bất ngờ tập kích thị xã Atôpơ, tiêu diệt một tiểu đoàn địch. Sau đó, tiểu đoàn tiến sang Xaravan, giải phóng toàn bộ cao nguyên Bôlôven.

Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia giải phóng phần lớn tỉnh Công Pông Chàm, tiến sát xuống sông Sơ Lông. Miền Đông và Đông Bắc Campuchia đã được nối liền với vùng giải phóng Hạ Lào và Trung Lào.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #11 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2016, 10:48:23 pm »


28. Cuộc tiến công ở Tây Nguyên diễn ra như thế nào?

Trên mặt trận Tây Nguyên, ta chọn hướng chính là ở đông bắc Kon Tum, hướng phụ trên đường số 19. Chiến dịch mở màn vào lúc 23 giờ 30 ngày 26 tháng 1 năm 1954, quân ta cùng một lúc tiến đánh ba cứ điểm Măng Đen, Công Bray, Măng Bút. Ta đã tiêu diệt hoàn toàn tiểu khu Măng Đen, Đắc Tô, tiến tới giải phóng hoàn toàn Kon Tum vào ngày 5 tháng 2 năm 1954, quét sạch quân địch ở bắc Tây Nguyên, tiến xuống phía nam, sát đường số 19. Cũng trong thời gian đó, ta tập kích vào thị xã Plâyku. Địch lúng túng, phải dừng cuộc tiến công của chúng ở đồng bằng Liên khu 5, điều động nhiều đơn vị ở các nơi khác lên tăng cường cho thị xã Plâyku và một số cứ điểm nam Tây Nguyên.

Chiến thắng Kon Tum là một thắng lợi lớn của ta trong Đông Xuân 1953-1954, phá vỡ thế uy hiếp của địch đối với phía sau lưng Quảng Nam, Quảng Ngãi, giải phóng một địa bàn chiến lược quan trọng ở bắc Tây Nguyên, bảo vệ được vùng tự do Phú Yên - Bình Định. Vùng tự do của ta từ ven biển Quảng Nam, Quảng Ngãi tới biên giới Việt - Lào đã được nối liền với vùng giải phóng tây nam Bôlôven của nước bạn.

29. Cuộc tiến công ở Thượng Lào diễn ra như thế nào?

Để đánh lạc hướng phán đoán của địch, cô lập tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt thêm sinh lực địch, quân ta và các bạn Lào mở cuộc tấn công vào phòng tuyến sông Nậm Hu, Thượng Lào.

Ngày 26 tháng 1 năm 1954, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với các lực lượng của Lào tiến công vào Mường Khoa, tiêu diệt một tiểu đoàn lính Âu - Phi ở đó, sau đó thừa thắng tiến công, quét sạch quân địch ở lưu vực sông Nậm Hu, tiến đến sát Luông Phabăng. Phòng tuyến Nậm Hu - con đường liên lạc chiến lược của Pháp đã bị phá vỡ, Luông Phabăng bị uy hiếp.

Trong khi đó, một bộ phận liên quân Lào - Việt đã tiến lên phía Bắc, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phong Xa Lỳ, mở rộng thêm căn cứ kháng chiến, nối liền khu giải phóng Sầm Nưa với khu Tây Bắc của ta.

30. Hoạt động của ta ở chiến trường sau lưng địch được đẩy mạnh như thế nào?

Phối hợp với chiến trường chính, ở các mặt trận sau lưng địch, quân ta đã liên tục tiến công, làm tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng thêm nhiều căn cứ du kích, khiến quân địch phải căng mỏng lực lượng ra khắp nơi, phân tán khối chủ lực cơ động của chúng, tạo điều kiện cho chiến trường chính hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch trong trận quyết chiến ở Điện Biên Phủ.

a. Tại đồng bằng Bắc Bộ

Bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương của ta đã tiêu diệt một loạt các vị trí quan trọng của địch như Hoàng Đan (Hà Nam), La Tiến (Thái Bình), Dị Sử, Nghĩa Lộ (Hưng Yên), quận Từ Sơn (Bắc Ninh). Địch buộc phải rút khỏi nhiều vị trí quan trọng ở các tỉnh Bắc Giang, Thái Bình, Hải Dương, Hà Đông và Sơn Tây. Quân ta tiến hành nhiều trận tập kích, phục kích, tiêu diệt từng đại đội, có khi từng tiểu đoàn địch. Đường số 5 - con đường chiến lược huyết mạch của địch - bị uy hiếp nghiêm trọng, có khi bị cắt đứt hàng tuần. Trong hai ngày 7 và 8 tháng 3 năm 1954, quân ta tập kích sân bay Cát Bi (Hải Phòng) và Gia Lâm (Hà Nội), phá huỷ 78 máy bay địch. Chiến tranh du kích phát triển mạnh, các vùng căn cứ du kích và khu du kích được mở rộng thêm rất nhiều, chiếm ba phần tư đất đai của vùng địch tạm kiểm soát.

b. Chiến trường Bình - Trị - Thiên

Quân ta tổ chức nhiều cuộc tiến công trên các tuyến đường giao thông, đánh đổ nhiều đoàn tàu của địch, phá các cuộc càn quét của địch, mở rộng các căn cứ du kích. Từ ngày 20 tháng 1 đến ngày 20 tháng 2 năm 1954, quân ta đã phá huỷ 17 cầu, 18 cống trên đường số 9 từ Đông Hà lên Rào Quán, tiêu diệt và bức rút sáu vị trí, giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hoá. Tại Triệu Quang, du kích và bộ đội địa phương đã chống càn thắng lợi, giữ vững và mở rộng được vùng căn cứ ở Thừa Thiên, tập kích vào vị trí An Hoá, tiêu diệt nhiều lực lượng địch...

c. Cực Nam Trung Bộ

Đây là nơi hoạt động du kích phát triển mạnh. Quân ta tiến hành bao vây tiêu diệt nhiều vị trí của địch, giải phóng từng vùng rộng lớn như Điện Bàn (Quảng Nam), vùng Hòn Khói và Tây Bắc Khánh Hoà, huyện Tánh Linh và Lương Sơn (Bình Thuận)...

d. Nam Bộ

Do địch gặp nhiều khó khăn, phải điều quân đi nhiều nơi để đối phó với ta, nên chiến tranh du kích ở Nam Bộ có đà phát triển mạnh mẽ, thu được nhiều thắng lợi. Ta đã tiêu diệt hoặc bức rút trên 1.000 đồn bốt, tháp canh của địch. Vùng tự do Khu 9 được giữ vững và mở rộng. Các căn cứ du kích của ta cũng được mở rộng rất nhiều.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #12 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2016, 10:52:15 pm »


V
DIỄN BIẾN CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

31. Vì sao Điện Biên Phủ lại trở thành điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và Pháp?

Cuối tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã họp bàn chủ trương tác chiến Đông Xuân 1953-1954. Sau khi phân tích tình hình, ta chủ trương chưa tập trung đánh địch ở đồng bằng, mà trước hết cần phá được âm mưu tập trung lực lượng của địch bằng cách đưa quân chủ lực lên Tây Bắc, buộc địch phải phân tán lực lượng để đối phó.

Tháng 11 năm 1953, Đại đoàn 316 của ta gấp rút hành quân lên Tây Bắc, mở chiến dịch giải phóng Lai Châu. Nhận được tin này, Nava cho rằng hướng tấn công chủ yếu của Việt Minh không phải là đồng bằng Bắc Bộ như ông ta phán đoán mà có thể chính là Tây Bắc, như vậy cả Thượng Lào và Luông Phabăng đều bị uy hiếp. Do đó, Nava đã quyết định đánh chiếm Điện Biên Phủ để ngăn Việt Minh đánh Lai Châu, từ đó có thể bảo vệ Thượng Lào và Luông Phabăng.

Ngày 20 tháng 11 năm 1953, địch đã mở cuộc hành binh Caxtô, cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Lúc này, Nava vẫn coi đây chỉ là “cuộc hành binh thứ yếu có tính chất phòng vệ chiến lược và tính chất chính trị địa phương”, chứ chưa có ý định lấy Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược.

Đến khi Đại đoàn 316 tiêu diệt và bức hàng 24 đại đội địch, giải phóng toàn bộ khu vực Lai Châu, uy hiếp Điện Biên Phủ từ phía Bắc, Nava mới chợt nghĩ đến một kiểu phòng ngự kinh điển quân sự: Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, thành phố Vécđông (Verdun) bên bờ sông Mơ (Meuse) đã trở thành nổi tiếng khi quân đội Pháp, bằng hệ thống phòng ngự vững chắc, trong 10 tháng trời kiên cường chiến đấu đã tiêu diệt nhiều đạo quân và đẩy lùi tất cả các đợt tấn công của quân Đức. Tại Điện Biên Phủ, Nava muốn đặt một “cái bẫy” bằng một “con nhím khổng lồ” như một cái “máy nghiền” để nghiền nát quân chủ lực Việt Minh.

Đầu tháng 12 năm 1953, Nava đã quyết định giao chiến với ta ở Điện Biên Phủ vì cho rằng quân ta chưa đủ khả năng đánh một tập đoàn cứ điểm, hơn nữa do đường sá và phương tiện giao thông kém nên không thể chuyên chở vũ khí hạng nặng ra chiến trường cũng như khó bảo đảm việc tiếp tế. Nava đã quyết tâm xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm lớn với hy vọng nghiền nát bộ đội chủ lực của ta.

Ngày 6 tháng 12 năm 1953, sau khi nghe báo cáo của Tổng quân uỷ về phương án tác chiến tại Điện Biên Phủ, trên cơ sở những nhận định: “...trước sự uy hiếp của ta (ở Tây Bắc), địch đã phải bị động đối phó, phân tán một bộ phận lực lượng cơ động lên Điện Biên Phủ để yểm hộ cho Tây Bắc, để che chở cho Thượng Lào, để phá kế hoạch tiến công của ta”... “Vô luận rồi đây địch thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta”1, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã nhất trí mở chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến của Tổng quân uỷ.

Như vậy, việc Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược hoàn toàn nằm ngoài Kế hoạch Nava.

32. Phía Pháp đánh giá tầm quan trọng của Điện Biên Phủ như thế nào?

Theo Nava và nhiều nhà quân sự Pháp, Mỹ, Điện Biên Phủ  có một vị trí chiến lược hết sức quan trọng đối với Đông Dương nói riêng và Đông Nam Á nói chung. Điện Biên Phủ là một “ngã tư chiến lược”, là một “chiếc bàn xoay” có thể xoay tứ phía Việt Nam - Lào - Đông Bắc Thái Lan - Đông Mianma và cả đến Vân Nam Trung Quốc. Điện Biên Phủ được coi là một chiếc “chìa khoá” quan trọng để bảo vệ Thượng Lào và tạo ra bàn đạp để đánh chiếm các vùng đã mất ở Tây Bắc. Nava và các nhà quân sự Pháp, Mỹ còn hy vọng Điện Biên Phủ sẽ được xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm hùng mạnh, là nơi đọ sức và có thể tiêu diệt chủ lực của Việt Minh.
________________________________
1. Báo cáo kết luận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong “Hội nghị cán bộ chiến dịch Đông Xuân” ngày 23 tháng 11 năm 1953.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #13 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2016, 10:53:28 pm »


33. Nava đã nhận định về khó khăn mà quân Pháp và Việt Minh sẽ gặp phải ở Điện Biên Phủ như thế nào?

Về phía Pháp, Nava cho rằng khó khăn lớn nhất là việc tiếp tế. Nhưng ông ta hoàn toàn tin rằng khó khăn này có thể dễ dàng khắc phục được bằng cách tiếp tế theo đường hàng không. Ở Điện Biên Phủ đã có sẵn một sân bay cũ còn tốt, máy bay có thể hạ cánh bốn mùa, khả năng hạ cánh 100 lần và thả dù từ 100 đến 200 tấn/ngày, do vậy, có thể tiếp tế đầy đủ cho một đội quân vài vạn người để chiến đấu lâu dài.

Về phía Việt Minh, Nava tính toán rằng ta không thể mở được đường vận chuyển cơ giới qua vùng Tây Bắc, do vậy, sẽ không thể cung cấp đủ lương thực cho hàng vạn người chiến đấu lâu dài ở Tây Bắc. Đồng thời, Việt Minh cũng sẽ không thể chịu đựng được thời tiết khí hậu khắc nghiệt ở Tây Bắc. Vào mùa mưa, họ sẽ thiếu thốn lương thực và phải đối phó với nạn dịch, sẽ không còn đủ sức chiến đấu.

Nava cũng cho rằng với phương tiện vận chuyển có hạn, ta không thể nào kéo pháo hạng nặng lên núi để đáp trả những trận oanh tạc dữ dội của quân Pháp. Hơn nữa, theo ý kiến của các pháo thủ quân Pháp, Việt Minh đặt pháo ở sườn núi phía lòng chảo thì sẽ bị phát hiện dễ dàng, còn nếu đặt pháo ở các chỏm núi thì sẽ không bắn tới các tập đoàn cứ điểm được bố trí trong lòng chảo.

Chính vì vậy, Nava và bộ chỉ huy Pháp đã khẳng định Việt Minh không có đủ sức tấn công vào Điện Biên Phủ.

34. Chúng ta đã nhận định về những khó khăn trong chiến dịch Điện Biên Phủ như thế nào?

Vấn đề cung cấp, tiếp tế được coi là vấn đề khó khăn nhất. Trong điều kiện tiền tuyến cách xa hậu phương đến 400-500km, thời tiết khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, đường sá hư hỏng, ta phải bảo đảm cung cấp một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, đồ dùng và thuốc men một cách nhanh chóng, liên tục, dài ngày. Đặc biệt, việc tiếp tế cần được giữ bí mật ở mức cao nhất nhằm tránh địch phát hiện và đánh phá.

Việc đánh lớn và dài ngày cũng là một thách thức không nhỏ. Phải chiến đấu dưới chiến hào, địch lại mạnh hơn về phi pháo, bộ đội ta chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn, sức khoẻ giảm sút và khó tránh khỏi thương vong. Công tác tổ chức hậu cần, nuôi dưỡng bộ đội, chăm sóc thương bệnh binh vì thế sẽ gian khổ hơn.

35. Ai được giao nhiệm vụ Chỉ huy trưởng mặt trận Điện Biên Phủ?

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, uỷ viên Bộ Chính trị - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh quân đội, được giao nhiệm vụ trực tiếp làm Bí thư Đảng uỷ kiêm Chỉ huy trưởng mặt trận.

36. Công tác bảo đảm hậu cần cho mặt trận Điện Biên Phủ do ai phụ trách?
Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng được giao nhiệm vụ làm Chủ tịch Hội đồng cung cấp mặt trận. Ngoài ra, đồng chí Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng cục cung cấp, được giao phụ trách công tác đường sá, tiếp tế cho chiến dịch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #14 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2016, 10:54:34 pm »


37. Công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ của ta được tiến hành như thế nào?

Do thời gian rất gấp nên việc chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ được tiến hành hết sức khẩn trương. Trọng tâm của công tác này là làm đường và vận chuyển lương thực, đạn dược.

Về công tác làm đường, ta đã hoàn thành việc sửa chữa và mở rộng đường từ Tạ Khoa đi Cò Nòi, khai thông tuyến đường từ Tuần Giáo đi Điện Biên Phủ, bảo đảm đường sá từ Ba Khe qua Việt Bắc và Suối Rút về vùng tự do Liên khu 3, Liên khu 4, gấp rút mở thêm tuyến đường Mường Luân - Nà Sang...

Về công tác vận chuyển, ta sử dụng sức người là chính. Hàng vạn dân công đã được huy động để vận chuyển lương thực và đạn dược ra tiền tuyến. Họ chủ yếu sử dụng gồng gánh và xe đạp thồ. Trong khi dân công đang đưa gạo và đạn ra mặt trận thì bộ đội cũng tiến hành kéo pháo vào trận địa. Ta phải tính toán rất kỹ về giờ giấc cũng như lộ trình để bảo đảm khi bộ đội và pháo vào đến trận địa thì gạo và đạn cũng đã có đủ.

38. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta đã hoàn thành công tác mở đường với khối lượng như thế nào?

Các lực lượng công binh, dân công, thanh niên xung phong và bộ đội đã sửa chữa lại trên 200 km đường 41 từ Hòa Bình lên Suối Rút, từ Suối Rút đến Sơn La, gần 300 km đường từ Yên Bái tới Sơn La (theo trục đường 13), làm mới hoàn toàn 89 km đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ. Ta cũng đã hoàn thành hàng ngàn km đường kéo pháo, đường cơ giới vào sở chỉ huy, vào kho, vào các trận địa, các đường phụ từ Thanh Hóa lên Điện Biên Phủ, các tuyến đường cho xe trâu, xe đạp thồ, đường gánh bộ cho dân công.

39. Tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến ” của đội ngũ xe đạp thồ được thể hiện như thế nào?

Tính trung bình mỗi xe đạp thồ được từ 150 đến 200kg. Khi đi trên những con đường vượt qua các mỏm núi có đá sắc nhọn, anh em lấy quần dài, áo ngoài quấn vòng quanh săm lốp để tăng sức chịu đựng cho xe. Kỷ lục thồ liên tục tăng từ 160 đến 195, rồi 250 kg. Hai người có kỷ lục thồ cao nhất là anh Ma Văn Thắng: 352kg, anh Cao Văn Ty: 320kg.

Nói về lực lượng vận tải thô sơ của ta, trong cuốn “Trận Điện Biên Phủ”, ký giả G. Roa đã viết: “Đã có hàng trăm tấn bom được ném xuống các tuyến giao thông và những con đường tiếp vận của Quân đội nhân dân Việt Nam nhưng chẳng bao giờ cắt đứt nổi những con đường ấy... Tướng Nava bị thua chính là những chiếc xe đạp thồ những kiện hàng từ 200 đến 300kg, được điều khiển bởi những con người ăn không thật no và ngủ thì nằm ngay trên những mảnh nilông trải trên đất.

Không phải là phương tiện này khác đã đánh bại Tướng Nava mà chính là trí thông minh, cái ý chí quyết thắng của đối phương đã quật ngã ông ta”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #15 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2016, 10:55:39 pm »


40. Ta đã tiến hành kéo pháo vào trận địa như thế nào?

Ta kéo pháo vào trận địa hai lần. Lần thứ nhất bắt đầu vào ngày 15 tháng 1 năm 1954. Theo kế hoạch tác chiến ban đầu, Đại đoàn 351 đã dùng xe kéo pháo vào trận địa theo đường Tuần Giáo - Điện Biên Phủ. Đến cây số 69 thì việc kéo pháo hoàn toàn dùng sức người. Bộ binh và công binh ta đã phối hợp kéo pháo trên chặng đường gian khổ hơn 15km đường núi khúc khuỷu và nhiều dốc cao. Phải mất bảy ngày pháo mới vào được đến trận địa. Đến chiều ngày 25 tháng 1 năm 1954 thì có lệnh kéo pháo ra do lúc này phương châm tác chiến đã thay đổi. Các chiến sĩ của ta lại dùng tay kéo pháo ra, đến ngày 5 tháng 2 thì hoàn thành. Việc kéo pháo ra cũng gian khổ và nguy hiểm không kém khi kéo pháo vào.

Lần kéo pháo thứ hai diễn ra vào đầu tháng 3 năm 1954. Lần này, các đơn vị bộ binh và công binh đã kịp thời mở được 63 km đường cho ôtô kéo pháo nên chỉ trong vòng hai ngày, đến đêm 11 tháng 3, pháo ta đã vào chiếm lĩnh trận địa an toàn và bí mật.

41. Khi làm đường kéo pháo, để tránh bị địch phát hiện, bộ đội ta đã ngụy trang đường bằng cách nào?

Bộ đội ta đã chặt tre, nứa luồn xuống dưới lớp cỏ rồi chống lên như giàn mướp. Lá cỏ tuy khô nhưng thân dài và rất dai, không bị đứt gãy, tạo thành giàn nguỵ trang vô cùng kín đáo. Máy bay địch bay ở trên không thể nào phát hiện ra được dưới lớp cỏ khô ấy là một con đường kéo pháo.

42. Trận địa pháo ta được tiến hành xây dựng như thế nào?

Trận địa pháo ta được xây dựng ngay trên những sườn núi. Hầm pháo được khoét sâu vào thành núi, ngoài ra còn có hầm đạn, hầm trực chiến, hầm chỉ huy và hầm làm nơi hội họp, nghỉ ngơi, hầm thương binh, hầm nấu ăn... Để nối liền các khẩu đội pháo, công binh ta đã đào một đường hào giao thông khá rộng và sâu, có rãnh thoát nước và hố tránh pháo. Ta cũng bố trí những trận địa giả để phân tán hoả lực đich. Trận địa pháo ta được ngụy trang cẩn thận, dù là địch từ dưới lòng chảo Điện Biện nhìn lên hay máy bay địch bay bên trên đều khó có thể phát hiện ra. Trong khi đó, từ trận địa pháo, quân ta có thể quan sát rõ toàn bộ lòng chảo Điện Biên - sân bay Mường Thanh, khu hầm Đờ Cát, đồi A1, C1, đồn Bản Kéo, đồi Độc Lập.

Chỉ tính riêng pháo 105 ly, ta đã đưa 24 khẩu vào Điện Biên Phủ. Trong suốt chiến dịch, cả 24 khẩu pháo đều an toàn. Để làm được điều kỳ diệu này, chúng ta đã xây những hầm pháo rất kiên cố, nắp hầm dày đến 3m, có thể chịu được một phát đạn 155 ly nổ chậm hoặc nhiều quả nổ ngay trên nắp hầm. Những hầm này được mật danh là hầm “Đại Thọ”, bảo đảm an toàn cho cả khẩu pháo lẫn các pháo thủ.

43. Quân Pháp đánh giá về lực lượng pháo binh của ta như thế nào?

Họ cho rằng nếu có pháo lớn, ta cũng khó lòng đưa lên được núi rừng trùng điệp Tây Bắc. Hoặc có đưa lên được thì họ cũng sẽ làm cho pháo của ta phải im tiếng sau những phút đầu. Họ còn cho rằng nếu có giao chiến thì ta cũng không có khả năng tiếp tế đạn đầy đủ cho các khẩu pháo. Có lần, khi được hỏi về cái thế ở thấp dưới lòng chảo Điện Biên, Đờ Cát đã từng nhún vai trả lời: “Được lắm! Họ từ trên cao bắn xuống chúng tôi ư? Tôi sẽ đội cái mũ calô đỏ của tôi lên cho họ trông tôi rõ hơn”.

Và khi biết quân ta kéo pháo vào trận địa, Đờ Cát đã cho rải truyền đơn thách thức Tướng Giáp. Truyền đơn viết: “Hãy tấn công Điện Biên Phủ đi”, dưới ký tên: Đại tá Đờ Cát.

Sự chủ quan của Pháp đối với lực lượng pháo binh của ta còn thể hiện rõ trong tính toán của Bộ Tham mưu Pháp. Ngày 9 tháng 3 năm 1954 (bốn ngày trước khi quân ta nổ súng tấn công Điện Biên Phủ), Bộ Tham mưu Pháp dự tính rằng: “trong trường hợp họ (chỉ Quân đội nhân dân Việt Nam) tổng áp chế tập đoàn cứ điểm từ 5 giờ đến 7 giờ đồng hồ, thì họ chỉ có thể tiến hành giao chiến nhiều nhất là 5, 6 ngày, kể cả công kích bằng sức mạnh vào hai hoặc ba trung tâm đề kháng”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #16 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2016, 10:58:24 pm »


44. Ta xây dựng trận địa tiến công và bao vây địch như thế nào?

Cùng với việc xây dựng trận địa pháo, quân ta đã xây dựng trận địa bao vây địch từ cả bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Những căn hầm lớn được khoét sâu vào lòng núi làm sở chỉ huy, chỗ sinh hoạt cho bộ đội. Các chiến sĩ có thể hoạt động và sinh hoạt bình thường ngay cả khi địch bắn phá. Hệ thống giao thông hào được xây dựng rất công phu, có đầy đủ bệ bắn, ụ súng máy, đài quan sát, ổ chiến đấu của cá nhân và tiểu đội. Giữa trận địa của các đơn vị chiến đấu ở phía trước với sở chỉ huy và các đơn vị dự bị là những đường hào sâu hơn 1,3m, rộng 1,2m, bờ hào được bồi đất cao thêm 0,4m, ở mỗi đoạn lại có chỗ để tránh cho cáng thương nên giao thông hai chiều thông suốt. Hệ thống này bảo đảm cho các chiến sĩ có thể tiến công địch rất nhanh chóng và thuận lợi, đồng thời rất an toàn. Kể cả sau khi nổ súng tiến công rồi, quân ta vẫn tiếp tục đưa những đường hào tiến sâu vào lòng núi, sát sau lưng địch, từ đó xông lên tấn công bất ngờ khiến chúng không kịp trở tay.

45. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được phân chia và tổ chức như thế nào?

Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có tổng cộng 49 cứ điểm và mỗi cứ điểm đều có khả năng phòng ngự. Nhiều cứ điểm nằm sát cạnh nhau tạo thành 8 cụm cứ điểm có lực lượng cơ động và hoả lực riêng, có hệ thống công sự vững chắc, xung quanh có hàng rào dây thép gai dày đặc và có khả năng phòng ngự độc lập.

Mỗi cụm cứ điểm mang tên một thiếu nữ:

1. Gabrien (Gabrielle) - tức đồi Độc Lập
2. Bêatrixơ (Béatrice) - tức đồi Him Lam
3. Annơ Mari (Anne Marie) - gồm các cứ điểm ở phía tây bắc sân bay Mường Thanh, là Bản Kéo, Căng Na...
4. Huyghet (Huguette) - gồm các cứ điểm ở phía tây sân bay Mường Thanh, hữu ngạn sông Nậm Rốm.
5. Clôđin (Claudine) - gồm các cứ điểm phía nam sân bay Mường Thanh, hữu ngạn sông Nậm Rốm.
6. Êlian (Éliane) - gồm các cứ điểm phía đông nam sân bay Mường Thanh, tả ngạn sông Nậm Rốm, là khu vực sở chỉ huy của Đờ Cát.
7. Đôminich (Dominique) - gồm các cứ điểm phía đông sân bay Mường Thanh, tả ngạn sông Nậm Rốm.
8. Idaben (Isabelle) - gồm các cứ điểm phía nam sân bay Hồng Cúm.

Mỗi cụm cứ điểm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng, có chiến hào ngang dọc. Một số cứ điểm còn có hầm ngầm. Hàng rào dây thép gai bao quanh các cứ điểm dày từ 50 đến 200m. Ngoài ra còn có các bãi mìn dày đặc và hàng rào điện sát mặt đất.

Tám cụm cứ điểm này được tổ chức thành ba bộ phận lớn:

- Phân khu Trung tâm: là phân khu quan trọng nhất, bao gồm bốn cụm cứ điểm: Huyghet, Clôđin, Êlian và Đôminich (theo tài liệu cũ của địch thu được tại Điện Biên Phủ thì còn có cả Bêatrixơ - Him Lam), lấy trận địa trung tâm nằm giữa thung lũng Mường Thanh (châu lỵ Điện Biên Phủ), có cơ quan chỉ huy tập đoàn cứ điểm GONO, trận địa pháo, kho hậu cần, sân bay phía đông có các cụm đồi A, C, D, E đã trở thành một bộ phận phòng ngự quan trọng nhất của phân khu này.

- Phân khu Bắc: nằm cách trận địa trung tâm từ 2 - 3 km về phía bắc và đông bắc gồm các cụm cứ điểm: Rêatrixơ (Him Lam), Gabrien (Độc Lập), có nhiệm vụ án ngữ phía đông bắc, ngăn chặn hướng tiến công của ta từ Tuần Giáo vào; Annơ Mari (Bản Kéo) có nhiệm vụ bảo vệ trận địa trung tâm và mở rộng vùng trời an toàn cho sân bay Mường Thanh.

- Phân khu Nam: nằm cách phân khu trung tâm 7 km về phía nam, bao gồm: cụm cứ điểm Idaben (Hồng Cúm), sân bay dự bị, trận địa pháo, có nhiệm vụ ngăn chặn hướng tiến công của quân ta từ phía nam và giữ đường thông với Thượng Lào.

Ngoài ra, ở đây còn có một đội dự bị mạnh gồm ba tiểu đoàn bộ binh và một đại đội xe tăng làm nhiệm vụ cơ động tác chiến giữa phân khu trung tâm và phân khu Nam1.
__________________________________________
1. Nguồn: Viện Lịch sử quân sự (Bộ Quốc phòng), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945- 1954, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.2, tr. 335. Còn theo cuốn Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì có thêm hai cụm cứ điểm là Epervier và Junon.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #17 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2016, 11:01:18 pm »


46. Tên gọi các cứ điểm theo tiếng Việt và tiếng Pháp1?

Phân khu Bắc (theo quan niệm của ta lúc đó gồm ba trung tâm đề kháng: Gabrielle, Beatrice và Anne Marie được gọi như sau):

Đồi Độc lập    Gabrielle
Him Lam   Béatrice
Bản Kéo gồm Anne Marie 1 và Anne Marie 2 nằm tại Bản Kéo

Phân khu Trung tâm
Những cứ điểm ở phía đông
A1   Eliane 2
C1   Eliane 1
C2   Eliane 4
A3   Eliane 3
E1   Dominique 1
D1   Dominique 2
D2 và vị trí pháo binh 210   Dominique 6
D3   Dominique 5
505, 505A   Dominique 3
506, 507   Eliane 10
508, 508A, 509   Eliane 12


Những cứ điểm ở phía tây:
105   Huguette 6, vốn trước đây là Anne Marie 3
106   Huguette 7, vốn trước đây là Anne Marie 4.
206   Huguette 1
208   Huguette 2
310   Claudine 4 còn gọi là Nà Noọng
311   Huguette F, còn gọi là Françoise
311A   Huguette 5
311B   Huguette 4

Phân khu Nam
Hồng Cúm   Isabelle

47. Trong số các cứ điểm của Pháp ở Điện Biên Phủ, cứ điểm nào được tổ chức phòng ngự tốt nhất?

Gabrien (Độc Lập) - với chiều dài 500 mét, chiều rộng 200 mét, do Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 7 Angiêri - một đơn vị được coi là rất thiện chiến - chống giữ.
__________________________________
1. Nguồn: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 470, 471.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #18 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2016, 11:05:03 pm »


48. Các tướng Pháp và Mỹ nhận xét gì về tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ?

Họ đều tin rằng Điện Biên Phủ là một cứ điểm bất khả xâm phạm, một hệ thống phòng ngự dã chiến lớn mạnh nhất mà quân đội Pháp xây dựng kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, một cái bẫy khổng lồ sẵn sàng nghiền nát Việt Minh.

