Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:20:05 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII  (Đọc 26990 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« vào lúc: 21 Tháng Tám, 2016, 10:05:16 am »


        - Tên sách: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII
        - Tác giả: Hà Văn Tấn-Phạm Thị Tâm
        - Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
        - Năm xuất bản: 2003
        - Số hóa: macbupda
        - Hiệu đính: Giangtvx

        (In theo bản in lần thứ ba của Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 1972)

CHƯƠNG MỞ ĐẦU

VỀ CÁC NGUỒN SỬ LIỆU

        
“Đến nay dân bốn biển        
        Nhớ mãi năm bắt thù”
1        
        Phạm Sư Mạnh        

        Trong những bản thảo bộ Jami al - Tawàrìkh (Tập sử biên niên) viết bằng chữ Ba Tư của nhà sử học nổi tiếng thế kỷ XIII Ra Sit Ut - Đin (Fazl Allah Radsidud - Dīn, 1247-1318), người ta đọc được những dòng sau đây về một nước Kiafca xa xôi:

        “Nước đó có những vùng khó đi lại và nhiều rừng cây, giáp với Karaĵan2, một phần giáp Hindostan và biển. Ở đó có hai thành thị là Luĵek(?) và ĵesam(?). Nước đó có quốc vương riêng, không thần phục hãn (vua Mông Cổ - T.G.) Tugan3, con trai của hãn, chỉ huy đội quân của Lukin Fu4 để bảo vệ miền Manzi5 cũng như để ngăn ngừa và chống lại những ai không khuất phục. Một lần, Tugan đem quân vào nước đó, chiếm lấy các thành thị ven biển và thống trị ở đấy trong một tuần lễ. Nhưng bỗng nhiên từ biển, từ rừng, từ núi, xuất hiện những đội quân nước đó đánh tan đạo quân của Tugan đang lo cướp bóc. Tugan trốn thoát và lại trở về đóng ở Lukin-fu”6.

        Kifaca, có bản chép là Kiefce - Kue, chính là phiên âm tên Giao Chỉ hay Giao Chỉ quốc. Mặc dầu quá đơn giản và có chỗ sai lầm, nhà sử học Ba Tư đã nói đến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống quân Nguyên vào thế kỷ XIII. Cuộc chiến đấu anh dũng và thần kỳ diễn ra khắp đất nước, “từ biển, từ rừng, từ núi”, đã đánh tan bọn xâm lược Thoát Hoan (Tô-gan) hung hãn. Hẳn chiến thắng oanh liệt của Đại Việt (quốc hiệu Việt Nam bấy giờ) đã có tiếng vang lớn nên Ra Sít Ut - Đin, nhà sử học Thành Ha Ma Đan (Hamadhan) ở tận phía tây của châu Á mới chép vào bộ sử của mình những dòng trên.

        Điểu đáng tiếc là những dòng như vậy thật quá ít trong các sử liệu thế kỷ XIII của đế quốc Mông cổ. Muốn nghiên cứu cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam thế kỷ XIII, phải dựa vào hai nguồn sử liệu chủ yếu: sử liệu Việt Nam và sử liệu Trung Quốc. Nhưng cả hai nguồn sử liệu này đều kém phong phú.

        Bộ Trung hưng thực lục đời Trần chép các chiến công chống Nguyên nay không còn nữa7. Các sách binh pháp của nhà quân sự thiên tài Trần Quốc Tuấn như Binh thư yếu lược8, Vạn Kiếp tông bí truyền thư đã mất. Quyển Binh thư yếu lược hiện có chỉ là một quyển sách giả do người đời sau soạn. Ngay bộ Đại Việt sử ký tục biên do nhà sử học Phan Phu Tiên soạn năm 1445 chép tiếp Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu giai đoạn đầu từ đầu Trần đến Lê Lợi khởi nghĩa cũng không tìm thấy. Hiện nay, chúng ta chỉ còn đọc được những sử liệu về cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỷ XIII trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư của nhà sử học Ngô Sĩ Liên soạn năm 1479. Chúng ta có thể tin chắc là khi chép về giai đoạn lịch sử này Ngô Sĩ Liên còn có trong tay những sử liệu đời Trần và bộ sử của Phan Phu Tiên. Vì thế, những điều ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư thật đáng quý. Tuy nhiên những tài liệu về cuộc kháng chiến chống Nguyên trong Toàn thư quá sơ sài ít ỏi, nếu chỉ dựa vào đấy thì thật là khó khăn trong việc khôi phục những trang sử vẻ vang của dân tộc thế kỷ XIII. Đấy là chưa kể ở nhiều chỗ Ngô Sĩ Liên đã lầm lẫn như chép rằng thuyền lương của Trương Văn Hổ bị đắm trong trận Bạch Đằng, Nguyễn Khoái bắt được Áo Lỗ Xích (Auruči) hay Thoát Hoan (Toan) cũng bị ta bắt…9. Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán đời Nguyễn (hoàn thành năm 1859, hiệu đính năm 1871 - 1878, in năm 1884) đã tham khảo các tài liệu Trung Quốc như Nguyên sử, Nguyên sử loại biên, Thông giám tập lãm để đính chính những sai lầm trên của Toàn thư. Nhưng do thiếu thận trọng trong khi tham khảo tài liệu Trung Quốc, Khâm định Việt sử thông giám cương mục lại mắc những sai lầm khác. Chẳng hạn Cương mục đã chép trận Vân Đồn xảy ra vào tháng giêng, năm Trùng Hưng 4 (3 tháng 2 - 3 tháng 3 năm 1288) lúc Ô Mã Nhi (‘Omar) đem thuyền đi đón Trương Văn Hổ, kỳ thực thì trận Vân Đồn xảy ra vào tháng 12 năm Trùng Hưng 3 (5 tháng 1 - 2 tháng 2 năm 1288), lúc thủy quân Nguyên tiến vào đất nước chúng ta10. Sai lầm đó của Cương mục dẫn tới sai lầm của nhiều tác phẩm hiện nay viết về vấn đề này. Những sử liệu mới rút ra từ sách Trung Quốc do Cương mục bổ sung cũng không được bao nhiêu. Nếu chúng ta có trong tay các thư tịch Trung Quốc và Đại Việt sử ký toàn thư thì có thể không cần dùng đến Cương mục, một bộ sử xuất hiện muộn, để nghiên cứu cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỷ XIII. Trong khi viết quyển sách này, chúng tôi lấy tài liệu ở Toàn thư mà không dựa vào Cương mục, trừ những chỗ cần so sánh.

---------------
1. Trích dịch trong bài thơ ca tụng chiến thắng Bạch Đằng của nhà thơ Phạm Sư Mạnh đời Trần khắc ở hang Kính Chủ, nay vẫn còn.

2. Karajan (tiếng Mộng Cổ là Qara ĵ ang, Nguyên sử phiên âm là Cáp Lạt Chương hay Hợp Lạt Chương) là chỉ vùng người Thoán Ô Man ở Vân Nam (tiếng Mông Cổ qara là “đen”, jang là chỉ người Thoán, xem thêm chủ thích ở chương III).

3. Tugan là cách gọi Ba Tư tên Mông Cổ Toan (hay Toon). Tức Thoát Hoan trong Nugyên sử.

4. Lukin Eu, có bản chép là Lunkin Eu, d’osson đoán là Quế Lâm phủ là sai lầm. Lukin Eu là Long Hưng phủ ở Giang Tây.

5. Tên Mông Cổ chỉ vùng Nam Trung Quốc, đất Nam Tống trước đây.

6. Tập sử biên niên, bản dịch tiếng Nga, tập II, 1960, T.184; d’ohson có dịch đoạn này ra tiếng Pháp trong Histore dé Mongols depuis T Chinguiz - Khan Jusqu’à Timour bey ou Tamerlan. Tập II, 1834, t.640.

7. Theo Toàn thư, trong kháng chiến chống Nguyên, người nào có công lớn thì được chép vào Trung hưng thực lục và vẽ hình (1.5,t.57b).

8. Trong bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn thì sách này gọi là Binh thư yếu lực nhưng Toàn thư (q.6, t.11b) còn gọi là Binh gia diệu lý yếu lược.

9. Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, q.5, t.54.

10. Xem chương VII.

(Dấu  không thể hiện được ở đây giống chữ gamma trong tiếng Hy Lạp)
« Sửa lần cuối: 21 Tháng Tám, 2016, 11:32:40 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #1 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2016, 11:38:47 pm »

        Hiện nay ở Thư viện Khoa học Trung ương còn có một số sách chép tay bằng chữ Hán có liên quan đến cuộc kháng chiến chống Nguyên như Trần Đại vương bình Nguyên thực lục, Vạn yên thực lục, Trần triều thế phả hành trạng, Trần gia điển tích thông biên… Những sách này đều là được biên soạn về sau, phần lớn là đời Nguyễn, không có giá trị gì mấy, thường là chép lại các tài liệu ở chính sử, hoặc thêm thắt bằng truyền thuyết. Do đó chúng tôi rất ít dùng loại tài liệu này.

        Hiện nay chúng tôi cố tìm các bi ký thời Trần để bổ sung cho nguồn sử liệu Việt Nam nghèo nàn về cuộc kháng chiến oanh liệt này. Nhưng việc tìm kiếm đó chưa có kết quả mấy. Bia công chúa Phụng Dương (vợ Trần Quang Khải do Lê Củng Viên soạn năm 1293 có những chi tiết liên quan đến việc rút lui của vương triều Trần khỏi Thăng Long năm 12851. Chúng tôi cũng đọc được ở bài minh khắc trên quả chuông Thông Thánh quán Bạch Hạc năm 1321 những sử liệu về cuộc chiến đấu của Trần Nhật Duật ở Tuyên Quang trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (quả chuông này do chính Trần Nhật Dưật coi việc đúc)2.

        Một tác phẩm quan trọng mà chúng tôi đã sử dụng là An Nam chí lược của Lê Trắc. Lê Trắc là môn khách của Chương Hiến hầu Trần Kiện, đã cùng chủ đầu hàng quân Nguyên năm 1285. Y soạn bộ sách này ở Trung Quốc vào những năm đầu thế kỷ XIV3. Với một lập trường rất phản động, Lê Trắc đã đề cao kẻ thù, bôi nhọ những trang sử vẻ vang của dân tộc. Về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, Lê Trắc luôn luôn chép kẻ địch thắng, nhưng mặc dầu vậy, y vẫn không che giấu nổi những thất bại nhục nhã của bọn cướp nước và bán nước. Vì đây là tài liệu của một kẻ hàng giặc nên phải vô cùng thận trọng khi sử dụng. Tuy vậy, An Nam chí lược vẫn là một tài liệu rất cần thiết đối với việc nghiên cứu cuộc kháng chiến chống Nguyên. Trong sách này, Lê Trắc đã chép được những thư từ qua lại giữa vua Trần và vua Nguyên cũng như thư của các sứ thần, quan lại (q.2 Đại Nguyên chiếu chế, q.5 Đại Nguyên chư thần vãng phục thư vấn, q.6 Biểu chương). Đấy là những tài liệu quan trọng để nghiên cứu quan hệ ngoại giao Việt - Nguyên trong giai đoạn đó. Những sứ bộ ngoại giao được chép trong quyển 3 Đại Nguyên phụng sứ và quyển 14 Trần Thị khiển sứ. Chúng ta còn có thể khai thác tài liệu về diễn biến các trận trong quyển 4 Chinh thảo vận hướng. Lê Trắc đã chép các sự kiện với ngày tháng rõ ràng, điều đó giúp chúng ta có thể đối chiếu với các tài liệu khác mà khôi phục được quá trình diễn biến các sự kiện theo trình tự thời gian. Những tiểu truyện, thơ văn của bọn hàng giặc và ngay cả bài Tự sự của Lê Trắc cũng cho chúng ta thấy được tinh thần khiếp nhược, tâm trạng hoang mang của những tên bán nước và sức chiến đấu mãnh liệt của quân dân ta. Chính vì thế, chúng tôi đã sử dụng An Nam chí lược coi nó là một tài liệu cần thiết trong việc nghiên cứu cuộc kháng chiến chống Nguyên. Tất nhiên chúng tôi không tìm ở đây những trang tràn đầy tinh thần dân tộc như dưới ngòi bút của Ngô Sĩ Liên mà phải tìm lại hình ảnh cuộc chiến đấu của dân tộc qua bức màn đen của Lê Trắc. Những hình ảnh đó có chỗ vẫn hiện lên rõ nét và sinh động. Đó là điều Lê Trắc không muốn và không ngờ tới.

        Nếu việc sử dụng An Nam chí lược gặp khó khăn do sự xuyên tạc của Lê Trắc thì việc sử dụng các thư tịch cũ của Trung Quốc có liên quan đến vấn đề này cũng như vậy.

        Chính sử Trung Quốc xưa nhất có chép đến vấn đề này là Nguyên sử4. Nguyên sử được biên soạn đầu đời Minh, do Tống Liêm, Vương Vĩ và một số người khác (bài biểu dâng Nguyên sử của Lý Thiện Trường đề năm 1369). Các tác giả đã dựa vào các sử liệu thư tịch đời Nguyên còn lại ở Bắc Kinh để viết bộ sử này. Chúng ta có thể tìm thấy những sử liệu quan trọng liên quan đến cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông rải rác trong phần Bản kỷ Hiến Tông và Thế Tổ, trong một số truyện những viên tướng hay sứ giả ở phần Liệt truyện và tập trung ở An Nam truyện (q 209) và Chiêm Thành truyện (q.210)5. Điều đáng chú ý là các tác giả tuy là sử gia đời Minh nhưng khi viết Nguyên sử họ vẫn đứng trên lập trường bọn phong kiến nhà Nguyên. Đứng về mặt phương pháp biên soạn mà nói, Nguyên sử là bộ sử kém nhất, chứa đựng nhiều điều sai lầm và hỗn loạn nhất trong 24 bộ sử Trung Quốc. Một số người nghiên cứu lịch sử sử học Trung Quốc đã cho rằng sở dĩ như vậy là tuy các tác giả có sử dụng các tài liệu đời Nguyên nhưng họ đều không hiểu tiếng Mông Cổ và phải soạn gấp trong một thời gian quá ngắn chưa đầy một năm theo lệnh Minh Thái Tổ6.

        Chính vì thế mà nhiều sử gia về sau đã cố gắng bổ sung Nguyên sứ. Đời Minh đã xuất hiện Nguyên sử tục biên của Hồ Tuý Trung, Nguyên sử bị vong lục của Vương Quang Lỗ, Nguyên sử kỷ sự bản mạt của Trần Bang Chiêm. Đến đời Thanh càng nhiều sử gia viết lại sử Nguyên như Thiệu Viễn Bình viết Nguyên sử loại biên (còn gọi là Tục Hoằng giản lục), Tiền Đại Hân viết Bổ Nguyên sử thị tộc biểu, Bổ Nguyên sử nghệ văn chí, Nguyên sử thập di… Uông Huy Tổ viết Nguyên sử bản chứng, Nguỵ Nguyên viết Nguyên sử tân biên, Hồng Quân viết Nguyên sử dịch văn chứng bổ, Đỗ Kỳ viết Mông Ngột Nhi sử, Kha Thiệu Mân viết Tân Nguyên sử… Các sử gia trên đã tìm tòi thêm nhiều tài liệu Trung Quốc và nước ngoài để bổ sung cho lịch sử triều Nguyên ở Trung Quốc hoặc lịch sử đế quốc Mông Cổ nói chung. Nhưng đối với phần có liên quan đến Việt Nam thế kỷ XIII thì họ tìm được rất ít tài liệu mới, phần lớn là chép lại Nguyên sử. Vì thế đối với loại tài liệu này chúng tôi ít dân dụng, trừ những điều không chép trong Nguyên sử. Ngay đối với những điều đó, chúng tôi cũng chỉ dùng sau khi đã phân tích hay đối chiếu với các tài liệu khác vì lý do là các quyển sử trên được biên soạn muộn về sau7.

----------------
1. Bản rập ở Thư viện Khoa học Trung ương số 7.804.

2. Bản rập ở Thư viện Khoa học Trung ương số 13.957

3. Một người Nhật Bản là Kishida Ginkò đã tìm được một bản An Nam chí lược ở Trung Quốc và cho in lại ở Thượng Hải năm 1884. Bản chúng tôi dùng làm bản này. Bản này có rất nhiều chỗ in lầm, phải hiệu đính cẩn thận mới sử dụng được.

        Hiện nay, nhiều người dựa vào năm Lê Trắc viết bài tựa mà cho rằng An Nam chí lược soạn năm 1333. Thực ra không phải vậy. Sách Kinh thế đại điển dời Nguyên viết năm 1330 đã tham khảo An Nam chí lược (xem Nguyên văn loại 1.40, Kinh thế đại điển tự lục). Trong các bài tựa An Nam chí lược (không phải do Lê Trắc viết), bài sớm nhất soạn vào năm 1307).

4. Bản chúng tôi dùng là bản in của Trung Hoa thư cục (Tụ Trân phỏng Tống bản).

5. Xuất phát từ quan diểm cho rằng lịch sử Việt Nam phải là lịch sử của tất cả các dântộc ở trên đất Việt Nam ngày nay, chúng tôi thấy phải trình bày cuộc chiến đấu của các dân tộc đó chống lại bọn xâm ưlược Nguyê. Vì thế trong quyển sách này chúng tôi cũng trình bày cuộc kháng chiến của nhân dân Chàm.

6. Lý Tư Thuần: Nguyên sử học, Trung Hoa thư cục 1940, t.51, 50. Kim Dục Phất: Trung Quốc sử học sử, Trung Hoa thư cục 1962, T.113.

7. Chúng tôi dùng các sách trên theo các bản in đã ghi rõ trong Tài liệu tham khảo
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #2 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2016, 11:46:51 pm »


        Trong khi đó, chúng tôi chú trọng hơn đến các tài liệu khác tuy không phải là chính sử nhưng được biên soạn vào đời Nguyên. Một tác phẩm quan trọng là Hoàng triều kinh thế đại điển do Triệu Thế Diễn và Ngu Tập soạn năm 1330-1331 dưới sự giám sát của viên quan Mông Cổ, Đác Khan Khác Kha Xun (Darqan Qarqasun). Đáng tiếc là bộ sách đã mất, nay chỉ còn lại vài phần trong bộ Vĩnh Lạc đại điển. Những sử liệu liên quan đến Việt Nam ở đây chỉ còn có đôi điều. May mắn là bài tựa, hay nói đúng hơn là đề cương chi tiết của bộ sách đó, với cái tên Kinh thế đại điển tự lục đã được một tác gia đời Nguyên là Tô Thiên Tước (1294-1352) chép lại trong bộ văn tuyển Quốc triều văn loại (còn gọi là Nguyên văn loại) của ông. Trong mục Chinh phạt của Kinh thế đại điển tự lục có các đoạn An Nam và Chiêm Thành. Đoạn An Nam tuy sơ lược nhưng bổ sung thêm một số tài liệu về cuộc kháng chiến chống Nguyên của nhân dân Việt không có trong Nguyên sử. Đoạn Chiêm Thành có nhiều tài liệu tốt, đặc biệt là chép rõ ngày tháng quá trình diễn biến cuộc kháng chiến của nhân dân Chàm, bổ sung được nhiều điểm cho Nguyên sử Chiêm Thành truyện.

        Các sách do sứ Nguyên đã đến Việt Nam soạn là những tài liệu tốt để nghiên cứu tình hình Việt Nam và quan hệ ngoại giao lúc bấy giờ. Trong số các tác phẩm đó, chúng tà phải kể đến Thiên Nam hành ký (hay An Nam hành ký) của Từ Minh Thiện1. Từ Minh Thiện đến Thăng Long năm 1289. Trong Thiên Nam hành ký, Từ Minh Thiện đã chép được một số thư từ trao đổi giữa vua Việt và vua Nguyên mà An Nam chí lược chép không đầy đủ hay không chép. Một tài liệu quý nữa là Trần Cương - trung thi tập của Trần Phu. Trần Phu đi sứ năm 1291, đến Việt Nam năm 12922. Tất cả những bài thơ viết về Việt Nam đều được chép trong Giao châu cảo tức tập 2 của Trần Cương - Trung thi tập3. Trong tập thơ đó có những bài có chú thích cẩn thận (như bài An Nam tức sự) là những tài liệu hiếm dùng để nghiên cứu kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ XIII, một số bài khác nói lên sự hoảng sợ lo lắng của bọn sứ Nguyên ở Việt Nam (như bài Giao châu sứ hoàn cảm sự), một số bài có thể dùng làm tài liệu để xét một số địa danh hay ngày tháng (như bài Tư Minh châu nguyên nhật, bài Ngày mồng 3 tháng 2 trú ở trạm Khâu Ôn thấy trăng mới giữa trời…). Cuối Trần Cương Trung thi tập còn có một phần phụ lục Nguyên phụng sứ dữ An Nam quốc vãng phục thư chép lại 8 bức thư trao đổi giữa Lương Tằng, Trần Phu và vua Trần Nhân Tông.

        Ngoài những thư tịch trên, chúng tôi đặc biệt chú ý đến các bi ký soạn đời Nguyên có liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu. Một số bi ký đã được các tác giả đưa vào trong các tập văn thơ của mình. Trước hết chúng tôi muốn nói đến Mục Am tập của Diêu Toại (1238-1314). Chúng ta có thể đọc trong đó những bi ký do ông soạn về những nhân vật có liên quan đến cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam như mộ chí Trương Đình Trân, tên sứ giả đến Việt Nam năm 1269, miếu bi Lý Hằng, tên tướng đánh Việt Nam năm 1285, bia A Lý Hải Nha (Ariq - Qaya), tên tướng chỉ huy đội quân xâm lược Việt Nam năm 1285… Một số bi ký khác như Dĩnh châu vạn hộ Để công thần đạo bi (Diêu Toại soạn năm 1304) cũng có những sử liệu về việc quân Nguyên chuẩn bi xâm lược Chiêm Thành và Việt Nam4.

        Tô Thiên Tước (1294 - 1352) khi soạn quyển Nguyên triều danh thần sự lược cũng đã dựa vào nhiều bi ký của các tác giả đương thời. Trong Nguyên triều danh thần sự lược ngoài những tài liệu liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu, chúng ta còn có thể đọc được một số bi ký khác như bài miếu bi A Truật (Aĵu), viên tướng đã đánh vào Việt Nam năm 1258, do Vương Vận (chết năm 1304) tác giả Thu giản văn tập soạn, và bài bia nói về viên quan Mông Cổ là Khác Kha Xun (Qarqasun) do Lưu Mẫn Trung (1242 - 1318) soạn. Trong bài bia Khác Kha Xun có những sử liệu liên quan đến âm mưu xâm lược Việt Nam của bọn phong kiến Nguyên sau năm 1288.

        Trong Từ Khê văn cảo của Tô Thiên Tước có bài bia Cố thừa sự lang Tượng Sơn huyện Đoàn Lý hầu mộ bi do chính Tô Thiên Tước soạn, chép về Lý Thiên Hựu, viên quan đi theo thuỷ quân Nguyên vào Việt Nam năm 1288, bị ta bắt ở trận Bạch Đằng nhưng sau đó trốn thoát được. Trong bài bia đó có những sử liệu liên quan đến các trận Tháp Sơn (Đồ Sơn), Bạch Đằng.

        Tài liệu tìm được trong các bi ký đời Nguyên tuy không phải là phong phú lắm nhưng chúng tôi cố gắng khai thác vì chúng được chép vào thời gian gần cuộc kháng chiến chống Nguyên hơn là Nguyên sử. Có những bi ký tuy không thêm được điều gì mới nhưng có thể dùng nó để xác minh những điều chép trong các sách khác. Ví dụ theo Nguyên sử Tín Thư Nhật truyện thì tên vua nước Đại Lý (Vân Nam) Đoàn Hưng Trí sau khi đầu hàng quân Mông Cổ đã đem hai vạn quân người Thoán Bặc Vân Nam đưa quân Mông Cổ tiến vào Việt Nam năm 1258. Điều này được chứng thực trong bài bia chùa Đại Sùng Thánh ở Vân Nam do Lý Nguyên Đạo soạn năm 1325, bia này do viên tổng quản Vân Nam là Đoàn Long (thay Tín Thư Long), cháu Đoàn Hưng Trí dựng5.

        Trên đây là những nguồn sử liệu chủ yếu mà chúng tôi dựa vào để nghiên cứu cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam thế kỷ XIII. Việc sử dụng các tài liệu đó không phải là dễ dàng vì nhiều chỗ mâu thuẫn với nhau và có những sai lầm cần phân tích phê phán. Điều khó khăn lớn là nguồn tài liệu Việt Nam quá ít, vì thế chúng tôi khó mà trình bày các cuộc hành quân, các trận đánh… của quân dân ta một cách cụ thể. Dầu hết sức cố gắng, chúng tôi biết rằng tập sách này vẫn còn nhiều thiếu sót vì trình độ của các tác giả và vì tài liệu chưa thu thập được đầy đủ.

-------------
1. Bản chúng tôi dùng là bản trong Thuyết phu.

2. Về việc đi sứ của Đại Việt của Từ Minh Thiện và Trần Phu, có thể xem thêm một số chi tiết trong Xuyết canh lục của Đào Tông Nghi đời Nguyên.

3. Trần Cương Trung thi tập gồm 3 tập: tập I là Quan Quang cảo, tập II là Giao châu cảo, tập III là Ngọc Đường cảo.

4. Bản Mục Am tập mà chúng tôi dùng là bản Vũ anh đinệ tụ trân. Một số bi ký của Diêu Toại cũng đã được Tô Thiên Tước thu thập đưa vào Nguyên Văn Loại.

5. Bài bia này được E.Chavannes chép lại trong Inscriptions et piéces de chancelleriechinoises de l’époque mongole, T’oung pao sériè II. Vol VI, 1905 và Hạ Quang Nam chép lại trong Nguyên đại Vân Nam sử địa tùng khảo, Trung Hoa thư cục 1935.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #3 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2016, 07:16:59 am »

      
*

*        *

        Khi sử dụng các nguồn tài liệu Việt Nam và Trung Quốc nói trên, chúng tôi gặp rất nhiều tên nhân vật Mông Cổ và các dân tộc khác như người A-rập, người Ui-gua (Uigur), người Khíp Trắc (Qỹbčak), người Khang Lư (Qangli)… cũng như tên người Hồi giáo, Cơ Đốc giáo… Những người này có liên quan đến cuộc chiến tranh (hay ngoại giao) ở Việt Nam thế kỷ XIII. Các tác phẩm nghiên cứu về Cuộc kháng chiến này trước đây thường chép tên người theo cách phiên âm Trung Quốc (đọc bằng âm Hán Việt) như Ngột Lương Hợp Thai, A Lý Hải Nha, Bột La Hợp Đáp Nhi,… Chúng tôi cho rằng. cách phiên âm đó dễ gây lầm lẫn vì trong thư tịch cũ của Trung Quốc, một nhân vật Mông Cổ hay tộc khác được phiên âm bằng nhiều tên khác nhau. Chẳng hạn như Nguyên sử chép là Ngột Lương Hợp Thai, Ngột Lương Cáp Thai, Toàn thư chép là Ngột Lương Hợp Đải, An Nam chí lược chép là Ngột Lương Cáp Đải, Thông giám tập lãm chép là Ô Đặc Lý Cáp Đạt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn lại chép là Cốt Đãi Ngột Lang… Ngay trong Nguyên sử, A Lý Hải Nha còn được chép là A Lạt Hải Nha, A Lỗ Hải Nha, A Lễ Hải Nha…, còn bi ký của Diêu Toại chép là A Lực Hải Nha. Nguyên sử cũng chép Bột La Hợp Đáp Nhi là Bột Lỗ Hợp Đáp Nhi, trong khi An Nam chí lược lại chép nhầm thành Lý La Hợp Đáp Nhi, Sách La Cáp Đáp Nhi,… Cách phiên âm đời Nguyên, Minh đã hỗn loạn, đến đời Thanh lại càng hỗn loạn hơn. Theo lệnh của Càn Long, năm 1781, một ủy ban được thành lập để soạn quyển Liêu Kim Nguyên tam sử ngữ giải, đem đổi tất cả những tên phiên âm vốn có trong Liêu sử, Kim sử và Nguyên sử thành những tên phiên âm mới. Vì không hiểu quy luật phiên âm đời Nguyên Minh, các tác giả quyển sách đó đã thay đổi một cách tùy tiện và sai lầm. Ngột Lương Hợp Thai lại được đổi thành Ô Lan Cáp Đạt, A Lý Hải Nha đổi thành A Nhĩ Cáp Nhã,… Các bản in Nguyên sử hay các thư tịch khác nói trên vào sau đời Càn Long thường bị sửa lại theo cách phiên âm mới (bộ Nguyên sử mà Khâm định Việt sử thông giám cương mục tham khảo cũng là bộ sách đã bị chữa theo cách phiên âm đời Thanh). Một số bộ sử soạn đời Thanh như Tục tư trị thông giám của Tất Nguyên cũng theo cách phiên âm này. Do đó, việc phiên âm ngày càng gây ra nhiều lầm lẫn. Khi đọc những tài liệu trên, chúng ta có thể lầm một người thành hai hoặc nhiều người khác nhau. Chẳng hạn ông Hoàng Thúc Trâm trong Trần Hưng Đạo (Sài Gòn, 1950) ở trang 67, đã nói về A Truật, lại nói về một người khác là A Châu, kỳ thực A Châu chỉ là tên phiên âm đời Càn Long của A Truật (Aĵu).

        Chúng tôi thấy rằng nếu theo cách phiên âm Trung Quốc tất phải chọn lấy một tên trong nhiều tên khác nhau, nhưng như vậy sẽ gây khó khăn cho người muốn tìm hiểu các sử liệu khác nhau. Vì các lý do trên, trong quyển sách này, chúng tôi quyết định không theo bất kỳ cách phiên âm Trung Quốc nào mà phiên âm theo đúng tiếng Mông Cổ trung đại (hoặc tiếng các dân tộc khác) ví dụ A Lý Hải Nha sẽ phiên âm là A Ríc Kha Y A (Ariq - Qaya), Ngột Lương Hợp Thai là U Ri Ang Kha Đai (Uriyangqadai), Bột La Hợp Đáp Nhi và Bôn Kha Đa (Bol-qadar),… Việc khôi phục lại tên người Mông Cổ và các tộc khác còn giúp chúng ta tránh được các sai lầm tách tên một người thành hai người hoặc nhập hai tên lại làm một. Chẳng hạn như Trần Trọng Kim tách Tích Lệ Cơ Ngọc thành Tích Lệ và Cơ Ngọc1, nhà sử học Nhật Bản Yamamoto Tatsuro coi Hòa Lễ Hoắc Tôn là Hoà Lễ và Hoặc Tôn2, các địch giả Việt sử thông giám cương mục đọc I Lặc Cát Đại thành I Lặc, Cát Đại3,… Thực ra Tích Lệ Cơ Ngọc trong Toàn thư là chép nhầm từ Tích Lệ Cơ Vương (theo Thiên Nam hành ký) và Tích Lệ Cơ là Sirägi (Si-rê-ghi), Hoà Lễ Hoắc Tôn chỉ là Qorqao-sun (Khoóc-khô-xun), còn I Lặc Cát Đại là Ikirädai (I-ki-rê-đai), v.v…

        Việc khôi phục lại các tên Mông Cổ và các tộc khác từ những tên phiên âm Trung Quốc không phải là dễ dàng, nhất là cho đến nay chưa ai chuyên nghiên cứu khôi phục toàn bộ những tên nhân vật có liên quan đến lịch sử Việt Nam. Tuy vậy, dựa vào tính chất trùng tên nhiều của người Mông Cổ trong các thư tịch cũ (xem Tam sử đồng danh lục của Uông Huy Tổ), dựa vào Hoa di dịch ngữ (1389), Nguyên sử ngữ giải (1781), cũng như dựa vào các công trình của các nhà Mông Cổ học thế giới như P.Pelliot (Pháp), P.Poucha (Tiệp), M.Lewicki (Ba Lan)4…, chúng tôi cố gắng khôi phục lại tên tất cả các nhân vật Mông Cổ và các tộc khác có liên quan đến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam thế kỷ XIII đã nhắc đến trong quyển sách này. Những tên đó được khôi phục lại bằng tiếng Mông Cổ trung đại theo cách ghi âm của các nhà Mông Cổ học thế giới5) và sau đó phiên âm ra chữ Việt. Đối với từng tên người, chúng tôi đều chú thích rõ các cách phiên âm Trung Quốc ở dưới trang. Tuy vậy, có một số tên như Hốt Tất Liệt (Qubilai), Toa Đô (Sögätü), Ô Mã Nhi (‘Omar), Thoát Hoan (Toan hay Toon), vì đã quen với chúng ta, trong sách này chúng tôi không phiên âm thành Xô-ghê-tu, Ô-ma hay Tô-gan nữa mà chỉ chú thích để người đọc nắm được tên Mông Cổ của các tên tướng đó.

----------------
1. Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, Tân Việt 1954, t.154, 155.

2. T. Yamamoto: Annamshi kenkỳu I, Tokyo 1950, t.92.

3. Việt sử thông giám cương mục, bản dịch của tổ biên dịch Ban nghiên cứu Văn Sử Địa, Hà Nội 1958, t.534.

4. P. Pelliot: Histoire secrète des Mongols. Restitution du texte mongol et traduction fran çaise des chapitres I et VI. Paris 1940.

        Notes sur l’histoire de la horde d’or. Suivi de quelques noms turcs d’hommes et de peuples rnissant en “ar”. Paris, 1950.

        P.Pelliot et L.Hambis: Histoire des campagnes de Gengis Khan - Chen-wou Ts’in tcheng lon. T. I, Leiden 1951.

        Pavel Poucha: Die geheime Geschichte de Mongolen als Geschichtsquelte und Litteraturdenkmal, Prag, 1956.

        Marian Lewicki: La langue Mongole des transcriptions chinoises du XIVe siècle - Le Houa-yi-yu de 1389 trong Prace wroclawskiego towarzystwa naukowego. Seria A. Ni 29, Wroclaw 1949.

5. Trong hệ thống phiên âm này, có một số chữ cần chú ý: ä (như tiếng Đức) đọc như e, ö như trong tiếng Đức, ü (như tiếng Đức (đọc giống u Pháp, č (như tiếng Tiệp) đọc gần tr Trung Bộ ta, š (như Tiệp) đọc giống s Trung Bộ ta, j đọc như dj. Khi phiên âm ra chữ Việt, chúng tôi chỉ phiên âm đơn giản như ö ra o, ü ra u, ĵ ra j.
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Tám, 2016, 07:27:52 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #4 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2016, 07:21:29 am »


*

*       *

        Một vấn đề khác được đặt ra khi nghiên cứu hai nguồn tài liệu Việt Nam và Trung Quốc là vấn đề lịch pháp. Có tìm hiểu và đối chiếu được lịch pháp của Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ XIII mới xác định được thời gian xảy ra các sự kiện khi so sánh hai nguồn tài liệu.

        Trong Bàn châu văn tập (quyển 16) của Hồng Quát đời Tống có chép bài “Sắc thư ban lịch cho Nam Bình vương Lý Thiên Tộ (tức Lý Anh Tông 1138-1175)”. Nguyên sử Bản kỷ chép rằng ngày Giáp Tý tháng 7 năm Chí Nguyên 2 (9-9-1265) “chiếu ban cho Quang Bính (tức Trần Thái Tông) lịch năm Chí Nguyên thứ 3”. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng năm Khai Thái thứ 1 (1324.), “vua Nguyên sai Mã Hợp Mưu (Mahmùd), Dương Tông Thụy sang báo việc lên ngôi và cho một quyển lịch Thụ Thì” (q.6, t.42b). Đến năm Khai Hựu thứ 11 (1339), Đặng Lộ mới xin đổi lịch Thụ Thì trước đó thành lịch Hiệp Kỷ (q.7, t.9b).

        Chúng tôi cho rằng như vậy ít ra từ cuối thế kỷ XII đến nửa đầu thế kỷ XIV, Việt Nam dùng lích Trung Quốc. Để kiểm tra điều này, chúng tôi ghi lại tất cả những ngày âm lịch có ghi can chi được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư (thường là ngày có nhật thực, ngày xảy ra các sự kiện khác thì thường không được Toàn thư ghi rõ can chi) trong khoảng 50 năm cuối thế kỷ XIII (tức giai đoạn cần nghiên cứu)1 rồi đem so sánh với lịch Trung Quốc thì thấy hoàn toàn phù hợp2. Chỉ có một trường hợp duy nhất sai biệt với lịch Trung Quốc là chỗ Toàn thư (q.5, t.52b) chép tháng chạp năm Trùng Hưng 3 (Chí Nguyên 24) có ngày 30. Theo lịch Trung Quốc thì tháng này thiếu, chỉ có 29 ngày. Nhưng khi xét nội dung câu ở trong Toàn thư, chúng tôi thấy rằng ở đây đã chép nhầm sự kiện của tháng 11 ra tháng 123 chứ không phải là lịch Việt Nam khác lịch Trung Quốc. Do chỗ thống nhất lịch pháp giữa Việt Nam và Trung Quốc ở thế kỷ XIII như vậy, chúng tôi thấy có thể xác định các sử kiện rút ra ở hai nguồn tài liệu theo trình tự thời gian chung. Mặt khác, có thể đổi các ngày âm lịch chép trong hai nguồn sử liệu ra ngày dương lịch theo một phương pháp chung. Chúng tôi đã dựa vào các sách Lưỡng Thiên Niên Trung Tây lịch đối chiếu biểu, Trung Tây Hồi sử nhật lịchi  để đổi các ngày âm lịch (hoặc ghi bằng can chi) ra dương lịch. Việc đổi ngày âm lịch ra dương lịch có thể đính chính lại một số điểm không chính xác trong các sách trước đây như cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất xảy ra vào năm 1258 chứ không phải năm 1257… Trong sách này, chúng tôi ghi cả ngày dương lịch và âm lịch để người đọc có thể kiểm tra lại sử liệu cũng như cách đổi ngày. Đối với những tháng âm lịch không ghi rõ ngày, chúng tôi ghi tháng đó bắt đầu từ ngày nào đến ngày nào của dương lịch.

*

*      *

        Trong sử liệu Việt Nam và Trung Quốc, các vua Trần được gọi bằng những tên khác nhau, dễ gây ra lầm lẫn. Nhà sử học Nhật Bản Yamamoto Tatsuro đã khảo chứng khá công phu về vấn đề này trong chương Chinchò no omei ni kansuru kenkyũ (Nghiên cứu về tên vua triều Trần) ở đầu quyển An Nam Shikenkyũ (An Nam sử nghiên cứu) tập I của ông. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với Yamamoto. Ở đây chúng tôi không lặp lại các chứng minh mà chỉ nêu ra những tên vua trong giai đoạn đang nghiên cứu:

        Trần Thái Tông tên là Cảnh, tức Nhật Cảnh và Quang Bính trong sử liệu Trung Quốc, Trần Thánh Tông tên là Hoảng, tức Nhật Huyên trong sử liệu Trung Quốc. Trần Nhân Tông tên là Khâm, tức Nhật Tôn trong sử liệu Trung Quốc.

*

*       *

        Trong khi sưu tầm sử liệu để soạn tập sách này, chúng tôi được đồng chí Sa Kính Phạm ở Trường đại học Bắc Kinh gửi cho những tài liệu Trung Quốc không có trong các thư viện trong nước. Ở đây, chúng tôi xin chân thành cảm ơn(*).

---------------       
1. Chúng tôi chép lại những ngày sau đây trong Toàn thư:

        Năm Thiên Ứng Chính Bình 11 (1242) tháng 9, ngày Canh Thìn, mồng 1, nhật thực.

        Năm Thiên Ứng Chính Bình 18 (1249) tháng 4, ngày Nhâm Dần, mồng 1, nhật thực.

        Năm Thiệu Long 3 (1260), tháng 3, ngày Mậu Thìn, mồng 1, nhật thực.

        Năm Bảo Phù 3 (1275) tháng 6, ngày Canh Tý, mồng 1, nhật thực.

        Năm Thiệu Bảo 7 (1285) tháng 2, ngày Giáp Thìn, mồng 1.

        Năm Thiệu Bảo 7 (1285) tháng 3, ngày Giáp Tuất, mồng 1.

        Năm Trùng Hưng 3 (1287) tháng 10, mồng 1, nhật thực.

        Năm Trùng Hưng 5 (1289) tháng 3, mồng 1, nhật thực.

        Năm Trùng Hưng 8 (1292), tháng 1, mồng 1, nhật thực.

2. Chúng tôi dùng Nhị thập sử sóc nhuận biểu (Cổ tịch xuất bản xã, 1956) và Trung Tây Hồi sử nhật lịch (Trung Hoa thư cục, 1962) của Trần Viên để đối chiếu.

3. Xem chương VII.

4. Trần Viên Trung Tây Hồi sử nhật lịch, Trung Hoa thư cục 1962; Tiết Trọng Tam và âu Dương Di: Lưỡng thiên niên Trung Tây lịch đối chiếu biểu, Bắc Kinh 1956.

        (*) Vì lý do kỹ thuật, so với bản gốc, Nhà xuất bản đã bỏ chữ Hán ở các phần chú thích, mong tác giả và bạn đọc lượng thứ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #5 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2016, 07:26:01 am »

         
CHƯƠNG I

ĐẠI VIỆT TRƯỚC CUỘC KHÁNG CHIẾN

"... Nới sức dân, làm kế rễ sâu gốc vững, ấy là thượng sách giữ nước... ".
Trần Quốc Tuấn       

        Trong phần tư đầu tiên của thế kỷ XIII, Đại Việt đang lâm vào tình trạng nội chiến giữa các thế lực phong kiến cát cứ. Vương triều Lý chỉ còn là một hơi thở thoi thóp. Chính quyền trung ương suy yếu, lúc thì dựa vào tập đoàn phong kiến địa phương này, lúc thì dựa vào tập đoàn phong kiến địa phương khác. Thăng Long mấy lần bị đốt phá, vua Lý phải trốn khỏi kinh thành.

        Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Người chết đói nhiều, người sống sót phá sản, lưu vong. Bọn phong kiến cát cứ lại bắt nhân dân làm phu dịch, đào hào, đắp luỹ và xua họ vào cuộc nội chiến đẫm máu. Thời kỳ đen tối đó kéo dài dằng dặc trong suốt mười mấy năm trời. Thế rồi, một thế lực phong kiến mạnh nhất, họ Trần, đã dần dần chiếm được ưu thế, khống chế được chính quyền trung ương đang tàn tạ, chiến thắng được các tập đoàn phong kiến cát cứ khác, thống nhất đất nước. Quyền lực họ Trần ngày càng lớn. Huệ Tông nhà Lý phát điên, trao ngai vàng cho Chiêu Hoàng, một cô gái lên bảy. Điều đó càng tạo điều kiện thuận lợi cho sự biến ngày 11 tháng chạp năm Ất Dậu (10-l-1226), ngôi vua về tay Trần Cảnh. Thế là vương triều Lý đổ, vương triều Trần thành lập.

        Hoà bình đã trở lại trên đất nước, nhân dân được yên ổn làm ăn. Họ Trần khôi phục được chính quyền thống nhất, chấm dứt cuộc nội chiến phong kiến, về khách quan đã đáp ứng được đòi hỏi của nhân dân. Nền kinh tế đầu đời Trần lại bắt đầu phát triển.

        Để khôi phục lại sức sản xuất bị đình đốn cuối thời Lý, nhà Trần đã chú trọng tổ chức khai khẩn đất hoang, mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp. Ở mỗi lộ, có hai viên đồn điền chánh sứ và phó sứ đôn đốc việc khai khẩn đồn điền của quân dân. Năm 1266, vương hầu, công chúa, phò mã, cung phi chiêu mộ những người dân nghèo đói phiêu tán làm nô tỳ, khai khẩn ruộng hoang, lập thành các điền trang. Bọn quý tộc lại sai nô tỳ đến những vùng ven biển, đắp đê ngăn nước mặn, qua hai ba năm, đất khai phá trở thành đồng ruộng, đó là những tư trang của quý tộc. Nô tỳ được phép lấy vợ lấy chồng, cư trú và canh tác ở đấy.

        Thời Trần sơ, nhà nước rất chú ý việc đắp đê phòng lụt. Năm 1248, Thái Tông hạ lệnh cho các lộ đắp đê từ đầu nguồn đến bãi biển để đề phòng nước sông dâng to, gọi là đê “đỉnh nhĩ” (quai vạc), đặt chức hà đê chánh sứ và phó sứ để trông coi việc đắp đê. Năm 1255, vua Trần sai Lưu Miễn đắp các đê ở Thanh Hóa. Cũng năm này, nhiệm vụ của các hà đê sứ được quy định rõ ràng hơn: “Tuyển tản quan làm hà đê chánh phó sứ ở các lộ, khi việc cày cấy rỗi thì đốc quân lính đắp đê đập, đào khe ngòi để phòng lụt hạn”1. Sách An Nam chí cho chứng ta biết khá rõ về tình hình đê điều thời Trần: “Xứ Giao Chỉ, dân cư trù mật, đất không đủ cày, cho nên người trước đắp đê cao ở hai bên bờ sông ngòi đề phòng nước lụt; đất làm muối ở ven biển, bị nước mặn lấn vào, bọn quý tộc thế gian muốn chiếm riêng đất đó đều tự ý đắp đê ngăn nước mặn rồi gieo giống cày cấy ở bên trong, như thế là để yên dân và khai thác hết mối lợi của đất đai. Lại như sông Phú Lương (tức sông Hồng - T.G.), phát nguyên ở trong vùng núi Tây Bắc, chảy quanh co về phía Đông Nam, tràn trề mênh mông, khoảng mùa hạ, mùa thu, trời mưa dầm dề, thuỷ hoạn xảy ra, cho nên hai bên bờ sông đều đắp đê để phòng bị. Một con đê từ sông Đáy đến sông Hải Triều (tức sông Luộc - T.G.), sông Phù Vạn thì dứt. Một con đê từ bến sông Bạch Hạc đến các vùng sông Lỗ, sông Đại Lũng, cửa Mãnh, cửa Ninh thì đứt. Đê đều cao ba thước, rộng năm trượng, đặt hà đê [chánh] phó sứ để trông nom. Mỗi năm vào tháng giêng, quan coi đê đốc thúc nhân dân phụ cận, không phân sang hèn già trẻ đều đi đắp đê. Chỗ nào thấp trũng thì đắp cao thêm, chỗ nào lở thì bồi đắp vào. Đến đầu mùa hạ thì xong việc. Ấy là lệ thường hằng năm. Vào khoảng tháng sáu tháng bảy, nước sông dâng to, đê sứ phải tự mình ra sức tuần hành xem xét, gặp chỗ bị lở thì sửa chữa ngay, nếu lười biếng thì mất chức. Nếu để cư dân trôi đắm, lúa má chìm hại thì lượng theo nặng nhẹ mà trách phạt. Từ đó, thủy tai không còn nữa mà đời sống của dân được sung sướng, đất không bỏ sót nguồn lợi nào”2.

        Nhà Trần cũng đã đào thêm một số kênh và sông, có tác dụng về mặt giao thông cũng như về mặt thủy lợi. Năm 1231, vua Trần sai nội minh tự Nguyễn Bang Cốc đem phủ quân đào kênh Trầm và kênh Hào từ phủ Thanh Hóa (thuộc huyện Tĩnh Gia) đến địa giới phía nam Diễn Châu. Sông Tô Lịch được khơi sâu thêm nhiều lần, lần đầu tiên vào năm 1256.

        Do điều kiện thiên nhiên cũng như do sức lao động của nhân dân và chính sách bảo vệ sản xuất nông nghiệp, châu thổ các sông Hồng, sông Mã… đã trở thành vùng sản xuất nhiều lúa. Uông Đại Uyên, người Trung Quốc đời Nguyên, tác giả sách Đảo di chí lược, đã chép rằng: “Nước Đại Việt… đất rộng người đông, khí hậu thường nóng, ruộng đất phần lớn phì nhiêư”3. Trần Phu, sứ nhà Nguyên đến nước ta, đã ghi lại rằng: “Lúa mỗi năm chín bốn lần, tuy vào giữa mùa đông mà mạ vẫn mườn mượt”4. Đấy là tình hình sau chiến tranh nhưng ít nhiều cũng cho chúng ta hình dung được vẻ phong thịnh của nông nghiệp trong những ngày hòa bình trước cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ.

-------------
1. Toàn thư, Bảy kỷ q.5, t.20a. Tất cả những chỗ Toàn thư trong sách này đều thuộc Bản kỷ cho nên chúng tôi sẽ không ghi rõ Bản kỷ nữa.

2. Cao Hùng Trưng: An Nam chí, bản in của Trường Viễn Đông bác cổ (có tên là An Nam chí nguyên) năm 1931, tr.145.

3. Uông Đại Uyên: Đảo di chí chí lược, Tri phục trai tùng thư, tr.3.

4. Lời chú bài An Nam tức sự trong Cương Trung thi tập q.2.
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Tám, 2016, 07:31:45 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #6 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2016, 11:02:02 pm »

      
        Từ buổi đầu đời Trần, bên cạnh ruộng đất làng xã và ruộng đất phong cấp của quý tộc thuộc sở hữu nhà nước, bộ phận ruộng đất tư hữu đã phát triển mạnh mẽ1. Năm 1237, Trần Thái Tông đã xuống chiếu định thể lệ làm chúc thư, văn khế ruộng đất và vay mượn tiền. Năm 1254, Thái Tông cho phép bán quan điền, tức ruộng công, cho dân mua làm ruộng tư, cứ mỗi “diện” (bấy giờ gọi mẫu là diện) giá 5 quan tiền.

        Chế độ thuế khóa được quy định trên cơ sở chế độ sở hữu ruộng đất. Thuế ruộng tư thời Trần mỗi mẫu 3 thăng thóc. Nông dân cày ruộng công mỗi mẫu phải nộp 100 thăng. Năm 1242, Trần Thái Tông quy định thuế nhân đinh nộp bằng tiền và đánh luỹ tiến theo ruộng đất. Người nào có ruộng từ một đến hai mẫu, phải nộp một quan tiền, có từ ba đến bơn mẫu nộp hai quan, và từ năm mẫu trở lên nộp ba quan. Ai không có ruộng đất thì được miễn. Thuế ruộng bãi dâu và ruộng muối đều nộp bằng tiền. Ngoài ra, nhà Trần còn đánh thuế nhiều loại thổ sản bằng tiền.

        Bên cạnh sự phát triển của nông nghiệp, công thương nghiệp cũng được phục hồi và phát triển sau một thời kỳ đình đốn vì nội chiến cuối Lý. Những công nghiệp phụ thuộc công trình kiến trúc như làm gạch ngói, làm đá, sơn then… tiếp tục phát triển. Việc khai thác các khoáng sản kim loại như vàng, bạc, sắt, đồng, chì thiếc đã có từ dưới thời Lý, có men rất đẹp. Nghề khắc bản in có từ thời Lý nay được tiến hành tiếp tục. Nghề đúc đồng phát triển nhanh chóng. Nghề dệt thời Trần đã đạt đến một trình độ kỹ thuật khá cao. Những người thợ thủ công bấy giờ đã dệt được the, đoạn, gấm màu, lụa năm màu, lĩnh năm màu… đồ gốm thời Trần cũng như thời Lý, có men rất đẹp. Nghề khắc bản in có từ thời Lý đến thời Trần vẫn tiếp tục phát triển. Nhà Trần đã cho in kinh Đại tạng và các sách Phật phổ biến trong toàn quốc. Đồ mỹ nghệ, nhất là các sản phẩm xa xỉ bằng vàng bạc ngọc ngà, đã được chế tạo rất tinh xảo.

        Thủ công nghiệp ở nông thôn tuy gắn liền với nông nghiệp nhưng bấy giờ cũng đã xuất hiện các làng chuyên môn sản xuất một thứ sản phẩm thủ công nghiệp nhất định. Giữa các vùng có sự trao đổi rộng rãi với nhau. Kinh tế hàng hoá đã phát triển từ thời Lý, nay vẫn tiếp tục phát triển. Sách Đảo di chí lược chép rằng: “Đất Giao Chỉ sản vàng, bạc, đồng, thiếc, chì, ngà voi, lông chim trả, nhục quế, cau. Hàng trao đổi thì dùng các thứ như the, lĩnh các màu, lụa, vải thanh bố, lược ngà, giấy đồng, thau, sắt… Lưu thông sử dụng tiền đồng”. Năm 1226, Trần Thái Tông đã định quy chế về tiền tệ. Tiền lưu hành trong nhân dân, tức là tiền Tỉnh mạch, thì mỗi tiền có 69 đồng, tiền nộp cho nhà nước, tức là tiền Thượng cung, thì mỗi tiền có 70 đồng. An Nam chí lược chép rằng thời Trần có tiêu dùng tiền Trung Quốc thời Đường và thời Tống.

        Giao thông phát triển thúc đẩy việc buôn bán trong nước phát đạt, thị trường trong nước mở rộng. Các đường giao thông bộ được sửa đắp, dọc các đường đều dựng trạm cho hành khách nghỉ ngơi. Nhà trạm quét vôi trắng. Suốt thời Trần, các sông ngòi được đào vét luôn luôn. Bấy giờ đã có những thuyền đi sông và đi biển lớn. Có những chiếc thuyền đến ba mươi người chèo hay hơn trăm người chèo.

        Do nhu cầu trao đổi buôn bán, các đơn vị đo lường dần dần được thống nhất. An Nam chí lược chép: “Đồ đo lường và cân giống như Trung Quốc, duy có các hàng vàng bạc, vải vóc tơ gai và thuốc là tự tính lấy mà thôi”2. Trước cuộc chiến tranh lần thứ hai, năm 1280, vua Trần đã ban hành thước mộc và thước đo vải cùng một kích thước thống nhất.

        Ngoài các chợ lớn ở kinh thành, nông thôn có nhiều chợ. Những dòng ghi chép sau đây của Trần Phu sau chiến tranh cũng cho ta biết được tình hình chợ búa nông thôn: “Chợ ở thôn xóm hai tháng họp một lần, trăm thứ hàng hóa tụ tập lại ở đấy, cứ năm dặm thì dựng một ngôi nhà, bốn mặt đều đặt chõng, để làm nơi họp chợ”3.

        Ngoại thương thời Trần cũng khá phát đạt. Thương nhân đến nước ta nhiều nhất là người Trung Quốc. Trong số lái buôn nước ngoài đến ta, còn có những lái buôn người Hồi Hột (Uigur)4. Có lẽ họ đã vượt qua vùng cao nguyên tây nam Trung Quốc, đến Vân Nam và vào nước ta theo sông Hồng.

        Vân Đồn vẫn là một địa điểm hải thương quan trọng, đón thương thuyền của các nước đến Đại Việt. Ở Vân Đồn, có một dòng nước chảy giữa hai dãy núi. Người ta đã dựng lên các rào chắn bằng gỗ, tạo thành một cảng biển để thuyền bè ra vào. Nhân dân ở dọc hai bên bờ5. Từ khi các cửa biển ở vùng Diễn Châu (Nghệ An) bị cạn, thuyền buôn nước ngoài đổ về Vân Đồn càng đông hơn. Trong số thuyền buôn cập bến Vân Đồn, có thuyền Trung Quốc, thuyền Java, thuyền Xiêm và thuyền một số nước khác vùng Nam Dương hay Ấn Độ Dương… Ngoài Vân Đồn ra, thuyền buôn nước ngoài còn cập bến ở nhiều cửa biển khác. An Nam tức sự chép: “Phủ Thanh Hóa… cách thành Giao Châu hơn hai trăm dặm. Các phiên thuyền ở hải ngoại tụ tập ở đây họp chợ ngay trên thuyền, rất đông… Thật là một trấn lớn”6.

        Như vậy, chúng ta đã thấy rằng sau khi họ Trần nắm chính quyền, kết thúc cuộc nội chiến cuối Lý, nền kinh tế của Đại Việt lại tiếp tục hưng vượng lên, cả nông nghiệp lẫn công thương nghiệp.

-------------
1. Xem Phạm Thị Tâm - Hà Văn Tấn:Vài nhận xét về ruộng đất tư hữu ở Việt Nam thời Lý - Trần, “Nghiên cứu lịch sử” số 52, tháng 7 năm 1963.

2. An Nam chí lược q.5.

3. Cương Trung thi tập q.2.

4. Nguyên sử q.209, An Nam truyện.

5. An Nam chí, bản in đã dẫn, tr.45.

6. Cương Trung thi tập q.2.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #7 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2016, 11:09:03 pm »

     
        Về mặt tổ chức chính trị, họ Trần ra sức củng cố và phát triển nhà nước phong kiến tập quyền. Tất cả những chức vị quan trọng trong bộ máy nhà nước đều do tôn thất họ Trần nắm giữ.

        Các vương hầu họ Trần, ngoài việc nắm giữ những chức vị trọng yếu ở triều đình, còn được phân phong đi trấn trị các nơi. Vương hầu có quyền lực lớn ở vùng mình trấn trị. Các vương hầu còn được phong thái ấp và có phủ đệ riêng. Ngô Sĩ Liên chép: “Chế độ nhà Trần, vương hầu đều ở phủ đệ riêng ở các hương, khi có triều yết thì về kinh, xong việc lại trở về phủ đệ như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp (Hải Dương), Thủ Độ ở Quắc Hương (Mỹ Lộc, Nam Định), Quốc Trấn ở Chí Linh (Hải Dương), đến lúc vào triều làm tể tướng, mới thống lĩnh tất cả việc thiên hạ…”1. Một đặc quyền khác của vương hầu quý tộc là được chiêu mộ quân đội riêng.

        Quý tộc được quyền trấn trị các nơi, có thái ấp và quân đội riêng, tất cả những điều đó biểu hiện rằng nhà nước phong kiến thời Trần vẫn còn mang những yếu tố phân tán. Tuy nhiên, những yếu tố này hoàn toàn bị hạn chế. Vương hầu có quyền thừa ấm - tức là kế tiếp được phong tước nhưng không phải là được tập chức. Vương hầu không phải bao giờ cũng có quyền thừa kế thái ấp. Vì ruộng đất là quốc hữu, nhà vua có thể lấy lại ruộng đất của người này ban cho người khác. Hơn nữa, bộ phận ruộng đất chủ yếu là ruộng đất công làng xã, quan hệ giữa nông dân cày cấy ruộng công làng xã nộp tô thuế với nhà nước là cơ sở chính của nhà nước tập quyền trong giai đoạn này. Kinh tế hàng hóa phát triển, góp phần đẩy lùi yếu tố kinh tế phân tán. Do những điều kiện đó, tuy còn mang trong mình những yếu tố phân tán, nhà nước phong kiến thời Trần vẫn là một nhà nước tập quyền mạnh mẽ. Giữa quý tộc và nhà vua không có mâu thuẫn sâu sắc, trái lại, thế lực của tập đoàn quý tộc Trần càng làm tăng cường thêm sức mạnh của vương triều Trần. Nhà nước có thể huy động quân đội vương hầu lúc cần thiết. Ngô Sĩ Liên đã từng nhận xét: “Năm Nguyên Phong (niên hiệu đời Trần Thái Tông - T.G.), giặc Nguyên sang cướp, vương hầu đều đem gia đồng và hương binh, thổ hào sung vào đội quân cần vương; việc biến năm Đạo Định2, vương hầu lại đem dân thôn trang sắm sửa nghi trượng để đón vua mới. Như thế thì chế độ nhà Trần cũng làm tăng thêm được sức mạnh của cái thế “duy thành”3. Đúng như lời Ngô Sĩ Liên, tập đoàn quý tộc tôn thất họ Trần quả là bức tường thành bảo vệ ngai vàng vua Trần.

        Tầng lớp nắm địa vị cao nhất trong bộ máy nhà nước là quý tộc Trần. Nhưng bên dưới là cả một bộ máy quan liêu phức tạp từ trung ương đến các địa phương. Nhà Trần đã chia lại các đơn vị hành chính. Năm 1242, đổi 24 lộ thời Lý làm 12 lộ. Ở trung ương, ngoài những chức vụ quan trọng trong cơ quan tối cao do tôn thất họ Trần nắm giữ, bên dưới còn có một tập đoàn quan liêu đông đảo chia làm hai ban văn - võ, làm việc trong các cơ quan có nhiệm vụ khác nhau. Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú thì các cơ quan trung ương thời Trần gồm có các quán, các sảnh, cục, đài, viện. Cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đô Thăng Long là Bình bạc ty. Năm 1265, Bình bạc ty đổi thành Đại an phủ sứ, về sau lại đổi ra Kinh sư đại đoàn. Ở lộ thì có an phủ sứ, trấn thủ, thông phán… Ngoài ra còn có hà đê sứ coi về đê điều, đồn điền sứ coi về đồn điền. Phủ thì có tri phủ, châu thì có tri châu, tào vận sứ… Ở xã thì đặt chức đại tư xã và tiểu tư xã, còn gọi là đại toát và tiểu toát Các chức quan chỉ huy quân đội ở địa phương thì có kinh lược, phòng ngư, sát thủ ngự…

        Tổ chức bộ máy nhà nước đã được quy định ngay từ buổi đầu thời Trần. Năm 1230, đã biên soạn sách Thông chế, khảo xét các luật lệ thời trước, sửa đổi hình luật và lễ nghi, tất cả gồm 20 quyển. Cùng năm đó, biên soạn sách Quốc triều thường lễ, ghi chép các việc của triều đình. Quan lại thời Trần đều có lương bổng, đó là một điểm khác với thời Lý. Năm 1236, nhà Trần đã quy định lương bổng cho các quan văn võ trung ương và địa phương. Tiền lương đó lấy vào tiền thuế. Năm 1244, nhà nước lại quy định lương bổng một lần nữa.

        Thời Trần, việc tuyển dụng quan lại bằng khoa cử phát triển hơn thời Lý. Năm 1232, mở khoa thi thái học sinh đầu tiên. Từ đó về sau, trong vòng mười năm lại mở một khoa. Ngoài ra, để tuyển nhân viên tuỳ thuộc trong các cơ quan, nhà Trần còn mở các kỳ thi lại viên. Những người dự thi phải thảo các giấy tờ hành chính, gọi là bạ đầu. Cũng có khi thi bằng phép viết, phép tính.

        Nhà sử học Phan Huy Chú đã nhận xét về bộ máy quan liêu thời Trần là “các chức quan trong (ở trung ương - T.G.), quan ngoài (ở địa phương - T.G.) lớn nhỏ đều có hệ thống”4. Việc tổ chức bộ máy chính quyền chặt chẽ từ trung ương đến tận đơn vị xã như vậy cho chúng ta thấy được nhà nước thời Trần tập trung hơn một bước so với thời Lý.

        Thời Lý đã có Hình thư, thời Trần san định lại các luật lệ thời trước. Từ năm 1226, ngay sau khi Trần Cảnh lên ngôi, đã định các điều luật lệnh. Bốn năm sau, định hình luật. Năm 1244, lại định hình luật một lần nữa.

        Hiện nay, chúng ta không có đầy đủ tài liệu về nội dung pháp luật thời Trần nhưng qua một vài điều luật ghi chép rải rác trong sử cũ và An Nam chí lược, chúng ta cũng thấy được rằng pháp luật thời Trần bảo vệ chính quyền chuyên chế phong kiến, bảo vệ đặc quyền đặc lợi của quý tộc, bảo vệ trật tự đẳng cấp phong kiến, phân biệt rõ rệt quý tộc quan liên với nhân dân, phân biệt dân tự do với tầng lớp cuối cùng của xã hội là nô tỳ. Pháp luật thời Trần còn phản ánh sự phát triển của tư hữu ruộng đất và bảo vệ quyền lợi vay lãi5.

        Ngoài việc tổ chức bộ máy nhà nước chặt chẽ để củng cố chính quyền phong kiến tập trung, nhà Trần ngay từ buổi đầu, đã ra sức xây dựng một đội quân hùng mạnh. Năm 1239, Trần Thái Tông đã hạ chiếu tuyển trai tráng sung vào quân đội, chia làm ba bậc thượng trung và hạ. Năm 1241, lại tuyển những người có sức mạnh, am hiểu võ nghệ sung làm thượng đô túc vệ. Nhưng đến năm 1246 thì quân đội nhà Trần mới được tổ chức thật chu đáo. Mùa xuân năm đó tuyển những người khỏe mạnh sung vào quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần. Mỗi quân hiệu túc vệ được tuyển trong dân đinh một số lộ nhất định. Đinh tráng ở lộ Thiên Trường (Nam Định) và lộ Long Hưng (Thái Bình) sung vào các quân hiệu Thiên Thuộc, Thiên Cương, Chương Thánh và Củng Thần, lộ Hồng (vùng tây Hải Dương) và lộ Khoái (vùng nam Hưng Yên) sung quân hiệu Tả Thánh Dực và Hữu Thánh Dực, lộ Trường Yên (Ninh Bình) và lộ Kiến Xương (nam Thái Bình) sung vào quân hiệu Thánh Dực và Thần Sách. Còn một số khác sung vào cấm quân trong cấm vệ. Hạng thứ ba gọi là đoàn đội trạo nhi; tức là đội chèo thuyền, thủy thủ của thuyền trận.

---------------
1. Toàn thư, q.5, t.27a.

2. Năm 1369, Dương Nhật Lễ cướp ngôi vua Trần, tôn thất nhà Trần đem quân đón Trần Phủ ở Đà Giang về, giết Nhật Lễ, lên ngôi vua tức Nghệ Tông.

3. Toàn thư, q.5, 6.27a. Kinh thi, Tiểu Nhã, có câu: “Tông tử duy thành”, thường được hiểu với ý nghĩa là người tôn thất như cái thành bảo vệ triều đình.

4. Phan Huy Chú:Lịch triều hiến chương loại chí - Quan chức chí.

5. Xem Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 1, in lần thứ hai, Hà Nội, 1963. tr.277-297.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #8 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2016, 11:20:47 pm »


        Chúng ta chưa có đầy đủ tài liệu để biết chắc chắn về quân số thường trực thời Trần. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì năm 1267, quy định quân ngũ, mỗi quân gồm có 30 đô, đô có 80 người1. Có lẽ do đó mà Phan Huy Chú đã chép: “Số quân triều nhà Trần lúc trước, mỗi đội quân hai ngàn bốn trăm người, quân ở trong cấm vệ và quân ở các lộ không đầy mười vạn người”2. Theo An Nam chí lược thì mỗi đô có 50 người. Chúng ta không biết được tất cả tên của các đô. An Nam chí lược chép rằng quân đội thời Trần gồm có thân quân và du quân. Thân quân (chắc là quân túc vệ) gồm có đô Thánh Dực, đô Thẩn Dực, đô Long Dực, đô Hổ Dực và Phụng nha quan chức lang. Du quân (có lẽ là quân điều động đi các nơi) gồm có đô Thiết Lâm, đô Thiết Hạm, đô Hùng Hổ, đô Vũ Ân. Ngoài quân túc vệ ở kinh đô và quân các lộ do nhà nước tổ chức, quý tộc tôn thất họ Trần còn được phép thành lập những đội quân riêng. Thành phần chủ yếu của lực lượng này là gia nô nô tỳ. Quân đội này thường được gọi là quân vương hầu gia đồng. Theo An Nam chí lược thì quân vương hầu gia đồng cũng đặt thành các đô như đô Toàn Hầu, đô Dược Đồng, đô Sơn Lão,… Lực lượng này cũng có một số quân đáng kể. Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản tuy còn bé mà đã có một đội quân gia nô và thân thuộc đông đến hơn nghìn người. Khi có chiến tranh, nhà nước có thể điều động được lực lượng quân đội này. Khi có chiến tranh, vương hầu cũng có quyền được mộ đinh tráng ở các lộ làm lính.

        Sở dĩ trong cuộc chiến tranh vệ quốc chống quân xâm lược Mông Cổ, nhà Trần đã có một lực lượng quân đội đông đảo là vì “lúc có việc thì toàn dân là lính”3. Theo An Nam chí lược, “việc lấy quân không có số nhất định, chỉ chọn dân đinh nào khỏe mạnh thì lấy. Cứ năm người một ngũ, mười ngũ làm một đô, lại chọn hai người nhanh giỏi dạy tập vũ nghệ. Khi nào có việc điều động thì gọi ra, khi không có việc thì trở về nhà làm ruộng”. Như vậy, nhà Trần cũng áp dụng chính sách ngu binh ư nông như thời Lý. Quân túc vệ có tuế bổng, còn quân các lộ thì chia phiên nhau về làm ruộng tự cấp. Thanh niên đến tuổi đinh tráng, gọi là hoàng nam, hằng năm khai vào đơn số, tức là sổ hộ khẩu. Lúc chiến tranh, cứ theo sổ hộ khẩu, gọi tất cả ra lính. Phan Huy Chú viết: “Bách tính đều là lính nên mới phá được giặc to và làm mạnh được thế nước”4.

        Quân đội thời Trần được luyện tập thường xuyên. Trong những năm chuẩn bị kháng chiến, thường có những cuộc diễn tập lớn. Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn đã nói: “Quân lính cần tinh nhuệ, không cần nhiều”5. Các tướng lĩnh tôn thất đều được học tập quân sự ở Giảng Võ đường. Binh pháp rất được coi trọng. Vấn đề học tập binh pháp là nhiệm vụ bắt buộc của tướng sĩ. Ngoài Trần Quốc Tuấn, trong hàng tướng tá nhà Trần, có nhiều nhà chỉ huy quân sự ưu tú. Phạm Ngũ Lão đã đối xử với quân lính với mối tình cha con. Chính viên dũng tướng kiêm nhà thơ đó đã từng có những câu:

        “Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu
        Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu…”.

        (Cầm ngang ngọn giáo vì sông núi đã mấy mùa thu
        Ba quân như hùm beo, khí thế dường như muốn nuốt cả trâu).

        Phải chăng Phạm Ngũ Lão muốn nói lên khí thế oai hùng của đội quân “phụ tử” đo ông chỉ huy và của toàn thể quân đội thời Trần. Một quân đội như thế, với lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần dũng cảm cao độ, nhất định sẽ chiến thắng bọn xâm lược.

        Như vậy là trong giai đoạn trước cuộc kháng chiến lần thứ nhất và cả trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh, nhà Trần đã ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, củng cố bộ máy nhà nước và xây dựng một quân đội hùng mạnh.

        Tất cả những việc đó đều xuất phát từ quyền lợi của giai cấp phong kiến nhằm bảo vệ quyền lực thống trị của mình. Nhưng trong hoàn cảnh bấy giờ, khi mà nhân dân vừa trải qua cuộc nội chiến cuối Lý, khi mà đế quốc Mông Cổ đang mở rộng cuộc chinh phục xuống phương Nam, yêu cầu của giai cấp phong kiến đứng đầu là quý tộc họ Trần, đã phù hợp với yêu cầu của nhân dân ở chỗ phải xây dựng một quốc gia giàu mạnh và kiên quyết bảo vệ nền độc lập dân tộc. Chính sự phù hợp đó đã khiến cho vương triều Trần có thể đoàn kết được toàn dân thành một đội ngũ vững chắc, xông lên tiêu diệt “giặc Mông Cổ là kẻ thù không đội trời chung”6. Trong đội ngũ đó, có những người dân phiêu tán vừa trở về quê hương làm ăn sau những năm loạn lạc, có những bần dân và nô tỳ đang sống với gia đình của họ trong vùng khai hoang ở bờ biển, có những nông dân vừa được mua thêm mảnh ruộng nhỏ từ năm Nguyên Phong thứ tư. Tất cả những người đó đã tiến lên dưới ngọn cờ của giai cấp phong kiến. Giai cấp phong kiến đã dẫn họ ra chiến trường để bảo vệ điền trang thái ấp, những đất thang mộc của quý tộc, nhưng đồng thời cũng bảo vệ phần mộ, gia hương, xóm làng mình, bảo vệ Tổ quốc.


Hình chiến sĩ trên đồ gốm thời Trần

--------------
1. Toàn thư, Bản kỷ, q.5, t.31a.

2. Lịch triều hiến chương - Binh chế chí.

3. Cương mục - Chính biên, q.6, t.27b.

4. Lịch triều hiến chương - Binh chế chí.

5. Toàn thư, q.5 t.52a.

6. Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #9 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2016, 11:34:57 pm »


CHƯƠNG HAI

ĐẾ QUỐC MÔNG CỔ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

        “… Không còn một dòng suối một con sông không tràn đầy nước mắt chúng ta.
        Không còn một ngọn núi một cánh đồng nào không bị quân Tác-ta giày xéo…”1

V.Frik (1210-1290)       
(nhà thơ Ác-mê-ni)       

        Thế kỷ XIII bắt đầu vào lúc thảo nguyên Mông Cổ đang cuốn bụi và thấm máu vì những cuộc chiến tranh bộ lạc tàn khốc.

                                “Trời có sao
                                 Đang quay cuồng.
                                 Người người đã nổi dậy
                                 Không về chỗ ngủ của mình nữa
                                 Mà cướp đoạt của cải lẫn nhau.
                                 Đất có cỏ
                                 Đang lật nhào.
                                 Người người đã nổi dậy
                                 Không nằm trong chăn của mình nữa
                                 Mà đánh lẫn nhau” 2

        Khúc hát ngắn chép trong Lịch sử bí mật Mông Cổ đã phản ánh tình hình các bộ lạc Mông Cổ vào cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII.

        Trước thế kỷ XIII, người Mông Cổ sống thành các bộ lạc hay liên minh bộ lạc. Các bộ lạc Mông Cổ sống trên vùng thảo nguyên châu Á, phía bắc đến hồ Bai Can, thượng lưu sông I-ê-m-xê-i và sông Iếc-tư-sơ, phía nam qua sa mạc Gô Bi, đến gần Trường thành. Đại bộ phận là bộ lạc chăn nuôi du mục.

        Tài sản chủ yếu của các bộ tộc Mông Cổ là bò, cừu và ngựa. Ngựa đóng một vai trò rất lớn trong cuộc sống du mục của người Mông Cổ. Triệu Hồng đời Tống, tác giả Mông Thái bị lục đã viết: “Người Thát (tức người Mông Cổ - T.G.) lớn lên trên yên ngựa, tự luyện tập chiến đấu, từ mùa xuân đến mùa đông, ngày ngày săn bắn, đó là sinh kế của họ” 3

        Người Mông Cổ du mục theo hình thức Cu-ry-en (Kürïyän, tiếng Mông Cổ có nghĩa là lều trại). Theo Ra-sít út-Đin (Rašid ud-Dĩn)(4), mỗi cu-ry-en bao gồm chừng một nghìn lều. Khi bộ lạc đi đến đâu, cu-ry-en đóng lại đó, lều thủ lĩnh bộ lạc ở giữa. Cùng với sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, các gia đình cá thể giàu có mở rộng uy lực, xuất hiện tôi tớ nô lệ. Phương thức cu-ry-en tức phương thức công xã dần dần được thay thế bằng phương thức a-in (ayïl) tức phương thức du mục của gia đình cá thể.

        Nô lệ gia đình có tác dụng không nhỏ trong quá trình hình thành xã hội có giai cấp của người Mông Cổ nhưng nó không trở thành hình thái kinh tế chiếm hữu nô lệ. Do ảnh hưởng của các cư dân định cư phong kiến, đặc biệt là Trung Quốc và do sự phát triển quan hệ tông pháp trong các bộ lạc du mục, người Mông Cổ đã tiến thẳng từ hình thái công xã nguyên thủy sang hình thái phong kiến, không trải qua hình thái chiếm hữu nô lệ.

        Dưới chế độ công xã nguyên thủy, bãi chăn nuôi và đàn súc đều là tài sản của thị tộc Mông Cổ. Khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã, đàn gia súc biến thành tài sản của gia đình cá thể, còn bãi chăn nuôi thì vẫn là tài sản của thị tộc trong thời gian rất lâu. Nhưng dần dần, tầng lớp Nô-y-an (noyan, quý tộc Mông Cổ) chiếm đoạt đất đai, bãi chăn nuôi của công xã và biến những người tự do A-rat (arat) trực tiếp sản xuất thành tầng lớp lệ thuộc, bị nô dịch cố định trên đất đai. A-rat phải cung cấp củi đốt, vắt sữa, chế sữa và đi thăm các đàn súc cho Nô-y-an. Lao động cưỡng bức đã phát sinh và phát triển như vậy.
       
----------------
1. Sử liệu Ác-mê-ni về người Mông Cổ (trích trong các bản thảo thế kỷ XIII-XIV), bản dịch tiếng Nga từ tiếng Ác-mê-ni cổ. Moskva 1962, t.10-11. Ta-ta (Tatar) vốn là tên một bộ lạc Mông Cổ nhưng người ta thường dùng để chỉ chung người Mông Cổ (còn gọi là Tartar). Trung Quốc dịch âm là Thát Đát.

2. Lịch sử bí mật Mông Cổ (Mongol-un ni’uca tobci’an) là một tác phẩm sử học có giá trị thế kỷ XIII, không biết tên tác giả, ca tụng sự nghiệp Trin-ghit Khan (Cinggis-qan, Thành Cát Tư Hãn). Từ lâu, người ta đã biết bản dịch âm và dịch nghĩa bằng tiếng Trung Quốc, gọi là Nguyên triều bí sử. Đến thế kỷ XX, các nhà Mông Cổ học mới khôi phục được nguyên bản tiếng Mông Cổ. Theo sự nghiên cứu gần đây của nhà học giả Tiệp Khắc Pavel Poucha thì tác giả của Lịch sử bí mệt Mông Cổ có thể là Si Ghi Khu Tu Khu (Sigi-Qutuqu), thân binh của Trin-ghit Khan (xem Dr.Pavel Poucha: Die geheime Geschichte der Mongolen, Praha, 1954).

3. Mông Thát bị lục tiên chứng trong Mông Cổ sử liệu tứ chủng hiệu chú của Vương Quốc Duy, bản in Thanh Hoa học hiệu nghiên cứu viện, tr.8a.

4. Ra-sít út-Đin (Fazl Rašid ud-Dĩn Tabĩb 1247-1318) người ở Ham Ma đan (Hamadhan), là một sử gia Ba Tư uyên bác lỗi lạc, tác giả bộ sử nổi tiếng ǰami al - Tawarikh (Tập sử biên niên), viết về lịch sử người Mông Cổ.
Logged

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM