Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 12:04:16 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII  (Đọc 27155 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #40 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2016, 06:47:59 am »


        Trong thời kỳ chuẩn bị đó, bài hịch tì tướng của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã có tác dụng cổ vũ tinh thần tướng sĩ rất mạnh mẽ. Như ngọn gió mạnh, bài hịch đã làm bốc cháy trong lòng tướng sĩ ngọn lửa căm thù giặc và như tiếng trống trận, bài hịch đã giục giã họ xông lên đem thân đền nợ nước. Lịch sử và văn học dân tộc đời đời ghi lại kiệt tác đó. Cho đến nay, chúng ta vẫn còn như nghe rõ những lời kêu gọi tha thiết, sôi nổi, tràn đầy hùng khí của gần bảy trăm năm về trước:

        “Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế1. Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu vương2; Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ3; Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước4; Kính Đức, một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung5; Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc6. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được?.

        Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước, hẵng tạm không bàn, nay ta lấy chuyện Tống Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào? Tỳ tướng của ông là Nguyễn Văn Lập lại là người thế nào? Mà lấy thành Điếu Ngư7 nhỏ như cái đấu, chông quân Mông-kha đông hàng trăm vạn, khiến cho sinh linh bên Tống, đến nay còn đội ơn sâu! Cốt Đãi Ngột Lang8 là người thế nào? Tỳ tướng của ông là Cân Tu Tư9 lại là người thế nào? Mà xông vào lam chướng trên đường muôn dặm, đánh quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!

        Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời rối ren, lớn gặp buổi khó nhọc, ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình, đem tấm thân dê chó mà bắt nạt tể phụ. Thác mệnh Hốt Tất Liệt10 mà đòi ngọc lụa, đế thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam vương11 mà thu bạc vàng, đế vét của kho có hạn. Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, giữ sao cho khỏi tai vạ về sau!

        Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gốí, nước mắt đầm đìa, ruột đau như cắt, chỉ giận không được ăn thịt nằm da nuốt gan uống máu quân thù, tuy trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa cũng nguyện xin làm.

        Các ngươi ở lâu môn hạ, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan thấp thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổn; đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà thì cùng nhau vui cười, so với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?

        Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường đãi yến ngụy sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát tràn sang, thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh, vườn ruộng giàu không chuộc được tấm thân ngàn vàng, vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc; tiền của dẫu nhiều khôn mua được đầu giặc, chó săn tuy khỏe khôn đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, chủ tôi nhà ta cùng bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng về tay kẻ khác, chẳng những gia quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị bắt đi; chẳng nhũng thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muôn vui chơi phỏng có được không?

        Nay ta bảo thật các ngươi: nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào dưới đống củi” 12 làm nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” 13 làm răn sợ, huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ14, có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam vương ở Cảo Nhai15. Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ; chẳng những gia quyến ta được yên ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng bách niên gia lão; chẳng những tông miếu của ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thở cúng quanh năm; chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các ngươi trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền; chẳng những thụy hiệu ta không bị mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu thơm. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi phỏng có được không?

        Nay ta chọn binh pháp các nhà hợp làm một quyển gọi là “Binh thư yếu lược”. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là tôi chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo, thì trọn đời là nghịch thù.

        Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây sau khi dẹp yên quân giặc16, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa? Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi biết rõ lòng ta17
".

        Bài hịch đã xoáy vào những nỗi uất ức căm thù của tướng sĩ trong bao nhiêu năm và phấn khích tinh thần chiến đấu của họ. Họ hoàn toàn không phải là những người “tướng triều đình hầu quân giặc mà không biết tức”, “điềm nhiên không muốn rửa nhục”. Đã đến lúc họ trả lời cho chủ tướng rằng họ quyết không “quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc”. Tinh thần quyết chiến được bài hịch khích lệ đã từ các tướng sĩ truyền đến toàn quân18. Quân sĩ bừng bừng dũng khí, không một người lính nào không thấy vinh dự được hy sinh cứu nước. “Vì lòng trung, vì căm giận” 19, các chiến sĩ đã tự động thích vào cánh tay hai chữ “Sát Thát” (giết giặc Mông Cổ!) để nói lên quyết tâm của mình.

-------------
1.    Hán Cao Tổ bị Hạng Vũ vây, Kỷ Tín giả làm Cao Tổ ra hàng. Cao Tổ trốn thoát, còn Kỷ Tín bị thiêu chết.

2.   Theo Tả truyện, Sở Chiêu vương đời Xuân Thu lúc lánh nạn bị kẻ cướp đâm, Do Vu đã chìa lưng ra che cho Chiêu vương.

3.   Trí Bá (đời Chiến Quốc) bị Triệu Tương Tử giết, gia thần Trí Bá là Dự Nhượng đã nuốt than cho khác giọng, giả làm hành khất mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ.

4.   Thân Khoái là viên quan giữ ao cá của Tề Trang công, khi Trang công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái đã chết theo.

5.   Kính Đức tức Uất Trì Cung đời Đường, đã lấy mình che chở, hộ vệ cho Đường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần vương) thoát khỏi vòng vây của Vương Thế Sung.

6.   Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Đường Huyền Tông, Nhan Cảo Khanh đã chửi mắng Lộc Sơn, bị Lộc Sơn cắt lưỡi.

7.   Vương Công Kiên, tức Vương Kiên, tướng Tống giữ Hợp Châu (Tứ Xuyên), đã huy động quân dân anh dũng chiến đấu ở núi Điếu Ngư, cầm cự với đạo quân Mông Cổ trong 4 tháng trời, cho đến khi Mông-ke chết, quân Mông Cổ phải rút lui (xem chương IV).

8.   Tức U-ry-ang-kha-đai (Uriyangqadai) (xem chương III).

9.   Bản Toàn thư (q.6, 12a) chép là Cân Tu Tư, bản Hoàng Việt văn tuyển chép là Xích Tu Tư (chữ cân và chữ xích gần giống nhau). Chúng tôi không có tài liệu nào về tên tướng Mông Cổ này và cũng không thể khôi phục lại tên Mông Cổ.

10.   Tức Khu-bi-lai (Qubilai).

11.   Tức Hu-ghê-tri (Hügäči), Hốt Kha Xích), con Hất Tất Liệt đóng ở Vân Nam (xem chương IV).

12.   Lấy ở câu trong Hán thư, “ôm mồi lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên”.

13.   Câu ở Sở từ, “kẻ sợ canh nóng thường thổi cả rau nguội”.

14.   Bàng Mông và Hậu Nghệ là hai nhân vật bắn cung giỏi trong thần thoại Trung Quốc.

15.   Nơi trú ngu của các vua “man di” khi vào chầu vua Hán ở Trường An.

16.   Nguyên văn là “Bình lỗ chi hậu”, nhiều bản dịch là “sau trận Bình Lỗ”. Trần Quốc Tuấn có nói rằng đời Đinh - Lê đắp thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống (Toàn thư, q.6, 5a). Ngô Tất Tố dịch là “sau khi dẹp yên quân giặc”. Chúng tôi không rõ là Quốc Tuấn nói theo ý nào và nếu là trận Bình Lỗ, thì là chỉ trận nào…

17.   Dựa vào bản dịch của Bùi Văn Nguyên trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X - thế kỷ XVII, Nhà xuất bản Văn hóa, 1962, t.91 - t.93 và bản dịch của Chu Thiên trong Chống quân Nguyên, Xây dựng, 1957, t112-116.

18.   Chúng ta không biết được bài hịch của Trần Quốc Tuấn được soạn vào lúc nào. Các thư tịch cũ không ghi rõ ngày tháng soạn hịch. Nhưng dựa vào những căn cứ sau đây chúng tôi cho rằng Trần Quốc Tuấn đã soạn bài hịch vào thời kỳ chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lần thứ hai. Bài hịch đã khêu gợi lòng căm thù giặc bằng cách nhắc đến cảnh sứ giặc nghênh ngang, uốn lưỡi, đòi ngọc lụa, vét bạc vàng, đến việc “tướng triều đình phải hầu quân giặc”, “nhạc thái thường đãi yến ngụy sứ”, mà tuyệt nhiên không nói gì đến những cảnh đau thương tang tóc do tội ác của kẻ thù gây ra trong chiến tranh lần thứ hai. Trong bài hịch lại nói đến các sứ giặc “giả hiệu Vân Nam vương”. Chúng ta biết rằng Vân Nam vương Hu-ghê-tri (Hügäči) được Hốt Tất Liệt giao cho phụ trách việc xâm lược các nước phương Nam từ năm 1267. Từ năm 1283, người phụ trách việc này là A-ric Kha-y-a. Sau chiến tranh lần thứ hai. Đại Việt không phải cống nạp qua con đường Vân Nam nữa. Do những lý do trên, bài hịch chỉ có thể được viết vào trước chiến tranh lẩn thứ hai.

19.   Toàn thư q.5, t.46a.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #41 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2016, 06:57:59 am »


        Nhưng tinh thần quyết tâm chống giặc nếu chỉ hạn chế trọng những người lãnh đạo, trong vương hầu bách quan, trong tướng lĩnh và chiến sĩ thì hoàn toàn chưa đủ. Muốn chiến thắng được đội quân khổng lồ và thiện chiến của Thoát Hoan và A-ric Kha-y-a, cần có sự tham gia chống giặc của toàn thể nhân dân. Vương triều Trần đã nhận thức được vai trò của nhân dân qua cuộc kháng chiến lần thứ nhất năm 1258. Cho đến nay, trước một cuộc chiến tranh mới, vương triều Trần đã tìm đến sự ủng hộ của nhân dân.

        Vào tháng chạp năm Giáp Thân niên hiệu Thiệu Bảo thứ 6 (7/1 – 5/2/1285), Thượng hoàng Thánh Tông đã triệu tập phụ lão trong nước về kinh đô Thăng Long, đặt tiệc ở thềm điện Diên Hồng, hỏi kế đánh giặc. Trả lời cho câu hỏi của vua Trần là nên đánh hay không, các phụ lão đã đồng thanh hô “Đánh!”, “vạn người cùng nói như từ một miệng” 1.

        Tiếng hô “Đánh” của các phụ lão ở điện Diên Hồng biểu lộ tinh thần quyết chiến của toàn dân. Những bậc phụ lão, những người đại biểu có uy tín của nhân dân đã nói lên được tiếng nói của cả dân tộc. Hội nghị Diên Hồng là một cuộc họp mặt đại biểu rộng rãi của toàn dân tộc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các bô lão đã mang tới vua Trần câu trả lời quyết chiến của nhân dân ở các lộ trong cả nước, và cũng mang từ Thăng Long về khắp nơi cái không khí quyết tâm chống giặc giữ nước của hội nghị Diên Hồng, của kinh thành, của triều đình, truyền cho con cháu, cho nhân dân địa phương mình, cổ vũ mọi người tham gia kháng chiến. Sau khi chép bằng những câu ngắn nhưng mạnh về cuộc hội nghị lịch sử ở điện Diên Hồng, nhà sử học Ngô Sĩ Liên cũng đã nói: “Đó là Thánh Tông muốn xem sự ái hộ thành thật của hạ dân và muốn cho họ nghe dụ hỏi mà cảm kích phấn phát lên” 2”. Đúng là qua hội nghị Diên Hồng, triều đình Trần đã thấy rằng chủ trương kháng chiến được nhân dân ủng hộ và cũng qua hội nghị đó, lòng yêu nước của nhân dân được khích lệ.

        Chính với lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân cả nước đã thực hiện những mệnh lệnh chuẩn bị kháng chiến của triều đình. Ở khắp các lộ, người ta thấy những bảng treo với dòng chữ: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng3.

        Trong khi nhân dân các lộ quyết tâm chiến đấu đến cùng và chuẩn bị kế hoạch vườn không nhà trống như vậy, thì triều đình cũng gấp rút thực hiện kế hoạch phòng thủ chu đáo. Ngay sau hội nghị quân sự Bình Than, quân đội của triều đình đã tiến đến trấn giữ các nơi hiểm yếu. Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, viên dũng tướng đã có những ý kiến về kế hoạch đánh phòng hợp ý vua trong hội nghị vương hầu, được cử làm Phó đô tướng quân4. Sau đó, vua Trần lại trao chức Thượng tướng thái sư cho Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, một vị tướng tài, con của Thái Tông5. Từ tháng 10 năm Thiệu Bảo 5 (20/10 – 20/11/1283), vua Trần đích thân chỉ huy các vương hầu điều quân thủy bộ ra tập trận6. Đây là một dịp biểu dương lực lượng, rèn luyện quân tướng và lựa chọn nhân tài. Trước khi tham gia cuộc đại tập này, hẳn vương hầu tướng lĩnh đã ngày đêm đốc thúc binh sĩ trau dồi kỹ thuật chiến đấu. Vào dịp này, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn được phong làm Quốc công tiết chế thống lĩnh tất cả các lực lượng quân sự trong nước7. Đồng thời nhà vua cũng sai chọn những người có tài năng quân sự trong các quân hiệu để chỉ huy các đội ngũ8. Đến tháng 8 năm Thiệu Bảo 6 (11/9 – 9/10/1284), Quốc công Hưng Đạo vương lại điều động tất cả các vương hầu đem quân đến Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng, mé trên cầu Long Biên, gần dốc Hàng Than ngày nay), tổ chức một cuộc tổng duyệt binh rất lớn ở ngay Thăng Long. Sau đó, chia quân đóng giữ Bình Than (Lục Đầu ngày nay) và tất cả các nơi xung yếu9. Hưng Đạo vương đã đem đại bộ phận quân thủy bộ chủ lực lên trấn giữ vùng Lạng Sơn. Quân của điện tiền Phạm Ngũ Lão10 và các tướng khác đóng ở các cửa ải quan trọng suốt từ biên giới cho đến Chi Lăng. Quản quân Nguyễn Lộc đóng quân ở châu Thất Nguyên (nay là huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn) 11. Bản doanh của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đóng ở ải Nội Bàng12. Để ngăn giặc theo con đường tây bắc từ Vân Nam xuống. Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật được lệnh trấn giữ Tuyên Quang13 và Hoài Thượng hầu Trần Văn Lộng giữ vùng Tam Đái14.

        Xem cách phòng thủ, chúng ta thấy rằng lúc đầu, nhà Trần cũng như Trần Quốc Tuấn vẫn muốn dồn lực lượng ra ngăn chặn quân giặc, bảo vệ kinh đô.

---------------
1.    Toàn thư q.5, t.44a.

2.   Toàn thư q.5, t.44b.

3.   Nguyên sử q.209, t.7b.

4.   Toàn thư q.5, t.42a.

5.   Toàn thư q.5, t.43a.

6.   Toàn thư q.5, t.43b.

7.   Toàn thư q.5, t.43b. Theo Toàn thư, thời Trần, thân vương tướng quốc thì gọi là quốc công (q.6, t.17a).

8.   Toàn thư q.5, t.43b.

9.   Toàn thư q.5, t.44a.

10.   Nguyên sử q.209 An Nam truyện t.6a chép: “Điện tiền An Nam là Phạm Hải Nhai đem quân đóng ở các xứ Khả Lan Vi, Đại Trợ (?)”. Chức Điện tiền bấy giờ là Phạm Ngũ Lão, chúng tôi cho rằng An Nam truyện đã chép nhầm tên của ông.

11.   Xem Nguyên sử - An Nam truyện và An Nam chí lược. ải Chi Lăng ở gần ga Chi Lăng, huyện Ôn Châu, tỉnh Lạng Sơn ngày nay.

12.   Vào khoảng Chũ (Bắc Giang), vùng xã Bình Nội. Theo Đào Duy Anh: Tìm các đèo Khâu Cấp và Nội Bàng trên đường dụng binh của Trần Hưng Đạo, Nghiên cứu lịch sử số 66, tháng 9 năm 1964, t.38.

13.   Xem Toàn thư q.7, t.3b.

14.   An Nam chí lược q.13. Lộ Tam Đái thời Trần gồm miền đất các huyện Phù Ninh, huyện Lập Thạch, huyện Vĩnh Tường, huyện Yên Lạc, huyện Yên Lãng (tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay). Toàn thư q.5, t.47b chép tước của Trần Lộng là Văn Chiêu hầu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #42 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2016, 07:04:54 am »


        Như vậy là về mọi mặt tinh thần và vật chất, vương triều Trần cũng như toàn quân, toàn dân đã chuẩn bị sẵn sàng để đón đợi cuộc tấn công xâm lược của đế quốc Nguyên Mông. Chiến tranh đã sắp nổ ra, nhưng trong những ngày hòa bình cuối cùng, vương triều Trần vẫn tiếp tục thi hành chính sách ngoại giao mềm dẻo. Cần phải trì hoãn và tranh thủ thời gian, dầu là hàng ngày hàng giờ, để chuẩn bị và củng cố thêm lực lượng.

        Tháng 7 năm 1284, vua Trần đã sai trung đại phu Trần Khiêm Phủ sang hành tỉnh Kinh Hồ xin hoãn binh1. Tháng 8 năm 1284, sứ bộ Đoàn Án, Lê Quý (hay Lê Anh?) lại sang Nguyên. Bấy giờ đội quân viễn chinh của Thoát Hoan đã lên đường. Cũng trong tháng 8, vua Trần lại sai trung đại phu Nguyễn Đạo Học đi sứ Nguyên2. Thoát Hoan sai lý vấn quan Quy Lê (Külä) 3 và tuyên sứ Ta-khai Xa-ric (Taqai- Sarïq) 4 đi với Nguyễn Đạo Học sang Đại Việt, đưa thư của A-ric Kha-y-a trách hỏi vua Trần, buộc phải chở lương thực đến Chiêm Thành cho quân Nguyên và phải lên đón Trấn Nam vương Thoát Hoan5.

        Đạo quân của Thoát Hoan tiến đến huyện Hành Sơn (huyện Hành Sơn, tỉnh Hồ Nam) thì được tin Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã đem quân án ngự ở biên giới. Quy Lê và Ta-khai Xa-ric trở về cùng với các sứ Đại Việt là trung lượng đại phu Trần Đức Quân và triều tán lang Trần Tự Tông, mang theo bức thư của vua Trần Thánh Tông từ chối việc mượn đường: “Từ nước tôi đến Chiêm Thành, đường thủy đường bộ đều không tiện” 6.

        Tháng 11 năm 1284, quân Thoát Hoan tiến đến Vĩnh Châu (huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam) 7. Trần Thánh Tông đưa thư nói “đồ cống định thu vào tháng 10 (9/11 – 7/12/1284), xin sửa soạn đinh lực trước”. A-ric Kha-y-a sai vạn hộ Triệu Tu Kỷ viết thư cho vua Trần, đòi phải “mở đường, sửa soạn lương, thân đến đón Trấn Nam vương” 8. Thoát Hoan đến Ung Châu (Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây) thì được tin tướng Trần là Phạm Ngũ Lão đóng giữ ở các địa điểm Khả Lan Vi, Đại Trợ chưa rõ ở đâu) 9. Đến châu Tư Mình (huyện Ninh Minh, Quảng Tây), Thoát Hoan lại gửi thư cho vua Trần10. Cho đến lúc đạo quân của Thoát Hoan đã tiến đến Lộc Châu (nay là huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn), trên các ải biên giới, quân Trần đã cầm vũ khí hướng về phía kẻ thù, Trần Thánh Tông vẫn sai thiện trung đại phu Nguyễn Đức Dư và triều thỉnh lang Nguyễn Văn Hàn đem thư đến Thoát Hoan, yêu cầu lui quân. Trong thư nhắc đến tờ chiếu của Hốt Tất Liệt năm 1261: “Trước đây, được vâng thánh chiếu nói rằng: “Sắc riêng cho quân ta không vào bờ cõi nhà ngươi”, thế mà nay thấy ở Ung Châu doanh trại cầu đường nối nhau san sát…”. Đồng thời vua Trần cũng đưa thư cho A-ric Kha-y-a11. Bọn kẻ cướp đã giữ Nguyễn Văn Hàn lại, sai viên tổng bả A Ly (‘Ali) 12 đi cùng Nguyễn Đức Dư, mang thư đến vua Trần với những lời lừa bịp xảo trá: “Sở dĩ dấy quân là vì Chiêm Thành, không phải vì An Nam” 13.

        Kẻ thù đã tiến vào bờ cõi, chiến tranh không trì hoãn được nữa.

----------------
1.    Nguyên sử q.13 Bản kỷ t.3a chép: “Ngày Giáp Thìn tháng 5 nhuận [Chí Nguyên 21] (11-7-1284), quốc vương An Nam là thế tử Trần Nhật Huyên (tức Thánh Tông - T.G.) sai trung đại phu Trần Khiêm Phủ cống các vật như chén ngọc, bình vàng, chuỗi châu, lĩnh vàng và vượn trắng, chim cưu xanh, vải vóc”. An Nam chí lược q.14 chép: “Thế tử sợ, sai đại phu Trần Khiêm Phủ, Trần Quân đến hành tỉnh Kinh Hồ - Chiêm Thành xin hoãn binh, không cho”. Toàn thư q.5, 44a lại chép: “Tháng 11 [Thiệu Bảo 6] (8-12-1284 - 6-l-1285) sai Trần Phủ sang hành tỉnh Kinh Hô nhà Nguyên, xin hoãn binh”. Có lẽ Toàn thư đã chép nhầm ngày đi sứ của Trần Phủ (tức Trần Khiêm Phủ).

2.   An Nam chí lược, q.14, sau đoạn trên, đã chép:
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #43 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2016, 07:15:58 am »


        Khi tiến đến Lộc Châu, được tin ở các cửa ải Khâu Ôn và Khâu Cấp đều có quân Trần trấn giữ, A-ric Kha-y-a liền chia quân ra làm hai cánh để tiến1. Ngày Giáp Tý 21 tháng chạp năm Giáp Thân (27/1/1285), hai cánh quân cùng tiến. Cánh phía tây do vạn hộ Bôn-kha-đa (Bolqadar) 2, chiêu thảo A Thâm3 chỉ huy tiến theo con đường huyện Khâu Ôn (nay là huyện Ôn Châu, tỉnh Lạng Sơn), tức tiến theo đường quốc lộ số 1 ngày nay4. Cánh phía đông do viên Kê-sic (Khiếp Tiết) Xa-tác-tai (*Satartai) 5 và vạn hộ Lý Bang Hiến chỉ huy, tiến theo đường núi Cấp Lĩnh (hay Khâu Cấp), tức là theo con đường từ Lộc Bình (Lạng Sơn) đi Sơn Động (Hà Bắc) ngày nay6. Đại quân của Thoát Hoan cũng tiến theo cánh quân phía đông7. A-ric Kha-y-a cùng đi với Thoát Hoan8.

        Cánh quân phía đông của địch đã tiến rất vất vả. Vì bị quân ta ngăn chặn, viên tổng bả A Ly đi đưa thư cho vua Trần không thể tiến được. A-ric Kha-y-a phải sai viên vạn hộ Nghê Nhuận đi thăm dò tình hình để định kế hoạch tiến quân9. Sau đó, các viên tướng Xa Tác Tai, Lý Bang Hiến, Tôn Hựu phải đem quân đánh để mở đường. Sau khi vượt qua ải Khâu Cấp, quân Nguyên đã giao chiến với quân ta ở ải Khả Ly10. Tôn Hựu đã bắt được hai viên tướng Trần là quản quân phụng ngự Đỗ Vĩ và Đỗ Hựu11. Họ đều bị giết12. Sau đó, cánh quân Nguyên phía đông lại tiến đánh ải Động Bản13. Ở đây, tướng Trần là Tần Sầm bị hy sinh. Quân Nguyên dò biết Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đang đóng ở ải Nội Bàng liền tiến quân đến thôn Biến Trú14. Sắp đến bản doanh của Trần Quốc Tuấn, bọn giặc phải thận trọng. Dừng lại ở thôn Biến Trú, chúng cho người đưa thư dụ dỗ Quốc Tuấn mở đường và đón Trấn Nam vương Thoát Hoan. Tất nhiên việc đó không thành. Quân Nguyên lại tiến đến Nội Bàng. Ở đây chúng lại được lệnh của Thoát Hoan phải cho người đi “chiêu dụ Hưng Đạo vương. Mưu kế của Thoát Hoan vô hiệu, bọn tướng giặc phải bố trí một kế hoạch tấn công lớn vào Nội Bàng. Ngày Canh Ngọ, 27 tháng chạp (2/2/1285) 15, chúng đã chia quân làm sau mũi tấn công vào cửa ải này16.

        Ở đây Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã đưa quân ra định quyết ngăn cản đường tiến của giặc. Nhưng trước thế giặc ờ ạt, tấn công từ nhiều mặt, quân Trần bị tổn thất17. Đại liêu ban là Đoàn Thai bị bắt18.

        Đồng thời, cánh quân Nguyên phía tây do Bôn-kha-đa chỉ huy cũng đã vượt qua ải Khâu Ôn (có lẽ là đèo Dang ở phía bắc ôn Châu) đánh chiếm được ải Chi Lăng, tức cửa quan Lão Thử (gần ga Chi Lăng ngày nay) 19. Trong tình hình đó, Trần Quốc Tuấn đã quyết định rút lui về Vạn Kiếp20.

        Bấy giờ, gia nô của Trần Quốc Tuấn là Yết Kiêu giữ thuyền ở bến Bãi21, Quốc Tuấn thấy chu sư đã tan vỡ, muốn theo đường núi rút lui. Dã Tượng, một gia nô khác, đã nói với Quốc Tuấn: “Yết Kiêu chưa thấy Đại vương, tất không chịu dời thuyền”. Quốc Tuấn đến bến Bãi, quả nhiên một mình thuyền Yết Kiêu còn đỗ ở đó. Thuyền vừa xuôi thì kỵ binh của giặc đuổi tới nhưng không kịp22. Trần Quốc Tuấn đã thoát được nhờ lòng quả cảm và tinh thần kỷ luật không rời bỏ vị trí chiến đấu khi chưa có lệnh của Yết Kiêu. Cảm kích trước lòng trung nghĩa của người gia nô, Quốc Tuấn đã nói: “Ôi chim hồng hộc có thể bay cao được tất phải nhờ vào sáu trụ xương cánh, nếu không có thì cũng như chim thường thôi!” 23.

----------------
1.   Nguyên sử q.209, An Nam truyện, t.6a.

2.   Tài liệu về các cánh quân Nguyên, theo An Nam chí lược q.4, Chinh thảo vận hướng. An Nam chí lược chép tên viên tướng này là Lý La Hợp Đáp Nhi. Nguyên sử An Nam truyện chép là Bột La Cáp Đáp Nhĩ. Bột La Cáp Đáp Nhĩ là phiên âm tên Mông Cổ Bolqađar (hoặc Bulqadar). An Nam chí lược đã chép nhầm chữ Bột ra chữ Lý còn chữ cáp hay chữ hợp đểu dùng để phiên âm âm qa Mông Cổ cổ. Bia A-ric Kha-y-a do Diêu Toại soạn phiên âm là Bột La Hợp Đáp Nhĩ.

3.   Chúng tôi chưa xác định được tên Mông Cổ, có thể là tên Tuyếc Atsim.

4.   Có thể xác định được như vậy vì con đường này còn đi qua ải Chi Lăng (nay ở gần ga Chi Lăng, thuộc Ôn Châu).

5.   An Nam chí lược chép là Khiếp Tiết Tản Lược Nhi. Khiếp Tiết là phiên âm tiếng Mông Cổ Käšig, có nghĩa là túc vệ. Nguyên sử q 99, lo Binh chí 2: “Khiếp Tiết tức là túc vệ thay phiên trực”. Tản Lược Nhi đúng là tên tướng Tản Đáp Nhi Đải trong Nguyên sử An Nam truyện. An Nam chí lược chép nhầm chữ đáp ra chữ lược và chép sót chữ đải. Có thể khôi phục tên phiên âm Tản Đáp Nhi Đối thành *Satartai ~ *Satardai. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn ngờ An Nam truyện chép nhầm hoặc phiên âm không đúng. Có thể Tản Đáp Nhi Đải chỉ là một cách phiên âm sai của tên Tháp Tháp Nhi Đải (Xuyết canh lục q.l, t.15b) hay Tháp Tháp Nhi Thai (Nguyên sử q.119. Những tên này phiên âm tên Mông Cổ Tatardai ~ Tatartai (có nghĩa là “Người của bộ lạc Tatar”).

6.   An Nam chí lược q.4 chép là Cấp lĩnh. Nguyên sử q.209, 6a chép là vua Trần điều quân giữ ở Khâu Cấp lĩnh. Vậy Cấp lĩnh từ Khâu Cấp lĩnh. Theo ông Đào Duy Anh, tức là núi Khao Khúc ở tây nam huyện ly Lộc Bình ngày nay (xem Đào Duy Anh, bài đã dẫn, t.37). Từ Lộc Bình tiến đến Khả Ly (Xa Lý), Động Bản (Biên động) tất phải đi theo con đường Lộc Bình đi Sơn Động.

7.   An Nam chí lược q.4.

8.   Theo Nguyên sử q.209, Thoát Hoan đã sai A-ric Kha-y-a cho người đi sứ nên ta có thể biết A-ric Kha-y-a ở cạnh Thoát Hoan.

9.   Nguyên sử q.209, t.6b chép: “Hành tỉnh sai Nghê Nhuận đi đến xem hư thực để châm chước mà điều quân”. Theo Bản kỷ, Nghê Nhuận là vạn hộ.

10.   Kinh thế đại điển tự lục và Nguyên sử q.209, An Nam truyện chép là Khả Ly An Nam chí lược q. 14 chép là Khả Lợi. Theo ông Đào Duy Anh, ải Khả Ly tức Xa Lý, trên sông Xa Lý ở huyện Sơn Động (Bắc Giang) ngày nay (Đào Duy Anh, bài đã dẫn, t.37).

11.   Nguyên sử q.209, An Nam truyện, t.6b.

12.   An Nam chí lược q.4 chép: “Quân phía đông phá ải Khả Lợi, cửa Anh Nhi, bắt được bọn gián điệp Đỗ Vĩ đem chém”. Chúng tôi cho rằng Đỗ Vĩ chép ở An Nam chí lược và Đỗ Vĩ ở An Nam truyện là một người.

13.   Kinh thế đại điển tự lục (bản đã dẫn, t.563) và Nguyên sử q.209, t 6b. Nhà sử học Nhật Bản Yamamoto Tatsuro đã xác định ải Động Bản tức là Biên Động (huyện lỵ huyện Sơn Động, Bắc Giang) mà tên chữ Hán chép là Bản Động (xem An Nam sử nghiên cứu I, t.161).

14.   Ông Đào Duy Anh xác định Nội Bàng vào khoảng Chũ. Phía bắc Chũ còn có xã Bình Nội (Đào Duy Anh, Bài đã dẫn, t.38). Thôn Biến Trú, chưa rõ ở đâu, chắc là ở gần đấy.

15.   Theo An Nam chí lược q.4, Toàn thư q.5, t.44b chép: “Ngày 26 [tháng 12] (1-2-1285), giặc phạm các cửa ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược, Chi Lăng Như vậy, theo Toàn thư, sớm hơn một ngày.

16.   Nguyên sử q.20 9, An Nam truyện, t.6b. Nguyên sử q.13 Thế tổ bản kỷ t.6a cũng chép: “Tháng đó (tức tháng 12 Chí Nguyên 21), quân Trấn Nam vương đến An Nam, giết quân phòng thủ, chia làm sáu đường để tiến”.

17.   Toàn thư q.5, t.44b; An Nam chí lược q.4.

18.   Nguyên sử q.209, t.6b; Kinh thế đại điển tự tục (Nguyên văn loại q 41, bản đã dẫn, t.564).

19.   An Nam chí lược q.4, Chinh thảo vận hướng.

20.   Nay là vùng Vạn Yên, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Theo An Nam chí lược, sau trận Nội Bàng, Hưng Đạo vương “rút lui giữ chân Lạng Giang, lại thua chạy, [Nguyên] bắt được thuyền mấy chục chiếc”. Theo Toàn thư thì trận Nội Bàng, “quan quân đánh không lợi, rút lui đóng ở bến Vạn Kiếp” (q.5, 44b). Nguyên sử An Nam truyện (q.209, t.6b) cũng chép rằng Hưng Đạo vương, sau trận Nội Bàng, lui về Vạn Kiếp.

21.   Toàn thư q.5, 45a chép là Bãi Tân, chưa rõ ở đâu. T.Yamamoto cho là ở trên sông Lục Nam (T.Yamamoto: sách đã dẫn, t.163). Như vậy cũng phù hợp với cách xác định vị trí Nội Bàng của ông Đào Duy Anh. Có lẽ Trần Quốc Tuấn đã đi thuyền từ sông Lục Nam xuống sông Thương, về Vạn Kiếp.

22.   23. Toàn thư q.5, t.45a.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #44 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2016, 09:57:19 am »


        Nghe tin quân ta không ngăn được giặc, phải rút lui, vua Trần không kịp ăn cơm, vội vã đi thuyền nhẹ ra Hải Đông gặp Trần Quốc Tuấn1. Có lẽ chính lúc này, trước thế mạnh của giặc, vua Trần đã phải hỏi thử Quốc Tuấn xem có nên hàng giặc hay không. Người anh hùng của dân tộc đã đáp một câu đầy khí phách mà lịch sử mãi mãi còn ghi nhớ: “Trước hết chém đầu thần rồi sau hãy hàng” 2.

        Giặc đang mạnh, quân ta có tổn thất, nhưng lực lượng vẫn còn và nhất là sĩ khí không giảm sút. Vì thế, Trần Quốc Tuấn đã bình tĩnh, cùng vua Trần bàn bạc kế hoạch đối phó với kẻ thù. Quốc Tuấn đã huy động thêm quân dân các lộ và quân các vương hầu đến để bổ sung lực lượng. “Hưng Đạo vương vâng mệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà, Bá Điểm, chọn những người dũng cảm làm tiên phong”. “Thế quân phấn chấn lên. Chư quân nghe thấy thế, không ai là không đến tập hợp3.

        Bấy giờ, trông thấy lực lượng còn hùng hậu, Nhân Tông đã cảm xúc, viết vào đuôi thuyền hai câu thơ:

                                             “Cối Kê cựu sự quân tu ký
                                             Hoan Diễn do tồn thập vạn binh”.

                                            (Cối Kê việc cũ ngươi nên nhớ
                                            Hoan Diễn còn kia chục vạn quân
4.

        Đúng như lời thơ tin tưởng của vua Trần, các đạo quân về tập hợp ở Vạn Kiếp mới chỉ là quân các lộ miền đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng số quân đó đã rất lớn. Riêng số quân của các vương con Trần Quốc Tuấn cũng đã lên tới hai mươi vạn: “Hưng Vũ vương Hiến, Minh Hiến vương Uất, Hưng Nhượng vương Tảng, Hưng Trí vương Nghiễn đem hai mươi vạn quân các xứ Bàng Hà (nay là đất huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương và đất huyện Tiên Lãng - Hải Phòng - T.G.), Na Sầm (tức Na Ngạn, thuộc đất huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang ngày nay - T.G.), Trà Hương nay là đất huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương - T.G.), An Sinh (nay thuộc đất huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh - T.G.), Long Nhãn (nay thuộc đất huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang, vùng xung quanh chỗ hợp lưu sông Thương và sông Lục Nam - T.G.) đến hội ở Vạn Kiếp, chịu sự điều khiển của Hưng Đạo vương để chống quân Nguyên” 5.

        Sau khi đã tập hợp được binh lực, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn định dùng tất cả lực lượng đó, dựa vào địa thế của vùng Vạn Kiếp và sông Bình Than, bố trí một phòng tuyến để ngăn chặn bước tiến của quân thù. Quốc Tuấn đã chia quân đóng giữ Vạn Kiếp, núi Phả Lại6 và Bắc Giang (tức vùng tỉnh Bắc Ninh). Trần Quốc Tuấn còn đem hơn nghìn chiếc thuyền đóng cách Vạn Kiếp mười dặm7.

        Quân Thoát Hoan đuổi theo Trần Quốc Tuấn không kịp. Nhưng vì đại quân của Quốc Tuấn đã rút nên quân ta ở các ải khác cũng rút lui hoặc chỉ chiến đấu cầm chừng nên các cánh quân Nguyên đã tiến một cách dễ dàng. Sau khi cánh quân phía tây của Bôn-kha-đa chiếm được ải Chi Lăng, các tài liệu không cho chúng ta biết gì về cánh quân này. Có lẽ Bôn-kha-đa đã đem quân theo thung lũng sông Thương hợp với cánh quân của Thoát Hoan trước khi tấn công vào Vạn Kiếp8. Ở Vạn Kiếp, ta tập trung một lực lượng rất lớn, nhất định quân Nguyên cũng phải hội quân để nhằm tiêu diệt ta. Thoát Hoan đã chuẩn bị rất cẩn thận trước khi đánh Vạn Kiếp. Bọn xâm lược đã tiến vào ải Nội Bàng ngày 2 tháng 2 năm 1285 mà mãi mười ngày sau, chúng mới đánh Vạn Kiếp. Không thể nói quân Thoát Hoan tiến từ Nội Bàng đến Vạn Kiếp mất mười ngày trong khi sự kháng cự của ta ở mạn trên không đáng kể.

        Thoát Hoan và A-ric Kha-y-a tiến quân đến gần Vạn Kiếp, thấy Trần Quốc Tuấn tập trung nhiều binh lực, đã dừng lại, chuẩn bị kỹ càng kế hoạch tấn công. Khi dò biết Trần Quốc Tuấn còn hơn một nghìn binh thuyền đóng cách Van Kiếp mười dặm, Thoát Hoan liền sai quân sĩ của hắn đi tìm thuyền ở ven sông, tìm cướp ván gỗ đinh vôi, lập công trường đóng chiến thuyền. Thoát Hoan tuyển các cánh thủy quân, ra lệnh cho Ô Mã Nhi Bạt Đô (‘Omar - ba’atur) 9 thống lĩnh10.

        Bọn Ô Mã Nhi nhặt được ở bờ sông hai tờ giấy, đó là thư vua Trần gửi cho Thoát Hoan và A-ric Kha-y-a. Trong thư có những câu: “Chiếu trước” (1261-T.G.) nói là “lệnh riêng cho quân ta không vào nước ngươi”, thế mà nay lấy cớ nước Chiêm Thành đã thần phục lại phản, đem đại quân qua nước tôi, tàn hại trăm họ, đó là việc làm của thái tử sai lầm chứ không phải nước tôi sai lầm, xin đừng làm khác với chiếu trước, rút lui đại quân…11. phải chăng đấy là bản thảo những bức thư cũ, hoặc là, đã đến lúc quyết chiến, những bức thư ngoại giao đã trở thành vô ích, vua Trần vứt nó đi và nói chuyện với kẻ thù bằng vũ khí? A-ric Kha-y-a đưa thư cho Nguyễn Văn Hàn, sứ ta đã bị quân Nguyên bắt giữ trước đây, đem về cho vua Trần, đe dọa, dụ dỗ, đòi lui quân mở đường cho quân Nguyên “đi đánh Chiêm Thành”(?) 12.

----------------
1.    Toàn thư q.5, t.44b chép: “Lúc đó vua đi thuyền nhẹ ra Hải Đông (chỉ chung miền Hải Dương, Kiến An), chiều rồi mà chưa ăn cơm sáng, có người lính là Trần Lai đem cơm gạo xấu dâng vua”.

2.   Toàn thư chép việc năm 1300 (Trần Quốc Tuấn chết), khi nhắc lại các việc Quốc Tuấn đã làm, có chép: “… Thánh Tông thử hỏi Quốc Tuấn: “Thế giặc như thế, ta có nên hàng chúng?” Quốc Tuấn nói: “Trước chém đầu thần rồi sau hãy hàng” (q.6, t.11a). Nhưng Toàn thư không nói rõ việc này xảy vào lúc nào. Trần đại vương bình Nguyên thực lục chép rõ rằng vua Trần ra Hải Đông, triệu Hưng Đạo đến hỏi: “Giặc truyền lời nói đánh để cướp đất, chúng giết người đầy đồng nội. Nay thế giặc như thế, có nên hàng chúng để cứu mệnh cho muôn dân?”. Đáp rằng: “Lời bệ hạ nói ra thật là lời nói của bậc nhân giả. Nhưng còn tông miếu xã tắc thì sao? Thần xin trước hãy chém đầu thần rồi sau hãy hàng giặc. Đầu thần nếu còn, xã tắc cũng còn. Xin bệ hạ đừng lo, thần đã có kế đánh bại giặc”. Chúng tôi cho rằng vua Trần đã hỏi Trần Quốc Tuấn vào lúc rút lui về Vạn Kiếp trong cuộc chiến tranh này. Sau trận Vạn Kiếp, ta cũng rút lui nhưng chủ động hơn và càng chủ động hơn trong chiến tranh lần thứ ba.

3.   Toàn thư q.5, t.44b.

4.   Toàn thư q.5, t.44b - 45a. “Việc cũ Cối Kê” là chỉ chuyện Câu Tiễn nước Việt (đời Chiến Quốc) chỉ còn một nghìn quân ở Cối Kê mà sau đánh được Ngô Phù Sai, Hoan Diễn, chỉ vùng Diễn Châu và Nghệ An, Hà Tĩnh.

5.   Toàn thư q.5, t.45a, Hưng Vũ vương, Hưng Nhượng vương, Hưng Trí vương là con Hưng Đạo vương. Minh Hiến vương là em út Thái Tông.

6.   An Nam chí [nguyên] q.1, Sơn xuyên: “Núi Phả Lại ở phủ Từ Sơn, mặt kề Bình Than, sông Như Nguyệt (sông Cầu - T.G.) quanh bên trái, sông Ô Cách (sông Đuống - T.G.) bọc bên phải” (Bản đã dẫn, t.42). Cương mục (q.8, t.3b) chú: “Núi Phả Lại nay ở xã Phả Lại, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh”. Núi Phả Lại tức là núi ở xã Phả Lại, cạnh sông Lục Đầu, đối diện với thị trấn Phả Lại (Chí Linh, Hải Dương).

7.   Nguyên sử q.209, An Nam truyện t.6b. Cương mục q.7, t.33a) và Trần đại vương bình Nguyên thực lục chép là Hưng Đạo vương đem hơn nghìn chiến thuyền bày trận “dực thủy” ở cách sông Vạn Kiếp 10 dặm. Chúng tôi cho rằng Cương mục đã dựa vào Nguyên sử mà chép về số thuyền và vị trí đóng quân, nhưng không rõ dựa vào đâu mà chép đến trận “dực thủy”. Cách đoạn trên một dòng, Nguyên sử có chép đến việc Nguyên chọn “các dực thủy quân” (tức các cánh thủy quân) giao cho Ô Mã Nhi thống lĩnh. Có lẽ Cương mục đã nhầm chữ “dực thủy quân” thành “dực thủy trận và cho là trận của Hưng Đạo vương. Hoàng Thúc Trâm, trong Trần Hưng Đạo (Vĩnh Bảo 1950, t.78) nói rằng Toàn thư có chép đến trận “dục thủy” (tắm nước). Chúng tôi đã tra lại Toàn thư thì hoàn toàn không có điều này, còn ở Cương mục thì chép với chữ dực là cánh chứ không phải chữ dục là tắm.

8.   Khi đã vào Thăng Long rồi, mới thấy Nguyên sử nói đến Bôn-kha-đa.

9.   Nguyên sử q.209 An Nam truyện thường chép tên Ô Mã Nhi (‘Omar) là Ô Mã Nhi Bạt Đô. Không nên lầm là tên hai người: Ô Mã Nhi và Bạt Đô. Theo thể lệ Mông Cổ, những viên tướng giỏi, can đảm, thường được ban hiệu là “Bạt Đô”, tức ba’atur, nghĩa là dũng sĩ. Nguyên sử q.99, Binh chí t.2a có chép: “Người dũng cảm vô địch thì gọi là Bạt Đột”. Bạt Đột hay Bạt Đô đều là phiên âm tiếng Mông Cổ ba’atur (có khi phiên âm là Bạt Đô Nhi, Bạt Đô Lỗ, Bát Đô Nhi, Bá Đô Lỗ,…) Ô Mã Nhi Bạt Đô chỉ là tên một người, đó là ‘Omar - ba’atur, tức ‘Omar - Dũng sĩ. ‘Omar là một cái tên Hồi giáo, mang thêm một danh hiệu Mông Cổ là ba’atur.

10.   11. Nguyên sử q.209, An Nam truyện, t.6b.

12.   Nguyên sử q.209, t.6b - 7a có chép lời thư A-ric Kha-y-a: “Triều đình đem quân đánh Chiêm Thành, nhiều lần đưa thư cho thế tử (chỉ vua Trần - T.G.), bảo mở đường, chuẩn bị lương, không ngờ trái mệnh triều đình, để bọn Hưng Đạo vương đem quân chống lại, bắn quân ta bị thương. Để cho sinh linh An Nam chịu tai họa, chính là do nước ngươi làm ra vậy. Nay đại quân qua nước ngươi, đức vua truyền lệnh cho thế tử hãy nghĩ kỹ đi. Nước ngươi quy phụ đã lậu nên nghĩ đến cái đức thương yêu to lớn của hoàng đế mà lập tức ra lệnh rút quân mở đường, khuyên bảo trăm họ ai nấy cứ làm ăn sinh sống, quân ta đi qua không mảy may xâm phạm. Thế tử hãy ra đón Trấn Nam vương cùng bàn việc quân, nếu không, đại quân sẽ đóng lại ở An Nam, mở phủ”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #45 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2016, 10:10:49 am »


        Ngày 6 tháng giêng năm Ất Dậu (11/2/1285), Ô Mã Nhi bắt đầu chia quân tấn công vào các căn cứ của quân ta ở Vạn Kiếp và núi Phả Lại1. Một cuộc chiến đấu ác liệt đã xảy ra trên phòng tuyến sông Bình Than (tức sông Lục Đầu ngày nay). Thế quân giặc rất mạnh. Vua Trần đã đem các quân Thánh Dực và hơn một nghìn chiến thuyền đến tăng viện cho Trần Quốc Tuấn2. Trong khi tấn công Vạn Kiếp, viên tướng Nguyên là vạn hộ Nghê Nhuận đã tử trận ở Lưu Thôn3. Ngày Nhâm Ngọ - 9 tháng giêng (14/2/1285), bọn tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, chiêu thảo Na Khai (Naqai) 4, trấn phủ Tôn Lâm Đức đã đem chiến thuyền giao chiến với quân vua Trần ở Bài Than (tức Bình Than) 5.

        Mặc dầu có quân tiếp viện và đã chiến đấu tiêu hao sinh lực địch, Trần Quốc Tuấn cũng nhận thấy rằng chưa thể chặn đứng được bước tiến của giặc và dễ dàng chiến thắng chúng cho nên sau trận đánh ngày 14 tháng 2 năm 1285, quân ta đã rút khỏi các địa điểm Vạn Kiếp, Phả Lại, Bài Than6.

        Nhiều tài liệu chép rằng quân Trần đã tan vỡ, nhưng đó là do đã đứng trên lập trường của kẻ thù, huênh hoang khoác lác (An Nam chí lược, Nguyên sử) hoặc chỉ nhìn một cách hời hợt mặt ngoài (Toàn thư). Quân Nguyên chiếm được Vạn Kiếp và các địa điểm trên sông Bình Than không phải do chúng đã “đánh tan” được quân ta mà là do quân ta đã chủ động rút lui để bảo toàn lực lượng. Chính nhờ đó mà chỉ sau vài ngày quân ta đã có thể bố trí một trận lớn trên bờ sông Hồng.

        Có lẽ vua Trần và Trần Quốc Tuấn đã đem quân rút lui theo đường thủy, từ sông Lục Đầu vào sông Đuống mà về Thăng Long.

        Sau khi chiếm được Vạn Kiếp và núi Phả Lại, Thoát Hoan, A-ric Kha-y-a cùng với Ô Mã Nhi tiến quân đánh chiếm vùng Vũ Ninh (nay là huyện Quế Võ, Hà Bắc). Từ Phả Lại đến Vũ Ninh, hẳn quân Nguyên đã tiến theo đường tỉnh lộ số 18 ngày nay. Sau đó, chúng lại tiến xuống Đông Ngạn (nay là đất huyện Tiên Sơn thuộc Bắc Ninh và huyện Đông Anh thuộc Hà Nội), chắc là theo con đường quốc lộ số 1 từ Bắc Ninh về Hà Nội ngày nay. Đến sông Đuống, quân Nguyên đã đánh nhau với một bộ phận binh thuyền của ta ở đây và Thoát Hoan đã sai quân buộc bè làm cầu phao, vượt sông Đuống, tiến đến Gia Lâm7. Trên con đường tiến quân, giặc bắt được một số quân ta. Thấy chữ “Sát Thát” trên cánh tay những binh sĩ này, chúng bèn đem giết hết8.

        Ngày 12 tháng giêng âm lịch (17/2/1285) quân Nguyên tiến về phía Đông Bộ Đầu, đóng lại bên sông Hồng, dựng một lá cờ lớn9. Quân ta sau khi rút từ các nơi về, đã tổ chức một tuyến phòng ngự ở bờ phía bắc sông Hồng. Chính vua Trần đã trực tiếp chỉ huy việc chống giặc ở đây10. Binh thuyền của ta bố trí dọc theo sông, rào gỗ được dựng lên làm chiến luỹ. Những cỗ pháo đã chuẩn bị sẵn sàng bắn vào quân giặc. Khi. quân Nguyên đến bờ sông, quân ta đã khai pháo, hò reo thách đánh11.

        Đến chiều hôm đó (17/2/1285) vua Trần muốn sai người đến trại viên tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, vờ cầu hòa để điều tra tình hình của giặc. Đỗ Khắc Chung đã tình nguyện xin đi. Trước sự uy hiếp của Ô Mã Nhi, Khắc Chung đã bình tĩnh ứng đối linh hoạt, khiến tướng giặc phải khâm phục. Đêm đó, Khắc Chung ở lại trong trại giặc. Giờ Mão (từ 5 giờ đến 7 giờ sáng) hôm sau, tức ngày 13 tháng giêng (18/2/1285), Khắc Chung đã an toàn trở về với những điều đã dò xét được bên phía kẻ thù. Ô Mã Nhi hối hận vì đã thả Khắc Chung, cho quân đuổi theo nhưng không kịp. Hôm đó quân ta đã giao chiến với quân Ngyên trên bờ sông Hồng12.

----------------
1.    Toàn thư q.5, t.45b.

2.   Nguyên sử q.209, An Nam truyện, t.7a chép: “Quan quân bắt được tù binh, xưng là Nhật Huyên (tức Thánh Tông - T.G.) điều các quân Thánh Dực, hơn một nghìn thuyền giúp Hưng Đạo vương cự chiến”.

3.   Nguyên sử q.13 Thế tổ bản kỷ, t.6a.

4.   An Nam chí lược q.4 phiên âm là Nạp Hải (Naqai ~ Noqai).

5.   An Nam chí lược q.4 Chinh thảo vận hướng: “Năm Ất Dậu niên hiệu Chí Nguyên, ngày Nhâm Ngọ, 9 tháng Giêng, thế tử (chỉ vua Trần - T.G.) đem mười vạn quân, đại chiến ở Bài Than. Nguyên súy Ô Mã Nhi (‘Omar), chiêu thảo Nạp Hải (Naqai), trấn phủ Tôn Lâm Đức đem những thuyền bắt được từ trước đánh tan được”.

6.   Toàn thư q.5, 45b chép: “Ngày 6 tháng Giêng [Thiệu Bảo 7] (11/2/ 1285), tướng Nguyên Ô Mã Nhi (‘Omar) phạm vào các xứ Vạn Kiếp, núi Phả Lại, quan quân tan chạy. Nhưng theo Nguyên sử - An Nam truyện, vua Trần đã đem quân tiếp viện và An Nam chí lược đã chép trận giao chiến giữa quân vua Trần với quân Ô Mã Nhi ở Bài Than ngày 14 tháng 2 năm 1285. Nguyên sử q.13 Thế tổ bản kỷ, t.7 cũng chép: “Ngày Nhâm Ngọ [tháng giêng] (14/2/1285), Ô Mã Nhi đem quân gặp Hưng Đạo vương An Nam, đánh bại”. Như vậy, không  phải “quan quân đã tan chạy” ngày 11 tháng 2 năm 1285 như Toàn thư đã chép. Ngày 11 tháng 2 năm 1285 mới chỉ là ngày Ô Mã Nhi tấn công các địa điểm của ta trên phòng tuyến sông Bình Than. Mãi đến ngày 14 tháng 2 năm 1285, sau trận thủy chiến lớn, quân ta mới rút lui.

7.   Toàn thư q.5, t.45b: “Ngày 12 [tháng giêng, năm Ất Dậu, Thiệu Bảo 7] (17/2/1285), giặc phạm Gia Lâm, Vũ Ninh, Đông Ngạn”. Toàn thư đã đảo lộn vị trí các vùng. Từ Phả Lại, Vạn Kiếp, quân Nguyên phải đánh đến Vũ Ninh (Quế Võ, Bắc Ninh) trước, rồi đến Đông Ngạn (Từ Sơn cũ, nay thuộc Tiên Sơn), sau đó mới đến Gia Lâm. Nguyên sử q.209 An Nam truyện t.7a chép: “Trấn Nam vương liền cùng quan hành tỉnh (chỉ A-ric Kha-y-a - T.G.) thân đến Đông Ngạn, sai quân đánh, giết được rất nhiều, bắt được 20 thuyền, Hưng Đạo vương thua chạy, quan quân buộc bè làm cầu sang bờ bắc sông Phú Lương (tức sông Hồng - T.G.)”. Nguyên sử q.13 Bản kỷ 7a cũng chép “quân đến bờ bắc sông Phú Lương”, Nguyên sử kỷ sự bản mạt của Trần Bang Chiêm (q.5, bản của Thương vụ ấn thư quán, t.21) cũng chép: “Thoát Hoan thừa cơ buộc bè làm cầu sang bờ bắc sông Phú Lương”. Bờ bắc sông Phú Lương, tức sông Hồng, đúng là miền Gia Lâm mà Toàn thư đã chép. Con sông mà quân Nguyên ở Đông Ngạn (tức Từ Sơn) phải vượt qua để đến Gia Lâm, đúng là sông Đuống (An Nam chí nguyên chép rằng sông Thiên Đức (sông Đuống) còn có tên là sông Đông Ngạn). An Nam truyện nói rằng quân Nguyên đã đánh nhau với Trần Quốc Tuấn ở đây, nghĩa là trên sông Đuống, nhưng có lẽ chỉ là một bộ phận quân ta thôi. Theo Toàn thư, chúng ta có thể biết rằng các trận này do Ô Mã Nhi trực tiếp chỉ huy vì sau đó Trần Khắc Chung đã đến trại của Ô Mã Nhi.

8.   Toàn thư q.5, t.45b.

9.   Toàn thư q.5, t.45b chép: “Ngày 12 [tháng giêng năm Ất Dậu] (17/2/ 1285) giặc phạm Gia Lâm, Vũ Ninh, Đông Ngạn… bèn đến Đông Bộ Đầu dựng lá cờ lớn”. Chúng tôi cho rằng ngày 17 tháng 2 năm 1285 quân Nguyên đến Gia Lâm và bờ sông Hồng. Điều này phù hợp với Nguyên sử Thế Tổ bản kỷ và An Nam chí lược chép rằng trận đánh ở sông Hồng xảy ra trong hai ngày 17 và 18 tháng 2 năm 1285. Còn có thể quân Nguyên đã đánh vào Vũ Ninh trước ngày đó một hoặc hai ngày, tức là sau trận Bài Than. Trong ngày 17 tháng 2 năm 1285; theo Nguyên sử và An Nam chí lược quân Nguyên chưa vượt qua sông Hồng, vì thế chúng tôi cho rằng quân Nguyên chưa phải đóng ở Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng mé trên cầu Long Biên, gần dốc Hàng Than) bên này sông mà là đóng ở bên kia sông, đối diện với Đông Bộ Đầu (hoặc là bến đối diện đó cũng được gọi là Đông Bộ Đầu).

10.   Toàn thư có chép về trận đánh trên sông Hồng nhưng không nói rõ là ở bờ nào của sông Hồng và ai chỉ huy (q.5, t.46a). Cương mục chép: “Thoát Hoan đã lấy được Bắc Giang, quân ta lập đồn trại theo bờ sông phía nam để phòng ngự”. Cương mục thấy quân Nguyên tiến đến bờ phía bắc nên suy ra rằng quân Trần phòng ngư ở bờ nam, kỳ thực không phải như vậy. Kinh thế đại điển tự lục (Nguyên văn loại q.41, bản đã dẫn, t 564) chép: “Quan quân đến sông Phú Lương, Nhật Huyên (tức Thánh Tông - T.G.) thân chống đánh, bị thua, bỏ thành chạy về phủ Thiên Trường. Nguyên sử q.13 Bản kỷ, 7a chép: “Ngày Ất Dậu [tháng giêng, Chí Nguyên 22] (17/2/1285), thế tử An Nam Trần Nhật Huyên (tức Thánh Tông - T.G.) đem hơn một nghìn chiến thuyền chống cự. Ngày Bính Tuất (18/2/1285), đánh nhau, đại phá. Nhật Huyên trốn đi”. An Nam chí lược q 4 chép: “Ngày 13 là ngày Bính Tuất, thế tử giữ ở Lô Giang (tức sông Hồng - T.G.), lại bị tan vỡ, bỏ chạy. Trấn Nam vương sang sông, vào thiết yến ở cung đình”. Nguyên sử q.209, An Nam truyện chép rõ: “Quan quân buộc bè làm cầu [qua sông Đuống] sang bờ bắc sông Phú Lương (sông Hồng - T.G.). Nhật Huyên bố trí binh thuyền, dựng rào gỗ dọc theo sông. Thấy quan quân đến lập tức khai pháo hô lớn thách đánh. Đến chiều lại sai phụng ngư họ Nguyễn mang thư đến Trấn Nam vương và quan hành tỉnh (A-ric Kha-y-a - T.G.) xin rút đại quân. Hành tỉnh lại đưa thư trách, rồi lại tiến quân. Nhật Huyên liền bỏ thành chạy đi… Hành tỉnh lại dưa thư chiêu dụ, rồi điều quân sang sông đóng ở dưới thành An Nam” (t.7a). Như vậy là theo các tài liệu trên thì vua Trần đã chỉ huy trận đánh này và trận đánh đã diễn ra trên bờ phía bắc sông Hồng, sau đó, quân Nguyên mới vượt sông Hồng để vào Thăng Long.

11.   Nguyên sử q.209 An Nam truyện t.7a. Đây là tài liệu duy nhất nói về “pháo” của quân Trần trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông. Nguyên văn trong An Nam truyện là “phát pháo đại hô cầu chiến” (bắn pháo hô lớn thách đánh). Chúng tôi vẫn giữ nguyên chữ “pháo” như trong An Nam truyện mà không dịch là súng vì chưa rõ vũ khí đó có hình dạng và được chế tạo như thế nào. “Pháo” thời Tống Nguyên là chỉ những máy bắn đá (xem chú thích về “pháo Hồi Hồi” ở chương V), nếu với những máy này đem bắn các đạn cháy hay nổ thì gọi là “hỏa pháo” (quân Nguyên đánh Nhật Bản năm 1274 và 1281 đều dùng “thiết hỏa pháo”, tức là dùng máy bắn đá bắn đi những hòn đạn sắt có đựng chất nổ). Còn những vũ khí hình ống thì được gọi là “hỏa đồng”, “hỏa thương” (ban đầu làm bằng ống tre, về sau làm đồng hay sắt, tức là “hỏa súng”. Súng thần cơ đời Hồ thuộc loại này”. “Súng” là vũ khí hình ống kim loại. Mãi đến khoảng giữa đời Minh, người ta mới dùng chữ “pháo” để chỉ cả các vũ khí xạ kích hình ống (xem Phùng Gia Thăng: Hỏa dược đích phát minh hòa Tây truyền, Hoa Đông nhân dân xuất bản xã, 1954, t.56).

12.   Toàn thư q.5 chép: “Vua muốn sai người đi xem hư thực mà chưa tìm được người. Chỉ hậu cục thư là Đỗ Khắc Chung tiến lên nói: “Thần tuy hèn mọn bất tài nhưng xin được đi”. Vua mừng lắm nói: “Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa kỳ ngựa ký”, rồi sai mang thư nói xin hòa. Ô Mã Nhi hỏi: “Chúa ngươi vô lễ, sai người thích chữ “Sát Thát”, khinh nhờn thiên binh, lỗi thật là lớn”. Khắc Chung đáp: “Chó nhà cắn người không phải tại chủ nó (45b), vì lòng trung phẫn mà họ tự thích vào, Quốc vương không biết việc, đó tôi là cận thần tại sao lại không có”. Nói rồi đưa cánh tay cho xem. Ô Mã Nhi nói: “Đại quân từ xa đến, nước ngươi tại sao không quay giáo đến tương kiến, lại còn chống mệnh. Bọ ngựa dám chống xe, liệu sẽ ra thế nào?” Khắc Chung nói: “Hiền tướng không thi hành cái chính sách của Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới, trước hết đưa thư, nếu không thông hiếu thì mới là có lỗi. Nay lại bức bách nước tôi, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người”. Ô Mã Nhi nói: “Đại quân mượn đường để đánh Chiêm Thành, Quốc vương nếu đến hội kiến thì trong nước vẫn được yên ổn, một chút gì cũng không phạm đến. Nếu cứ mê muội thì chỉ trong chốc lát, núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ nát”. Khắc Chung về rồi, Ô Mã Nhi bảo chư tướng rằng: “Người này ở vào lúc bị uy hiếp (46a) mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ là Chích, không nịnh ta là Nghiêu, chỉ nói “chó nhà cắn người”, giỏi ứng đối; có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước này có những người như thế, chưa dễ đã chiếm được”. Sai người đuổi theo, không kịp. Giờ Mão ngày 13 (18/2/1285) Khắc Chung từ chỗ quân Nguyên về. Giặc đuổi đến, cùng quan quân đánh nhau (46b)”. Nguyên sử q.209, An Nam truyện, 7a chép: “Đến chiều, sai phụng ngư họ Nguyễn mang thư cho Trấn Nam vương và quan hành tỉnh xin rút đại quân”. Đỗ Khắc Chung đi từ ngày 12 (17-2-1285), hẳn vào buổi chiều, và khoảng 5-7 giờ sáng hôm sau, ngày 13 (18-2-1285) mới về, như vậy đêm đó Khắc Chung đã ở lại trong trại Ô Mã Nhỉ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #46 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2016, 01:32:13 pm »

        Trận cản giặc trên sông Hồng có mục đích là bảo vệ cho cuộc rút lui chiến lược của triều đình, hoàng gia và quân dân ra khỏi Thăng Long được an toàn. Tất nhiên nhiều tên xâm lược đã bỏ mạng trước chiến lũy của quân Trần. Nhưng khi những lực lượng cuối cùng đã ra khỏi kinh đô, đoàn binh thuyền của ta dọc sông Hồng cũng rút về xuôi. Bấy giờ, Thoát Hoan và A-ric Kha-y-a mới có thể cho quân vượt qua sông. Chúng đem quân đóng lại dưới chân thành Thăng Long. Có lẽ tòa thành im lìm đó đã làm những tên tướng Mông Cổ khiếp sợ. Mãi đến hôm sau, khi dò biết được trong thành chẳng còn ai, Trấn Nam vương Thoát Hoan mới dám vào thành. Hôm đó là ngày 14 tháng giêng năm Ất Dậu (19/2/1285) 1. Thăng Long chỉ còn là một tòa thành trống, cửa Đại Hưng, điện Thiên An, gác Triều Thiên không còn một bóng người. Bọn giặc vào thành chỉ thấy “cung thất nhẵn không, duy còn mấy tờ chiếu sắc của Hốt Tất Liệt - T.G.) và điệp văn của trung thư (cơ quan trung ương của triều Nguyên - T.G.) đều đã bị xé bỏ đi, ngoài ra còn một số giấy tờ, đều là của các biên tướng nam bắc báo cáo tin tức và tình hình chống địch” 2.

        Thoát Hoan chè chén với bọn tướng tá trong cung đình vua Trần3, nhưng có lẽ hắn hoảng sợ vì phải đóng quân trong tòa thành trống này, khi khắp nơi đều thấy những bảng kêu gọi nhân dân liều chết đánh giặc không được hàng4. Vì thế, hắn đã rút quân ra khỏi kinh thành, trở lại đóng quân ở bờ phía bắc sông Hồng5.

        Trong khi đại quân theo vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn rút khỏi kinh đô Thăng Long thì Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đã chiến đấu với cánh quân Nguyên từ Vân Nam xuống. Trước đây, Nhật Dưật được lệnh trấn thủ lộ Tuyên Quang6. Năm 1285, viên bình chương chính sự hành tỉnh Vân Nam là Na-xir út-Đin (Nā sir ud- Dīn) đã đem một nghìn quân Mông Cổ và Kha-ra-jang (Qaraĵang, tức quân người Ô Man ở Vân Nam) tiến vào biên giới Đại Việt phía Tuyên Quang để phối hợp với cánh quân của Thoát Hoan ở phía đông7. Bấy giờ, Chiêu Văn vương Nhật Duật đóng ở trại Thu Vật (tức huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái ngày này). Sau khi giao chiến với giặc, cũng như các cánh quân phía đông, Nhật Duật đã rút lui để bảo toàn lực lượng. Quân của Nhật Duật đi thuyền xuôi theo dòng sông về phía dưới (có lẽ là theo sông Chảy vào sông Lô). Quân giặc đuổi theo dọc hai bờ sông. Nhật Duật ngoảnh lại, thấy quân giặc tiến từ từ, liền bảo với quân sĩ của ông: “Phàm đuổi thì cần nhanh, nay giặc tiến từ từ, sợ có tiền quân chắn ngang phía trước”. Những người được sai đi trinh sát đều trở về báo quả là giặc đã cắt ngang phía hạ lưu đúng như lời tiên đoán của Nhật Duật. Ông liền cho quân bỏ thuyền, lên bộ, do đó thoát khỏi quỷ kế của địch và toàn quân đã rút lui an toàn8. Ngày rằm tháng giêng năm Ất Dậu (20-2- 1285) một ngày sau khi Thoát Hoan tiến vào Thăng Long, cánh quân của Trần Nhật Duật về đến Bạch Hạc. Bấy giờ trong quân của Nhật Duật có nhiều người Tống, trong số đó có đạo sĩ Hứa Tông Đạo, người ở Phúc Châu thuộc lộ Phúc Kiến, sang Đại Việt từ năm 1276. Đoàn quân của Nhật Duật đã dừng lại trên bờ sông Bạch Hạc (chỗ gần cầu Việt Trì ngày nay), cắt tóc làm lễ tuyên thệ, nguyện lấy lòng trung để báo ơn vua. Sau đó, cánh quân của Nhật Duật đã vượt qua vùng các dân tộc thiểu số rút về chỗ vua Trần đóng quân9.

---------------
1.    Nguyên sử q.209, An Nam truyện t.7a chép: “… Bèn điều quân qua sông đón ở dưới thành An Nam. Hôm sau Trấn Nam vương vào quốc đô nước đó”. Như vậy, theo An Nam truyện, sau trận sông Hồng ngày 13 tháng giêng (18/2/1285), Thoát Hoan sang sông nhưng chưa vào thành mà đến ngày 14 tháng giêng (19/2/1285) mới vào. Nguyên sử q.13 Bản kỷ và An Nam chí lược thì chỉ chép sau trận sông Hồng, ngày 13 tháng giêng (18/2/1285), Thoát Hoan vào thành, không nói là hôm sau.

2.   Nguyên sử q.209,. t.7a, An Nam truyện đã chép về thành Thăng Long khi quân Nguyên tiến vào như sau: “Cung thất có năm cửa, trên đề “Đại Hưng môn”, có cửa nách ở bên phải và bên trái Chính điện có chín gian, đề “Thiên An ngư điện”, cửa chính nam đề “Triều Thiên các”.

3.   An Nam chí lược q.4: “Trấn Nam vương sang sông vào thiết yến ở cung đình”.

4.   Nguyên sử q.209, An Nam truyện, t.7b.

5.   Nguyên sử q.13 Thế tổ bản kỷ 7a: “Nhật Huyên trốn đi, vào thành, lại trở lại đóng ở phía bắc sông Phú Lương (tức sông Hồng - T.G.).

6.   Các tài liệu nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Nguyên đời Trần từ trước đến nay không chú ý đến cánh quân Nguyên từ Vân Nam xuống trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và thường cho việc Trần Nhật Dưật gặp quân Nguyên ở Tuyên Quang là vào cuộc kháng chiến lần thứ ba (1287). Có lẽ là một phần vì Toàn thư không chép việc này vào năm 1285 mà chép vào lúc Nhật Duật chết (1330) và Nguyên sử An Nam truyện không nói đến cánh quân Vân Nam trong cuộc chiến tranh lần thứ hai. Nhưng, nếu chỉ dựa vào Toàn thư, chúng ta cũng biết được Nhật Duật đã chống với quân Nguyên ở Tuyên Quang trong cuộc kháng chiến lần thứ hai. Toàn thư (q.7, t3a) chép. “Cuối niên hiệu Thiệu. Bảo, [Nhật Duật] giữ trại Thu Vật (Yên Bình, Yên Bái) ở Tuyên Quang. Giặc mới đến biên giới, Chiêu Quốc (tức Chiêu Quốc vương Trần ích Tắc - T.G.) tâu rằng Chiêu Văn ở Tuyên Quang làm nội ứng ở trên gọi giặc vào (Nhật Duật thích chơi với người Tống nên Chiêu Quốc nói thế)”. Cuối niên hiệu Thiệu Bảo là năm 1285 (cuộc kháng chiến lần thứ ba thì vào niên hiệu Trùng Hưng) và bấy giờ Trần ích Tắc chưa đầu hàng giặc, như vậy rõ ràng là việc Nhật Duật chống giặc ở Tuyên Quang là vào cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285).

        Hiện nay, chúng tôi đã tìm được một tài liệu chắc chắn chứng minh cho sự kiện này, đó là bài minh khắc trên chuông Thông Thánh Quán ở Bạch Hạc năm Đại Khánh 8 (1321) (bản rập của Thư viện khoa học trung ương số 13955-13958, ghi là chuông ở cửa đình xã Bạch Hạc, tổng Nghĩa An, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên, tức xã Ở đầu cầu Việt Trì, thuộc Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc hiện nay). Theo bài minh này thì Trần Nhật Duật đã đứng ra trông coi việc đúc chuông, vì vậy, những tài liệu trong bài minh có giá trị. Bài minh có đoạn chép: “Cuối mùa đông năm Giáp Thân, giặc Bắc đến xâm lược, bấy giờ Khai Quốc vương trấn thủ các lộ Tuyên Quang…”. Theo bài minh, “Chiêu Văn vương con thứ 6 hoàng đế Thái Tông nay là nhập nội kiểm hiệu thái úy bình Thái đo nguyên soái… thượng trụ quốc Khai Quốc vương”, vậy Khai Quốc vương là tước của Nhật Duật đời Trần Minh Tông. Cuối mùa đông năm Giáp Thân, tức đầu năm 1285.



Một đoạn bài Minh chuông Thông Thánh Quán (Bạch Hạc) của Hứa Tông Đạo, người Trung Quốc ở trong quân Trần Nhật Duật nói về cuộc chiuến đấu ở Tuyên Quang (1285)

7.   Nguyên sử An Nam truyện và Bản kỷ không chép đến cánh quân Nguyên từ Vân Nam xuống nhưng bọn giặc mà Trần Nhật Dưật gặp ở trại Thu Vật thì chỉ có thể là cánh quân Vân Nam, không thể là cánh quân tiến vào Lạng Sơn. Nguyên sử q. 125 Trại Điển Xích Thiêm Tư Đinh (Se ïid äĵäll Sāms ud-Dīn truyện, Nạp Tốc Lạt Đinh (Nā sirt ud-Dīn truyện phụ, t.3b chép: “Năm [Chí Nguyên 22] (1285), [Na-xi-rut Đin Nạp Tốc Lạt Đinh)] đem một nghìn quân Hợp Lạt Chương (Qaraĵang, tức tộc Ô Man ở Vân Nam) Mông Cổ theo hoàng thái tử Thoát Hoan đánh Giao Chỉ, luận công, thưởng hai nghìn lạng bạc”. Nguyên sử chép năm 22 thành năm 32, nhưng đó là nhầm vì năm 32 Na-xi-rut Đin đã chết (từ năm 29) và không có chiến tranh với Đại Việt. Quân Mông Cổ và quân thiểu số ở Vân Nam hẳn đã tiến theo lưu vực sông Chảy (theo tỉnh lộ số 13) nên mới gặp Nhật Duật ở vùng huyện Yên Bình, Yên Bái ngày nay.

8.   Theo Toàn thư q.7, t.3a.

9.   Bài minh chuông thông Thánh Quán có đoạn: “Vào ngày thượng nguyên (tức rằm tháng giêng - T.G.) năm Ất Dậu (20-2-1285), ở sông Bạch Hạc, cắt tóc tuyên thệ, thề với thần là dốc hết lòng trung để báo quân thượng. Rồi suất lĩnh tả hữu quân kỵ, tiến lên phía trước, mới vượt qua vùng Man Lão (chỉ các dân tộc thiểu số - T.G.)… thẳng đến ngự tiền… ”. Bài minh không cho chúng ta biết là Nhật Duật đã rút về gặp vua Trần theo đường nào mà đã qua vùng các dân tộc thiểu số. Theo bài minh này thì đạo sĩ Hứa Tông Đạo là người hương Thái Bình, huyện Phúc Thanh, Phúc Châu, lộ Phúc Kiến, theo thuyền đến Đại Việt năm Bính Tý (1276). Toàn thư (q.6, t.17) chép Hứa Tông Đạo đến vào năm Hưng Long 10 (1302) là nhầm vì chính Tông Đạo viết bài minh này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #47 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2016, 01:41:56 pm »


        Bấy giờ, thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông, cùng triều đình, tông thất và đại quân đã theo sông Hồng rút về hướng phủ Thiên Trường (Nam Định) . Sau khi chiếm được Thăng Long, Thoát Hoan một mặt đợi cánh quân của Toa Đô từ Chiêm Thành tiến ra, một mặt sai các tướng tá truy kích quân Trần. Hữu thừa Kôn Trếch (Könčäk) 2 được lệnh dẫn vạn hộ Mang Khu Đai (Mangqudai) 3 và vạn hộ Bon Kha Đa (Bolqadar) đuổi theo bằng đường bộ. Còn tả thừa Lý Hằng thì dẫn Ô Mã Nhi Bạt Đô (O’mar-ba’atur) đuổi theo bằng đường thủy4.

        Trên con đường rút lui, quân ta vẫn bố trí các trận đánh ngăn cản đường tiến của giặc. Trận đầu tiên sau khi quân ta rút khỏi kinh thành xảy ra ở bãi Đà Mạc (hay Thiên Mạc, tức bãi Mạn Trù bên sông Hồng ở Khoái Châu, Hải Hưng), Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng án ngữ ở đây đã chiến đấu rất dũng cảm để bảo vệ đường rút quân của nhà vua. Nhưng vì địch mạnh, quân ít, Trần Bình Trọng đã sa vào tay giặc. Kẻ thù tìm hết cách dò hỏi tình hình quân ta, nhưng mặc cho chúng dọa nạt, dụ dỗ, ông vẫn không hề khuất phục. ông đã tuyệt thực, nêu cao khí tiết trung dũng của người tướng anh hùng. Giặc toan mua chuộc ông, hỏi ông có muốn làm vương phương Bắc hay không. ông lớn tiếng trả lời giặc: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc"5. Không ham giàu sang, coi thường tính mạng, chỉ biết hy sinh vì Tổ quốc, Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng đã tiêu biểu cho tinh thần của cả dân tộc ta lúc đó. Ngày 21 tháng giêng năm ất Dậu (26/2/ 1285), giặc đã giết ông6. Cảm động vì cái chết dũng cảm của Bảo Nghĩa vương, vua Trần đã vật vã thương khóc7, nhưng vẫn bình tĩnh định kế hoạch chặn đánh quân Nguyên. Quân Trần rút về cửa ải Hải Thị (có lẽ là cửa sông Luộc gặp sông Hồng), đóng cọc đắp bờ chắn sông để đánh địch8. Quân Nguyên đuổi đến Hải Thị. Giặc phối hợp thủy bộ trên dưới bắn vào quân ta rất dữ dội9. Quân ta lui hẳn về đóng ở vùng Thiên Trường (Nam Định) và Trường Yên (Ninh Bình).

        Lúc đó, Thoát Hoan và A-ric Kha-y-a đang tăng cường khống chế vùng sau lưng mà chúng đã đi qua. Trên dọc đường chính từ biên giới Lạng Sơn về đến Thăng Long, quân Nguyên đóng trại san sát. “Vạn hộ Lý Bang Hiến, Lưu Thế Anh dẫn quân mở đường từ Vĩnh Bình vào An Nam, cứ 30 dặm thì lập một trại, 60 dặm đặt một trạm ngựa. Mỗi trại, mỗi trạm đóng 300 quân trấn giữ; tuần tra” 10. Ngoài việc đóng giữ các trại trạm đó, quân Nguyên còn xây dựng thêm đồn lũy để mong củng cố và phát triển phạm vi kiểm soát của chúng: “Lại sai Lưu Thế Anh dựng đồn, chuyên đôn đốc công việc của trại, trạm” 11. Nhưng trên một miền đất rộng lớn đó, địch không thể có quân rải cho đủ và ngay ở vùng chiếm đóng được, chúng cũng không thể kiểm soát nổi. Có một số cánh quân của ta không rút đi đã ở lại tiếp tục hoạt động sau lưng địch cùng với nhân dân, tìm cách chống giặc. Chẳng hạn như cánh quân của quản quân Nguyễn Lộc đã đóng ở châu Thất Nguyên (huyện Tràng Định, Lạng Sơn ngày nay) trước khi quân giặc tiến vào biên giới Lạng Sơn, cho đến nay cánh quân đó vẫn hoạt động ở vùng trại Vĩnh Bình (vùng biên giới các huyện Văn Uyên, Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn ngày nay) 12. Chính hoạt động của những cánh quân đó cùng với việc tự động “liều chết chống giặc” của nhân dân đã làm cho Thoát Hoan và A-ric Kha-y-a phải tăng cường việc phòng thủ ở hậu phương của chúng.

----------------
1.    Theo một bi ký, Phụng Dương công chúa thần đạo bi do Lê Củng Viên soạn năm Hưng Long 1 (1293) (bia ở đền Cao Đài, huyện Mỹ Lộc, Nam Định) thì “mùa đông năm Giáp Thân (chỉ tháng 1/1285), giặc Bắc cướp phương Nam, Thái sư (Trần Quang Khải) lên thuyền đánh giặc”. Nửa đêm thuyền bị hỏa hoạn, Quang Khải đang ngủ, vợ là công chúa Phụng Dương tưởng là giặc đến, lấy thân mình che cho ông. Có lẽ một số quý tộc và gia đình họ đã được bố trí rút khỏi Thăng Long từ sớm.

2.   Nguyên sử phiên âm là Khoan Triệt.

3.   Nguyên sử phiên âm là Mang Cổ Đải, Tục tu trị thông giám đổi theo cách đời Thanh, chép là Mông Cổ Đại. Mang Khu Đai (Mangqudai ~ Mangqutai) có nghĩa là “người của bộ lạc Mang Qut”. Bây giờ vẫn còn tộc Mang Quït ở người U Dơ Bếch.

4.   Nguyên sử q. 209 An Nam truyện t.7b.

5.   Toàn thư q.5, t. 47a.

6.   Toàn thư (q.5 t.47a) chép việc này vào tháng 2 năm Thiệu Bảo 7 (8/3 – 5/4/1285), điều đó không đúng vì bấy giờ quân ta không ở đây nữa và cũng chưa từ Thiên Trường tiến lên đây. An Nam chí lược (q. 4) chép rõ: Ngày 21 là ngày Nhâm Thìn (tháng giêng), đánh vỡ ải Thiên Hán chém được tướng địch là Bảo Nghĩa hầu. Thiên Hán đúng là Thiên Mạc. Chúng tôi cho rằng Lê Trắc đã viết với chữ Mạc là bãi (Toàn thư đùng chữ Mạc là màn) nên các bản chép và in về sau đã dễ dàng nhầm Thiên Mạc thành Thiên Hán. Ngày 21 tháng giêng năm đó không phải là ngày Nhâm Thìn như Lê Trắc đã nhầm mà là ngày Giáp Ngọ (26/2/1285), nếu đúng là ngày Nhâm Thìn thì lại là ngày 19 âm lịch (24/2/1285). Chú ý rằng An Nam chí lược chép là Bảo Nghĩa hầu chứ không phải là Bảo Nghĩa vương. Nguyên sử An Nam truyện và Kinh thế đại điển tự lục thì chép là quân Nguyên bắt được Kiến Đức hầu Trần Trọng. Có lẽ Lê Trắc đã chép đúng tước hiệu vì y là người đồng thời. Có thể Trần Bình Trọng được truy phong tước vương sau khi tuẫn tiết.

7.   Cương mục q.7, t.36b.

8.   An Nam chí lược q. 4 Chinh thảo vận hướng. Chúng tôi đoán cửa ải Hải Thị là cửa sông Hải Triều thời Trần ở chỗ thông với sông Hồng. Theo Cương mục thì sông Hải Triều thời Trần là khúc sông giáp giới hai huyện Tiên Lữ (Hưng Yên) và Hưng Nhân (Thái Bình), như vậy là sông Luộc ngày nay. Theo An Nam chí nguyên (bản đã dẫn, t. 47) “sông Hải Triều… phân lưu từ sông A Lỗ”. Vậy sông A Lỗ là đoạn sông Hồng gần sông Luộc. Kinh thế đại điển tự lục (Nguyên văn loại q. 41, bản đã dẫn, t. 564) chép rằng: “đại quân đuổi Nhật Huyên ở sông A Lỗ và sông Đức Cương”. Sông Đức Cương theo chúng tôi là sông chảy qua Đa Cương tức Long Hưng thời Trần (nay là đất Thái Bình). Cõ lẽ trận ở sông A Lỗ cũng là trận ở cửa Hải Thị.

9.   An Nam chí lược q. 4 chép: “Quan quân trên dưới hai phía bắn chéo”. Điều này phù hợp với việc hai cánh quân bộ của Kôn Trếch và thủy của Lý Hằng truy kích quân Trần chép trong Nguyên sử - An Nam truyện.

10.   Nguyên sử q. 209 An Nam truyện t. 7b.

11.   Như trên.

12.   Nguyên sử q. 209 An Nam truyện chép khi Thoát Hoan vào biên giới, “An Nam quản quân phú (?) Nguyễn Lộc đóng quân ở châu Thất Nguyên” (t. 6a), khi vua Trần đã về Thiên Trường, Trường Yên, “Nguyễn Lộc đóng ở Vĩnh Bình đường phía tây” (t. 7b). Vĩnh Bình tức trại Vĩnh Bình. T. Yamamoto căn cứ vào Đồng Khánh địa dư chí, Lạng Sơn, ở tổng Trử Trĩ châu Thoát Lãng có xã Vĩnh Trại, mà cho Vĩnh Bình trại là ở vùng này (T. Yamamoto: Sách đã dẫn, t. 169). Hiện nay xã này thuộc đất huyện Cao Lộc gần Kỳ Lừa. Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt (I, t. 105) cũng cho trạm Giao Chỉ thuộc trại Vĩnh Bình đời Tống là ở chợ Kỳ Lừa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #48 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2016, 02:07:06 pm »


        Từ khi Thoát Hoan xuất quân, Toa Đô đã được lệnh từ Chiêm Thành tiến ra để phối hợp. Triều đình Trần cũng đã nghĩ đến điều đó. Chính vì thế mà vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã để một số quân lớn trấn giữ ở miền Diễn Châu và Nghệ An (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay). Trong khi hầu hết quân lực vùng đồng bằng Bắc Bộ được huy động về cứ điểm Vạn Kiếp thì - như lời thơ của Nhân Tông - “Hoan Diễn còn kia chục vạn quân” (Hoan Diễn do tồn thập vạn binh). Miền đất phía nam này từ trước vua Trần đã giao cho những vương hầu thân tín trấn trị. Năm 1269, Tĩnh Quốc đại vương Quốc Khang (anh Thánh Tông) được phong làm Vọng Giang phiêu kỵ đô thượng tướng quân vào giữ đất Diễn Châu1. Đến nay, để ngăn cánh quân Toa Đô từ Chiêm Thành đánh ra, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, người chiến tướng vừa vượt qua vòng vây của giặc ở mặt trận Tuyên Quang đã được lệnh vội vã lên đường vào trấn giữ Nghệ An2. Trong lúc cả nước đang chống giặc thì Chương Hiến hầu Trần Kiện, con Tĩnh Quốc vương Quốc Khang, vì hiềm khích với hoàng tử Tá Thiên vương Đức Việp, đã nằm dài ở hương Tức Mặc, lấy cớ học đạo Lão Trang. Để tăng cường bảo vệ phía nam, vua Trần đã gọi y ra, sai đem quân vào Thanh Hóa3. Ngày 28 tháng giêng năm Ất Dậu (5/3/1285), vua Trần lại theo lời đề nghị của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, cử thêm thượng tướng thái sư Chiêu Minh vương Trần Quang Khải vào tăng viện cho Nghệ An4.

        Hai vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn quyết tâm giữ vững mặt nam, còn mặt bắc thì lấy Thiên Trường, Trường Yên làm căn cứ, củng cố lực lượng, để tiến lên đánh bật quân Thoát Hoan, giải phóng Thăng Long. Vào lúc này, vua Trần và Quốc Tuấn đã bắt đầu có ý định phản công. Thăng Long tuy lọt vào tay giặc nhưng lực lượng của ta vẫn bảo toàn được5, các lộ phía đông và phía nam của đồng bằng Bắc Bộ vẫn còn là nguồn tài lực và nhân lực phong phú. Sau khi rút khỏi Thăng Long, sau mấy trận cản giặc ở vùng Khoái Lộ (Khoái Châu, Hưng Yên), hai vua Trần đem quân về. Thiên Trường (Nam Định), Trường Yên (Ninh Bình) 6. Về đến đây, triều đình Trần bắt tay ngay vào việc củng cố lực lượng. Ngay A-ric Kha-y-a cũng phải thừa nhận là bấy giờ ở Thiên Trường và Trường Yên, vua Trần đã tập hợp được binh lực7.

        Xây dựng lực lượng ở Thiên Trường và Trường Yên, vua Trần đã chuẩn bị cho việc theo sông Hồng tiến lên phản công kẻ thù. Trong lúc đó, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và Phạm Ngũ Lão đem hơn một nghìn chiến thuyền tiến lên đóng ở Vạn Kiếp8. Việc Trần Quốc Tuấn đem quân trở lại Vạn Kiếp chứng tỏ rằng Thoát Hoan không kiểm soát được các phủ lộ phía đông như Long Hưng (Thái Bình), Hồng (Nam Hải Dương), Nam Sách (Bắc Hải Dương),… và cũng nói lên rằng quân địch đã không kiểm soát được những vùng mà chúng đã đi qua. Có lẽ Trần Quốc Tuấn đã từ Long Hưng (Thái Bình) tiến về Vạn Kiếp theo đường sông Thái Bình. Đóng quân ở Vạn Kiếp lần này, Quốc Tuấn muốn tạo một gọng kìm tấn công vào phía bắc của quân Thoát Hoan, phối hợp với cánh quân tiến từ Thiên Trường lên theo đường sông Hồng, đồng thời chặn đường rút lui của dịch. Hơn một nghìn chiến thuyền rút khỏi Vạn Kiếp sau trận ngày 14 tháng 2 năm 1285, bây giờ Quốc Tuấn lại trở về Vạn Kiếp với hơn một nghìn chiến thuyền. Như vậy là lực lượng quân tá đã bảo toàn và khôi phục.

        Trong lúc đó, ở vùng sau lưng địch, những hoạt động chiến đấu chống giặc của các cánh quân địa phương và nhân dân cũng phát triển mạnh mẽ. Nguyễn Lộc trước đây hoạt động ở vùng Thất Nguyên (Tràng Định), Vĩnh Bình (Cao Lộc), thì nay đã mở rộng phạm vi khắp vùng Lạng Sơn9.

        Tình hình đó đã làm cho Thoát Hoan và A-ric Kha-y-a vô cùng lo lắng. Bọn chúng vội vàng xin Hốt Tất Liệt cho quân tiếp viện. Đây là tình hình bi đát mà A-ric Kha-y-a đã báo về với Hốt Tất Liệt: “ở hai xứ Thiên - Trường và Trường Yên mà Trần Nhật Huyên trơn đến, binh lực lại tập hợp, Hưng Đạo vương tụ tập hơn một nghìn chiếc thuyền ở Vạn Kiếp, Nguyễn Lộc ở Vĩnh Bình, cỏn quan quân thì đi xa, đánh lâu ở lơ lửng quãng giữa, Toa Đô và Tang-gu-tai10 thì đến không đúng kỳ hạn” 11. “Ở lơ lửng quãng giữa” có nghĩa là ở phía bắc (Lạng Sơn), phía đông (Vạn Kiếp, Hải Dương) và phía nam (Thái Bình, Nam Định), quân thù đều gặp sức chiến đấu của quân dân ta.

        Một mặt xin tăng viện12, một mặt Thoát Hoan cố gắng tập trung binh lực tấn công xuống Thiên Trường, hòng bắt được triều đình Trần, phá vỡ căn cứ của quân ta, thông con đường liên lạc với Toa Đô, thoát ra khỏi cái thế bị “lơ lửng ở quãng giữa” hiện tại.

--------------------
1.   Toàn thư q. 5, t. 32b.

2.   An Nam chí lược q. 4 chép rằng vua Trần sai em là Chiêu Văn vương Trần Duật và hầu Trịnh Đình Toản chống giữ ở Nghệ An vào tháng giêng âm lịch. Chúng ta nhớ rằng ngày rằm tháng giêng âm lịch (20/2/1285) Trần Nhật Duật còn ở Bạch Hạc (Việt Trì). Trong số các sứ Trần sang Nguyên năm 1278, có một người tên là Trịnh Đình Toản (Toàn thư, An Nam chí lược, xem chương IV). Trịnh Đình Toản bị giữ lại ở Trung Quốc (Nguyên sử, An Nam truyện chép là Trịnh Quốc Toản). Năm 1283, vua Trần đưa thư cho A-ric Kha-y-a đòi tha các sứ bị giữ, A-ric Kha-y-a đã thả các sứ ta. Không rõ trong số đó có Trịnh Đình Toản không và Trịnh Đình Toản đó có phải là người cùng Nhật Dượt vào Nghệ An không. Nhưng Trịnh Đình Toản đi sứ không phải là tước hầu. Có lẽ hầu Trịnh Đình Toản là Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản chép nhầm ra.

3.   An Nam chí lược q. 4 và q. 13.

4.   Toàn thư q. 5, t. 46b.

5.   Nguyên sử q. 209 An Nam truyện t. 7b chép rằng khi vua Trần rút khỏi Thăng Long thì số quân còn rất đông.

6.   Kinh thế đại điển tự lục (Nguyên văn loại q. 41, bản đã dẫn, t. 564) chép: “Nhật Huyên (tức Thánh Tông - T.G.) chống đánh bị thua, bỏ thành về phủ Thiên Trường”. Nguyên sử q. 209 An Nam truyện, t. 7b chép: “Nhật Huyên đem tông tộc, quan lại về đồn trú ở Thiên Trường, Trường Yên”.

7.   Nguyên sử q. 13 Thế Tố bản kỷ t. 8b: “Bấy giờ ở hai xứ Thiên Trường, Trường Yên mà Trần Nhật Huyên trốn đến, binh lực lại tập hợp được”.

8.   Nguyên sử q. 13 Thế tổ bản kỷ t. 8b chép: “Hưng Đạo vương tụ tập hơn một nghìn thuyền ở Vạn Kiếp”. Nguyên sử q. 209 An Nam truyện cũng chép: “Hưng Đạo vương, Phạm điện tiền (chỉ Phạm Ngữ Lão - T.G.) đem binh thuyền lại tụ tập ở cửa sông Vạn Kiếp” (t.7b).

9.   Nguyên sử An Nam truyện chép là quản quân Nguyễn Lộc đóng ở Thất Nguyên (q. 209, t. 6a) và ở Vĩnh Bình (t. 7b) (xem phần trên). Bản kỷ cũng.chép là Nguyễn Lộc ở Vĩnh Bình (q. 13, t. 8b). Sau này Toàn thư có nói đến thổ hòa Lạng Giang là Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh tập kích bọn Việt gian hàng giặc ở trại Ma Lục (q. 5, t. 46b). Lạng Giang đời Trần là vùng Bắc Giang ngày nay. Theo Tự sự của Lê Trắc trong An Nam chí lược (q. 16) thì bọn Việt gian bị tập kích ở Chi Lăng (thuộc Ôn Châu, Lạng Sơn). Như vậy là Nguyễn Thế Lộc đã tập kích bọn này trên đất Lạng Sơn chứ không phải trên đất Lạng Giang. Chúng tôi cho rằng Nguyễn Lộc trong Nguyên sử và Nguyễn Thế Lộc trong Toàn thư là một người, vốn là một thổ hòa dân tộc Tày, được vua Trần phong chức quản quân, coi một cánh quân (có lẽ là người miền núi). Chú ý là khi tập kích bọn Việt gian, cùng với Nguyễn Thế Lộc có gia nô Hưng Đạo Vương là Nguyễn Địa Lô, như vậy trong cánh quân của Nguyễn Thế Lộc có cả quân Hưng Đạo vương.

10.   Tang’u tai, ở đây phiên âm là Đường Cổ Đại, tức Đường Ngột Đải trong An Nam truyện, đã được Thoát Hoan sai đến Chiêm Thành gọi Toa Đô từ trước (xem trước).

11.   Nguyên sử q. 3 Bản kỷ t. 8b.

12.   Theo Nguyên sử Bản kỷ, đến ngày Quý Vị, 10 tháng 3 năm Chí Nguyên 22 (16-4-1285), Hết Tất Liệt mới ra lệnh cho quân tiếp viện, có lẽ là do tin tức của A-ric Kha-y-a báo về chậm. Hết Tất Liệt “thấy đi đường thủy nguy hiểm, ra lệnh theo đường bộ mà đi” (Bản kỷ q. 13, t. Cool. Đạo quân tiếp viện có lẽ do A-ba-tri (Abači, A Bát Xích) dẫn đi. Nguyên sử q. 129 Lai A Bát Xích (A-ba-tri) truyện chép: “Năm (Chí Nguyên 22) (1285), trao chức Chính đông tuyên úy sứ đô nguyên soái. Hoàng tử Trấn Nam vương đánh Giao Chỉ, trao chức hữu thừa hành trung thư tỉnh ở các xứ Hồ Quảng, triệu vào bệ kiến, Thế Tổ (Hất Tất Liệt - T.G.) thân cởi áo mặc cho…”. Nhưng có lẽ vì Thoát Hoan trong tháng 3 đã gỡ được thế bí, và sau đó lại thua rất nhanh, nên toán quân này không vào nước ta.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #49 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2016, 02:16:48 pm »


        Vào lúc đó, vua Trần cũng đã chuẩn bị lực lượng ngược sông Hồng, tiến đánh Thoát Hoan. Ngày mồng 3 tháng 2 âm lịch (10/3/1285), quân ta gặp địch do Thoát Hoan chỉ huy ở sông Đại Hoàng (khúc sông Hồng chảy qua huyện Lý Nhân, Hà Nam). Trong lần giao chiến này quân ta lại rút lui1. Quân Nguyên đang lúng túng mà quân ta chưa thể chiến thắng được là vì thực lực của chúng vẫn còn mạnh. Từ sau khi chiếm Thăng Long, chủ lực địch chưa bị hao tổn nhiều. Về phía ta, lực lượng đã bắt đầu khôi phục nhưng phải dồn một phần lớn cho việc chống giữ miền Thanh - Nghệ. Ở mặt trận phía nam này, quân ta chưa thể chặn đứng được giặc. Cánh quân của Toa Đô đang ồ ạt tấn công ra. Chính do tình hình đó mà quân Trần phải rút lui sau trận trên sông Đại Hoàng.

        Từ cuối tháng giêng âm lịch, bọn đại vương Giảo Kỳ2, hữu thừa Toa Đô, tả thừa Tang-gu-tai, tham chính Khê-đê3 từ Chiêm Thành đánh vào Bố Chính (vùng các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch tỉnh Quảng Bình ngày nay) rồi tiến ra Nghệ An. Trần Nhật Duật và Trịnh Đình Toản (Trần Quốc Toản?) chống cự ở Nghệ An không cản được địch, phải rút lui4. Lúc đó quân của Trần Quang Khải chưa vào đến Nghệ An (ngày 28 tháng giêng âm lịch (5/3/1285) Quang Khải mới đi). Một bộ phận quân Nguyên tiến thẳng ra Thanh Hóa. Ở đây, chúng đã gặp Chương Hiến hầu Trần Kiện. Tên quý tộc hèn nhát này, trước lúc cầm quân đi, còn “ở ẩn”, học đạo Lão Trang vì bất mãn. Khi kẻ thù chưa đến, hắn đã run sợ và âm mưu phản bội5. Ngày Giáp Thìn, mồng 1 tháng 2 âm lịch (8/3/1285), Trần Kiện đã cùng với bọn Lê Trắc và gia thuộc hàng giặc6. Việc Trần Kiện phản bội, nắm trong tay một vạn quân mà hàng giặc, sau đó lại dẫn đường cho kẻ thù tấn công quân ta, làm cho việc phòng thủ mặt nam của quân ta gặp thêm nhiều khó khăn. Ngày Ất Tỵ, mồng 2 tháng 2 (9/3/1285), Giảo Kỳ đem quân lội qua cửa nam cửa kênh Vệ Bố7. Ở đây, tướng Trần là Đinh Xa và Nguyễn Tất Thống bị hy sinh8. Ngày Kỷ Dậu, mồng 6 tháng 2 (13/3/1285), Trần Kiện lại dẫn đường cho bọn Giảo Kỳ đánh Chiêu Minh vương Quang Khải ở bến Phú Tân9. Tham gia chiến đấu ở Thanh Hóa bấy giờ còn có Văn Túc vương Đạo Tái, Tá Thiên vương Đức Việp và Chiêu Hiếu vương (chưa rõ tên). Chiêu Hiếu vương và đại liêu Hộ đã bị hy sinh10. Quang Khải liền lui quân. Như vậy là địch đã chiếm được Thanh - Nghệ. Quân ta, trừ bọn Trần Kiện hàng giặc, còn thì đã rút lui.

        Ở phía bắc, quân ta cũng đã rút lui sau trận Đại Hoàng. Tình hình đó làm cho Thoát Hoan gỡ được thế bị động. Rút được kinh nghiệm lần trước, hắn đã dồn binh lực gấp rút đuổi theo vua Trần.

        Vua Trần phải tìm kế hoãn binh, sai Trung Hiếu hầu Trần Dương gặp Thoát Hoan xin cầu hòa và sai cận thị Đào Kiên đem công chúa An Tư, em út của Thánh Tông, cho Thoát Hoan11. Đấy chỉ là mưu sách cốt để làm trì hoãn việc truy kích của Thoát Hoan để quân ta rút lui được dễ dàng thôi. Thoát Hoan đã giam giữ Trần Dương12 và sai thiên hộ họ Ngải đòi vua Trần phải thân đến gặp hắn. Vua Trần tất nhiên không chịu13.

------------------
1.    An Nam chí lược q. 4 chép trận Đại Hoàng vào ngày 3, Đinh Tị, tháng 2. Ngày mồng 3 tháng 2 năm đó không phải là ngày Đinh Tị mà là ngày Bính Ngọ (10/3/1285). Ngay ở dòng trên, Lê Trắc còn chép đúng ngày 2 là Ất Tị. Toàn thư không chép gì đến trận này.
2.   An Nam chí lược q. 4 chép là đại vương Giáo Kỳ, Kinh thế đại điển tự lục (bản đã dẫn, t. 564) chép là tông vương Giáo Kha. Chữ kỳ và chữ kha dễ chép lẫn với nhau, nhưng âm đọc lại khác xa nhau. Chúng tôi chưa thể khôi phục lại tên Mông Cổ (tuy đoán rằng chữ kha có lẽ đúng hơn).

3.   An Nam chí lược q. 4 chép là Chính Hắc Đích rõ ràng đã sót chữ “tham”, vì phải là tham chính Hắc Đích mới hợp lý. Hắc Đích là một cái tên có trong Nguyên sử (theo Tam sử đồng danh lục thì Nguyên sử có đến ba người có tên là Hắc Đích). Có lẽ là một cái tên Nữ Chân chứ không phải là tên Mông Cổ. Nguyên sử ngữ giải (q. 1 1, t. 12a) đổi phiên âm là Hách Đức cho là do tiếng Mãn Châu (Qädä) nghĩa là “di sản”. Chúng tôi tạm theo Nguyên sử ngữ giải.

4.   An Nam chí lược q. 4 Chinh thảo vận hướng. Nguyên sử q. 129 Toa Đô truyện chép Toa Đô “đánh bại quân Giao Chỉ ở phủ Thanh Hóa, đoạt được cửa quan Nghĩa An”. Phải chép đảo ngược lại mới đúng với địa lý. Cửa quan Nghĩa An tức cửa quan Nghệ An, có lẽ chỉ đèo Ngang. Toa Đô từ Bố Chính (Quảng Bình) qua cửa Nghệ An tức đèo Ngang, tiến đến Nghệ An (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay).

5.   An Nam chí lược q. 13.

6.   Toàn thư q. 5, t. 46b. An Nam chí lược q. 13 tại chép: “Tháng giêng, Kiện đem bọn Trắc cùng vạn quân dâng vũ khí và hàng Trấn Nam vương”.

7.   An Nam chí lược q. 4 chép là Vệ Bố kính khẩu. Chúng tôi cho là Vệ Bố kinh khẩu (do chữ kinh in nhầm thành chữ kính), có nghĩa là cửa kênh Vệ Bố. Theo chúng tôi Vệ Bố tức là Bố Vệ (Cầu Bô) ở huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa ngày nay. Sách Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư (An Nam cương vực bị lục) của Cố Viêm Vũ đời Minh còn chép đến cửa ra biển Bố Vệ ở huyện Duyên Giác (tức phần phía bắc huyện Quảng Xương ngày nay). Như vậy là bấy giờ, ở khoảng Bố Vệ (Cầu Bô) ngày nay còn một cửa ra biển (cửa sông Chu), tức là cửa kênh Vệ Bố mà An Nam chí lược chép đến.

8.   An Nam chí lược q. 4. Có người đọc là Nguyễn Tất Dũng.

9.   An Nam chí lược q. 4.

10.   Kinh thế đại điển tự lục (Nguyên văn loại q. 41, bản đã dẫn, t. 654) chép: “Tả thừa Tang-gu-tai (Đường Ngột Đải đánh bại quân của thái sư Chiêu Minh vương, Vân Túc vương, Tả Thiên vương. Tông vương Giáo Kha (tức Giáo Kỳ ở An Nam chí lược - T. G), đánh bại Chiêu Hiếu vương ở phủ Thanh Hóa, chém được”. Vân Túc vương thì đúng là Văn Túc vương Đạo Tái, con thứ hai của Quang Khai, Tả Thiên vương là Tá Thiên vương Đức Việp con Thánh Tông. Nguyên sử q. 209 An Nam truyện t. 7b chép: “Tang-gu tai và Toa Đô… đánh bại quân Chiêu Minh vương, đánh Chiêu Hiếu vương, đại liêu Hộ, đều chết”.

11.   An Nam chí lược q. 4 chép: vua Trần “sai tông nhân là Trung Hiến hầu Trần Dương xin hòa, lại sai luôn cận thị Đào Kiên đem quốc muội dâng Trấn Nam vương xin hưu chiến”. Toàn thư q. 5, t. 47a: “Sai người đưa công chúa An Tư (em út Thánh Tông) cho Thoát Hoan, mong thư quốc nạn”.

12.   An Nam chí lược q. 13. “Thế tử sai tông nhân là Trung Hiến hầu Trần Thang, đại phu Nguyễn Nhuệ đến xin hòa, nhưng bọn Trần Thang, nhưng bọn Trần Thang bị giữ lại ở trong quân”. Trần Thang tức Trấn Dương, lầm lẫn vì chữ gần giống nhau. Khi Thoát Hoan thua chạy “đem cả Nhuệ theo về Bắc, Nhuệ trốn, ẩn náu ở dưới chằm cỏ, quân lính (Nguyên) bắt được liền chém Nhuệ”. An Nam chí lược q. 13. “Thế tử sai tông nhân là Trung Hiến hầu Trần Thang, đại phu Nguyễn Nhuệ đến xin hòa, nhưng bọn Trần Thang, nhưng bọn Trần Thang bị giữ lại ở trong quân”. Trần Thang tức Trấn Dương, lầm lẫn vì chữ gần giống nhau. Khi Thoát Hoan thua chạy “đem cả Nhuệ theo về Bắc, Nhuệ trốn, ẩn náu ở dưới chằm cỏ, quân lính (Nguyên) bắt được liền chém Nhuệ”.

13.   An Nam chí lược q. 4 chép: “Ngải thiên hộ sang dụ thế tử nói đã xin hòa sao không thân đến bàn định. Thế tử không nghe”.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM