2/9/1965 – 2/9/2016!
Tác chiến và phương thức tác chiến luôn là vấn đề nóng bỏng trong các cuộc chiến tranh – một trong vấn đề hóc búa của bất cứ bên nào và những cái đầu lạnh. Những điều rút ra sau cuộc chiến là những bài học kinh nghiệm xương máu đắt giá không gì so sánh được. Với trình độ còn hạn chế và tâm ý lo lắng khôn nguôi về tương lai sắp tới, xin được đặt một bài toán nhỏ và cùng nhìn nhận về những gì đã qua ở một sư đoàn bộ binh nhiều duyên nợ trong KCCM và BGPB : Sư Đoàn 3 Sao Vàng. Bài viết vẫn mang tính chất “chơi – chơi” được tổng hợp từ các bài đã cũ, đã được đăng trên trang VMH; xin cảm ơn những ý kiến đóng góp và thông tin quý giá của anh em bạn bè. Có thông tin đã cũ, đã được trao đổi với nhiều người – xin thông cảm.
I. Về sư đoàn 3 Sao Vàng:
- Là sư đoàn bộ binh đủ, thành lập ngày 2/9/1965 và được giao phụ trách địa bàn tỉnh Bình Định và nam Quảng Ngãi trong KCCM; từ tháng 3/1975 tham gia cánh quân Duyên Hải để giải phóng một loạt các tỉnh đồng bằng ven biển; trong chiến dịch Hồ Chí Minh tham gia đánh chiếm và giải phóng thị xã Vũng Tàu, Côn Đảo. Trong BGPB tham gia xây dựng trận tuyến và phòng ngự tại thành phố Lạng Sơn ngay trong những ngày đầu.
- Là một sư đoàn bộ binh có truyền thống lâu đời, bề dày kinh nghiệm; trải qua gian lao đầy bi tráng – có những lúc phải giải thể sư đoàn. Có quá khứ hào hùng, kiên cường bất khuất; hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. BCH sư đoàn qua các thời kỳ đã được đánh giá là linh hoạt, sáng tạo và thông minh trong cách điều hành tác chiến; vận dụng và vượt lên mọi thử thách, đứng vững và tồn tại độc lập, thích nghi với mọi hoàn cảnh;....
- Các trung đoàn bộ binh và tiểu đoàn trực thuộc là các đơn vị thực chiến, đã trải qua thử thách với các mô hình, phương thức, chiến thuật tác chiến khác nhau của Mỹ + Nam Hàn + VNCH. Các trung đoàn bộ binh trực thuộc đều có sở trưởng khác nhau, E12/ trung đoàn Tây Sơn nổi tiếng với đánh cắt giao thông, luồn sâu tạo thế chiến dịch, có kinh nghiệm tác chiến tại các huyện miền núi phía tây tỉnh Bình Định; E141/ trung đoàn Hoài Ân có kinh nghiệm phòng thủ tác chiến bên dòng sông Kim Sơn trong năm 1972; E2/ đoàn An Lão: trung đoàn chủ công, tác chiến giỏi trong mọi địa hình, nổi tiếng kiên cường trong tiến công
- Sau chiến thắng 30/4/1975, F3 Sao Vàng và F316/ Sư đoàn Thổ được Bộ điều động ngay ra bắc; trấn giữ 2 khu vực trọng yếu theo hướng Tây Bắc và Đông Bắc; trở thành các sư đoàn bộ binh trực thuộc QK 1 và QK2 nhằm bảo vệ BGPB.
II. Kinh nghiệm tác chiến của sư đoàn trong KCCM được áp dụng trong BGPB:
1. Vì sao lại chọn 1 sư đoàn bộ binh của QK V ra vùng BGPB:
- Như chúng ta đã biết, trong cuộc chiến 1975, ta dồn toàn bộ lực lượng vào Nam; ngoài Bắc chỉ còn F308, các khung các sư đoàn huấn luyện, dự bị và các đơn vị thuộc các QK và tỉnh đội địa phương. Sau khi cân nhắc, BTTM quyết định điều động F3/ sư đoàn 3 Sao Vàng và F316/ sư đoàn 316 ra Bắc ngay trong năm 1976, đặt ở hai hướng quan trọng nhất. F3 về Hà Bắc, F316 về Yên Bái. Tháng 7/1978, F3 được lệnh về Quân khu 1 làm nhiệm vụ phòng thủ ở đông-nam tỉnh Cao Lạng, một địa bàn trọng yếu của quân khu và của Bộ. F316 cũng dâng lên Lào Cai. Câu hỏi được đặt ra rằng tại sao không chọn các sư đoàn khác đã có thời gian huấn luyện và làm quen với địa hình phía bắc trước khi vào nam chiến đấu trong KKCM? tại sao không chọn các sư đoàn “ăn cơm bắc – đánh giặc nam” gồm các CBCS người bắc mà lại chọn F3 – một sư đoàn có nguồn gốc phần nhiều từ tỉnh Bình Định. Có một chi tiết đắt giá tại thời điểm này, khi khi sư đoàn có lệnh ra bắc thì đã có hơn 500 CBCS các cấp đã xin chuyển sang/ giải ngũ/ chuyển ngành/ ở lại trên địa bàn QK V và tỉnh Bình Định – trong đó có nhiều cán bộ của sư 3 cũ này đã cùng với cán bộ sư đoàn 2 trở thành nòng cốt trung tâm của lớp cán bộ QK V trong BGTN.
- Về mặt huấn luyện tác chiến, vì đây là sư đoàn bộ binh thực chiến, liên miên trong KCCM nên ít có thời gian tập trung dài hạn để huấn luyện chiến đấu, thực hành tác chiến và giảng dạy về công tác chiến dịch chiến thuật chính quy tinh nhuệ. Trong KCCM, sư đoàn bị cuốn đi – sau 30/4 chỉ có một thời gian ngắn dừng lại củng cố tại Nha Trang. Vậy mà khi ra Hà Bắc, sư đoàn vừa phải tổ chức giải ngũ cho một số CBCS quê miền bắc vừa phải phải tổ chức tuyển tân binh thực hành huấn luyện vừa làm quen với chiến trường mới. Để chuẩn bị cho phòng tuyến BGPB, thực hiện chỉ đạo của Bộ, F3 và F316 điều động hàng trăm sỹ quan các cấp về BCH QS các tỉnh, huyện để làm nòng cốt huấn luyện và xây dựng LLVT địa phương; bố trí các LLVT này vào ngay đội hình tác chiến cấp trung đoàn và tiểu đoàn. Bắt tay ngay vào việc xây dựng dải trận địa phòng ngự thê đội 1/ tuyến 1 (F3 xây dựng với chiều dài 60km) và thê đội 2/ tuyến 2.
- Lạng Sơn – cửa ngõ về thủ đô; chỉ cần bất ngờ vỗ mặt, tràn ngập Lạng Sơn, thần tốc vượt ải Chi Lăng – Lạng Giang là xe tăng và pháo binh đã sẵn sàng uy hiếp. Lạng Sơn – từ xưa đến nay, lịch sử cho thấy vẫn là con đường nhanh nhất, ngắn nhất và tổng lực nhất để áp sát Hà Nội. Vậy tại sao lại giao cho một sư đoàn chưa quen, chưa biết, chưa thực hành chiến đấu – liệu thời gian có đủ cho một đơn vị “tả tơi” sau cuộc chiến đằng đẵng 9 năm
(Hình 1 – Lạng Sơn)
2. Những kinh nghiệm quý báu đó đã được vận dụng trong thế trận biên giới phía bắc một cách nhuần nhuyễn:
- Có thể thấy rằng, phòng ngự sẽ được tổ chức thành nhiều lớp lang/ dãy phòng tuyến tùy theo các cấp đơn vị. Khi đối phương tấn công với mật độ dày đặc, dùng sức mạnh hủy diệt nhằm bất ngờ thọc sâu tung thâm, dùng bộ binh cơ giới để vu hồi thọc sườn, dùng lính sơn cước để “điểm huyệt” thì bên phòng ngự do bất ngờ mà vỡ trận; bị tràn ngập mà lui quân; nhìn thế quân như sóng thần sầm sập mà lo sợ, luống cuống trong điều hành tác chiến; bị chặn đứng thông tin mà không còn nhận thức chỉ huy => phòng tuyến của D/ tiểu đoàn vỡ thì cả E/ trung đoàn sẽ thủng; kéo theo đó là thế trận của cả một sư đoàn, một quân khu. Là còn chưa tính rằng, suốt trong 1978 -2/1979, việc theo dõi, thám báo, dò xét tại BGPB đã được phía Trung Quốc tiến hành thường xuyên, liên tục; xây dựng và bổ sung kế hoạch tác chiến và đảm bảo hành quân chặt chẽ; tính toán các phương án và dự tính các mưu đồ chiến thuật khác nhau để hòng toan tính và đạt được mục đích tối thượng.
Quân bành trướng Trung Quốc chọn đêm ngày 16, rạng sáng ngày 17/2/1979, trong hoàn cảnh sương mù che khuất tiến hành áp sát biên giới; phong tỏa/ cắt đứt thông tin; bất ngờ tiến công với đòn hủy diệt pháo binh và các mũi thọc sâu, vu hồi có xe tăng yểm trợ hòng phá nát thế trận phòng ngự của ta; nhanh chóng hình thành xé lẻ hoặc cất vó các sư đoàn chủ lực và tiến nhanh xuống vùng trung du - đồng bằng. Tưởng vậy mà đâu có dễ, . Tất cả các trận địa phòng ngự tuyến 1 của ta đều kiên cường phòng ngự. Các đại đội/ tiểu đoàn không có sự chỉ huy thống nhất, không liên lạc được với nhau để phối hợp tác chiến, không còn đài quan sát nhưng đều chủ động chặn địch (ví dụ cả E12 thì chỉ có trận địa C41 là im tiếng súng).
Để có được điều trên hẳn không dễ phải không ạ. Đây chính là những kinh nghiệm xương máu được F3 rút ra trong những ngày tháng máu lửa của chiến dịch phòng ngự Hoài Ân 1972. Từ công tác chuẩn bị, nghiên cứu, xây dựng, giữ vững, đảm bảo phòng tuyến phòng ngự đến những kế hoạch dự bị về thế trận khi vỡ, về các điểm cao bị mất và đặc biệt là sự chủ động của cán bộ cấp tiểu đoàn, đại đội khi thông tin liên lạc bị cắt đứt theo một phương án thống nhất từ trước.
- Nhìn vào hình 2 – ta có thể thấy rõ ý đồ phòng ngự tại điểm trọng yếu nhất trên mặt trận Lạng Sơn. F3 đã dùng E12 trấn thủ, E12 sử dụng chủ yếu D6 trên ngã ba Đồng Đăng với cụm điểm tựa chân kiềng dãy điểm cao 339, 423, đồi Thâm Mô/ đồi Phạm Ngọc Yểng (vòng tròn xanh). Một phòng tuyến mềm (tròn đỏ) gồm các cao điểm sát biên giới tạo thành vật cản quyết liệt bắt buộc phải vượt qua trước khi đến được các mục tiêu cao nhất. Cách đánh cường công hay biển người với phòng tuyến chủ đạo sẽ được nhẹ bớt chăng khi yếu tố bất ngờ sẽ giảm, sự đột biến sẽ bớt.
Đây chính là kinh nghiệm phòng ngự với thế trận liên hoàn tại Đồi 9, Đồi 10, Quy Thuận trong chiến dịch phòng thủ Hoài Ân 1972. Và cũng chính là sự vận dụng linh hoạt khi cắt đường 19 trong các năm 1969, 1970, 1972 trên đoạn đèo Thượng Giang – An Khê (Hình 3). Tại đây, F3 đã xây dựng cụm chính gồm điểm cao 384, 638 (núi Cây Rui) và cống Hang Dơi trên mặt đường số 19. Ba điểm này hình thành thế chân kiềng, có giá trị chiến thuật và chiến dịch, quyết định thắng, bại. Cụm chốt thứ hai ở phía tây đèo Thượng Giang từ cầu Suối Vối đến cầu Ban Ngày. Tiểu đoàn 6 và hầu hết hỏa lực trung đoàn đảm nhiệm cụm chốt chính. Hai đại đội công binh ở cụm chốt phụ. Tiểu đoàn 5 làm lực lượng dự bị cơ động của trung đoàn. Đặc điểm chính của các cụm điểm chốt liên hoàn và chủ đạo là kiên quyết đứng vững, “một bước không đi – một ly không rời”; bằng mọi giá phải đảm bảo sự thành công chung của chiến dịch. Đã có những trận đánh, có những điểm cao ... ghi dấu bi tráng hào hùng của những con người nhỏ bé ở các đại đội chủ công.
Có những đặc điểm chung tại hai cụm chốt phòng ngự liên hoàn này:
• cùng là tiểu đoàn 6 với thành tố nổi tiếng và đầy duyên nợ: “ăn xóm 4, ngủ xóm 5, máu xóm 6”.
• người thiết kế và chỉ đạo cụm phòng tuyến đường 19 là E trưởng E12 Nguyễn Duy Thương năm 1972 cũng chính là F trưởng F3 Sao Vàng năm 1979;
• về hình thái địa hình với sự giao thoa và tính chiến lược của con đường 19 với đường 1 năm 1972 thì cũng lặp lại tương tự trong BGPB giữa đường 1A và 1B mà cụm điểm cao 339, 423, đồi Thâm Mô/ đồi Phạm Ngọc Yểng trấn giữ. (hình 4). Yếu tố bất ngờ chiến thuận và tầm nhìn chiến lược có liên quan đến địa hình này sẽ được trình bày tiếp ở một khía cạnh khác nữa – rất hay.
(còn tiếp)