VIII
MỘT SỐ VĂN KIỆN ĐẢNG VỀ ĐIỆN BIÊN PHỦ
91. Đề án Tổng Quân uỷ trình Bộ Chính trị về chủ trương tác chiến của ta trong Thu Đông 1953?1Tình hình và âm mưu của địch ở đồng bằng Bắc Bộ sau khi địch rút khỏi Nà Sản
1-
Địch rút khỏi Nà Sản là để tập trung lực lượng giữ vững đồng bằng. Việc địch rút Nà Sản là một sự thay đổi lớn trong tình hình quân sự Bắc Bộ. Trước đây, ở Bắc Bộ có hai chiến trường; từ nay chỉ có một (trừ Lai Châu). Vùng Tây Bắc phần lớn đã trở nên một căn cứ địa giải phóng, tiếp giáp với vùng giải phóng rộng lớn của Thượng Lào. Trước đây, chủ lực địch phân tán trên hai chiến trường: đồng bằng và rừng núi Tây Bắc; từ nay lực lượng địch tập trung lại để làm nhiệm vụ chiến lược chính của chúng ở Việt Nam: giữ vững đồng bằng Bắc Bộ.
…
4-
Âm mưu của địch hiện nay là tăng cường binh lưc tập trung thêm bộ đội cơ động, để “bình định ” và giữ vững đồng bằng và tiến tới giành lại chủ động. Đó là nội dung chính của kế hoạch quân sự Nava.
…
Nhiệm vụ đề ra trước mắt cho chúng ta là phải
phá âm mưu tập trung binh lực và “bình định ” đồng bằng của địch, để tạo điều kiện tác chiến tương đối lớn.92. Nội dung chính báo cáo của Tổng Quân uỷ trình Bộ Chính trị ngày 6 tháng 12 năm 1953 về phương án tác chiến mùa Xuân 1954?2I- Tình hình địch và phương hướng chiến dịch1. Trước sự uy hiếp của ta, địch đã phân tán lực lượng cơ động, ngày 20 tháng 11 nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ, mục đích là yểm hộ cho Lai Châu và bảo vệ cho Thượng Lào. Hiện nay, ở Điện Biên Phủ, lực lượng địch có chừng sáu tiểu đoàn (chắc chắn là bốn tiểu đoàn), chúng đã sửa sân bay và đang kiến trúc công sự.
Trong lúc đó, thì ở Thượng Lào, địch mở một cuộc hành binh với binh lực chừng năm tiểu đoàn đánh chiếm vùng sông Nậm Hu từ Pác Seng đi Mường Khoa và Điện Biên Phủ.
2. Rồi đây tình hình địch còn thay đổi:
a) Chúng có thể giữ cả Lai Châu và Điện Biên Phủ, một nơi chính, một nơi phụ.
b) Chúng có thể rút Điện Biên Phủ.
c) Khi chủ lực ta uy hiếp thật mạnh thì ở Điện Biên Phủ, địch có thể tăng cường đến khoảng trên dưới 10 tiểu đoàn, biến thành một tập đoàn cứ điểm lớn; và cũng có thể rút.
3. Hiện ta chưa thể phán đoán khẳng định địch nhất định rút hay nhất định tăng, vì hiện nay địch có triệu chứng củng cố, nhưng rồi đây chủ lực ta tập trung lên nhiều, địch bị đánh ở Trung và Hạ Lào, khi đó địch sẽ phải cân nhắc.
Tuy hiện nay chưa thể khẳng định nhưng muốn bảo đảm thực hiện được quyết tâm của Trung ương là tiêu diệt địch và giải phóng vùng Lai Châu - Phong Xalỳ cho đến Luông Phabăng trong đông xuân thì phải nhằm trường hợp tăng cường thành tập đoàn cứ điểm mà chuẩn bị.
Trong trường hợp này, trận Điện Biên Phủ sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay, không kém Nà Sản, và đường sá còn xa hơn. Vì vậy, sự chuẩn bị có nhiều khó khăn, cần ráo riết tập trung lực lượng mới làm kịp, nhưng nếu kiên quyết khắc phục khó khăn, hoàn thành được chiến dịch thì thắng lợi này sẽ là một thắng lợi rất lớn.
III - Nhu cầu nhân lực, vật lực1. Dân công
Số dân công phải huy động từ trung tuyến trở lên khoảng chừng 14.500, gồm cả dân công theo đơn vị, vận tải xe đạp và khuân vác, chưa kể số dân công của Hội đồng cung cấp mặt trận.
Thời gian phục vụ ở mặt trận ước trên dưới ba tháng (so với kế hoạch đánh Nà Sản số dân công dự trữ lên đến 30.000 người).
2. Lương thực
Gạo: từ trung tuyến trở ra: 4.200 tấn, chưa kể số gạo phải huy động cho dân công của Hội đồng cung cấp mặt trận.
Trong số 4.200 tấn gạo trên đây, sẽ tận dụng khả năng ở địa phương Tây Bắc, còn lại sẽ lấy ở Phú Thọ và ở Thanh Hoá, và đề nghị Trung Quốc giúp một số, từ phía bắc Lai Châu đưa xuống. Con số hiện chưa tính cụ thể.
- Lương thực: cần 100 tấn rau khô, 100 tấn thịt, 80 tấn muối, 12 tấn đường, tất cả các thứ này chủ yếu sẽ đưa từ Thanh Hoá lên.
- Đạn dược: nhu cầu độ 300 tấn, nhưng chỉ cần vận chuyển ra hoả tuyến trên 170 tấn. Số này có thể rút xuống vì có thể dùng một phần đạn dược lấy của địch trong đợt I và một phần của ta còn lại.
Những con số về nhu cầu trên đây đã được tính toán tương đối kỹ nhưng còn đang tiếp tục tính lại nữa.
IV - Kế hoạch đường sá và vận chuyển1. Đường sá
Vấn đề làm đường và sửa đường là vấn đề quan trọng nhất trong các công tác chuẩn bị cho chiến dịch, nhưng hiện nay tình hình các con đường cần thiết cho kế hoạch còn nghiêm trọng:a) Đường số 13 từ Yên Bái đi Tạ Khoa tuy nói là hoàn thành từ đầu tháng 11 và sau đó chỉ tu bổ nhưng thực tế thì đường chưa đúng tiêu chuẩn cho xe kéo pháo chạy như nhiều quãng đường cong còn dưới 15 mét, xe kéo pháo không thể đi được, hoặc từ kilômet 50 đến kilômet 70 còn nhiều đoạn lầy, có đoạn dài đến 1 kilômet, xe đi một giờ chỉ có hơn 5 kilômet. Số dân công để tu bổ cho đường đến cuối tháng 11 số lượng chỉ được bảy phần trăm số nhu cầu.
b) Đường số 41: Từ Mộc Châu đi Lai Châu nguyên là đường làm cho xe vận tải chạy, lại có nhiều đoạn hiểm trở, hiện nay muốn cho xe kéo pháo đi được thì phải sửa chữa lại rất nhiều, nhưng số dân công hiện nay cần thiết để tu bổ thường xuyên thì rất thiếu.
c) Theo sự phân công giữa Bộ Công chính và công binh thì đến đầu tháng 12, Bộ Công chính phụ trách hẳn đường số 13 đến Cò Nòi và đường 41 thì phụ trách đến Sơn La. Công binh phụ trách đường 41 từ Sơn La trở lên, sau khi đã sửa chữa xong đoạn đường từ Cò Nòi đi Sơn La.
Nhưng đến nay, sự phân công đó vẫn chưa thực hiện, công binh vẫn phải còn để lại một tiểu đoàn để tiếp tục tu bổ đường Tạ Khoa đi Cò Nòi để bảo đảm cho kế hoạch vận chuyển cho chiến dịch.
d) Đoạn đường từ Tuần Giáo đi Điện Biên Phủ đã lâu năm khống dùng đến, hiện hư hỏng rất nhiều, công binh bắt đầu sửa chữa nhưng cũng phải mất thời gian lâu vì đường dài và xấu (84 kilômét) có nhiều đoạn lở lâu ngày, mặt đường chỉ còn một thước.
Muốn bảo đảm sự thực hiện quyết tâm của Trung ương là giải phóng Lai Châu - Phong Xalỳ, vấn đề mấu chốt hiện nay trong công tác chuẩn bị là vấn đề đường sá. Cần phải tập trung khả năng và có kế hoạch cụ thể để tích cực giải quyết ngay từ bây giờ, chậm lắm là đến cuối tháng giêng năm 1954, cần phải bảo đảm cho xe kéo pháo chạy được. Nếu những đường nói trên không gấp rút sửa chữa thì việc chuẩn bị cung cấp không thể làm đúng theo kế hoạch đã định, và xe kéo pháo không chạy được thì kế hoạch tác chiến cũng không thể thực hiện được.
2. Phương tiện vận chuyển
Để bảo đảm việc chuẩn bị cung cấp kịp thời chủ yếu là phải dùng xe để vận chuyển gạo và đạn dược từ Yên Bái và từ Mộc Châu ra đến hoả tuyến.
Tổng số xe cần có 176 chiếc. Số xăng cần dùng là 2.250 phuy, chưa kể xăng cho pháo và cao xạ phải vận chuyển đi và về khoảng 1.000 kilômét cần đến 510 phuy.
Ngoài ra còn phải huy động thêm độ 3.000 xe đạp.
Như trên đã nói, căn cứ vào tình hình địch và binh lực sử dụng, và nhu cầu nhân, vật lực và giao thông vận chuyển, chiến dịch này là một chiến dịch rất lớn từ trước đến nay, ta có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện chủ trương của Trung ương, nhưng đồng thời cũng có nhiều khó khăn,
khó khăn lớn nhất vẫn là vấn đề cung cấp, mà chủ yếu là vấn đề đường sá. Chúng ta cần phải tập trung lực lượng, tích cực chuẩn bị thì mới bảo đảm được thắng lợi cho chiến dịch.
Để công việc chuẩn bị có thể tiến hành kịp thời, chúng tôi đề nghị Bộ Chính trị:
1. Thông qua mấy vấn đề trên về nguyên tắc.
2. Chỉ thị cho Hội đồng cung cấp tiền phương và các khu phải tập trung lực lượng vào việc chuẩn bị, phải xúc tiến ráo riết kế hoạch đường sá và kế hoạch động viên nhân, vật lực.
3. Về đường sá thì theo như đã phân công giữa Bộ Giao thông công chính và công binh, Bộ Giao thông công chính cần phụ trách bảo đảm đường sá đến Sơn La, để công binh có thể tập trung sửa chữa từ Sơn La trở lên và con đường từ Tuần Giáo đi Điện Biên.
____________________________________
1. Nguồn: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984, tr. 29-30.2. Nguồn: Sđd, tr. 73-78.