49. Nava đã cử ai làm tư lệnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ?

Đại tá Crixchian Mari Phecđinăng đờ la Croa Đờ Cát (Christian Marie Ferdinand de la Croix de Castries) đã được chọn làm tư lệnh tập đoàn Điện Biên Phủ. Đờ Cát thuộc dòng dõi quý tộc, trong dòng họ của ông ta có khá nhiều người giữ những chức vụ cao trong quân đội. Ông ta là một nhà thể thao có tài, một kỵ sĩ cừ khôi và có bằng lái máy bay dân dụng.

Năm 1939, Đờ Cát tình nguyện tham gia đội xung kích chống phát xít Đức và chiến đấu ở Đức, Bắc Phi, Italia. Năm 1946, Đờ Cát được cử sang Đông Dương chỉ huy một số đơn vị cơ giới nhẹ và được đánh giá là người giỏi sục sạo. Năm 1951, ông ta sang Đông Dương lần thứ hai với chức vụ chỉ huy trưởng khu Nam đồng bằng Bắc Bộ. Và ngày 8 tháng 12 năm 1953, Đờ Cát chính thức nhậm chức tư lệnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Nava tin rằng Đờ Cát có đầy đủ phẩm chất và tài năng để đảm nhiệm chức vụ này. Khi có người hỏi tại sao lại trao quyền chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cho một viên đại tá mà không trao cho một viên tướng, Nava trả lời: “Cả tôi và Cônhi đều không trông lon mà xét người nên cũng chẳng sùng bái gì lắm mấy ngôi sao cấp tướng. Tôi khẳng định: trong số các chỉ huy được lựa chọn, không ai có thể làm giỏi hơn Đờ Cát!”1 Người Mỹ cũng tỏ ra hoàn toàn hài lòng với sự lựa chọn của Nava.

50. Lực lượng của Pháp tại Điện Biên Phủ trước khi quân ta nổ súng gồm những đơn vị nào?

Tiểu đoàn 5 thuộc trung đoàn Angiêri thứ 7 (5/7 RTA)
Tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn Angiêri thứ 3 (3/3 RTA)
Tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn Angiêri thứ 1 (2/1 RTA)
Tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn Marốc thứ 4 (1/4 RTM)
Tiểu đoàn 1 thuộc bán lữ đoàn lê dương thứ 13 (1/13 DBLE)
Tiểu đoàn 3 thuộc bán lữ đoàn lê đương thứ 13 (3/13 DBLE)
Tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn lê dương thứ 2 (1/2 REI)
Tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn lê dương thứ 3 (3/3 REI)
Tiểu đoàn 1 dù thuộc địa (1è BPC)
Tiểu đoàn 8 dù thuộc địa (8è BPC)
Tiểu đoàn Thái thứ 2 (2è BAT)
Tiểu đoàn Thái thứ 3 (3è BAT)
Tiểu đoàn 2 pháo 105 ly Trung đoàn 4 pháo thuộc địa (2/4 RAC)
Tiểu đoàn 3 pháo 105 ly Trung đoàn 10 pháo thuộc địa (3/10 RAC)
Một đại đội pháo 155 ly thuộc Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 4 pháo thuộc địa (4/4 RAQ và 2 đại đội pháo cối 120 ly2.
______________________________
1. Henri Navarre, Agonie de l ‘Indochine (Đông Dương hấp hối), trích theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.164.
2. Nguồn: Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (Bộ Quốc phòng), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.2, tr. 334-335.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #19 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2016, 11:08:55 pm »


51. Mỹ đã giúp Pháp ở Điện Biên Phủ như thế nào?

Đến năm 1953, mỗi tháng hàng viện trợ quân sự của Mỹ cho Pháp lên đến trên vạn tấn, có tháng lên đến bốn vạn tấn. Chính phủ Mỹ phái sang Đông Dương hàng trăm nhân viên quân sự, cử tướng O. Đanien cầm đầu phái đoàn viện trợ quân sự để đốc thúc và giám sát việc thực hiện viện trợ cho Pháp.

Tính đến tháng 1 năm 1954, Mỹ đã chi viện cho cuộc chiến tranh ở Đông Dương 360 máy bay, 1.400 xe tăng, 390 tàu chiến, 16.000 ôtô, 75.000 súng các loại, cộng thêm tiền để xây sân bay Cát Bi, căn cứ Cam Ranh, Phú Quốc.

Để cứu vãn sự thất bại khó tránh khỏi của quân đội viễn chinh Pháp ở Điện Biên Phủ, Mỹ đã thông qua một kế hoạch hành binh mang tên Vôtua (Diều hâu), dự kiến sẽ sử dụng 80-90 máy bay B.29 và 150 máy bay chiến đấu của Hạm đội 7 ném bom nghiền nát quân ta đang bao vây ở Điện Biên Phủ.

52. Có những đơn vị nào của ta tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ? Mật danh của những đơn vị này là gì?

Năm đại đoàn trực tiếp tham chiến ở Điện Biên Phủ:

1. Đại đoàn 308: tức Sư đoàn "Quân Tiên Phong", đơn vị "anh cả" của toàn quân, được đối phương ca ngợi là "sư đoàn thép lừng danh, niềm tự hào của Việt Minh", trong chiến dịch Điện Biên Phủ mang mật danh "Việt Bắc", có ba trung đoàn, gồm:

- Trung đoàn 102: tức "Trung đoàn Thủ đô" nổi tiếng, mang mật danh "Ba Vì".
- Trung đoàn 88: mật danh "Tam Đảo".
- Trung đoàn 36: mật danh "Sa Pa".

2. Đại đoàn 312: tức Sư đoàn “Chiến thắng", được đối phương gọi là "sư đoàn xung kích, sư đoàn thiện chiến đánh đồng bằng”, trong chiến dịch Điện Biên Phủ mang mật danh "Bến Tre", có ba trung đoàn, gồm:

- Trung đoàn 209: tức Trung đoàn Sông Lô nổi tiếng, mật danh "Hồng Gai".
- Trung đoàn 165: tức Trung đoàn Lao Hà, mật danh "Đông Triều".
- Trung đoàn 141: tức Trung đoàn Phủ Thông, mật danh "Đầm Hà".

3. Đại đoàn 316: được gọi là "sư đoàn sơn chiến, đơn vị ưu tú của Việt Minh chuyên đánh rừng núi", mang mật danh "Biên Hòa", có ba trung đoàn gồm:

- Trung đoàn 98: tức Trung đoàn Tây Bắc, mật danh "Ba Đồn".
- Trung đoàn 174 : tức Trung đoàn Cao - Bắc - Lạng, mật danh "Sóc Trăng".
- Trung đoàn 176: mật danh "Lạng Sơn" (chỉ có một tiểu đoàn tham gia chiến dịch).

4. Đại đoàn 304: tức Sư đoàn "Vinh quang", mật danh "Nam Định", có ba trung đoàn, gồm:

- Trung đoàn 57: mật danh "Nho Quan".
- Trung đoàn 9: mật danh "Ninh Bình".
- Trung đoàn 66: không tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ mà phối thuộc Đại đoàn 325 đi chiến đấu ở chiến trường Lào, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen ngợi là "một mình Trung đoàn 66 ở Trung Lào chiến đấu như một đại đoàn"1.

5. Đại đoàn 351: tức Sư đoàn Công - Pháo, được đối phương gọi là "sư đoàn nặng", mật danh Long Châu, có bốn trung đoàn, gồm:

- Trung đoàn 151: công binh.
- Trung đoàn 45: lựu pháo, mật danh "Tất thắng".
- Trung đoàn 675: sơn pháo.
- Trung đoàn 367: pháo cao xạ, mật danh "Hương Thủy"2.

Ngoài ra còn có: 3 tiểu đoàn pháo cối và 1 tiểu đoàn hỏa tiễn 6 nòng (loại Kachiusa nổi tiếng của Hồng quân Liên Xô, từng làm khiếp đảm quân phát xít Đức).

Hai đại đoàn tác chiến ở các hướng phối hợp:

1. Đại đoàn 320: tức Sư đoàn "Đồng bằng", trong thời gian chiến dịch Điện Biên Phủ hoạt động ở đồng bằng Bắc Bộ, mang mật danh "Thẩm Dương", có ba trung đoàn gồm:

- Trung đoàn 64: mật danh "Quyết thắng".
- Trung đoàn 48: mật danh "Thăng Long".
- Trung đoàn 52.

2. Đại đoàn 325: tức Sư đoàn Hương Giang, đứa con của Bình - Trị - Thiên khói lửa, trong thời gian chiến dịch Điện Biên Phủ mang mật danh "Hoành Sơn", có ba trung đoàn gồm:

- Trung đoàn 101: hoạt động hướng Trung, Hạ Lào.
- Trung đoàn 18: hoạt động tại chiến trường Bình - Trị - Thiên.
- Trung đoàn 95: làm lực lượng dự bị của Bộ, đứng chân ở địa bàn Liên khu 4.

Ngoài các đại đoàn kể trên, còn có một trung đoàn bộ binh thiện chiến trực thuộc Bộ là Trung đoàn 148.
__________________________________
1. Trích thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi cán bộ chiến sĩ trong Trung đoàn 66.
2. Trung đoàn 367 có 6 tiểu đoàn thì 3 tiểu đoàn (tức Trung đoàn 367 tiền phương) phối thuộc Đại đoàn 351 chiến đấu tại mặt trận, còn 3 tiểu đoàn khác do Ban Chỉ huy trung đoàn cơ bản trực tiếp chỉ huy bảo vệ giao thông.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM