Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 05:44:15 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV  (Đọc 24463 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #80 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 05:53:38 am »


        Năm 1010, nhà Lý xây dựng thành Thăng Long, trong đó phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, phía trái dựng điện Tập Hiền, bên phải dựng điện Giảng Võ ở phía Nam thành, xây dựng một trường bắn gọi là Xạ Đình. Nơi đây, các vua Lý, các vương hầu và tướng lĩnh thường đến tập cưỡi ngựa bắn cung, học cách bày trận và phá trận. Thời Trần năm 1253, lập Giảng Võ Đường và Trường Đua để huấn luyện tướng sĩ. Điện Giảng Võ và Giảng Võ Đường là những trường quân sự cấp cao đầu tiên của nước ta. Ở đó, vua, thái tử, các vương hầu và tướng lĩnh được học binh thư, binh pháp và võ nghệ. Thời Lý huấn luyện tướng sĩ theo một binh pháp thống nhất mà người Tống gọi là An Nam hành quân pháp. Vua Tống khi được nghe nói về binh pháp nhà Lý đã khen ngợi mãi và ra lệnh phỏng theo đó mà thi hành ngay trong quân đội Tống1 (Theo Lê Quý Đôn toàn tập, Vân Đài loại ngữ, Sđd, Tập IV, tr.232). Thời Trần có Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư. Đó là những bộ binh thư mà Trần Quốc Tuấn đã dày công nghiên cứu biên soạn; và như lời của Trần Khánh Dư: "Đã lấy sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.86). Việc giảng dạy và học tập quân sự có lúc đã theo phương pháp mới, có thể gọi là khoa học, như lời dặn của Trần Quốc Tuấn: "Sau này con cháu và bồi thần của ta có theo học bí thuật này thì nên lấy lòng sáng suốt mà thi hành bày xếp, không nên lấy ngu tối mà dạy truyền; trái thế thì không chỉ mình phải chịu tai ương mà còn vạ lây đến con cháư”3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.86). Như vậy, theo Trần Quốc Tuấn, học binh pháp của ta hay của nước ngoài đều phải sáng tạo, linh hoạt, không rập khuôn, máy móc. Bí thuật của binh pháp Trần Quốc Tuấn có thể là phương pháp dụng binh dựa trên cơ sở tư tưởng quân sự "dĩ đoản chế trường" mà ông đã tổng kết.

        Thời Lý - Trần, học binh thư, binh pháp là điều bắt buộc đối với vua, thái tử, với các vương hầu, tướng lĩnh. Bởi vì bấy giờ vua là chỉ huy tối cao của quân đội, vua thường "tự làm tướng" cầm quân đánh giặc, thái tử là người kế vị; còn các vương hầu, tướng lĩnh là những người trực tiếp chỉ huy các đạo quân. Trần Quốc Tuấn đòi hỏi các tướng soái phải dày công nghiên cứu binh pháp, nhất là bộ Binh thư yếu lược. Ông nói: "Các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo thì trọn đời là tôi chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù”1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.86). Tinh thông binh pháp, giỏi võ nghệ và hiểu rõ các phép tắc hành quân cũng là nguyên nhân khiến các tướng lĩnh triều Trần có được nghệ thuật dụng binh xuất sắc, góp phần quan trọng vào thắng lợi oanh liệt trong ba lần đánh giặc Mông - Nguyên.

        Có thể nói nhà Trần đã đào luyện được một đội ngũ võ quan, tướng lĩnh xuất sắc, là trụ cột của quân đội triều đình, giỏi võ nghệ, trung thành và lập nhiều chiến công. Nguyên nhân bởi vì nhà Trần đặc biệt coi trọng công tác đào luyện trên cả hai mặt Đức và Tài. Hình thức bồi dưỡng, rèn luyện đức độ có thể bằng ban chiếu dụ, truyền hịch, hoặc tổ chức cho các tướng học tập, họp bàn, tuyên thệ, v.v... Nội dung rèn luyện trước tiên là bồi dưỡng tình cảm của võ quan, tướng lĩnh đối với quê hương, đất nước, đối với quân sĩ, đề cao lòng nhân nghĩa, "trung quân ái quốc', tinh thần trách nhiệm của người cầm quân.

        Cũng như thời Lý, thời Trần đã tổ chức hội thề hằng năm ở Long Trì hay tại đền Đồng Cổ, gọi là lễ "Hội thề quốc nhân" hay lễ "Minh thệ". Sách Lịch triều hiến chương loại chí miêu tả một buổi hội thề như sau: Hằng năm, ngày 4 tháng 4, Tể tướng và trăm quan, hồi gà gáy đến trực ngoài cửa thành, mờ sáng vào triều. Vua ngự ở cửa hữu lang điện Đại Minh; trăm quan mặc nhung phục làm lễ hai lạy rồi lui ra; đều đủ đội ngũ nghi trượng theo hầu từ cửa Tây kinh thành đến gần đền thờ thần núi Đồng Cổ, họp nhau như thế rồi uống máu. Quan Trung thư kiểm chính đọc lời thề rằng: Làm tôi hết lòng, làm quan thanh bạch, không giữ lời thề thần linh tru diệt. Đọc xong, quan Tể tướng sai đóng cửa lại để kiểm điểm. Người nào thiếu thì phạt 5 quan tiền. Ngày hôm sau, con trai con gái bốn phương đứng ở cạnh đường để xem chật ních, cho là hội lớn”1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.86). Hình thức hội thề đó đã góp phần gắn bó các triều thần văn võ với vua và hoàng tộc.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #81 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 05:54:11 am »


        Trong thời kỳ chống quân Minh xâm lược, việc đào tạo và huấn luyện đội ngũ tướng lĩnh Lam Sơn gắn liền với quá trình phát triển cuộc kháng chiến. Với cương vị là chủ tướng, Lê Lợi luôn tin tưởng các tướng và mạnh dạn trao cho họ chỉ huy các đạo quân và đảm nhận những mũi tiến công khác nhau, trên những hướng khác nhau, với những nhiệm vụ khác nhau. Lê Lợi thường là người trực tiếp truyền bảo binh pháp cho các tướng lĩnh và cùng các tướng vận dụng binh pháp đó vào thực tiễn chiến trận. Năm 1421, quân Minh mở cuộc vây quét khu căn cứ nghĩa quân ở sách Ba Lẫm, Lê Lợi họp các tướng nói: "Quân nó đông, quân ta ít, quân nó mệt, quân ta nhàn. Binh pháp nói rằng, được thua quan hệ ở tướng, chứ không phải ở đông với ít. Nay quân nó tuy đông, nhưng ta lấy thế nhàn mà chờ giặc mệt thì tất phá được". Theo đó, ông cùng các tướng chia binh phục sẵn, đợi khi quân giặc tới đóng quân chưa kịp chuẩn bị gì, lập tức xông ra đánh úp, thắng to1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.85). Năm 1425, nghĩa quân ở phía Tây Nghệ An, nghe tin giặc đang rầm rộ ngược sông Lam tiến lên, Lê Lợi bàn với các tướng: "Giặc đông ta ít, lấy ít đánh đông thì phải nhờ đất hiểm mới có thể thành công được. Vả lại binh pháp nói phải chế người chứ không để người chế mình". Ngay sau đó, các tướng đem quân lên ải Khả Lưu tìm chỗ mai phục, đợi giặc tới, nhử chúng vào sâu rồi từ bốn mặt đổ ra đánh giết; giặc thiệt hại nặng, phải lui về đắp luỹ cố thủ. Lê Lợi bảo các tướng: "Giặc lương nhiều, giữ vững luỹ để làm kế lâu dài. Ta lương ít không thể cầm cự lâu với giặc được". Nói xong cho quân đốt hết doanh trại để lừa giặc, rồi cùng các tướng chọn quân tinh nhuệ lên mai phục trên đất hiểm ở Bồ Ải, chờ quân giặc đuổi tới, lọt vào trận địa, liền xông ra đánh cho đại bại. Giữa năm ấy, hầu hết đất Nghệ An được giải phóng2 (Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.45). Trước khi đánh Tân Bình - Thuận Hóa, khi vây Đông Quan hay đánh viện binh ở Chi Lăng, Lê Lợi đều họp các tướng, giảng giải binh pháp và đề xuất cách đánh hợp lý nhất dựa trên tư tưởng quân sự truyền thống “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”. Khi ra quân, các tướng lĩnh đã vận dụng và đều giành thắng lợi lớn. Đó là phương pháp giảng dạy và vận dụng sáng tạo binh pháp vào thực tiễn chiến đấu đang diễn ra của Lê Lợi đối với các tướng Lam Sơn thời chiến tranh giải phóng.

        Thời Lê Sơ, nhà nước tổ chức đào tạo tướng lĩnh với những quy chế chính quy trong các trường võ bị, trên bãi tập ở kinh thành và các đạo thừa tuyên. Đời Lê Thánh Tông, các võ sinh hằng ngày đến trường Giảng Võ ở phía Tây kinh thành luyện tập các môn bắn cung, phóng lao, đâm khiên, cưỡi ngựa. Sau 3 năm, Bộ Binh sát hạch để bổ làm võ úy - chức vụ khởi đầu của hệ thống võ quan. Theo chế độ tập ấm thời này, con các quan ai ham mê võ nghệ thì giao cho các quan thuộc vệ Cẩm Y dạy bảo, tập bắn cung, phóng thủ tiễn và đấu khiên. Đến tháng Chạp, Cẩm Y vệ phái quan đến khảo xét, đến năm thứ 3 đưa sang Bộ Binh khảo thí, ai trúng thì bổ chức võ úy. Năm 1481, nhà vua cho đào hồ Hải Trì ở góc Tây Nam kinh thành, giữa hồ dựng điện Thúy Ngọc, bên hồ dựng điện Giảng Võ. Các tướng lĩnh tới đây nghe binh pháp và tập võ nghệ. Các kỳ thi võ được tiến hành, việc khảo xét để thăng giáng võ quan ba năm một kỳ, vừa để kiểm tra trình độ võ nghệ các tướng, đồng thời qua đó để chọn nhân tài, bổ nhiệm các chức vụ võ quan.

        Sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi và con cháu kế nghiệp ông thường xuyên quan tâm đến việc đào luyện đội ngũ võ quan, tướng lĩnh, đã xây dựng khu vực phía Tây Thăng Long thành một trung tâm luyện tập, khảo hạch và diễn tập quân sự lớn, đạt tới đỉnh phát triển cao. Khu di tích Giảng Võ phía Tây Thăng Long thực tế là khu di tích một trường võ bị quốc gia thời Lê, bắt đầu từ thời Lê Sơ (thế kỷ XV) đến thế kỷ XVIII. Trong đó, nửa đầu thế kỷ XV (đến 1481) khu vực Ngọc Hà - Khán Sơn được xây dựng thành trung tâm Giảng Võ, nhiều tướng lĩnh đã trải qua đào tạo tại đây, nhiều cuộc luyện quân, diễu võ quy mô lớn đã được tổ chức ở trường đấu võ này. Từ năm 1481, điện Giảng Võ được chuyển về khu vực Giảng Võ ngày nay (có thể là gò Điện Thí dưới chân núi Ngự), các hoạt động luyện tập, khảo hạch và diễn tập quân sự lớn theo định kỳ được tổ chức tại trung tâm này.

        Tóm lại, từ quan niệm "binh lấy tướng làm gốc, quân lấy tướng làm chừ' và "tướng là trụ cột của quốc gia"..., các triều đại đều hết sức coi trọng phát hiện, rèn luyện và bồi dưỡng đội ngũ võ quan. Việc đào luyện đó mỗi thời kỳ có khác nhau, nhưng nhìn chung đều chú ý trên cả hai lĩnh vực Đức và Tài, vừa phát huy phẩm chất vừa nâng cao năng lực của các tướng lĩnh, nhằm tạo ra một đội ngũ chỉ huy quân đội tài cán và trung thành với chính quyền phong kiến.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #82 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 05:54:59 am »


        2. Tổ chức tập trận, rèn luyện binh sĩ

        Trước cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077) quân đội triều Lý dưới sự điều hành của Thái úy Lý Thường Kiệt đã khẩn trương luyện tập. Điều này có thể hiểu qua lời chiếu của vua Tống bươi tướng Quách Quỳ trước khi đánh Đại Việt: "Hiện ở Giao Chỉ, Lý Thường Kiệt ngày ngày sai tụ tập binh lính, nhóm họp voi ngựa, tập dượt phép chạy và phép xung phong"1 (Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.198). Tại làng Nam Đồng, xưa thuộc tổng Hạ, huyện Vĩnh Thuận (nay là phố Nam Đồng, Hà Nội) có đình và chùa thờ Lý Thường Kiệt. Tương truyền rằng, thời Lý, đất Nam Đồng còn rất hoang vu, Lý Thường Kiệt đã nhiều lần tổ chức luyện quân ở đây. Vì thế khi ông qua đời, dân làng đã dựng đình và chùa để tưởng nhớ công lao đánh giặc của vị tướng tài năng này. Trong đạo quân do Thái tử Hoằng Chân chỉ huy đánh trận Như Nguyệt, có 500 quân đặc biệt do ông "nuôi riêng", cấm mọi điều thị dục, được luyện tập võ nghệ và dạy cho trận pháp, có kỷ luật, người nào cũng có một cái kim bài để làm hiệu riêng. Đội quân ấy rất giỏi, hiệu lệnh rất nghiêm. Tôn Thăng trong sách Đàm phố cũng ca ngợi đạo thuỷ quân của Thái tử Hoằng Chân là hiệu lệnh nghiêm và chiến đấu rát giỏi.

        Chính nhờ luyện tập mà quân đội thời Lý có tiếng là tinh nhuệ. Vua Tống nói rằng, "quân Giao Chỉ gan lì và liều chết". Tướng nhà Tống là Tô Tử Nguyên công nhận: "Người Giao Chỉ giỏi thuỷ chiến". Sách Việt kiệu thư cho biết, người Tống có truyền tụng rằng: Giao Chỉ giỏi thuỷ chiếu, họ lặn xuống nước đội thuyền địch để lật úp. Đỗ Mục nói: họ có người đi ngầm dưới đáy biển 500 dặm mà không thở, thuyền đi biển thường bị họ lặn dưới nước đục thủng. Đạo thuỷ quân của Lý Kế Nguyên tuy không đông nhưng được tuyển chọn và huấn luyện cẩn thận, kỷ luật nghiêm, chiến đấu dũng cảm.

        Quân đội thời Trần do những người tông thất giỏi võ nghệ, tinh binh pháp chỉ huy và luyện tập chu đáo. Nhà nước rất coi trọng việc duy trì và phát huy tinh thần thượng võ cho quân sĩ, đặc biệt là những người ở hương Thiên Trường đã được sung vào hàng ngũ Cấm quân. Theo lệ cũ của họ Trần, quân sĩ Thiên Thuộc không được học văn nghệ, vì là sợ khí lực kém đi. Năm Tân Ty (1281), vua Trần cho lập nhà học ở phủ Thiên Trường nhưng lại cấm không cho trai đinh ở hương Thiên Thuộc nam Định, Thái Bình) vào học. Quy định này được duy trì khá nghiêm ngặt. Chứng cớ là năm Quý Hợi (1323), vua Trần Minh Tông ngự đến nhà Thái Học (ở Thăng Long) có người tên là Mặc vốn xuất thân trong quân Thiên Thuộc đã đỗ Thái học sinh, nhưng vẫn hạ chiếu trả về quân tịch và chỉ được làm lại tiểu trong quân Thiên Đinh. Về sau ông này đỗ bậc cao trong môn thi võ mới được dùng làm tướng võ.

        Vào các giai đoạn chuẩn bị kháng chiến chống Mông - Nguyên, không khí luyện tập võ nghệ thật sôi nổi. Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn nhắc các tướng sĩ chăm lo "rèn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên" khiến cho người người đều giỏi cung kiếm. Trong quân đội binh sĩ được học cưỡi ngựa, bắn cung nỏ, múa kiếm, phóng lao, sử dụng giáo, mác, v.v... Nhà nước khuyến khích mở lò luyện võ và cho phép các vương hầu, quý tộc đôn đốc rèn tập và trang bị cho quân lính nơi mình trấn trị. Việc rèn luyện chiến thuật thường thông qua các buổi tập trận. Chính sử ghi chép nhiều về hình thức tập trận lớn, thao diễn quân đội do nhà vua hoặc Quốc công tiết chế đích thân chỉ huy.

        Năm 1263, Trần Nhân Tông hạ lệnh cho các đạo quân sắm sửa khí giới, đóng thuyền chiến và tổ chức tập trận ở bãi phù sa sông Bạch Hạc (Phú Thọ). Sau Hội nghị Bình Than, các cuộc duyệt binh và diễn tập đã được tổ chức ở Thăng Long và trên những địa bàn chiến lược như Bạch Hạc, Vạn Kiếp... Năm 1283, vua Trần Nhân Tông thân chỉ huy các vương hầu điều động các quân thuỷ, bộ thao diễn chiến trận. Năm 1284, Trần Quốc Tuấn được lệnh điều khiển các vương hầu, tướng lĩnh mở cuộc duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu, rồi sau đó chia quân đi đóng giữ những nơi xung yếu ở phía Bắc và Đông Bắc Tổ quốc. Tháng Chạp năm ấy, vua ngự giá ra Hải Đông (Hải Dương), sai Hưng Đạo vương tiết chế Đại hội thuỷ bộ chư quân ở Vạn Kiếp. Bấy giờ binh đóng liên tiếp một giải Vạn Kiếp, thuyền chiến san sát trên sông Lục Đầu, cờ xí trang nghiêm, qua mâu (gươm giáo) rực sáng, ba quân thật là sung sức. Cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai vừa kết thúc, năm 1286 vua Trần đã ra lệnh cho Hưng Đạo vương cùng các vương hầu và các võ quan "kiểm duyệt quân đội làm đô binh khí, đóng chiến thuyền và mở cuộc tập trận"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.58). Năm sau, triều đình lại triệu tập toàn quân, tổ chức diễn tập và triển khai lực lượng phòng vệ, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lần thứ ba. Những sự kiện trên chứng tỏ vua Trần và Trần Quốc Tuấn rất chăm lo luyện rèn quân sĩ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #83 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 05:55:30 am »


        Thông qua các kỳ tập trận và thao diễn, các tướng sĩ và quân lính quen với chiến trận và địa hình, biết hiệp đồng chiến đấu giữa các đơn vị, các loại quân; đồng thời nâng cao sĩ khí quân đội trước khi bước vào cuộc sống mái với kẻ thù. Chính nhờ thế mà chất lượng quân đội ngày một nâng cao, sự đối phó với giặc cũng được chủ động và có hiệu quả hơn. Câu nói của Quốc Tuấn rằng: “Năm nay giặc đến dễ đánh", một phần cũng do sự chuẩn bị đó. Binh lực thời bấy giờ được tổ chức tốt, luyện tập có quy chế, kỷ luật rất nghiêm; tuy số lượng ít nhưng dũng mãnh lạ thường, vì thế mới dám đương đầu và đánh thắng quân Mông - Nguyên đông và thiện chiến nổi tiếng đương thời.

        Nghĩa quân Lam Sơn vừa trưởng thành trong thực tế chiến đấu, vừa trưởng thành trong quá trình tổ chức, rèn luyện. Họ thường xuyên được "hun đúc những lời nhân nghĩa, khiến ai cũng giữ lòng thành, thân với kẻ trên, chết cho người trưởng". Sách Toàn thư viết: "Vua (Lê Lợi) rèn tập tướng sĩ sửa sang khí giới, chưa đầy 10 ngày đã đầy đủ. Bèn tập võ nghệ, dạy bảo phép ngồi đứng đánh đâm; chỉ bảo những thế kỳ, chính, phân, hợp; cho biết hiệu chiêng, hiệu trống, hiệu cờ. Kỷ luật quân đội đã nghiêm chỉnh, khí thế quân lại càng hăng"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.20). Tại một số nơi như Vĩnh Động, Đông Đô, v.v... Lê Lợi đã tổ chức điểm duyệt quân ngũ, kiểm tra khí giới trang bị, đồng thời triển khai luyện tập thuỷ chiến, học cách đánh thành... Đặc biệt, trước khi bước vào trận quyết chiến Chi Lăng - Xương Giang, Lê Lợi đã "ngày đêm luyện tập các tướng, tuyển thêm quân sĩ, sửa đồ đánh thành, rèn uy nuôi sức, tập võ nghệ, giữ hiệu lệnh cho minh, chia các tướng chẹn giữ các đường quan ải, để dứt viện binh của giặc"2 (Nguyễn Trải toàn tập, Sđd, tr.65). Nguyễn Trải nói: "Nghĩa quân càng luyện khí giới càng tinh".

        Chính sách Ngụ binh ư nông thời Lê Sơ được vận dụng mở rộng trong quân đội, do đó quân sĩ thường xuyên thay phiên nhau ở lại canh phòng, luyện tập và trở về sản xuất; trong quân ai cũng được trải qua các thời kỳ luyện tập quân sự. Năm 1429, Lê Thái Tổ hạ lệnh cho các vệ và quân năm đạo diễn tập thuỷ bộ: "Hạn đến ngày 27 (tháng 3) thì tập thuỷ bộ, ai thiếu mặt sẽ bị trị tội. Tập xong rồi đều chia ra 5 phiên, 1 lưu lại quân ngũ, còn 4 phiên cho về làm ruộng"3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III. Việt sử thông giám cương mục, Tập IX, Sđd, tr.19). Năm 1434, Lê Thái Tông lệnh cho quân Ngự Tiền và quân năm đạo tập trung tại kinh đô để diễn tập, lúc đó chỉ cho phép các quân từ Thanh Hoá trở vào được điểm duyệt ở địa phương mình. Năm 1435, vua ra lệnh cho quân năm đạo đến điểm duyệt tại bản trấn, còn quân Ngự Tiền tập võ nghệ ở sân rồng nơi cung điện; sau đó đi duyệt bộ binh tập trận ở Tảo Đông (Từ Liêm - Hà Nội), duyệt thuỷ binh ở sông Nhị Hà (sông Hồng). Cuối năm, vua lại hạ lệnh cho quân Ngự Tiền và các vệ quân, quân ở năm đạo mang theo đồ dùng và lương thực một tháng, tập họp tại địa phận để điểm mục và tập võ nghệ. Triều đình Lê Sơ quy định: hằng năm vào mùa Xuân, các quân ở năm đạo đều tập trung về kinh đô điểm duyệt đội ngũ và tập trận. Bài thơ: Quan duyệt thuỷ trận của Nguyễn Trãi cho biết cảnh tượng hùng tráng của một cuộc diễn tập thuỷ quân thời đó như sau:

        Biển Bắc năm xưa đã diệt kình Yên rồi còn nghĩ chuyện binh nhung Tinh kỳ phấp phới liền mây ánh Chiêng trống om thòm động đất kinh Muôn giáp khoe oai tì hổ dữ Nghìn thuyền bày trận quán nga nhanh Lòng vua muôn để dân ngơi nghỉ Văn trị nên xây dựng thái bình1 (Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.262).

        Đến đời Lê Thánh Tông, chế độ luyện tập quân thuỷ, bộ trở nên chính quy không những đối với quân triều đình, mà cả với quân ở đô ti các đạo thừa tuyên. Biên chế kỵ binh, tượng binh, lính cung nỏ, lính hoả khí và thuỷ binh đã được xác định đến cấp sở (400 người), cấp vệ (2.000 đến 2.400 người); do đó việc huấn luyện quân sự chuyên sâu hơn để phù hợp với tính chất của từng loại quân. Năm 1460, Lê Thánh Tông ra chỉ dụ rằng: “Phàm có nhà nước tất có võ bị. Nay phải theo đúng trận đồ của nhà nước đã ban hành, ở trong địa phận của vệ mình, sửa sang đội ngũ cho nghiêm chỉnh, dạy cho phép đi đứng đánh đâm, biết rõ tiếng chuông, tiếng trống hiệu lệnh, khiến quân lính tập quen cung tên, không quên võ bị"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd , Tập III, tr.176, 195). Năm 1465, nhà vua ban hành các trận pháp mới cho quân thuỷ, bộ. Thuỷ trận có các phép Trung Hư, Thường Sơn Xà, Mãn Thiên Tinh, Nhạn Hàng, Liên Châu, Ngư Đội, Tam Tài, Thất Môn và Yến Nguyệt; bộ trận có phép Trương Cơ, Tương Kích và Kì Binh. Tiếp đó, vua lại ban bố quân lệnh, gồm 31 điều thuỷ trận, 22 điều tượng trận, 27 điều mã trận và 42 điều bộ trận. Vua lại ban lệnh rằng: "Phạm có nhà nước tất có võ bị. Nên nhân lúc rỗi việc làm ruộng, hãy đình hoãn những việc không gấp, cứ hằng tháng vào ngày rằm, thì đến những phiên để điểm mục; liệu cắt quân vào những việc giữ cửa, nhà, trại, kiếm cỏ lợp nhà, cắt cỏ nuôi voi, còn thì trước 1 - 2 ngày phải theo những trận đồ đã ban ra, ở ngay địa phận vệ mình, sửa sang đội ngũ, dạy cho những phép ngồi đứng tiến lui, tập nghe tiếng hiệu chiêng trống, để cho quân lính tập quen cung tên, không quên võ bị. Đến ngày thứ 4 trở đi mới sai làm tạp dịch. Nếu quan nào không biết để lòng răn dạy, rèn tập quân lính, dám sai làm việc tạp nhiễu thì xử biếm hay bãi"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd , Tập III, tr.176, 195).
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #84 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 05:56:03 am »

        Tháng 10 (1467), Lê Thánh Tông chuẩn định 3 năm một kỳ thi khảo các quân sĩ về võ nghệ. Cứ đến mùa Đông từng kỳ, hạ lệnh cho quan khảo xét sự giảng tập của quân thuỷ, quân bộ, quân thị hậu và quân ngoài các đạo; nhân đó định cách thức thưởng phạt: binh sĩ nào thắng luôn 4 tao được thưởng 1 chiếc áo và một quan năm tiền sử tiền (36 đồng); 3 tao thắng 1 tao bình, được thưởng 1 chiếc áo; 2 tao thắng và 2 tao bình, được thưởng 6 tiền sử tiền; 1 tao tháng 3 tao bình, được thưởng 3 sử tiền; 4 tao đều bình được cấp cho tiền cơm là 20 đồng. Ngược lại binh sĩ nào thua cũng phải phạt như thế. Nhà vua hạ sắc lệnh cho các vệ các ti Thần Võ, Du Nỗ, Thần Tí, Vũ Lâm và Ngũ Oai; mỗi khi binh sĩ đến phiên túc trực, đều thay đổi từng ban chuyên tập võ nghệ; binh sĩ ở vệ Ngũ Oai và các sở Súng Nỗ thuộc các vệ ở các đạo ngoài kinh thành đều được nghỉ việc sai phái về tạp dịch, liệu lượng định số người canh giữ, còn bao nhiêu người đều phải chuyên tập võ nghệ, ban nào tập xong, quan chuyên trách xét duyệt lại và thưởng phạt theo lệ đã định.

        Mùa Hạ năm 1469, vua ra sắc chỉ cho các vệ ti Thần Vũ Du Nỗ, Thần Tí, Vũ Lâm, mỗi khi đến phiên trực thì thay nhau luyện tập võ nghệ; còn vệ Ngũ Uy và các sở Súng Nỏ ngoại vệ được nghĩ sai việc vặt để một số người canh phòng các nơi, còn tập trung chuyên tập võ nghệ. Hết kỳ hạn phải được khảo duyệt, theo lệ mà thưởng phạt. Theo sử cũ, ngoài tại các hồ lớn ở kinh sư và sông Nhị, nhà vua còn ra lệnh tập thuỷ quân ở sông Giao Thuỷ, sông Thiên Phải, ở Lỗi Giang, sông Vi, ở ngã ba sông Bạch Hạc, v.v...

        Sách Toàn thư chép: "Tân Sửu, năm thứ 12 (Hồng Đức, 1481), tháng Mười... đào hồ Hải Trì. Hồ này quanh co trăm dặm, giữa hồ có điện Thuỷ Ngọc, bên hồ làm điện Giảng Võ để luyện tập binh và voi". Đến tháng 11 năm 1490, "Vua lấy làm răn về việc Nhân Tông bị giết nên sai quân đắp rộng thêm ra ngoài Trường Đấu Võ, dài rộng 8 dặm, trong 8 tháng làm xong"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Sđd, tr.278, 307). Đó là khu vực đấu trường Giảng Võ, nơi quân đội luyện tập, đấu võ. Sử cũ chép về các địa danh có liên quan đến việc luyện tập võ nghệ của quân đội Lê Sơ ở Thăng Long như Trường Đấu Võ, Đình Giảng Võ, Điện Giảng Võ, Sân Giảng Võ, Đài Khán Sơn, v.v... Theo sách Bắc Kỳ tạp biên của Như Bá Sỹ, Lê Thánh Tông thường tổ chức duyệt võ ở núi Khán Sơn. Núi này ở phía Tây Nam thành Thăng Long.

        Trong chương Quân chính (luật Hồng Đức) có các điều 1, 17, 19, 28 và 43 quy định việc nghiêm cấm các tướng hiệu, quân nhân vi phạm nhiệm vụ luyện tập quân sự sẵn sàng chiến đấu. Chẳng hạn, điều 1 nói: "Những tướng hiệu cai quản từ 3 vạn quân trở xuống, 50 lính trở lên, nếu không chăm sóc luyện tập để hàng ngũ không chỉnh tề, quân khí không tinh nhuệ... nhẹ thì biếm hoặc cách chức, nặng thì bị đồ hay lưư'; điều 43 quy định: "Khi có kỳ đại tập (hoặc duyệt tập) quân đội, quân lính ai thiếu mặt thì xử phạt 80 trượng, biếm làm quân dịch ở bản quân, truy nộp 3 quan tiền sung công..."2 (Quốc triều hình luật, Sđd , tr.102).

        Thời Lý, Trần và Lê Sơ, thường tổ chức các kì thi võ trong quân đội. Ngoài mục đích để rèn luyện võ nghệ, nhà nước còn thông qua đó để tuyển người đào tạo võ quan và tuyển những người khoẻ, giỏi võ sung vào Cấm vệ người giỏi bơi lội và chèo thuyền sung vào "trạo nhi đoàn đội" (thủy binh). Bấy giờ chính quyền khuyến khích các lễ hội truyền thống có tinh thần thượng võ và các trò chơi thể thao quân sự như đua thuyền, đua ngựa, vật võ, đánh phết, đá cầu, bắn nỏ, đấu quyền, v.v... Có những môn đã được quy định bắt buộc trong tổ chức quân đội. Sách Cương mục cho biết, tháng 12 (1478), vua Lê Thánh Tông định thể lệ thưởng và phạt về kỳ thi "đô thí". Phàm các tước công, hầu, bá cùng các quan trong Kinh, ngoài các đạo, viên quan nào có trách nhiệm quản lĩnh quân sĩ thì hội họp ở kinh sư để thi khảo về võ nghệ, gọi là "đô thí". Phép thi: mỗi lần thi bắn 5 phát tên bằng cung, 5 phát tên bằng tay (thủ tiễn) và đấu khiên một đường. Ai trúng được từ 8 đến 10 lần là thượng cấp, trúng 6 - 7 lần là trung cấp, trúng 4 - 5 lần là hạ cấp; sẽ được ban thưởng theo cấp. Nếu trúng 2 - 3 lần sẽ không thưởng, không phạt; còn ai trúng 1 lần hoặc không trúng lần nào, sẽ bị phạt tiền.

        Tiến hành luyện quân một cách thường xuyên và có quy củ chính là một trong những nguyên nhân làm cho quân đội các triều đại từng bước chính quy, tinh nhuệ, trở thành công cụ sắc bén bảo vệ nhà nước phong kiến Đại Việt, giữ gìn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia.

        Nhìn chung, vũ khí trang bị của quân đội Đại Việt trong các thế kỷ XI - XV đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy rằng, giai đoạn này vũ khí bạch binh vẫn là trang bị chủ yếu, nhưng hoả khí cũng đã xuất hiện và ngày càng đóng vai trò trong huấn luyện và chiến đấu. Hoả khí ra đời trong giai đoạn này đã đánh dấu một mốc phát triển quan trọng. Đó là kết quả của những nỗ lực của nhà nước phong kiến trong quá trình xây dựng quân đội chính quy.

        Về trang phục của võ quan, tướng lĩnh và binh sĩ trong giai đoạn này ngày càng tiến bộ và khá tươm tất, thống nhất; về triều phục các võ quan, càng về sau càng được quy định phân biệt theo phẩm hàm và chức tước của họ.

        Quân đội Đại Việt thế kỷ XI - XV là quân đội chính quy có tổ chức khá quy củ, trang bị và huấn luyện khá tốt. Thời bấy giờ, về trang bị giữa quân đội quốc gia Đại Việt và quân đội của các triều đại phong kiến phương Bắc cùng thời như Tống, Nguyên và Minh là không hơn kém nhau nhiều; chỉ khác nhau chủ yếu ở số lượng nhiều ít. Điều chủ yếu đưa đến thắng lợi của quân dân Đại Việt trong kháng chiến chống Tống, chống Mông - Nguyên và chống quân Minh xâm lược là vấn đề tổ chức, huấn luyện và chỉ huy, trong đó yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #85 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 05:57:38 am »

KẾT LUẬN

        Trên đây là mấy nội dung chủ yếu của Binh thế Đại Việt trong các thế kỷ XI - XV. Tuy các nội dung chưa đầy đủ trọn vẹn, nhưng có thể từ đó rút ra một số kết luận bước đầu về đặc điểm, ý nghĩa tác dụng của Binh chế giai đoạn này như sau:

        1. Từ khi giành độc lập (thế kỷ X), trải qua các thế kỷ XI – XV, Binh chế Đại Việt đã từng bước phát triển hoàn thiện. Đó là kết quả của quá trình kế thừa và phát triển sáng tạo của ông cha ta từ thời Lý đến Lê Sơ.

        Từ giữa thế kỷ thứ X, Đình Bộ Lĩnh và Lê Hoàn xây dựng Nhà nước Đinh và Tiền Lê, trong đó có tổ chức ngạch binh mang tên "Thập đạo quân". Có thể coi Binh chế thời kỳ độc lập được xác lập từ thời Đinh - Lê, nhưng biên chế tổ chức quân đội cùng các chế độ quân sự thời đó còn thô phác, đơn giản. Khi triều Lý thành lập (thế kỷ XI), Nhà nước Đại Việt bước vào giai đoạn phát triển cường thịnh với kinh đô là Thăng Long. Công cuộc xây dựng đất nước từ đây bắt đầu có quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc, toàn diện cho sự phát triển của quốc gia phong kiến độc lập. Binh chế nước ta cũng bước vào giai đoạn xây dựng chính quy. Lực lượng quân sự thời bấy giờ đã khá hùng hậu, có cả quân thường trực tại ngũ, có lực lượng dự bị "biên sổ" và những binh lính chia phiên về sản xuất theo chính sách Ngụ binh ư nông. Chế độ nghĩa vụ binh dịch đã được quy định. Quân đội phiên chế thành các đơn vị và đạt đến trình độ tổ chức, trang bị, huấn luyện khá cao. Trải qua các thời Trần, Hồ đến Lê Sơ, Binh chế Đại Việt ngày một hoàn thiện, chính quy. Các ngạch quân được tổ chức hoàn chỉnh từ trung ương đến các địa phương, bao gồm nhiều loại quân và binh. Hệ thống tổ chức quản lý và chỉ huy quân đội từng bước hoàn hảo theo chiều hướng phát triển của nhà nước tập quyền, chuyên chế. Sự hoàn thiện của Binh chế là kết quả của một quá trình kế thừa, phát triển và đổi mới qua các triều đại.

        Binh chế nước ta từ thời Lý đến Lê Sơ và Binh chế Trung Hoa trong các triều đại cùng thời như Tống, Nguyên, Minh đã có sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Về mặt tổ chức Binh chế nhà Tống và Binh chế thời Lý - Trần có những nét tương đồng; chẳng hạn như hệ thống tổ chức Cấm quân, Sương quân và Dân binh hay quân các châu, lộ do các tù trưởng, tộc trưởng, các phò mã quản lãnh ở vùng rừng núi cũng giống như tổ chức "Phiên quân" nhà Tống. Tuy số lượng và quy mô tổ chức khác nhau, nhưng cũng như thời Tống, Cấm quân thời Lý - Trần là lính hạng nhất, được trọng dụng hơn; họ được coi là Thân quân, chủ yếu đóng ở kinh thành, giừ vai trò nòng cốt trong lực lượng vũ trang cả nước. Tuy nhiên so với Cấm quân nhà Tống, Cấm quân nhà Lý ổn định hơn có cuộc sống vật chất tinh thần cao hơn. Cấm quân nhà Lý và đầu thời Trần cảm thấy vinh dự khi được thích lên trán ba chừ "Thiên Tử quân" hoặc khi được xăm lên mình các hình rồng, phượng; còn Cấm binh nhà Tống buộc phải thích chữ đánh dấu ở trán để khỏi đào ngũ, trốn tránh. Về mặt chỉ huy, nhằm mục đích tập trung quyền lực ở trung ương và hạn chế binhquyền của các tướng, nhà Tống tìm cách luân chuyển các tướng và binh sĩ để "tướng không nắm được quân"; điều này khác hẳn với Đại Việt, các triều đại thường khuyến khích xây dựng mồi quan hệ "phụ tử chi binh" giữa tướng lĩnh và binh sĩ. Ở hai nước đều có tổ chức Khu mật viện là cơ quan hành chính tối cao, trực tiếp nhận lệnh Hoàng đế trong việc bố trí điều động quân đội, "nắm quyền cơ mật, coi việc quản lý công trình quân sự, vũ khí, xe, ngựa, chiêu mộ và quản lãnh Cấm quân. Trong quân đội Tống cũng như quân đội Lý - Trần đều có tổ chức Sương quân. Họ đều là lính “hạng nhì”. Với danh nghĩa là quân thường trực, nhưng trên thực tế họ là lính lao dịch. Tuy nhiên, người lính Sương quân Đại Việt được thay phiên về làm ruộng theo chính sách Ngụ binh ư nông, do đó họ vẫn giữ được mối quan hệ gắn bó với ruộng đồng, gia đình và làng quê.

        Có những nét tương đồng trong Binh chế hai nước như trên là do ảnh hưởng qua lại giữa hai nền văn hoá, văn minh, trên lĩnh vực quân sự. Điều đó đã được sử sách hai nước ghi chép lại. Sử gia Ngô Thì Sĩ trong sách Việt sử tiêu án có ghi: "Binh chế buổi đầu nhà Lý đại lược theo phép Phủ binh nhà Đường và phép Cấm Sương nhà Tống, lấy Thân quân làm trọng gọi là Cấm quân"1 (Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án, Sđd, tr.127). Còn Tống sử có ghi câu chuyện: "Thái Diêm Khánh, tri châu đất Hoạt, học được chép tổ chức quân đội của nước An Nam, xin bắt chước quy chế chia ra từng bộ phận. Chia chính binh, cung tiễn thủ, nhân mã đoàn làm 9 phủ. Hợp trăm đội, chia ra làm tả, hữu, tiền, hậu bốn bộ. Mỗi đội có trú chiến và thác chiến khác nhau. Tướng nào cũng có lính bộ, quân ky và khí giới... Vua Thần Tông (nhà Tống) khen phải và ra lệnh theo đó mà làm". Lê Quý Đôn nhân đó có lời bàn rằng: "Ấy, binh pháp của nhà Lý được nhà Tống bắt chước như thế. Nước ta, về triều Lý đánh đâu được đấy là nhờ vậy" (Lê Quý Đôn toàn tập, Tập IV, Sđd, tr.232).

        Binh chế Đại Việt thời Lê Sơ và Binh chế Trung Hoa thời Minh (thế kỷ XV) cũng có những nét tương đồng, ảnh hưởng lẫn nhau. Cũng như quân đội triều Minh, quân đội triều Lê gồm hai bộ phận lớn Kinh quân (quân triều đình) và Địa phương quân (quân các phủ, châu hay các đạo). Tổ chức quân Ngũ phủ, chế độ biên chế quân đội thành các vệ sở các đô ti cùng với việc tổ chức "Cẩm Y vệ” dưới thời Lê Sơ cũng có những nét giống như tổ chức quân đội triều Minh. Bộ Binh trong "Lục bộ" là cơ quan hành chính quân sự ở trung ương đều có ở hai nước. Đó cũng là những nét mô phỏng, học hỏi của người Việt trên lĩnh vực Binh chế. Sách Binh chế chí nói rằng: "Đời Hồng Đức đặt quân đội đại để theo quy chế buổi đầu thời Minh. Quân chế nhà Minh ở trong đặt chỉ huy sứ ti của 12 vệ Cẩm Y, gọi là Thân quân, lại đặt đô đốc phủ năm quân để thống lĩnh các đạo mà các tỉnh trong nước thì chia thành đô ti để cho các vệ sở ở ngoài lệ thuộc vào... Quân ngũ trong và ngoài có thống thuộc chặt chẽ. Ấy cũng là chế độ tốt một đời. Thánh Tông chước định quân chính đều bắt chước ở đấy"2 (Phan Huy Chú, Sđd, Tập IV, tr.8 ). Ngược lại, Binh chế Đại Việt thủa đó cũng ảnh hưởng đến Binh chế triều Minh. Điều này thể hiện rõ nhất ở việc triều Minh, sau chiến tranh xâm lược Đại Việt (1406-1407) đã bắt Hồ Nguyên Trừng về Trung Quốc, sử dụng làm quan chuyên trách việc đúc Thần cơ sang pháo và lập nên Thần cơ doanh, một trong ba đại quân doanh trong quân đội nhà Minh tại kinh thành Bắc Kinh, nhiều thợ bách tác giỏi nhất của Đại Việt cũng bị bắt về để chế tạo vũ khí. Những phát minh và sáng tạo vũ khí của người Đại Việt ở Trung Quốc đã có tác động khá lớn cả về tổ chức, trang bị, cả về kỹ thuật và chiến thuật trong quân đội nhà Minh thời đó. Tác giả sách Vân đài loại ngữ nói: "Binh khí nước ta truyền sang Trung Quốc bắt đầu từ thời Lê Trừng vậy"1 (Lê Quý Đôn toàn tập, Tập IV. Sđd, tr.230). Những biểu hiện trên thể hiện tính kế thừa và độc lập, sáng tạo của dân tộc ta trên lĩnh vực Binh chế.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #86 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 05:58:50 am »


        2. Binh chế Đại Việt là Binh chế của nhà nước phong kiến dân tộc, nó vừa mang tính giai cấp vừa mang tính nhân dân.

        Binh chế nước ta trong các thế kỷ XI - XV do Nhà nước phong kiến Đại Việt thiết lập, trước hết nó bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến thống trị mà đại diện là vua và những quý tộc thuộc dòng họ vua. Tính giai cấp thể hiện trong quá trình xây dựng các ngạch quân như tổ chức Cấm quân theo nguyên tắc Thân quân, quân của nhà vua, của triều đình; đặc biệt biểu hiện trên quan điểm tuyển chọn, đào luyện và bổ dụng võ quan, tướng lĩnh. Quy chế chung của Nhà nước Lý - Trần là: "Người có quan tước con cháu được thừa ấm mới được vào làm quan; người giàu khoẻ mạnh mà không có quan tước thì sung quân, đời đời làm lính"1 (Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, Tập II, tr.36,37). Thời đó các hoàng tử, thân vương, các quý tộc trung thành được phong các chức tước cao, nhất là trên lĩnh vực quân sự. Vua Trần Thánh Tông cho ràng: "Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông nên cùng với anh em trong họ chung hưởng phú quý"2 (Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, Tập II, tr.36,37). Quan điểm đó cũng thể hiện cả trong việc chọn dùng tướng lĩnh; vua ra lệnh: "Tuyển trong tông thất những người giỏi võ nghệ, am hiểu binh pháp cho làm tướng coi quân"3 (Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, Tập II, tr.36,37). Khi nhà nước phong kiến chuyên chế phát triển như thời Hồ, nhất là thời Lê Sơ thì tính chất giai cấp của Binh chế, của quân đội càng đậm nét. Cùng với việc phát triển lực lượng võ quan, tăng cường trọng trách cho các công thần, triều đình còn tìm cách hạn chế quyền lực các võ quan địa phương, tập trung uy quyền ở vua, nhất là thống linh quân đội; nhà vua luôn luôn là thủ lĩnh quân đội tối cao. Tất cả đều nhằm mục đích quản lý và sử dụng tốt công cụ chuyên chế của mình.

        Theo Binh chế Đại Việt, trong nước có nhiều thứ quân, một hệ thống tổ chức quân sự được xác lập từ trung ương đến cơ sở làng xã. Chế độ nghĩa vụ binh dịch cũng như chính sách chia phiên trong quân cho binh lính về nhà sản xuất ngày càng có quy củ và mở rộng trong các triều đại. Vì thế, nhà nước có thể huy động được nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều đinh tráng tham gia việc quân. Trong giai đoạn đầu các triều đại, khi nhà nước phong kiến Lý, Trần và Lê Sơ còn đóng vai trò tích cực thì quyền lợi giai cấp nắm quyền còn gắn liền với quyền lợi chung của cả dân tộc. Vào thời kỳ đó, giai cấp phong kiến còn có những chính sách tiến bộ, hợp lòng dân, biết "dĩ dân vi bản", coi việc "khoan thư sức dân làm sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”, những chính sách hoặc những hoạt động quân sự cũng không đối lập với quần chúng nhân dân, nhà nước được nhân dân ủng hộ và khi có chiến tranh cả nước tham gia việc binh. Những lúc đó, Binh chế mang tính nhân dân sâu sắc nhất. Có thể nói rằng, tỉnh chất nhân dân của Binh chế Đại Việt thể hiện đậm nét nhất ở thời Trần trong quá trình xây dựng lực lượng cũng như trong ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên. Sử gia Phan Huy Chú viết về chế độ quân sự thời đó như sau: "Đại để lúc vô sự thì phục binh ở nơi thuận tiện; khi có nạn thì đều hết sức chống cự. Thế là đời Trần nhân dân ai cũng là binh, nên mới phá được giặc dữ, làm cho thế nước được mạnh". "Đó là chính sách tốt, là chế độ hay của người cận cổ"1 (Phan Huy Chú, Sđd, Tập VI, tr.6).

        Tuy nhiên, tính chất nhân dân của Binh chế dễ bị phai nhạt và mất đi khi giai cấp phong kiến, giới quý tộc xa rời và đi ngược lại với quyền lợi của quần chúng nhân dân. Khi nhà nước phong kiến suy yếu, không đánh giá đúng vai trò nhân dân hoặc bọn vua quan "chỉ vụ ích kỷ phì gia" thì Binh chế của họ chỉ mang tính giai cấp, đối lập với nhân dân, không có cơ sở xã hội vững chắc và tất yếu quân đội sẽ không đảm đương được tốt nhiệm vụ dân tộc của nó. Điều đó biểu hiện ở giai đoạn cuối triều Lý, cuối triều Trần và thời Hồ. Sự phát triển của Binh chế Đại Việt vì thế có những bước thăng trầm nhất định.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #87 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 05:59:27 am »


        3. Binh chế Đại Việt luôn coi trọng yếu tố chất lượng, chú trọng xây dựng quân đội “cốt tinh, không cốt nhiều”

        Trong các triều đại, hằng năm đều có chiếu, chỉ của nhà vua: "Tuyển những đinh nam khoẻ mạnh sung vào quân ngũ”, hoặc lệnh "thải lính già yếu, thay thế người trẻ khoẻ, nhanh nhẹn". Trên cơ sở quản lý nhân đinh, nhà nước đều động viên được trai tráng vào quân đội. Kiêng lính Cấm quân bao giờ cũng được ưu tiên, gồm những tráng đinh "hạng nhất" và thường được tuyển từ những châu, lộ bản bộ của dòng họ thống trị để bảo đảm sự trung thành đối với hoàng tộc. Quân đội biên chế thành các tướng hiệu, quân hiệu, các quân và đô, các đoàn quân, dinh quân, hay các vệ, sở... Những người khoẻ, giỏi võ nghệ và hiểu binh pháp được tuyển chọn chỉ huy các bộ ngũ, đơn vị. Giới võ quan, tướng lĩnh thường xuất thân từ hàng ngũ quý tộc, trung thành và tài cán.

        Quân chủ lực của triều Lý, Trần và Lê Sơ được tổ chức tốt và huấn luyện chính quy theo các quy chế, binh pháp và trận đồ, nhằm bảo đảm tinh thần chiến đấu cao, có sức khoẻ, giỏi võ nghệ, thành thạo chiến thuật. Từ thời Lý, quân đội đã được phiên chế và huấn luyện theo thể chế chính quy được người Tống khâm phục và gọi là An Nam hành quân pháp. Tại kinh thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê có Điện Giảng Võ, Giảng Võ Đường, có Xạ Đình, Trường đua hoặc Bãi tập. Đó là những trường võ bị, những cơ sở huấn luyện quân sự cao cấp đầu tiên của nước ta, đào tạo đội ngũ võ quan cho triều đình. Hoàng đế, các hoàng tử, các vương hầu quý tộc đều phải học binh thư, binh pháp, tập cưỡi ngựa và sử dụng cung kiếm. Trong số các tài liệu huấn luyện các tướng sĩ đã có những bộ binh thư nổi tiếng, đặc biệt là Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư mà ở đó nhà quân sự thiên tài Trần Quốc Tuấn đã dày công đúc kết những kinh nghiệm quân sự của tổ tiên, tham bác rộng rãi các binh pháp cổ truyền và hàm chứa những tư tưởng quân sự tiến bộ. Dưới thời Lê Sơ, các quy chế về tuyển lính, tổ chức và luyện quân được xây dựng hoàn chỉnh. Các điều lệnh về bộ trận, thuỷ trận, mã trận và tượng trận đều được ban hành. Dưới triều Lý, triều Trần và Lê Sơ đã có Hình thư, trong đó có những điều luật quy định về các hoạt động quân sự.

        Các triều đại đều coi việc luyện tướng là điều cốt yếu của luyện quân, đề cao nhân tố tinh thần - chính trị, tính kỷ luật và yếu tố chung sức đồng lòng trong quân ngũ. Trần Quốc Tuấn nói: "Có thu được quân lính một lòng như cha con thì mới dùng được"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.80).

        Quân đội Đại Việt được trang bi các lo vũ khí không thua kém gì quân đội các nước văn minh đương thời. Trong giai đoạn này đã xuất hiện hoả khí. Việc trang bị phổ biến các loại hoả khí trong quân đội đã có tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực khác của Binh chế như vấn đề tổ chức, huấn luyện cũng như chỉ huy; chất lượng quân đội vì thế cũng được tăng cường.

        Thời Lý, Trần và Lê Sơ, nhìn chung quân thường trực của nhà nước chỉ trên dưới 10 vạn. Trước cuộc chiến tranh chống Mông - Nguyên năm 1288, Trần Quốc Tuấn nêu lên quan điểm: "Quân quý hồ tinh, bất quý hồ đa". Điều này cũng được Lê Lợi và Nguyễn Trài quan tâm trong quá trình xây dựng lực lượng quân sự của mình. Quan điểm đó xuất phát từ một tư tưởng quân sự nhất quán "dĩ đoản chế trường" của Trần Quốc Tuấn, hay "dĩ quả địch chúng, dĩ nhược chế cường" của Lê Lợi - Nguyễn Trài. Nghĩa quân Lam Sơn có lúc lên tới 35 vạn, nhưng sau chiến thắng quân Minh, triều Lê chỉ để lại 10 vạn quân tại ngũ. Từ thế kỷ XI, chính sách Ngụ binh ư nông đã trở thành quốc sách, bảo đảm yêu cầu quân số lúc hoà bình cũng như thời chiến, làm cho nông mạnh và binh cũng mạnh. Coi trọng yếu tố chất lượng, đảm bảo yêu cầu quân số lúc cần thiết là một đặc điểm của Binh chế các nhà nước phong kiến tiến bộ ở nước ta trong giai đoạn lịch sừ này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #88 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 05:59:55 am »


        4. Binh chế Đại Việt thể hiện tính ưu việt của nó, phù hợp với điều kiện một nước nhỏ, dân ít mà thường xuyên phải thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Binh chế đó đã để lại những kinh nghiệm hay cho quá trình xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng trong lịch sử và hiện tại.

        Lực lượng vũ trang thời Lý - Trần có quân triều đình; quân các châu, lộ; quân của các vương hầu, tông thất và dân binh các hương xã, động, bản. Triều Hồ và đặc biệt là triều Lê tăng cường quân trong Kinh, đặt thêm quân Ngũ phủ, mở rộng quân địa phương. Trong quân có nhiều loại binh, như bộ binh, thuỷ binh, ky binh và tượng binh. Một tổ chức quân sự gồm nhiều thứ quân đó đã tạo điều kiện cho nhà nước khả năng huy động quân đội và phân bố lực lượng trên các địa bàn. Quân trung ương chủ yếu là Cấm quân đóng ở kinh thành bảo vệ vua và triều đình, thời chiến là lực lượng nòng cốt chiến đấu cơ động. Các loại quân khác trấn giữ ở các vùng, chủ yếu chiến đấu bảo vệ địa phương, nhưng khi cần thiết nhà nước có thể điều động tác chiến kết hợp với quân triều đinh Tổ chức quân sự như vậy bảo đảm vừa có lực lượng cơ động vừa có lực lượng tại chỗ, vừa bảo vệ được kinh đô vừa canh giữ các địa phương, nhất là ở những vùng trọng yếu Các thành phần lực lượng vũ trang nới trên không độc lập riêng lẻ mà tạo thành một hệ thống tổ chức quân sự thống nhất, tồn tại và phát huy tác dụng trong một chỉnh thể từ trung ương đến cơ sở.

        Có thể hình dung hệ thống ngạch binh của Đại Việt như cấu trúc của một hình chóp nón. Phía trên là quân triều đình phía dưới là quân địa phương và dân binh. Quân triều đình chủ yếu là Cấm quân được tổ chức gọn nhẹ, quân thường trực tại ngũ có số lượng không đông nhưng chất lượng cao. Còn quân địa phương và đặc biệt là dân binh trong các làng bản có số lượng đông đảo đảm đương nhiệm vụ canh phòng và chiến đấu ở khắp mọi nẻo miền. Lực lượng quân vương hầu trước thế kỷ XV chủ yếu phát triển trong giai đoạn đất nước có chiến tranh để "giúp vua đánh giặc" Đó là một "ngạch quân” hoàn chỉnh, tạo nên một binh thế mạnh trong sự nghiệp quốc phòng Đại Việt.

        Chính sách chia phiên, cho quân lính thay nhau tại ngũ hay trở về sản xuất, chế độ lập "sổ Hoàng nam", "sổ Điệu phát" hoặc "Sổ quân" cùng quy chế tuyển lính thời bình, động viên thời chiến là phép hay của các thời đại. Với chế độ đó, nhà nước có thể huy động được mọi đinh tráng tham gia quân ngũ để canh phòng và tập luyện, góp phần củng cố ý thức của mỗi người đối với nhiệm vụ giữ nước. Nội dung này của Binh chế tạo điều kiện gắn liền giữa "binh" và “nông", giữa quân đội với nông dân, giữa kinh tế và quân sự, đảm bảo tốt vừa sản xuất vừa canh phòng.

        Phương thức dựa vào dân để xây dựng quân đội, dựa vào dân để động viên nhân lực, vật lực, kết hợp giữa nhà nước và nhân dân trong việc bảo đảm hậu cần, trang bị cho quân đội luôn luôn là một phương thức đúng đắn và thích hợp trong điều kiện nước ta.

        Binh chế Đại Việt phát huy hiệu quả to lớn trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, như kháng chiến chống Tống thế kỷ XI, ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên thế kỷ XIII, trong khởi nghĩa và chiến tranh chống Minh đầu thế kỷ XV. Binh chế đó cũng thể hiện vai trò trong quá trình bảo vệ nhà nước phong kiến và giữ gìn độc lập dân tộc trong các thời Lý, Trần và Lê Sơ. Học giả Phan Huy Chú nhận xét rằng: "Quân đội thời Lý - Trần nổi tiếng là hùng mạnh... Cái chiến công dẹp quân Chiêm phá quân Tống, cái oai hùng của hai lần đại phá quân Nguyên, chứng tỏ binh thế hai thời đó mạnh như thế nào"1 (Phan Huy Chú, Sđd. Tập IV, tr.6).

        Binh chế Đại Việt đã để lại nhiều bài học cho lịch sử và hiện tại. Đó là bài học kế thừa và phát triển sáng tạo những kinh nghiệm trong và ngoài nước trên lĩnh vực tổ chức, xây dựng các quân và binh; đó là bài học xây dựng lực lượng quân sự gồm nhiều thứ quân, lấy Cấm quân (quân trung ương) làm nòng cốt và luôn coi trọng yếu tố chất lượng quân đội; là bài học xây dựng lực lượng vũ trang hùng hậu, mang tính chất nhân dân, nằm trong nhân dân gắn liền với sản xuất, đáp ứng yêu cầu vừa dựng nước vừa giữ nước...

        Binh chế Việt Nam thời hiện đại được xây dựng và phát triển, đổi mới trên cơ sở những kinh nghiệm của cha ông, tiếp thu những tinh hoa của thời đại trên lĩnh vực tổ chức và xây dựng sức mạnh quân sự. Chính vì thế lực lượng vũ trang, Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay đã kế thừa và phát huy xứng đáng truyền thống tổ tiên, mang tính dân tộc và thời đại, phát triển thành quân đội kiểu mới: một đội quân cách mạng do Đảng lãnh đạo, mang bản chất giai cấp công nhân, có tính chất nhân dân sâu sắc, luôn luôn gắn bó với dân, bảo vệ vững chắc non sông gấm vóc Việt Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #89 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 06:10:46 am »

       
TÀI LIỆU THAM KHẢO

        I. TÀI LIỆU TRONG NƯỚC:

        - Ăng ghen: Tuyển tập luận văn quân sự, Tập I, Nxb Quân đội nhân dân, H.1978.

        - Ăng ghen: Tuyển tập luận văn quân sự, Tập II, Nxb Quân đội nhân dân, H.1978.

        - Ăng ghen, Lênin, Stalin: Bàn về chiến tranh nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, H.1970.

        - Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.1960.

        - Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Khoa học xã hội, H.1964.

        - Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo, bản dịch, tư liệu Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

        - Nguyễn Lương Bích: Mấy vấn đề soi sáng tư liệu thời Lý, Nghiên cứu lịch sử, số 7-1976.

        - Nguyễn Lương Bích, Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1981

        - Binh thư yếu lược (Phụ Hổ trướng khu cơ), bản dịch, Nxb Khoa học xã hội, H.1977.

        - Nguyễn Phương Chi: Chế độ điền trang thái ấp thời Trần, Nxb Khoa học xã hội, H.2003

        - Trần Bá Chí: Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất, Nxb Quân đội nhân dân, H.1992.

        - Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Tập I, Nxb Sử học, H.1960.

        - Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Tập II, Nxb Sử học, H. 1961.

        - Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Tập III, Nxb Sử học, H.1961.

        - Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Tập IV, Nxb Sử học, H.1961.

        - Phùng Văn Cường và Phạm Văn Kỉnh: Một tấn bi đời Trần mới được phát hiện, Nghiên cứu Lịch sử, số 156, 1974.

        - Nguyễn Hồng Dương - Phan Đại Doãn: Sơ thảo lịch sử bảo vệ an ninh quốc gia và giừ gìn trật tự xã hội Việt Nam (cổ trung đại), Nxb Công an nhân dân, H.1990.

        - Phan Đại Doãn và Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên): Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994.

        - Nguyễn Anh Dũng: Chính sách Ngụ binh ư nông các thời Lý

        - Trần Lê Sơ, Nxb Khoa học xã hội, H.1981.

        - Đại Việt sử ký toàn thư. Tập I, Nxb Khoa học xã hội, H.1967.

        - Đại Việt sử ký toàn thư. Tập II, Nxb Khoa học xã hội, H.1967.

        - Đại Việt sử ký toàn thư. Tập III, Nxb Khoa học xã hội, H.1967.

        - Đại Việt sử ký toàn thư. Dịch theo bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), Tập II, Nxb Khoa học xã hội, H.1993.

        - Đại việt sử lược Nguyễn Gia Tường dịch, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ môn Châu Á học Đại học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.

        - Bạch Đằng: Việc nuôi quân và rèn chiến cụ, Tạp chí Quân đội nhân dân, 9-1973.

        - Hoàng Điền (chủ biên): Tìm hiểu công tác hậu cần xưa, Bộ Tham mưu Tổng cục Hậu cần xuất bản, 1977.

        - Lê Quý Đôn: Toàn tập, Tập I, Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, H.1977.

        - Lê Quý Đôn: Toàn tập, Tập II, Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học xã hội, H.1977.

        - Lê Quý Đôn: Toàn tập, Tập III, Đại Việt thông sử, Nxb Khoa học xã hội, H.1978.

        - Lê Quý Đôn: Toàn tập, Tập IV, Vân đài loại ngữ, Nxb Khoa học xã hội, H. 1978.

        - Võ Nguyên Giáp: Vũ trang quần chúng cách mạng xây dựng quân đội nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, H.1973.

        - Võ Nguyên Giáp: Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng Viện Khoa học quân sự, H.1974.

        - Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thông của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H. 1980.

        - Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, trọn bộ, Ban tu thư viện Đại học Vạn Hạnh ấn hành, Sài Gòn 1966.

        - Hợp tuyển thơ văn Việt Nam từ thế kỷ X - XVIII, in lần thứ hai, Nxb Văn học, H.1976.

        - Nguyễn Đình Khoa: Các dân tộc ở miền Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.1972.

        - Phan Huy Lê: Tìm về cội nguồn, Tập I - II, Nxb Thế giới. H.1999. Phan Huy Lê

        - Phan Đại Doãn: Khởi nghĩa Lam Sơn, in lần thứ ba, Nxb Khoa học xã hội, H.1977.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM