Chiếc noa
Anh Bốn ở chơi với chúng tôi hai ngày.
Anh nói:
- Mình cứ lụi bụi mãi, không theo dõi được thời sự. Tình hình Lào tới đâu rồi, các anh?
Chúng tôi nói chuyện với anh về các sự kiện đang diễn ra ở Viên-chăn, nơi mà một đại úy quân đội vương quốc vừa làm đảo chính. Nghe chuyện, xem bản đồ, anh rất thích.
Bốn lại hỏi sang nhiều chuyện thời sự quốc tế khác. Sẵn lòng quý mến anh, nên có bao nhiêu "tủ" chúng tôi dốc ra hết, không tiếc anh điều gì.
Buổi chiều ăn cơm xong, Bốn dẫn chúng tôi ra suối, bày cho cách bắt cá bằng tay không. Anh đưa tay vào hốc cá rất êm, mơn man con cá rồi chộp luôn.
Chúng tôi chịu, không làm theo được.
Anh lại truyền kinh nghiệm câu cá chình, mách cho những hốc có nhiều cá chình. Cái này thì được, chúng tôi tiếp thu nhanh. Khi con cá dài thượt, vàng óng và lốm đốm hoa được kéo về nhà, ai nấy đều vỗ tay reo mừng. Nhiều anh lần đầu thưởng thức món cá chình Trường Sơn, cứ tấm tắc khen, cho là loại cá thơm ngon vào bậc nhất.
Qua hai hôm, Bốn đối với chúng tôi đã như người trong nhà. Hình như lâu lắm, anh mới có được hai ngày thanh thản như vậy.
Lúc tạm biệt, anh ngỏ ý mong chúng tôi năng đến thăm chơi các làng.
Hồi này, mặc dù bước vào chiến tranh, máy bay địch bắt đầu bắn phá, nhưng đời sống nhân dân vùng căn cứ thơ thới khác hẳn trước.
Đồng bào lập các tổ vần công, thách bắt thi đua sản xuất Đông Xuân, thi đua thực hiện "làng ba sạch" (ăn sạch, uống sạch, ở sạch).
Chính quyền cách mạng lâm thời khẩn trương tổ chức việc tiếp tế muối, vải, nông cụ, thuốc men,… Cách cơ quan chúng tôi không xa, một lò rèn được dựng lên, búa đập chan chát suốt ngày. Cạnh đó, có hợp tác xã mua bán, nhân dân tấp nập đến "bán" các thứ lâm thổ sản và "mua" vật dụng gia đình, theo lối hàng đổi hàng. Cán bộ cơ quan thì có thể dùng tiền mua một số hàng ở đây như mật ong, nếp,… Núi rừng Trường Sơn vốn hiếm hoi quán xá, nay có một cửa hàng như thế này thật tươi vui hẳn lên.
Khắp vùng căn cứ, các lớp và tổ học vỡ lòng, bình dân, bổ túc,… mọc lên như măng mọc sau mưa.
Các hội quần chúng ra công khai từ lúc đồng khởi, nay được đưa vào sinh hoạt có nền nếp, thu hút thêm nhiều hội viên. Cán bộ xuất hiện và được đào tạo hàng loạt.
Số anh em trước đây ở "Đỗ Xá" thích nhất là được gặp lại hoặc được biết tin về những người quen cũ ở địa phương nay đã vụt trưởng thành trong phong trào hoặc đã chuyển sang một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ. Chẳng hạn cô Mai đã là Phó bí thư chi bộ kiêm Thôn đội trưởng. Cậu em của cô được đưa ra Bắc học. Còn đồng chí bí thơ chi bộ "kiêm" thôn trưởng dạo nào đã làm tôi lạnh gáy thì một hôm thấy tôi cùng mấy anh em vào làng nhận gạo liền kéo luôn lên nhà sàn thết một bữa rượu nếp nhắm với thịt nai ê hề và cho biết đồng chí đã được bầu vào Huyện ủy (mấy tháng sau, đi dự lễ hội thành lập ủy ban dân tộc tự trị huyện, tôi thấy đồng chí cười nói hoạt bát và múa rất khéo chứ không lầm lì như tôi vẫn tưởng).
Cũng như cơ quan Thường vụ Khu ủy, anh em "Làng Tuấn" nhắc nhau tích cực làm công tác dân vận, cười dặn nhau tránh "dân giận". Gặp nhân dân, chúng tôi nói chuyện đánh Mỹ - ngụy, góp ý kiến phòng bệnh và chữa bệnh, dạy thiếu nhi ca múa,… Một số đồng chí chăm chỉ học tiếng dân tộc và có tác phong tốt, được đồng bào đặc biệt yêu mến.
Vài lần, chúng tôi giúp nhân dân làm cỏ sắn. Nói là "giúp" chứ kỳ thực làm cỏ xong, chúng tôi được dân cho hưởng luôn các rẫy đó, vì là "rẫy cách mạng".
Thời gian này, tôi mới có dịp cầm lâu trong tay một chiếc noa.
Đó là một lưỡi rựa cùn, người ta uốn cong và tra cán ngắn thành một cái cào cỏ.
Dùng cào này làm cỏ sắn, giỏi lắm một ngày được năm mươi mét vuông. Nếu là cỏ rậm ở rẫy lúa thì mỗi ngày dọn không được một khoảnh ba chiếc chiếu.
Tôi ngắm đi ngắm lại chiếc noa, lòng thấy bồi hồi.
Trường Sơn nuôi lớn cả một phong trào cách mạng bằng những nông cụ thô sơ như thế này đây!
Trường Sơn và cả nước ta, với những công cụ sản xuất thô sơ như thế này hoặc tốt hơn ít nhiều, đang làm cách mạng chống lại đế quốc Mỹ xâm lược có kỹ thuật hiện đại bậc nhất.
Vậy mà chúng ta biết rất rõ rằng chúng ta nắm chắc phần thắng trong tay.