Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 05:01:31 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến đấu trong vòng vây  (Đọc 43950 lần)
0 Thành viên và 3 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #80 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2016, 10:28:44 am »

       
5

        Sản xuất quốc phòng là mối quan tâm hàng đầu của nhà nước non trẻ trong vòng vây của đế quốc, Chỉ 13 ngày sau khi tuyên bố độc lập, Bác đã quyết định thành lập tổ chức ban đầu của ngành quân giới với hai nhiệm vụ: thu thập, mua sắm vũ khí và tổ chức sản xuất vũ khí.

        Ngày 25 tháng 9 năm 1948, với danh nghĩa Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, theo lệnh của Bác, tôi kí giấy ủy nhiệm cho đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân “có đủ quyền trưng thu các xưởng và tất cả các vật liệu cần thiết cho kĩ nghệ binh khí để củng cố việc quốc phòng”.

        Với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, các ngành công nghiệp vật liệu, công nghiệp chế tạo chưa có, lại bị chiến tranh tàn phá, chúng ta chưa có cơ sở vật chất cho ngành công nghiệp sản xuất vũ khí ra đời. Vì vậy, khi Chính phủ hỏi ý kiến một số nhà trí thức cao cấp trong nước để sản xuất vũ khí thì nhiều anh em cho là ta không làm được.

        Nhưng trong điều kiện bị bao vây bốn bề, chúng ta phải nhất thiết vượt qua mọi khó khăn trở ngại, tổ chức sản xuất bằng được những thứ vũ khí có thể sản xuất được để cung cấp cho bộ đội và dân quân chiến đấu với quân thù.

        Hàng loạt các tổ sửa chữa vũ khí và chế tạo vũ khí ở các chi độ bội đội ở Nam Bộ, các binh công xưởng ở các tỉnh, các khu từ Bắc chí Nam ra đời. Máy móc, nguyên liệu lấy từ cơ sở công nghiệp dân dụng nhỏ bé. Lực lượng nòng cốt là đông đảo công nhân từ các cơ sở công nghiệp, học sinh các trường kĩ nghệ, các trí thức yêu nước. Công việc thì từ nhồi nạp đạn, sửa chữa các loại súng, rèn dao găm, mã tấu, đến sản xuất lựu đạn, địa lôi, súng kíp. Tháng 12 năm 1945, trong chuyến đi công tác miền Nam, tôi đã đến thăm xưởng quân giới Đồng Trăng của Khánh Hòa. Xuởng này dựa vào nhà máy sơ chế cao su của đồn điền Đồng Trăng và máy móc, vật liệu lấy từ ga Phú Xuân Long. Với khoảng 50 cán bộ, công nhân, trước hết rèn giáo, mác, về sau sửa chữa súng trường, súng máy, sản xuất lựu đạn nhằm đáp ứng cho mặt trận ngày một lan rộng.

        Kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Tôi chỉ thị cho ngành quân giới tổ chức những xưởng vũ khí nhỏ, gọn, theo phương châm “tiểu quy mô, cơ động, linh hoạt, dễ di chuyển khi cần thiết” phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến; để thực hiện quan điểm chiến tranh nhân dân, vũ trang toàn dân phải chuyển mạnh sang sản xuất những vũ khí thô sơ, thông dụng, chủ yếu là lựu đạn, mìn để tiến hành đánh du kích. Loại vũ khí thông dụng này ngành sản xuất vũ khí của ta có thể sản xuất nhanh, nhiều, cung cấp kịp thời cho các mặt trận.

        Sản xuất vũ khí luôn luôn là một nhiệm vụ được nhắc nhở trong các hội nghị quân sự cũng như các nghị quyết của Trung ương.Tôi còn nhớ tại Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ ba tổ chức tại Trúc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông, một vấn đề được trao đổi sôi nổi là việc sản xuất vũ khí. Một điều khiến hội nghị quan tâm đến nhiều phải có một thứ vũ khí nào có thể chiến đấu có hiệu quả với xe tăng, cơ giới địch. Tôi mới đồng chí Trần Đại Nghĩa, người vừa được Bác Hồ bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Quân giới phát biểu ý kiến. Anh Trần Đại Nghĩa là một trí thức Việt kiều ở Pháp được Bác đưa về nước tham gia kháng chiến. Chính anh là người đã đem lại cho đội ngũ cán bộ khoa học trẻ của ta lúc bấy giờ những kiến thức cơ bản về lí luận và công nghệ sản xuất vũ khí.

        Anh Nghĩa cho biết anh đang chỉ đạo một nhóm cán bộ thí nghiệm để hoàn chỉnh đạn Badôca trong thời gian ngắn nhất. Đây là một nhiệm vụ ta đã đề ra từ trước. Trong chuyến đi thăm xưởng quân giới Giang Tiên ở Thái Nguyên, tháng  3 năm 1948, tôi đã giao cho Cục Quân giới sản xuất súng và đạn badôca theo mẫu khẩu súng của Mỹ thả dù cho ta ở Tân Trào trước Tổng khởi nghĩa. Trong nước, anh em quân giới đã sản xuất được súng nhưng riêng quả đạn thì chưa thành công. Vừa từ Pháp về, anh Nghĩa bắt tay vào nghiên cứu đạn badôca, tính toán để sử dụng các thuốc đẩy, thuốc phóng ta vẫn sẵn có thay thế các nguyên liệu của Mỹ.

        Ngày 5 tháng 3 năm 1947, lần đầu tiên badôca do ta chế tạo đã bắn cháy xe tăng của địch, góp phần bẻ gãy cuộc hành quân vây quét vùng Chương Mỹ - Quốc Oai.

        Tôi được biết rằng, sau đó anh Nghĩa và anh em quân giới còn phải mất một thời gian tiếp tục nghiên cứ mới có được súng đạn badôca hoàn chỉnh để trang bị cho bộ đội.

        Ở Nam Bộ không có điều kiện để sản xuất badôca, kĩ sư Lê Tâm đã nghiên cứu ra badômin (một loại mìn lõm) để đánh cơ giới địch. Badômin đã được sử dụng có hiệu quả trong trận La Ngà cũng như trong các trận diệt tháp canh của địch. Sau này các anh đã nghiên cứu chế tạo thành công súng và đạn SS với nhiều loại khác nhau. SS cũng theo nguyên lí không giật, kết cấu đơn giản, tiết kiệm được thuốc phóng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #81 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2016, 10:29:08 am »


        Phương hướng sản xuất vũ khí được chỉ rõ trong Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 4 năm 1947 “Chú trọng chế tạo các vũ khí chống xe tăng, chống ca nô (badôca, địa lôi, v.v.), và vũ khí thô sơ như lựu đạn, súng kíp; phải chống khuynh hướng coi thường vũ khí thô sơ mà chỉ chú trọng vũ khí tối tân; đồng thời chống khuynh hướng thiên về chế tạo vũ khí thổ sơ mà không để ý hay không gắng sức chế tạo và học dùng vũ khí “tối tân”. Phổ biến cách chế tạo lựu đạn và súng kíp đơn giản cho dân là tự vũ trang”.

        Cùng với việc phát triển mạnh mẽ sản xuất lựu đạn, mìn với kĩ thuật ngày càng hoàn thiện, ngay năm đầu toàn quốc kháng chiến, năm 1947, ta đã thành công trong sản xuất vũ khí chống chiến xa địch như badôca, AT và súng đạn bắn cầu vồng các loại như cối, lựu pháo.

        Năm 1948 ở Bắc Kạn, trước khi dự hội nghị chuyên môn quân giới toàn quốc, tôi đã  dự cuốc bắn thử súng cối cỡ 187mm. Súng được làm bằng vỏ bình ôxy, đạn nặng 30 kilôgam, tầm bắn xa nhất được 2 kilômét. Kết quả ban đầu cho thấy độ tản mát quá lớn, còn phải tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh. Sau này cối 187mm được trang bị làm pháo đi cùng với các đơn vị bộ binh.

        Nói về sản xuất vũ khí không thể không nói đến một thành công lớn của quân giới nước ta trong những năm chiến đấu trong vòng vây. Đó là việc chế tào thành công súng không giật SKZ 60. Đây là loại vũ khí công đồn. Súng SKZ 60 chỉ nặng có 26 kilôgam lại có thể tháo rời để dễ mang vác. Đạn SKZ 60 là đạn lõm, nặng 9 kilôgiam, có khả năng xuyên bê tông dầy 60 xăngtimét (gấp 3 lần badôca 60). Xuất trận lần đầu ở chiến dịch Lê Hồng Phong 1, trong trận Phố Lu, SKZ 60 đã tỏ ra có hiệu quả trong phá lô cốt địch. SKZ 60 nhanh chóng trở thành vũ khí trợ chiến có hiệu lực của các đơn vị bộ binh. Sau này trong cuốn “Chiến tranh Đông Dương” Luyxiêng Bôđa viết: “Nhưng, cái thứ gây khó khăn cho chúng tôi, cái thứ xuyên thủng bê tông dày 60 cm là những quả đạn SKZ 8 kg mà người Việt chế tạo trong các hang núi ở Chi Nê… chỉ cần vài quả là đủ tiêu diệt tháp canh của chúng tôi”.

        Được tin về những thành tích chiến đấu của SKZ 60, tôi cho goi đồng chí Hoàng Đình Phu, lúc đó là Phó giám đốc Nha Nghiên cứu kĩ thuật của Cục Quân giới lên báo cáo. Anh Phu cho biết súng SKZ 60 dựa theo nguyên lí pháo không giật bắn đạn lõm của phương Tây. Anh em cán bộ của Nha Nghiên cứ kĩ thuật dưới sự chỉ đạo trực tiếp của anh Phu, được anh Trần Đại Nghĩa hướng dẫn đã tự mình tính toán thiết kế không theo một mẫu nào có sẵn.

        Nghe báo cáo, tôi lại nhớ đến chuyến tôi đi thăm Nha Nghiên cứ kĩ thuật vào tháng 12 năm 1947 tại Khe Khao. Đây là một ngọn núi cao, từ Bản Thi còn phải đi 7 kilômét đường núi mới tới. Đến thăm anh em, tôi muốn biểu lộ sự quan tâm của Trung ương, của Bộ Quốc phòng và Quân ủy Trung ương đối với một cơ quan nghiên cứu khoa học kĩ thuật đầu tiên của quân đội và của đất nước, đối với đội ngũ trí thức trẻ mà lúc bấy giờ tôi vẫn gọi vui là “les étudiants Quân giới”. Đa số anh em vừa rời ghế nhà trường, hăng hái đi theo tiếng gọi của Tổ quốc đi vào cuộc kháng chiến trường kì. Từ các nôi khoa học kĩ thuật này nhiều đồng chí đã trưởng thành, sau này đã trở thành những cán bộ khoa học, kĩ thuật chủ chốt của quân đội và của Nhà nước.

        Cũng phải kể đến công lao của anh Tạ Quang Bửu. Là một nhà khoa học, giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, ngay từ những ngày chiến đấu còn đầy gian khổ khó khăn anh đã quan tâm đến công tác khong học trong các lực lượng vũ trang, chẳng những đối với ngành quân giới mà cả đối với quân y và các ngành khác. Sau này trên cương vị phụ trách Ủy ban Khoa học và Kĩ thuật nhà nước và sau đó là Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp anh đã có đóng góp quan trọng vào việc phát triển công tác nghiên cứu khoa học và xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật của nhà nước.

        Ngày nay, nhìn lại, thấy chúng ta đã đi đúng hướng. Chúng ta chủ trương tập trung đẩy mạnh sản xuất các loại vũ khí thô sơ: lựu đạn, mìn để cung cấp cho hàng triệu chiến sĩ của cuộc chiến tranh toàn dân trên cả nước. Với một nền công nghiệp lạc hậu, không có khả năng sản xuất ra một khẩu súng trường mà các nước công nghiệp tiên tiến đã sản xuất hàng hoạt trước đó hàng trăm năm, mà chúng ta lại sản xuất được các vũ khí hiện đại, nòng trơn, các vũ khí dùng nguyên tắc phản lực và đạn lõm, như badôca, SKZ… Đó là những vũ khí tối tân lúc bấy giờ. Về mặt chiến thuật nó đáp ứng yêu cầu tiêu diệt những phương tiện mạnh nhất của địch: xe tăng, cơ giới, phá tan các lô cốt boong ke của chúng góp phần làm thât bại chiến lược chiến tranh đồn bốt của bọn thực dân. Về mặt chế tạo, các thứ vũ khí ấy không cần đến vật liệu phức tạp, lại không yêu cầu độ chính xác quá cao, thích hợp với khả năng của ta về vật liệu, về trình độ sản xuất và thiết bị công nghệ lúc bấy giờ.

        Một kì tích nữa của cán bộ, công nhân ngành quân giới là đảm bảo nguyên liệu, vật liệu và kĩ thuật, những yếu tố hàng đầu của sản xuất vũ khí.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #82 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2016, 10:30:34 am »


        Nhận định giặc Pháp nhất định sẽ tiến công ta, ngay từ đầu tháng 11 năm 1946, Bộ Quốc phòng đã lệnh cho Cục Quân giới bí mật sơ tán, di chuyển các kho tàng, xí nghiệp ra khỏi các thành phố lớn, mang lên vùng rừng núi. Sớm hơn nữa, ngay từ tháng 5 năm ấy, Bác đã chỉ thị cho đồng chí Đặng Văn Cáp về Cao Bằng mở công binh xưởng chế tạo vũ khí chuẩn bị cho kháng chiến.

        Trong cuộc tổng di chuyển cuối năm 1946 đầu năm 1947, khoảng 4 vạn tấn máy móc, dụng cụ, nguyên liệu được đưa từ các đô thị về nông thôn, lên rừng núi (tính từ Khu 5 trở ra) với quãng đường từ 50 đến 500 kilômét, là một thắng lợi lớn lao của ngành quân giới.

        Nguồn nguyên liệu, vật liệu sản xuất vũ khí được tạo từ nhiều hướng, bằng nhiều con đường, với tất cả lòng dũng cảm, trí thông minh và cả sự hi sinh của công nhân và cán bộ. Ta không sản xuất được thuốc nổ. Ngoài một số thuốc nổ còn dự trữ ở các kho, phần lớn các thuốc nổ quý như tôlít, mêlinít, điamít được khai thác từ các kho vũ khí của địch, từ bom, đạn pháo, đạn cối không nổ. Việc tìm kiếm bom địch không nổ để tháo bỏ ngòi lấy thuốc nổ là công việc thường xuyên. Đây là một việc làm rất nguy hiểm, đòi hỏi cả lòng dũng cảm và trình độ kĩ thuật. Tuy có những trường họp không may xảy ra tai nạn, nhưng anh em vẫn không chùn bước.

        Thiếu sắt thép chế tạo, ta có nguồn sắt thép rải rác trong cả nước. Đó là hàng nghìn kilômét đường ray, hàng trăm đầu máy xe lửa, hàng nghìn vành, bánh, trục xe lửa, hàng nghìn tấn sắt thép cũ ở hàng trăm cầu, hàng chục tàu lăn đường, hàng trăm xe cũ nằm rải rác trên các tuyến đường, chưa kể tới vỏ đầu đạn đại bác, vỏ bom chưa nổ.

        Thiếu đồng, ta kêu goi sự đóng góp của nhân dân. Nồi đồng, mâm đồng, lư hương, tiền Bảo Đại, tiền Khải Định đều được đem hiến cho kháng chiến để rèn đúc vũ khí.

        Số nguyên liệu, vật liệu mua được từ vùng địch tạm chiếm, nhất là ở Nam Bộ đã góp phần quan trọng để duy trì và phát triển việc sản xuất. Riêng năm 1949, Nha mậu dịch của Cục Quân giới trực tiếp mua được 27 tấn kali clorát, hơn một vạn bánh thuốc đinamít gôm, gần 12 vạn ống nổ, hoặc như quân giới Khu 8 cũng trong hai năm 1948 - 1949 đã mua được 17 tấn diêm tiêu, 1,6 tấn axít các loại, 500 kilôgam sunfua antimon, 7 tấn đồng lá…

        Tuy nhiên, để chủ động, ngành quân giới đã tổ chức sản xuất gần như trên cả nước thuốc gợi nổ, diêm tiêu, thuốc đen, các axít cơ bản.

        Hàng trăm tấn diêm tiêu được sản xuất bằng phương pháp cổ truyền với những dụng cụ thô sơ từ phân dơi trong các hang động trên vùng núi cao kết hợp với tro bếp huy động từ hàng chục nghìn gia đình.

        Axít và các hóa chất cơ bản để chế tạo chất nổ, nhất là điều chế fuminát thủy ngân được sản xuất bằng các lò thủ công, phương pháp thủ công, nhiều khi nguy hiểm đến tính mạng con người.

        Trong công nghệ chế tạo, anh chị em cán bộ công nhân quân giới cũng có nhiều sáng tạo. Tôi thường được anh Nguyễn Duy Thái báo cáo về những sáng kiến cải tiến kĩ thuật của các xưởng quân giới trong cả nước, nhất là các xưởng từ Khu 4 trở ra.

        Tôi đã gửi thư khen ngợi bộ phận chuyên nghiên cứu dập đạn DAM. Thành công này cùng với việc luyện được đồng thau theo kinh nghiệm của các nghệ nhân đúc đồng làng Ngũ Xã (Hà Nội) đã mở ra khả năng sản xuất được nhiều đạn. Trong hai năm 1949 - 1950 ta đã sản xuất được khoảng 2 triệu viên đạn DAM. Hai triệu viên đạn được sản xuất trong điều kiện khó khăn thiếu thốn đủ thứ có một ý nghĩa cực kì quan trọng. Một sáng kiến nổi bật là anh em đã chế tạo nòng súng cối các cỡ bằng vỏ các đầu đạn đại bác 105, 155mm của địch ghép nối lại.

        Viết những dòng này tôi không thể không nhớ tới các cán bộ và công nhân đã hi sinh trong nghiên cứu - thử nghiệm, trong chế tạo vũ khí, trong điều chế hóa chất… Đây thực sự là một mặt trận thầm lặng không thiếu những sáng tạo và chiến công, nhưng cũng đầy khó khăn gian khổ, thiếu thốn và hi sinh.

        Hơn hai vạn anh chị em cán bộ và công nhân ngành quân giới, với những người tiêu biểu như anh hùng Ngô Gia Khảm, anh hùng Trần Đại Nghĩa, đã đem hết tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân, tinh thần lao động sáng tạo và khoa học của người trí thức yêu nước, trong hoàn cảnh cực kì khó khăn, làm ra một khối lượng lớn vũ khí và đạn dược1, góp phần xứng đáng vào những thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến lâu dài. Đây cũng là cơ sở quan trọng cho nền móng công nghiệp quốc phòng và phần nào là nền công nghiệp dân dụng của chúng ta.

--------------
1. Chỉ tính các xưởng quân giới từ Khu 4 trở ra, riêng trong 2 năm 1948 - 1950 đã sản xuất được hơn 1 triệu quả lựu đạn và mìn; gần 900 khẩu súng và 15 vạn quả đạn các loại badôca, SKZ và cối; hơn 200 tấn hóa chất, thuốc nổ, hơn 2 triệu viên đạn súng trường và tiểu liên.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #83 vào lúc: 01 Tháng Chín, 2016, 11:09:34 am »

       
6

        Sau chiến thắng Việt Bắc, trong một cuộc họp Thường vụ, Bác đề ra cần phát động trên toàn quốc, trong tất cả các ngành ở hậu phương cũng như tiền phương một phong trào “thi đua ái quốc” để đẩy cuộc kháng chiến tiến nhanh qua giai đoạn mới.

        Ngày 27 tháng 3 năm1948, Thường vụ Trung ương ra chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc.

        Nhân dịp kỉ niệm 1.000 ngày kháng chiến toàn quốc, Bác ra lời kêu gọi, với những lời lẽ giản dị, Người viết:

        “Mục đích thi đua ái quốc là gì?

              Diệt giặc đói khổ,
              Diệt giặc dốt nát,
              Diệt giặc ngoại xâm.

        Cách làm là dựa vào:

              Lực lượng của dân,
              Tinh thần của dân.

        Để gây:

              Hạnh phúc cho dân

        Kết quả đầu tiên của thi đua ái quốc là:

              Toàn dân sẽ đủ ăn đủ mặc,
              Toàn dân sẽ biết đọc biết viết.
              Toàn bộ đội sẽ đầy đủ lương thực khí giới
                                    để giết giặc ngoại xâm”.

        Trong thơ chúc Tết Xuân Kỷ Sửu, 1949, Người viết:

              Người thi đua
              Ngành ngành thi đua
              Ngày ngày thi đua
              Ta nhất định thắng
              Địch nhất định thua.

        Phong trào Thi đua ái quốc là một sáng kiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nó đã có những tác đọng cực kì to lớn trong suốt ba mươi năm chiến tranh. Có thể nói những kì tích của quân và dân ta trong hai cuộc kháng chiến ở tiền tuyến cũng như hậu phương đều gắn vớii thi đua ái quốc.

        Cũng như nhiều phong trào do Người phát động, Thi đua ái quốc bắt đầu từ vài câu nói, ít dòng viết giản dị của Người.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #84 vào lúc: 01 Tháng Chín, 2016, 11:17:19 am »

        
Chương tám

CHUẨN BỊ TỔNG PHẢN CÔNG1
 

1

        Bước sang năm 1949, tình hình quốc tế và Đông Dương có nhiều sự kiện bất lợi cho Pháp. Cách mạng Trung Hoa phát triển mạnh. Quân giải phóng Trung Quốc liên tiếp giành thắng lợi qua các chiến dịch Liêu Thẩm, Bình Tân, Hoài Hải, đang chuẩn bị vượt sông Dương Tử. Ở vùng Hoa Nam giáp biên giới nước ta, phong trào du kích nổi lên khá mạnh chuẩn bị đón Quân giải phóng, nhưng đang phải chống trả những trận càn quét dữ dội của quân Quốc dân đảng. Thực dân Pháp ở Đông Dương cũng như giới cầm quyền ở chính quốc rất lo lắng trước tình hình biến chuyển trên lục địa Trung Hoa.

        Đầu năm có cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng. Trong giấy triệu tập, Bác dặn nên suy nghĩ, chuẩn bị ý kiến bàn việc đẩy mạnh kháng chiến, có thể phải quyết định vấn đề quan trọng.

        Bác đã từ Điềm Mạc trở lại châu Tự Do. Tôi đi ngựa qua đèo De sang Tân Trào. Thu Đông vừa qua, Đảng và Chính phủ đã lãnh đạo quân và dân chuẩn bị đối phó với cuộc tiến công lần thứ hai của giặc Pháp lên Việt Bắc. Nhưng địch không tổ chức được cuộc tiến công, căn cứ địa vẫn hoàn toàn yên tĩnh. Tình hình cuộc kháng chiến, so với hai năm trước, đã sáng sủa hơn. Những thắng lợi dồn dập của cách mạng Trung Hoa sẽ tạo nhiêu thuận lợi mới cho ta. Tôi nghĩ trong cuộc họp lần này, Thường vụ sẽ có những quyết định quan trọng để đẩy mạnh cuộc kháng chiến.

        Qua những cánh đồng hẹp, lội một con suối, đi vào phía núi lại gặp suối Lê. Nơi ở của Bác lúc này đã khang trang hơn, tuy vẫn là nhà tranh vách nứa. Anh Trường Chinh, anh Hoàng Quốc Việt và anh Lê Văn Lương đã có mặt. Anh Lương ra suối lấy nước về đun, vì hôm nay vừa có người biếu Bác gói trà ngon.

        Sau tuần trà, cuộc họp Thường vụ bắt đầu, do Bác chủ trì. Anh Trường Chinh điểm tình hình kháng chiến năm qua, tôi báo cáo tình hình quân sự cụ thể hơn. Đại thể chiến tranh du kích đã phát triển rộng khắp ở vùng sau lưng địch, khiến cho quân Pháp không thể tập trung lực lượng để mở cuộc tiến công lần thứ hai lên Việt Bắc1. Chúng buộc phải tiến hành nhiều cuộc càn quét để củng cố hậu phương. Ta đã thực sự chuyển sang giai đoạn mới và đang tranh giành quyền chủ động với quân Pháp ở Bắc Bộ. Tuy được tăng viện thêm 3 vạn quân, đưa tổng quân số cuối năm 1948 lên 16 vạn, tỉ lệ quân ngụy chiếm 46 phần trăm, nhưng Pháp vẫn ở trong tình trạng thiếu quân nghiêm trọng, lực lượng lại bị căng ra để đối phó với những cuộc tiến công ngày càng tăng của bộ đội ta. Pháp vẫn chưa lập được chính quyền bù nhìn với Vĩnh Thụy (tức Bảo Đại). Những thắng lợi lớn của cách mạng Trung Hoa đang làm cho quân thù rất đau đầu.

------------------
1. Theo thông báo ngày 13 tháng 6 năm 1988 của Viện Lịch sử quân sự, về vấn đề giai đoạn chiến lược của cuộc kháng chiến chống Pháp, một cuộc Hội thảo khoa học đã được tổ chức, gồm một số cán bộ quân sự cao cấp thời chống Pháp, sau đó có ý kiến một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị thời bấy giờ đi đến nhất trí:

        a) Chủ trương cuộc kháng chiến chống Pháp có ba giai đoạn là đúng.

        b) Giai đoạn 1: Từ Nam Bộ kháng chiến đến sau chiến thắng Việt Bắc (Thu Đông 1947); có thể gọi là giai đoạn giữ vững và phát triển lực lượng cảu ta, kiềm chế và tiêu hao lực lượng địch.

        c) Giai đoạn 2: Từ chiến thắng Việt Bắc đến trước chiến dịch Biên Giới; có thể gọi là giai đoạn phát triển chiến tranh du kích, chuẩn bị thế và lực để phản công.

        d) Giai đoạn 3: Từ chiến dịch Biên Giới đến chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, có thể gọi là giai đoạn phản công và tiến công đi đến giải phóng miền Bắc, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ.

        Cuốn sách “Chiến đấu trong vòng vây” được viết theo thực tế lịch sử, căn cứ vào những nghị quyết và chủ trương của Trung ương lúc bấy giờ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #85 vào lúc: 01 Tháng Chín, 2016, 11:41:51 am »


        Bác nêu ý kiến: qua hai năm cả nước kháng chiến, lực lượng ta đã khá hơn trước, bộ đội có nhiều tiến bộ, nhân dân rất tin tưởng ở kháng chiến. Do những tiến bộ của ta, quân Pháp lâm vào thế lúng túng, cả năm 1948 không mở được cuộc tiến công quan trọng nào ra vùng tự do. Quân ngụy tăng nhiều là một mối nguy hiểm tiềm tàng trong nội bộ địch. Với đà tiến mạnh mẽ như hiện nay, chắc không bao lâu nữa, Quân giải phóng sẽ tới sát biên giới nước ta. Tình hình đó nhất định sẽ ảnh hưởng tốt đến cuộc kháng chiến, tạo những thuận lợi mới cho ta. Nếu thất bại ở lục địa Trung Hoa, chắc chắn Mỹ và Anh sẽ tăng cường nỗ lực chiến tranh để giữ Đông Dương, gây những khó khăn rất lớn cho ta. Bác nêu vấn đề có thể đề ra nhiệm vụ tích cực cầm cự, ra sức chuẩn bị về mọi mặt để chuyển sang tổng phản công.

        Thường vụ thảo luận rất kĩ, cân nhắc thận trọng tình hình mọi mặt. Có hai ý kiến. Ý kiến thứ nhất cho rằng cần đặt vấn đề tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công; tổng phản công là nhiệm vụ của cả một giai đoạn chiến lược. Ý kiến thứ hai cho rằng so sánh lực lượng địch ta và sự phát triển không đồng đều giữa các chiến trường, nên cần tập trung lực lượng tiến hành những trận phản công trên chiến trường Bắc Bộ, trong khi các chiến trường khác ra sức kiềm chế địch.

        Bác kết luận: cần đề ra nhiệm vụ tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công để động viên sự nỗ lực vượt bậc của quân và dân cả nước, sẵn sàng khai thác triệt để những thuận lợi khi thời cơ mới xuất hiện.

        Thường vụ quyết định triệu tập Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu và phân công anh Trường Chinh chuẩn bị báo cáo chính trị, tôi chuẩn bị báo cáo quân sự để trình bày tại hội nghị.

        Tôi thấy thì giờ rất khẩn trương, nhiệm vụ mới hết sức quan trọng, nên lên ngựa về ngay cơ quan Bộ Tổng chỉ huy. Tôi mời anh Văn Tiến Dũng, anh Hoàng Văn Thái và một số cán bộ chủ chốt của cơ quan đến, phổ biến nội dụng hội nghị Thường vụ và bàn chuẩn bị báo cáo quân sự.

        Sau đó, tôi lên đường sang khu vực cơ quan Chính phủ ở Thanh La thuộc châu Tự Do để họp Đảng đoàn Chính phủ. Đây là một khu rừng rậm rạp, rất ít ánh nắng mặt trời. Mấy hôm nay rét đậm. Mọi người đã đến đủ, lần này có cả anh Cả tức Sao Đỏ (bí danh của anh Nguyễn Lương Bằng) đại diện Trung ương. Ạnh Lê Văn Hiến, Bộ trưởng Tài chính, phó bí thư đảng đoàn, mới dứt cơn sốt rét, người còn rất mệt, cũng cố gắng đến. Đáng lẽ nội dung hội nghị bắt đầu buổi chiều, nhưng có đồng chí ở xa đến muộn, nên sau bữa cơm tối mới họp.

        Tôi báo cáo tình hình thế giới, trong nước và đề ra nhiệm vụ mới theo tinh thần hội nghị Thường vụ Trung ương. Hội nghị thảo luận khá lâu mãi đến 12 giờ đêm mới tạm dừng.

        Hai ngày sau, hội nghị tiếp tục làm việc, nhất trí nhận định tình hình thế giới, trong nước và xác định nhiệm vụ mới.

        Hội nghị kiểm điểm công việc đã làm trong năm 1948, bao gồm phần chung của Chính phủ và phần riêng của mỗi bộ, rồi bàn chương trình hoạt động trong năm 1949.

        Anh Lê Văn Hiến gặp riêng tôi trao đổi: Bộ Quốc phòng mới đưa dự trù ngân sách đến để xét. Ngân sách làm theo kế hoạch mới, là một con số khổng lồ. Tình hình tài chính đang có rất nhiều khó khăn do chính sách phong tỏa, bao vây kinh tế của địch. Tôi nói là đã cùng anh Tạ Quang Bửu xem xét rất kĩ và cắt đi rất nhiều rồi, đây là con số tối thiểu, anh cố gắng thu xếp cho. Anh Hiến Mai gật đầu nói: “Anh yên tâm, dù thế nào cũng phải cố gắng đáp ứng, đề nghị anh dặn anh em hết sức tiết kiệm”.

        Chúng tôi họp đến 3 giờ sáng, có nhiều cuộc tranh luận sôi nổi. Sau hai ngày ba đêm làm việc liên tục, mọi người đều mệt nhoài, nhưng rất phấn khởi vì sự tiến triển của cuộc kháng chiến, đồng thời có nhiều lo lắng vì cảm thấy nhiệm vụ mới rất nặng nề.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #86 vào lúc: 01 Tháng Chín, 2016, 11:45:55 am »


2

        Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng lần thứ sáu họp từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 1. Sáng 14, các đại biểu đến địa điểm hội nghị. Đại biểu các địa phương và các ngành đã có mặt. Liên khu 3 và Liên khu 4 cũng có đại biểu mặc dầu đường đi có nhiều khó khăn và nguy hiểm.

        Hội trường là một ngôi nhà lớn bằng tre, nứa, lá, nhưng khá đàng hoàng. Có phòng họp chung cho tất cả các đại biểu và chỗ họp riêng cho các tổ, có ánh sáng điện chạy bằng máy nổ, có cờ đỏ sao vàng và cờ búa liềm, có chân dung của Bác, đồng chí Xtalin, đồng chí Mao Trạch Đông và nhiều khẩu hiệu chữ vàng trên vải đỏ.

        Một giờ chiều hội nghị bắt đầu. Sau khi chào cờ, hát quốc ca, hát quốc tế ca và mặc niệm các chiến sĩ, Bác Hồ nói lời khai mạc.

        Anh Trường Chinh trình bày Báo cáo chính trị, đánh giá tình hình trong nước và ngoài nước, nêu lên những điều kiện thuận lợi mới, những khó khăn mới, chủ trương của Đảng để đẩy cuộc kháng chiến tiến tới, tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công.

        Vì quá nhiều việc, hội nghị phải làm việc cả ban đêm. Riêng tối 14 có liên hoan văn nghệ, nhưng thời tiết rét buốt, mọi người lo sưởi lửa nhiều hơn dự cuộc vui.

        Sáng 15, tôi trình bày Báo cáo quân sự “nhiệm vụ quân sự của chúng ta trong giai đoạn hiện tại”. Bản báo cáo có ba phần: 1) Từ Việt Bắc, chiến tranh đã bước vào giai đoạn thứ hai. 2) Giai đoạn thứ hai sẽ tiến triển như thế nào? 3) Nhiệm vụ quân sự cần kíp của chúng ta.

        Bản báo cáo nêu lên hai đặc điểm của giai đoạn mới. Đặc điểm thứ nhất là giai đoạn mới bắt đầu với chiến thắng Việt Bắc 1947 - một thắng lợi của ta, một thất bại của địch. Đặc điểm thứ hai là giai đoạn mới bắt đầu chưa được một năm thì có sự biến chuyển của tình hình thế giới, sự nguy khốn của Pháp về kinh tế tài chính và nhất là những thắng lợi to lớn của cách mạng Trung Hoa. Ngay bây giờ, trong chiến lược cầm cự, nhiệm vụ tích cực chuẩn bị để chuyển sang tổng phản công cần được đề ra.

        Cần thực hiện phương châm chiến lược của giai đoạn mới một cách tích cực hơn, kịp thời hơn, với nhịp độ mạnh và nhanh hơn, chú trọng nhiệm vụ chuẩn bị tổng phản công để giành lấy thắng lợi cuối cùng.

        Sau báo cáo quân sự là bản Báo cáo kinh tế tài chính do anh Lê Văn Hiến trình bày. Bản báo cáo nêu rõ những việc đã làm được và những vấn đề cần tập trung giải quyết trong giai đoạn mới.

        Đánh mạnh hơn nữa vào hậu phương địch, đánh các vị trí chiến lược, cắt các đường giao thông lớn.

        Mở một số chiến dịch tiến công ở những hướng có tác dụng chiến lược quan trọng nơi địch yếu và có nhiều sơ hở, từ chủ động chiến dịch đi đến chủ động chiến lược từng bộ phận một cách mạnh bạo hơn.

        Tích cực giúp cách mạng Lào - Miên, mở rộng mặt trận Lào - Miên, thực hiện Việt - Lào - Miên là một chiến trường.

        Phương châm chính vẫn lấy du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phù trợ. Nhưng cần mạnh bạo đẩy vận động chiến đi tới và khi đủ điều kiện thì kịp thời nâng vận động chiến lên địa vị quan trọng để tiến sang giai đoạn phản công1.

        Sau Hội nghị cán bộ Trung ương, Bác triệu tập họp Hội đồng Chính phủ hai ngày vào cuối tháng 1.

        Các bộ trưởng, thứ trưởng đến đông đủ từ chiều hôm trước. Sáng 25, Bác đến hội ý với chúng tôi. Một giờ chiều bắt đầu họp. Với tư cách là Chủ tịch nước kiêm Thủ tướng Chính phủ, Bác báo cáo tình hình thế giới, trong nước và nhiệm vụ trong năm 1949.

        Buổi tối có đốt lửa trại và tổ chức lễ truy điệu đức cha Hồ Ngọc Cẩn, cố vấn của Chính phủ. Chủ đề đoàn kết dân tộc được nêu đi nêu lại nhiều lần.

        Ngày 26, các bộ lần lượt báo cáo sự hoạt động của mình trong năm 1948, đồng thời nêu các điểm chính trong chương tình hoạt động năm 1949. Nhiều vấn đề quan trọng đã được giải quyết.

        Tối 26 có một bữa tiệc nhỏ long trọng để tiễn phái đoàn Nam Bộ trở về, đồng thời cũng là bữa “ăn Tết” của Chính phủ. Bữa tiệc rất cảm động. Sau khi ăn xong, là tổ chức lửa trại, nhiều tiết mục văn nghệ được trình diễn. Màn kịch ngày kháng chiến thành công, Bác vào “thành phố Hồ Chí Minh” và nói chuyện trước máy phóng thanh chào mừng đồng bào Nam Bộ, mọi người cười nhiều, có lúc Bác cười đến chảy nước mắt.

        Hội đồng Chính phủ họp xong, Bác triệu tập Hội đồng Quốc phòng tối cao, họp trong một ngày. Hội đồng giải quyết nhiều vấn đề quan trọng liên quan tới những vấn đề bí mật quân sự. Buổi chiều Bác ra về. Chúng tôi tiếp tục làm việc đến gần tối mới xong.

        Để động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân hăng hái thực hiện nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương và nghị quyết Hội đồng Chính phủ, theo sáng kiến của Bác, đầu tháng 2, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc nhằm mục đích “tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công”.

        Ngày 30 tháng 4, nhân kỉ niệm ngày Lao động quốc tế, Bác viết bài “Nhiệm vụ chính trong giai đoạn mới”, nêu lên 10 nhiệm vụ thiết thực, cụ thể, cần làm về các mặt quân sự, chính trị,  kinh tế, văn hóa cho các giới binh, sĩ, nông, công, thương và cho toàn dân để đẩy mạnh cuộc cầm cự và tích cực chuẩn bị tổng phản công.

----------------
1. Sau này, vào năm 1951, khi tướng Đờ Tátxinhi xây dựng phòng tuyến boongke bao vây đồng bằng Bắc Bộ đã từng có đồng chí bạn có thẩm quyền đề nghị với Trung ương Đảng ta nên chuyển trở lại phương châm du kích vận động chiến; ta cân nhắc và kiên trì phương châm đã đề ra.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #87 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 05:25:46 pm »


3

        Trung tuần tháng 1, nhân danh Tổng chỉ huy kiêm Tổng chính ủy, tôi triệu tập Hội nghị cán bộ quân sự và chính trị cao cấp để phổ biến nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu, bàn sâu thêm nhiệm vụ quân sự, thảo luận kĩ phương châm chiến lược và kế hoạch tác chiến.

        Tôi trình bày kế hoạch quân sự năm 1949, nội dung chủ yếu của kế hoạch là nhằm hướng yếu nhất của địch và có tác dụng chiến lược lớn đối với ta, tập trung mở một số chiến dịch tiến công với mục đích tiêu diệt sinh lực địch, đánh tan các khối binh ngụy, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, giành chủ động chiến lược từng bộ phận.

        Ở chiến trường chính là Bắc Bộ, hướng tác chiến chủ yếu là Cao - Bắc - Lạng và Tây Bắc, hướng tác chiến tiếp theo là phá thế uy hiếp của địch sau lưng Liên khu 3 ở Hòa Bình.

        Ở Liên khu 5, hướng chủ yếu là Tây Nguyên, nhất là Bắc Tây Nguyên.

        Ở Nam Bộ, hướng chủ yếu là Long Châu Sa và sông Tiền, sông Hậu.

        Đối với Lào, Liên khu 10 có nhiệm vụ giúp bạn xây dựng và phát triển một số căn cứ du kích ở Bắc Lào, tiến tới lập khu giải phóng chính ở Bắc Lào, Liên khu 4 có nhiệm vụ giúp bạn xây dựng căn cứ ở Trung Lào. Liên khu 5 có nhiệm vụ giúp bạn phát triển cơ sở ở Hạ Lào, nhằm xây dựng căn cứ Bôlôven.

        Đối với Miên, Bộ tư lệnh Nam Bộ có nhiệm vụ tăng thêm cán bộ chính trị và lực lượng vũ trang vào nội địa, giúp bạn mở rộng cơ sở và căn cứ du kích, tiến tới nối liền căn cứ đông nam với đông bắc.

        Để thực hiện nhiệm vụ, chủ trương và kế hoạch tác chiến, tôi cho rằng vấn đề quan trọng nhất cần giải quyết hết sức khẩn trương là vấn đề xây dựng lực lượng, cấp bách nhất là xây dựng bộ đội chủ lực. Tôi hướng dẫn Bộ Tổng tham mưu tổ chức hội nghị xây dựng lực lượng do anh Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu truổng chủ trì, để nghiên cứu vấn đề tổ chức, biên chế trang bị đại đoàn chủ lực của Bộ và trung đoàn chủ lực của các liên khu.

        Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, mỗi liên khu có một trung đoàn chủ lực. Ở Nam Bộ, mỗi liên khu có một tiểu đoàn chủ lực. Căn cứ vào nhu cầu tác chiến và khả năng thực tế của ta lúc đó, mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh và một số đơn vị pháo binh, công binh, thông tin, vận tải. Mỗi tiểu đoàn có ba đại đội bộ binh và một đại đội trợ chiến.

        Đi đôi với việc xây dựng bộ đội chủ lực, việc xây dựng bộ đội địa phương và dân quân cũng được coi trọng. Theo đề nghị của Chúng tôi, Ban Thường vụ Trung ương ra chỉ thị xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân, gửi cho các cấp ủy địa phương và các cơ quan của Đảng. Bản chỉ thị nói rõ địa vị quan trọng của bộ đội địa phương và dân quân trong giai đoạn mới, nêu lên mấy khuyết điểm trong thời gian qua và chỉ rõ những việc cần làm trong thời gian trước mắt.

        Việc huấn luyện cán bộ và bộ đội có tầm quan trọng quyết định đến nâng cao trình độ chính trị, quân sự và khả năng tác chiến của các đơn vị. Tôi bàn với anh Hoàng Văn Thái và anh Văn Tiến Dũng xác định nội dung huấn luyện cho các đơn vị theo yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu.

        Về kĩ thuật, các đơn vị đều tập bắn súng, ném lựu đạn, đâm lê, đào công sự.

        Về chiến thuật, các đơn vị đánh vận động phải học đánh tập kích, phục kích, đánh quân nhảy dù. Các đơn vị vào hoạt động ở vùng sau lưng địch, phải học đánh du kích và kinh nghiệm chống càn. Các đơn vị đánh đồn phải học trinh sát chiến đấu, phá gỡ vật chướng ngại, đánh lo cốt vệ tinh và lô cốt mẹ, đánh địch phòng ngự bên trong.

        Việc học tập khởi nghĩa chiến đấu được đặc biệt coi trọng. Căn cứ vào kinh nghiệm chiến đấu của các đơn vị trên mặt trận Cao - Bắc - Lạng và mặt trận Tây Bắc, Bộ Tổng tham mưu biên soạn được một số tài liệu huấn luyện tương đối tốt, như “chiến thuật đánh vào bên trong một cứ điểm”, “kinh nghiệm sử dụng các loại vũ khí hợp đồng trong đánh đồn và đánh giao thông thủy bộ”.

        Bộ Tổng tham mưu tổ chức lớp học “Rèn cán, chỉnh quân” cho hơn hai trăm cán bộ cao cấp và trung cấp của các liên khu, các cơ quan và các trường ở Soi Mít thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Nội dung là học tập tình hình và nhiệm vụ, phương châm chiến lược, những vấn đề chiến thuật của tiểu đoàn và trung đoàn, kinh nghiệm các trận đánh và kinh nghiệm công tác chính trị. Tôi cùng anh Hoàng Văn Thái, anh Văn Tiến Dũng và một số đồng chí phụ trách trực tiếp giảng bài và chỉ đạo lớp học.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #88 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 05:30:34 pm »


4

        Căn cứ vào kế hoạch quân sự năm 1949, Bộ Tổng chỉ huy ra các mệnh lệnh, chỉ thị cho các liên khu và các mặt trận. Trong Xuân Hè, một số chiến dịch được mở ra trên các hướng.

        Ở Tây Bắc, Liên khu 10 mở hai đợt hoạt động ở sông Đà và Sơn La, dồn hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, mở rộng vùng tự do, nối Sơn La với Lai Châu và phát triển sang Bắc Lào.

        Ở Cao - Bắc - Lạng và Đông Bắc là hướng chính, Liên khu 1 mở hai chiến dịch, chiến dịch chính ở Cao - Bắc - Lạng, chiến dịch phối hợp ở Đông Bắc.

        Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng có nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch, làm tê liệt đường số 4, buộc địch phải rút khỏi Bắc Kạn.

        Chiến dịch phối hợp Đông Bắc có nhiệm vụ kiềm chế và đánh quân tiếp viện, nghi binh, đánh lạc hướng phán đoán của địch.

        Chiến dịch Đông Bắc nổ súng trước. Ta phục kích một đoàn xe địch ở Điền Xá, diệt và bắt sống hơn 100 tên, đánh chiếm vị trí Ba Sơn, uy hiếp thị xã Lạng Sơn, tập kích thị trấn Móng Cái, nhiều lính ngụy hoảng hốt bỏ chạy.

        Ở hướng chính Cao - Bắc - Lạng, đêm 15 tháng 3, ta tiến công tiêu diệt Bản Trại - một vị trí kiên cố do một đại đội Âu Phi chiếm đóng.

        Mấy năm nay, địch dùng hệ thống đồn bốt, cứ điểm để thực hiện nhiệm vụ chiếm đất và bình định, đồng thời cùng các đơn vị ứng chiến để chi viện, bảo vệ hệ thống chiếm đóng. Muốn đẩy mạnh kháng chiến, một nhiệm vụ cụ thể hết sức quan trọng đặt ra cho bộ đội chủ lực là phải tiêu diệt được cứ điểm có công sự phòng ngự vững chắc của địch. Năm 1948, ta đánh cứ điểm Phủ Thông có một đại đội lê dương và một trung đội trợ chiến, nhưng trận đánh chưa thành công. Năm nay, ta quyết tâm tiêu diệt dứt điểm Bản Trại. Trước trận đánh tôi chỉ thị cho đơn vị làm các công tác chuẩn bị thật tỉ mỉ, chu đáo và trực tiếp lên mặt trận kiểm tra công tác chuẩn bị và thông qua kế hoạch chiến đấu trên bàn cát. Khi chiến dịch kết thúc, tôi nghe tiểu đoàn trưởng Thái Dũng báo cáo cụ thể trận đánh.

        Trong trận Bản Trại, rút kinh nghiệm của các trận Phủ Thông, An Châu và một số trận khác, lần này các chiến sĩ lấy khăn tẩm dầu đặt ở hàng rào, đốt sáng soi rõ vị trí  cho pháo và các loại súng bắn vào mục tiêu. Pháo đặt rất gần, pháo thủ ngắm bắn từng lỗ châu mai, khiến cho quân địch không thể ngóc đầu lên trong lúc chiến sĩ xung kích xông lên vượt qua cửa mở. Trận Bản Trại diễn ra trong 37 phút. Toàn bộ quân địch bị tiêu diệt.

        Vị trí Bản Trại bị diệt, cầu Bản Trại bị phá, đường số 4 bị cắt đứt.

        Cùng thời gian này, ta tiến công đánh chiếm mấy vị trí nữa và buộc địch rút mấy ví trị khác.

        Cuối tháng 4, ta đánh trận phục kích Bông Lau - Lũng Phầy trên đường số 4 và giành thắng lợi lớn. Sau chiến dịch, tôi nghe đồng chí chỉ huy trực tiếp báo cáo cụ thể. Nắm vững quy luật vận chuyển của địch, cứ 5 ngày một đoàn xe hơn 100 chiếc lại xuất phát từ Lạng Sơn đi Cao Bằng, quân ta tổ chức một trận địa phục kích trên đoạn đường giữa đồn Bông Lau và đồn Lũng Phầy. Khi đoàn xe hơn 100 chiếc lọt vào trận địa, bộ đội đồng loạt xung phong đánh giáp lá cà; một bộ phận pháo binh bắn kiềm chế các vị trí xung quanh, yểm hộ cho bộ đội đánh đoàn xe. Bị đánh bất ngờ, địch hốt hoảng vừa chống đỡ, vừa bỏ chạy. Hơn 500 quân địch phần lớn là Âu Phí bị chết, bị thương và bị bắt. Ta phá hơn năm chục xe và 500 thùng xăng, thu hàng trăm súng.

        Sau đó ta diệt đồn Phản Phát trên đường Cao Bằng đi Trà Lĩnh. Địch phải rút bỏ hai vị trí Phò Mã, Phò Pheo.

        Đường số 4 trở thành “con đường không vui”, “con đường máu” và sau này là “con đường chết’ đối với địch.

        Đường số 4 - con đường vận chuyển tiếp tế duy nhất có tầm quan trọng chiến lược của địch ở Đông Bắc bị tê liệt. Địch phải luôn luôn thay đổi quy luật vận chuyển, tăng cường tuần tra lùng sục những nơi hiểm yếu, bảo vệ cầu cống, củng cố các vị trí hai bên đường. Nhưng đêm cũng như ngày, không đoàn xe nào của địch không bị tổn thất. Trung đoàn bộ binh thuộc địa Marốc có nhiệm vụ chuyên lo ứng cứu trên con đường nguy hiểm này, bị thiệt hại nặng. Binh sĩ nói một cách mỉa mai: RICM (régiment de l’infanteric coloniale marocaine), trung đoàn bộ binh thuộc địa Marốc là “trung đoàn những người vô tội bị kết án tử hình” (Regiment des Innocents Condamnés à Mort).

        Trong chiến dịch này, trình độ đánh cứ điểm có công sự vững chắc của bộ đội đã tiến bộ rõ rêt. Các trận đánh phục kích giao thông giành thắng lợi liên tiếp. Địch lo sợ thay đổi viên chỉ huy liên khu biên thùy. Tướng Alétxăngđơri, tư lệnh lục quân Đông Dương rồi tướng Cốc, tư lệnh Bắc Bộ hối hả từ Hà Nội bay lên thị sát chiến trường, tìm cách chống đỡ.

        Cuối tháng 2 có cuộc họp Đảng đoàn Chính phủ.

        Bác đến từ chiều 28, hội ý với chúng tôi.

        Sáng ngày 1 tháng 3, các ủy viên đến gần đủ. Để tranh thủ thời gian, Bác đề nghị họp ngay vì có nhiều

        công việc cấp bách. Sau khi xem chương trình nghị sự, Bác thấy cần bàn trước hết vấn đề đối phó với việc Pháp đưa Vĩnh Thụy (tức Bảo Đại) về nướcvà tuyên truyền rầm rộ đánh lừa dân chúng. Để tỏ thái độ cương quyết của ta, đồng thời cũng để cho dân không mắc lừa, Bác cùng chúng tôi thảo ngay một tài liệu giải thích.

        Đảng đoàn họp hơn hai ngày hai đêm để giải quyết các vấn đề chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính.

        Làm việc hết sáng mồng 3 mới hoàn tất chương trình. Văn phòng đánh máy tài liệu giải thích vấn đề Vĩnh Thụy gửi cho tất cả các cơ quan. Bản giải thích cô đọng và đầy đủ.

        Nội dung như sau:

        Ta: càng kháng chiến lâu dài, lực lượng của ta càng mạnh. Sự đoàn kết dân tộc ngày càng chặt chẽ.

        Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp thất bại. Âm mưu Mỹ giúp Pháp cũng thất bại.

        Trung Quốc: cách mạng thắng lợi, phe dân chủ thế giới thêm mạnh, thuận lợi cho kháng chiến của ta.

        Ta không ỷ lại. Từ trước đến nay, tự sức ta, ta đánh, ta thắng. Để giành thắng lợi cuối cùng, vẫn do lực lượng của dân ta quyết định.

        Mỹ: giúp phản động đánh dân chủ. Kết quả: ở châu Âu, phản động Hy Lạp thất bại, nhân dân Hy Lạp thắng lợi; ở châu Á, quân Tưởng đại bại, Quân giải phóng đại thắng.

        Pháp: về quân sự, đánh đã mấy năm vẫn loay hoay trong mấy thành phố. Về chính trị, mưu mô chia rẽ hoàn toàn thất bại. Thinh tự tử, Hoạch chuồn, Xuân ngắc ngoải. Vĩnh Thụy là con bài cuối cùng.

        Vĩnh Thụy: 20 năm làm bù nhìn cho Pháp rồi cho Nhật. Bay giờ được Pháp nuôi, Pháp đưa về nước, Pháp bảo vệ. Vĩnh thụy đem hai tiếng “độc lập, thống nhất” giả hiệu về lừa dân ta.

        Quân sự dưới quyền Pháp. Ngoại giao bị Pháp hạn chế và chỉ huy. Kinh tế tài chính phụ thuộc vào Pháp. Vĩnh Thụy đã phản quốc, phản dân.

        Quân Pháp vẫn giày xéo đất nước ta, cướp giết đồng bào ta. Pháp vẫn muốn bắt dân ta làm nô lệ.

        Kết luận: dân ta quyết không bị lừa. Quyết đánh và quyết thắng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #89 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 05:35:50 pm »

       
5

        Đầu tháng 4, chấp hành nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh chuẩn bị chiến dịch Sông Thao ở Tây Bắc là nơi địch yếu và có nhiều sơ hở1.

        Mục đích của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng căn cứ địa Tây Bắc, phá thế uy hiếp đối với Việt Bắc từ phía Tây, củng cố bàn đạp tiến sang Thượng Lào.

        Thi hành lệnh của Bộ, các đơn vị đang chuẩn bị cuộc tiến công giải phóng Bắc Kạn và đang chiến đấu trên đường số 4, khẩn trương hành quân lên Tây Bắc.

        Giữa lúc đó, Bộ chỉ huy Pháp mở cuộc hành quân lên Phú Thọ rồi lên Tuyên Quang. Hành động này của địch nằm trong dự kiến của ta. Mục đích của địch là quấy rối hậu phương ta, thu hút chủ lực ta về, gây thanh thế trước việc tướng Rơve sang thanh tra và việc Vĩnh Thụy về nước.

        Lúc này, trong cơ quan Bộ Tổng tư lệnh có hai ý kiến: Ý kiến thứ nhất đề nghị nên tiếp tục cho bộ đội lên Tây Bắc tiến hành chiến dịch Sông Thao. Ý kiến thứ hai đề nghị nên cho bộ đội quay trở về đánh địch ở Tuyên Quang. Tôi và các đồng chí phụ trách cân nhắc, đồng ý với ý kiến thứ nhất. Chúng tôi cho rằng dù địch lên Tuyên Quang với mục đích gì, tình thế cũng không cho phép địch đóng quân lâu ở Tuyên Quang. Rõ ràng là mặt trận đướng số 4 đã tạo nên sức ép quá nặng đối với địch. Rồi đây, phòng tuyến Sông Thao bị đánh, nhất định chúng sẽ càng lúng túng hơn. Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho bộ đội tăng tốc độ hành quân lên Tây Bắc, mở chiến dịch Sông Thao theo kế hoạch đã định.

        Mặt khác, tôi cho rằng địch hành quân lên Tuyên Quang là tạo cơ hội cho ta đánh địch ngoài công sự, nên quyết định thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch Sông Lô. Anh Bằng Giang được cử làm chỉ huy trưởng, anh Vương Thừa Vũ và anh Lâm Kính là chỉ huy phó. Chúng tôi khẩn trương điều động 6 tiểu đoàn chủ lực của Bộ và 3 tiểu đoàn của Liên khu 10 tham gia chiến dịch.

        Bộ Tổng tư lệnh chủ trương tập trung chủ lực tiêu diệt địch. Biện pháp là triệt tiếp tế bằng đường bộ, đường thủy, đường không; phát triển mạnh mẽ chiến tranh du kích, chủ lực sẵn sàng vận động kịp thời và tập trung binh lực tiêu diệt địch khi chúng rút lui.

        Đúng như ta dự đoán, địch chỉ ở thị xã Tuyên Quang được ba tuần. Tiếng súng chiến thắng 19 tháng 5 của quân ta trên mặt trận Sông Thao đã buộc địch phải vội vã rút quân. Trận truy kích diễn ra trên hai bờ sông Lô, nhất là bên hữu ngạn. Có đơn vị đuổi kịp và đánh tốt ở Tràng Sảo, Lệ Mỹ, Tiên Du, Núi Hét.

        Trong trận này, Bộ Tổng tư lệnh đã phán đoán đúng, hạ quyết tâm chính xác, tác phong chỉ huy khẩn trương, nhưng việc chỉ huy gặp nhiều khó khăn, chủ yếu vì thiếu phương tiện thông tin vô tuyến để điều quân, nên “trận đánh quyết định” đã không diễn ra.

        Qua trận này, tôi thấy rõ từ đánh vận động quy mô nhỏ tiến lên tập trung đánh vận động quy mô lớn, chúng ta còn phải giải quyết nhiều vấn đề về tổ chức, trang bị và chỉ huy.

        Khi chiến dịch Sông Lô còn đang chuẩn bị thì chiến dịch Sông Thao đã bắt đầu. Trong chiến dịch Sông Thao, anh Lê Trọng Tấn được cử làm chỉ huy trưởng, anh Cao Văn Khánh làm chỉ huy phó.

        Ngày 19 tháng 5, hai tiểu đoàn của ta đồng thời tiến công tiêu diệt hai cứ điểm Đại Bục, Đại Phác, lập chiến công xuất sắc mừng ngày sinh của Bác.

        Địch vội vã điều quân từ Lào Cai, Phong Thổ đến đối phó.

        Cuối tháng 6, ta tiến công tiêu diệt cứ điểm chỉ huy phân khu Phố Ràng, và một số vị trí ở tả ngạn sông Thao. Phòng tuyến sông Thao bị phá vỡ một quãng dài 30 kilômét từ Bảo Hà đến Bắc Cuông. Đường liên lạc của địch giữa Bảo Hà với Lào Cai, giữa Bảo Hà với Nghĩa Đô bị cắt đứt.

        Giữa tháng 7 ta tiến công tiêu diệt đồn Dóm và buộc địch rút bỏ một số vị trí khác. Phòng tuyến Sông Thao bị vỡ thêm một mảng lớn từ Ba Khe đến Bảo Hà dài 70 kilômét.

        Chiến dịch Sông Thao kết thúc thắng lợi. Ta tiêu diệt và bức rút gần 30 vị trí. Tuyến phòng thủ Sông Thao bị phá vỡ từng mảng lớn. Cơ sở chính trị và vũ trang của ta trong vùng địch tạm chiếm được mở rộng. Trong chiến dịch này, bộ đội chủ lực tiến bộ vượt bức về chiến thuật đánh cứ điểm. Lần đầu tiên, ta tiêu diệt hoàn toàn một tiểu khu của địch gồm nhiều vị trí lớn, nhỏ, có công sự phòng ngự tương đối vững chắc.

        Sau khi chiến dịch kết thúc, tôi nghe các đồng chí chỉ huy trực tiếp báo cáo các trận Đại Bục, Đại Phác, Phố Ràng.

        Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng báo cáo trận Đại Bục. Địch có một đại đội bố trí trên hai mỏm đồi. 16 giờ 30 ta nổ súng. Pháo binh ngắm bắn trực tiếp. Súng phóng bom lần đầu ra trận. Một đám lửa phụt lên đỏ rực cả cứ điểm, tiếp theo là một tiếng nổ lớn. Nhiều ngôi nhà trong cứ điểm bùng cháy. Anh Phốc Kê, một chiến sĩ người Đức bật dậy, giơ cao hai tay hô lớn: ‘Việt Nam, Việt Nam muôn năm!”. Trong trận này, đơn vị mang theo một chiếc trống. Tiểu đoàn trưởng hạ lệnh nổi trống cho bộ đội xung phong. Nhà văn Nguyễn Tuân cùng ra trận với đơn vị, đứng cạnh tiểu đoàn trưởng, vội giành lấy dùi để đánh trống. Các chiến sĩ đi chân đất, cầm mác, đạp qua lớp rào lông nhím đang cháy, xông vào cứ điểm, cái đồng đã được viên sĩ quan chỉ huy treo ở cổng chính một tấm biển đề mấy chứ tiếng Pháp “Villa des rosé” (Biệt thự hoa hồng”. Ba mươi phút sau, quân ta tiêu diệt hoàn toàn Đại Bục.

        Tiểu đoàn trưởng Vũ yên báo cáo trận Đại Phác. Vị trí này là sở chỉ huy tiểu khu, quân số đông hơn Đại Bục. Tiểu đoàn trưởng quyết định không chờ pháo, ra lệnh cho súng cối bắn vào đồn và dùng mọi hỏa lực bắn thẳng bịt các lỗ châu mai, yểm hộ cho bộ đội bắc thang vượt qua lớp rào lông nhím để xung phong. Từ các lô cốt, ụ súng chưa bị phá, quân địch bắn ra dữ dội. Rút kinh nghiệm trận Phủ Thông, lần này cùng đi với các chiến sĩ xung kích cầm mác vào đồn, có cả những chiến sĩ mang tiểu liên, súng trường, badôca. Các hỏa điểm trong đồn lần lượt bị dập tắt. Bộ đội ta xung phong tiêu diệt các ổ đề kháng. Đại Phác bị tiêu diệt sau một giờ chiến đấu.

        Đồng chí Vũ Yên và đồng chí Vũ Lăng báo cáo trận Phố Ràng. Trận đánh diễn ra quyết liệt suốt 40 giờ. Quân địch dựa vào địa hình phức tạp, chống cự rất ngoan cố. Náu mình dưới công sự vững chắc, chúng dựng những khẩu súng cối gần như thẳng đứng bắn chiến sĩ ta đã đột nhập vào đồn. Cuối cùng, tiểu đoàn 11 và tiểu đoàn 54 cùng phối hợp chiến đấu vẫn tiêu diệt hoàn toàn quân địch.

---------------
1. Bộ Tổng chỉ huy đổi tên thành Bộ Tổng tư lệnh theo Sắc lệnh số 14/SL, ngày 12 tháng 3 năm 1949 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM