Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:13:24 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Người tìm chìa khóa vàng  (Đọc 19744 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« vào lúc: 18 Tháng Bảy, 2016, 08:21:58 am »

        
        - Tên sách: Người tìm chìa khóa vàng
        - Tác giả: Nguyễn Công Huy
        - Nhà xuất bản: Nhà xuất bản Văn học
        - Số hóa: Giangtvx

        - Thông tin thêm: Là  một phi công lái máy bay lúc ông Trần Mạnh đã là trung đoàn trưởng một trung đoàn phi công tiêm kích, Nguyễn Công Huy kể lại những năm tháng trăn trở của ông khi tìm cách đối đầu với lực lượng không quân hùng mạnh của đế quốc Mỹ.

        Không thể lấy số lượng máy bay ta để thắng máy bay Mỹ, cũng không thể lấy kỹ thuật của ta để đối chọi với kỹ thuật Mỹ. Vậy muốn thắng Mỹ chỉ còn trông chờ vào cách đánh.

        Tìm ra cách đánh phù hợp là tìm ra chìa khóa vàng để không quân Viết Nam giành chiến thắng trước không quân Mỹ!  

        Nguyễn Công Huy cũng là thành viên trong diễn đàn, có nickname là Phicôngtiêmkích. Các bạn có thể tìm hiểu thêm trong các topic mà ông thành lập và chủ trì. Có thể trao đổi trực tiếp với tác giả ở: http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=29092.0

        MỤC LỤC

        LỜI NÓI ĐẦU   

        1.   Nguồn cội    
        2.   Từ Chính ủy trở thành phi công tiêm kích   
        3.   Kiến trúc sư không chiến   
        4.   Thương trường là chiến trường   
        5.   Hạnh phúc ngọt ngào   
        6.   Tiếng vọng mai sau    

        Thay cho lời kết   







Thiếu tướng Trần Mạnh (tức Mai Cao Đa)
(1928 - 1992)


« Sửa lần cuối: 20 Tháng Sáu, 2020, 09:02:33 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #1 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2016, 07:36:52 am »

         
Lời nói đầu

        Sẽ không công bằng và thật thiếu sót khi nói đến những trận không chiến mà chỉ nói đến những chiến công bắn rơi máy bay địch, chỉ nhắc đến các phi công lập thành tích mà quên không nhắc đến những thành phần kiến tạo nên trận đánh.

        Để có được một chuyến bay, lại là chuyến bay xuất kích chiến đấu lên trời thì phải có rất nhiều thành phần liên quan, từ việc chuẩn bị máy bay, chuẩn bị cho phi công... đến việc chỉ huy dẫn dắt.

        Một trong những thành phần quan £rọng nhất chính là người chỉ huy cùng kíp trực chỉ huy ở sở chỉ huy. Mỗi khẩu lệnh phát ra từ sỏ chỉ huy đều dẫn đến sự thành công hay thất bại của  trận đánh.

        Các vị chỉ huy đều là những phi công. Họ có thể là những người từng kinh qua trận mạc, từng tham gia nhiều trận không chiến, cũng có thể là chưa kịp, chưa có cơ hội lao vào những cuộc không chiến vì phải trực liên tục ở Sở chỉ huy.

        Ông Trần Mạnh thuộc vào số sau. Ông không trực tiếp tham gia những trận không chiến. Ông thường xuyên trực ở các sở chỉ huy - cơ quan đầu não quan trọng cùng với những quyết định quan trọng.

        Vào cuối tháng 4 năm 1968, khi “Đoàn bay MiG-21 khóa 3” của chúng tôi tốt nghiệp về nước thì ông đã là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân Sao Đỏ.

        Tôi không có vinh dự được bay với ông, nhưng những ai đã từng bay với ông đều có chung một nhận xét về ông: “Đấy là một phi công nhìn nhận mọi vấn đề, mọi khía cạnh rất sắc sảo, là người chỉ huy tài năng với tính tình thật điềm đạm mà thẳng thắn!”

        Ông là người có khả năng tổng kết trận đánh và nâng lên thành chiến thuật, thành những cách đánh hiệu quả cho MiG-21 giành thắng lợi. Phi công Anh hùng Nguyễn Văn Cốc - người bắn rơi 9 máy bay Mỹ gọi ông là “Cha đẻ của chiến thuật Không quân Việt Nam”. Còn khi tôi có dịp gặp Trung tướng Trần Hanh - phi công tiêm kích, Anh hùng lực lượng vũ trang - người có thời gian dài sông vói ông Trần Mạnh ở Trung đoàn Không quân Sao Đỏ và Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không- Không quân thì Trung tướng Trần Hanh nói với tôi: “Anh Trần Mạnh ít người biết lắm và ít người viết lắm. Cậu viết được là tốt đấy!”

        Ông như một vị nhạc trưởng của dàn nhạc, là người kiến tạo nên thắng lợi của các trận đánh.

        Nhà báo Vũ Thành đã viết về ông: “Nếu như mỗi chiến công bắn rơi máy bay Mỹ, các phi công và chỉ huy được tặng một Huân chương thì ngực áo của Trần Mạnh - người chỉ huy gần 100 trận không chiến thắng lợi, chắc không còn chỗ để đeo Huân chương...”

        Suốt trong 46 năm công tác và hoạt động của mình, ông đã trải qua 3 giai đoạn ở 3 lĩnh vực 'khác nhau: là lính bộ binh, Chính ủy Trung đoàn thời kháng chiến chống Pháp, là phi công tiêm kích, là người lãnh đạo chỉ huy của nhiều đơn vị trong Không quân thời chống Mỹ rồi là Tổng Cục trưởng Tổng cục Hàng không Dân dụng Việt Nam thời kỳ đổi mới.

        Giai đoạn nào ông cũng để lại những dấu ấn đặc biệt và như một người luôn gắn liền với những thời điểm có những bước chuyển đổi, bước ngoặt quan trọng.

        Bệnh tật đã cướp ông đi ở cái độ chưa đến tuổi “cổ lai hy” trong niềm tiếc thương, đau xót của những người thân, đồng đội và đồng nghiệp của ông. Tôi luôn nghĩ ông là một người chỉ huy - một vị tướng có TÂM, có TẦM và có TÀI.

        Xin được trân trọng giới thiệu cùng các bạn đọc về người phi công tiêm kích - người chỉ huy tài năng ấy.

        Xin cám ơn gia đình, người thân cùng đồng đội, đồng nghiệp của ông Trần Mạnh đã cung cấp cho tôi những tư liệu, những thông tin quý giá, đã động viên tôi hoàn thành cuốn sách này và xin kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của ông.

        Có thể, trong quá trình biên soạn còn có những thiếu sót. Rất mong nhận được những lời góp ý và chia sẻ cùng tác giả.

        Trân trọng cám ơn!

TÁC GIẢ       
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #2 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2016, 07:39:28 am »


1. NGUỒN CỘI

        Khi cậu bé Mai Cao Đa cát tiếng khóc chào đời tại thành phố Đà Lạt thơ mộng, lúc đó không một ai nghĩ được rằng sau này cậu bé ấy lợi trờ thành Chính ủy Trung đoàn, rồi thành một phi công tiêm kích và hơn thế nữa, lại là một “kiến trúc sư” của các trận không chiến.

        Tôi mời các bạn đọc đi ngược dòng lịch sử một chút - về với phong trào Cần Vương.

        Phong trào cần Vương nổ ra vào cuối thế kỷ XIX, do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân danh vị Hoàng đế trẻ Hàm Nghi đề xướng trước nạn xâm lược của thực dân Pháp.

        Cần Vương mang ý nghĩa là “giúp vua”. Trong lịch sử của dân tộc Việt Nam, trước thời nhà Nguyễn từng có những lực lượng nhân danh giúp nhà vua phát sinh như ở thời Lê sơ, các cánh quân đã hưởng ứng lòi kêu gọi của vua Lê Chiêu Tông chống lại quyền thần Mạc Đăng Dung. Tuy nhiên, phong trào này không để lại nhiều dấu ấn và khi nhắc tới Cần Vương, mọi người thường hiểu đấy là phong trào chống Pháp xâm lược.

        Phong trào cần Vương do Tôn Thất Thuyết khởi xướng đã thu hút được một số quan lại trong triều đình và văn thân. Ngoài ra, phong trào còn thu hút đông đảo các tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giò. Phong trào Cần Vương thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên khắp cả nước, hưởng ứng “Chiếu cần Vương” của vua Hàm Nghi, kéo dài 11 năm, từ năm 1885 cho đến năm 1896.

        Sau cuộc tấn công tại kinh thành Huế thất bại, đại thần Tôn Thất Thuyết - một người thuộc phe chủ chiến đã đưa vua Hàm Nghi ra ngoài thành và phát hịch Cần Vương chống Pháp. Bấy giờ, người Pháp dựng vua Đồng Khánh lên ngôi tại Huế. Ngoài cuộc khởi nghĩa Cần Vương của vua Hàm

        Nghi, Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn còn có các cuộc khỏi nghĩa khác hưởng ứng lời kêu gọi của vua Hàm Nghi là:

        - Nghĩa hội Quảng Nam của Nguyễn Duy Hiệu.

        - Khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở Hương Khê - Hà Tĩnh.

        - Khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn ở Nghệ An.

        - Khởi nghĩa Ba Đình của Đinh Công Tráng, Phạm Bành ở Nga Sơn - Thanh Hóa.

        - Khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định.

        - Khởi nghĩa Hùng Lĩnh của Tống Duy Tân ở Bá Thước và Quảng Xương - Thanh Hóa.

        - Khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên.

        - Phong trào kháng chiến ở Thái Bình, Nam Định của Tạ Quang Hiện và Phạm Huy Quang.

        - Khởi nghĩa Hưng Hóa của Nguyễn Quang Bích ở Phú Thọ và Yên Bái.

        - Khởi nghĩa Sông Đà của Đốc Ngữ (Nguyễn Đức Ngữ) ở Hòa Bình.

        Đêm 30 tháng 10 năm 1888, vua Hàm Nghi bị giặc Pháp bắt trong lúc mọi người đang ngủ say. Bắt được vua Hàm Nghi, thực dân Pháp ra sức dụ dỗ, thuyết phục, mua chuộc nhà vua trẻ cộng tác với chúng, nhưng vua Hàm Nghi đã từ chối quyết liệt. Không mua chuộc được vua Hàm Nghi, thực dân Pháp liền đưa ngài đi an trí tại Angieria - một thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi (châu Phi), thực chất là đi đày.

        Vua Hàm Nghi bị bắt nhưng các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp vẫn tiếp tục. Tuy nhiên, phong trào cần Vương suy yếu dần, từng cuộc khởi nghĩa lần lượt bị tiêu diệt: từ cuối năm 1895 đến đầu năm 1896, khi tiếng súng cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng thất bại thì phong trào Cần Vương coi như chấm dứt hẳn.

        Trong tất cả các cuộc khởi nghĩa cần Vương hưởng ứng lời kêu gọi của vua Hàm Nghi, tôi lưu tâm nhất đến cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định. Trong cấp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Bình Định ấy thì thực dân Pháp và tay chân của chúng, đặc biệt là Trần Bá Lộc, sợ nhất là Nguyên soái Mai Xuân Thưởng, Đại tướng Nguyễn Cang và Thống binh Nguyễn Hóa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #3 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2016, 07:42:17 am »


        Tôi xin được nói kỹ hơn về vị Nguyên soái Mai Xuân Thưởng.

        Mai Xuân Thưỏng là ngưòi thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tay Viễn (nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha ông là Mai Xuân Tín, từng làm bố chính tỉnh Cao Bằng. Mẹ là bà Huỳnh Thị Nguyệt, con một nhà quyền quý trong làng.

        Thuở nhỏ, ông thông minh, ham học. Năm lên 6 tuổi, cha mất sớm. ông lớn lên dưới sự nuôi dạy của mẹ và của tú tài Lê Duy Cung, nên ông giỏi cả văn lẫn võ. Năm 1878, Mai Xuân Thưởng thi đỗ tú tài.

        Đầu tháng 5 năm Ất Dậu (tháng 7 năm 1885), nổ ra cuộc phản công của phe chủ chiến ở kinh thành Huế. Khi ấy ở Bình Định đang diễn ra cuộc thi Hương. Đến khi nghe tin Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, xuống dụ Cần Vương, mấy nghìn sĩ tử liền bỏ thi, trở về quê tụ nghĩa. Ở lại thi tiếp chỉ còn có 8 người và tất cả đều trúng tuyển cử nhân, trong số đó có Mai Xuân Thưởng.

        Giai thoại có một chi tiết là: Khi ban áo mão, quan chánh chủ khảo tặng 8 ông tân khoa một bài thơ luật Đường như sau:

                                  Sơn hà phong cảnh dị tiền niên
                                  Hoành khán du khan thủ địa huyền
                                  Hậu mãn xương môn trần ảm ngoại
                                  Lệ linh văn viện bút đình biên
                                  Lịch truyền giáo dục ân như hải
                                  Bát giải thinh danh thẩm thị tiên
                                  Nhất dự y quan nan tự ủy
                                  Cương thường khán tủ cổ anh hiền


        Tạm dịch:

                                  Non sông rày đã khác xưa
                                  Gương nêu tài tuấn còn nêu chôn này
                                  Hận tràn, cung khuyết bụi bay
                                  Tay cam dừng bút, lệ đầy viện văn
                                  Bao triều tắm gội biển ân
                                  Phẩm tiên tám giải thêm phần thanh cao
                                  Cân đai trót đã dự vào
                                  Cương thường noi dấu anh hào soi chung


        Tương truyền rằng, trước khi khảo lại các quyển thi, quan chánh chủ khảo nằm mộng thấy một bà lão cầm tặng cho ông một nhành mai trắng chỉ trổ một bông nhụy vàng, cánh trắng, mùi hương tỏa nhẹ nhàng. Viên quan vừa đưa tay nâng thì hoa rụng vào nghiên bút và bà lão biến mất. Viên quan giật mình tỉnh dậy, bâng khuâng không biết đấy là ứng vào điềm gì.

        Khi xét thấy trong 8 ông cử nhân có một ông họ Mai và xem lại quyển văn thì thấy văn chương có khí phách liền đoán rằng điềm ứng vào Mai Xuân Thưởng nên sau khi ban áo mão xong, quan mời riêng Mai Xuân Thưỏng vào dặn:

        - Lúc này nước nhà mất, một phần lớn do nơi đám sĩ phu. Cho nên làm việc gì cũng phải hết sức thận trọng.

        Mai Xuân Thưởng lĩnh ý lui ra, trở về quê Phú Lạc chiêu mộ nghĩa sĩ, lập căn cứ ở Hòn Sưng (nay thuộc thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn).

        Khi ấy, nguyên Tổng đốc Đoàn Doãn Địch sau khi về Bình Định truyền hịch Cần Vương cũng đã chiêu mộ được khoảng 600 nghĩa quân rồi đóng quân ỏ thôn Tùng Giản (nay thuộc xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước). Từ đó cho đến năm 1887, phong trào Cần Vương ở Bình Định diễn ra rất sôi nổi và lan nhanh đến Quảng Ngãi, Phú Yên... lôi kéo hàng ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia.

        Giữa tháng 7 năm 1885, chủ tướng Đoàn Doãn Địch tổ chức đánh chiếm thành tỉnh Bình Định. Trừng trị viên quan thân thực dân Pháp là Tổng đốc Lê Thận xong, quân của ông còn kéo nhau đi đánh phá các làng theo đạo Thiên Chúa giáo. Từ Quy Nhơn, quân Pháp kéo lên đàn áp. Đoàn Doãn Địch dàn quân kháng cự. Hai bên giao tranh dữ dội ở Trường Úc và Phong Niên. Trước hỏa lực mạnh, lực lượng của Đoàn Doãn Địch bị đánh tan, buộc vị thủ lĩnh phải rút chạy về đại bản doanh của Mai Xuân Thưởng lúc này đang đặt tại Lộc Đổng (Đồng Hươu) ở thôn Phú Phong (huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định).

        Tháng 9 năm đó, Đoàn Doãn Địch lâm bệnh mất. Trước đấy, khi Mai Xuân Thưởng ứng nghĩa, Đoàn Doãn Địch đã phong ông làm Tán tương quân vụ. Nay trước khi mất, ông cử Mai Xuân Thưởng lên làm Nguyên soái thay mình.

        Sau khi làm lễ tế cờ tại Lộc Đổng, Mai Xuân Thưỏng cho xuất quân và giao chiến với đối phương nhiều trận tại cẩm Vân, Phú Thiện, Hòn Kho (Tiên Thuận). Hồi này, theo giúp sức Mai Xuân Thưởng có các ông: Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì, Bùi Điển, Đặng Đề, Nguyễn Hóa, Lê Thượng Nghĩa, Hồ Tá Quốc, Võ Đạt... cùng hàng ngàn sĩ phu và nhân dân các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận...
Logged

gamma2
Thành viên
*
Bài viết: 19



« Trả lời #4 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2016, 11:57:07 am »

Chào bác Giangtvx, chúc mừng bác bắt tay vào số hoá " Người tìm chìa khoá vàng", chúc bác nhiều sức khoẻ và niềm vui trong công việc đã định và trong cuộc sống.
Logged
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #5 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2016, 10:10:24 pm »


        Để động viên tinh thần binh sĩ và cũng là để nói lên chí khí của mình, Mai Xuân Thưởng từng viết bài thơ trong khi chiến đấu như sau:

                           Chết nào có sợ, chết như chơi
                           Chết bởi vì dân, chết bởi thời
                           Chết hiếu chi nài xương thịt nát
                           Chết trung bao quản cổ đầu rơi
                           Chết nhân tiếng để vang nghìn thuở
                           Chết nghĩa danh thơm vọng mấy đời
                           Thà chịu chết vinh hơn sống nhục
                           Chết nào có sợ, chết như chơi!

        Nhận thấy lực lượng của Mai Xuân Thưởng ngày càng lớn mạnh và đã gây ra nhiều thiệt hại cho mình, Soái phủ Sài Gòn liền điều Thiếu tá De Lorme đem pháo thuyền án ngữ biển Quy Nhơn, đồng thòi sai Trần Bá Lộc mang quân từ Khánh Hòa đánh ra, Nguyễn Thân từ Quảng Ngãi đánh vào. Nhờ có pháo binh yểm trợ, hai cánh quân này nhanh chóng gặp nhau tại Bình Định rồi cùng tiến lên Phú Phong mặc sức tàn phá.

        Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (An Nhơn), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng phải cho rút tàn quân vào Linh Đỗng (núi Phú Phong) ẩn náu, tính kế lâu dài.

        Rồi Mai Xuân Thưởng bị bắt vào ngày mồng 4 tháng 5 năm 1887. Sau ông, những thủ lĩnh cuối cùng như Nguyễn Ngọc Loan, Lê Khanh... cũng bị bắt hết.

        Trần Bá Lộc dụ hàng. Mai Xuân Thưởng khẳng khái nói:

        - Chỉ có đoạn đầu tướng quân chứ không có hàng đầu tướng quân!

        Biết không thể khuất phục được ông, chúng đã đưa ông cùng các thuộc hạ ra xử trảm tại Gò Chàm (phía đông thành Bình Định cũ). Trước lúc bị hành hình, ông còn khẳng khái đọc bài thơ:

                           Không tính làm chi việc mất còn
                           Nợ trai lo trả ấy là khôn
                           Gió đưa hồn nghĩa gươm ba thước
                           Đá tạc lòng trung quý mấy hòn
                           Tái ngắt mặt gian xương tợ giá
                           Đỏ lòe bìa sách mấu là son
                           Rồi đây thoi ngọc đưa xuân tới
                           Một nhánh mai già nảy rậm non!


        Thi hài ông sau đó được đưa về an táng tại Cây Muồng (nơi cha ông đã yên nghỉ), thuộc thôn Phú Lạc.

        Năm 1961, nhà thơ Quách Tấn và nhiều người dân đứng ra vận động xây dựng lăng mộ nhà Mai Xuân Thưởng và các lãnh tụ cần Vương khác của quê hương Bình Định.

        Ngày 22 tháng 1 năm 1961, nhân dân Tây Sơn làm lễ đưa hài cốt ông từ Phú Lạc về lăng mộ trên một quả đồi cao thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường. Đây cũng chính là căn cứ mà lúc sinh thời, ông dựng cờ khởi nghĩa.

        Sau khi Mai Xuân Thưởng cùng gia đình và các thuộc hạ của ông bị xử trảm, để tránh bị truy nã và sát hại, dòng họ Mai Xuân đã phải đổi thay danh tính, trong đó có một chi đã chuyển từ Mai Xuân thành Mai Cao như chi của cụ Mai Cao Chí.

        Cụ Mai Cao Chí chuyển gia đình đến sinh sống tại xã Vĩnh Lai.

        Cụ Mai Cao Chí sinh thời nổi tiếng là một thầy thuốc giỏi, chữa giúp cho nhiều người, được mệnh danh là “thầy thuốc mát tay”. Cụ cũng là một họa sĩ, điêu khắc nổi tiếng. Tác phẩm của cụ từng đoạt giải thưởng khi tham dự “Hội chợ thuộc địa” tổ chức tại Pháp (Marseille) vào năm 1922. Phía Pháp tính trợ cấp học bổng cho cụ để đưa cụ sang Pháp học, nhưng cụ từ chối. Tác phẩm của cụ vẫn còn được trưng bày ở một bảo tàng Marseille, Pháp. Một người trong dòng họ nhà cụ đã thấy và khẳng định vậy.

        Cụ có 2 người con là Mai Cao Lương và Mai Cao Đống.

        Ông Mai Cao Lương được người trong vùng gọi là ông Trợ Lương, làm nghề dạy học và cũng rất giỏi nghề hát bội, từng là thầy dạy của nhà thơ Quách Tấn. Con của ông Mai Cao Lương là Mai Cao Chương - Giáo sư, Trưởng khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, có nhiều công trình nghiên cứu nổi tiếng (công trình nghiên cứu và dịch thuật đáng chú ý nhât là tập sách Nguyễn Lộ Trạch - Điều trần và thơ văn (viết chung với Đoàn Lê Giang, NXB. Khoa học xã hội, 1996) và bộ tiểu thuyết truyền kỳ Kim cổ kỳ quan (NXB. Tổng hợp Đồng Tháp).

        Ông Mai Cao Đống vốn là kỹ sư công chánh, làm nghề thầu xây dựng nên thường nay đây mai đó theo các công trình của Pháp thuộc. Ông rất giỏi tiếng Pháp, có thể dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp và luôn tự hào là người giỏi chữ Pháp hơn người Pháp.

        Vào giai đoạn đầu những năm 1920, khi người Pháp khảo sát các địa điểm nghỉ dưỡng trên đất nước ta xong, họ triển khai xây dựng thành phố Đà Lạt với phong thái kiến trúc như một “tiểu Paris của phương Đông”. Mai Cao Đông đã tham gia xây dựng nhiều công trình, trong đó có khách sạn Dalat Palace và nhiều căn biệt thự theo trường phái une architecture indochinoise của kiến trúc sư ngưòi Pháp Ernest Hebrard, bên bờ hồ Xuân Hương.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #6 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2016, 10:12:59 pm »


        Ông Mai Cao Đống có 3 người con trai là Mai Cao Đa, Mai Cao Văn và Mai Cao Võ.

        Chính ỏ thành phố Đà Lạt đầy thơ mộng này, vào ngày đầu của tháng 5 năm 1928, cậu bé Mai Cao Đa đã cất tiếng khóc chào đòi. Khi cậu bé Mai Cao Đa ra đời, lúc đó không một ai nghĩ được rằng sau này cậu bé ấy lại trở thành Chính ủy Trung đoàn, rồi thành một phi công tiêm kích và hơn thế nữa, lại là một “kiến trúc sư” của chiến thuật MiG-21, “kiến trúc sư” của các trận không chiến.

        Cái tên Đa được đặt có lẽ là để kỷ niệm về thành phố- Đà Lạt mộng mơ này (vì xưa kia Đà Lạt có tên là Đa Lạt, Đạ Lạch, Cam Ly suối (theo ngôn ngữ của người Thượng, Da hay Dak có nghĩa là nước của bộ tộc người Lạt). Mà biết đâu lại chẳng có hàm ý là “túc trí đa mưu” để sau này ứng vào khi tìm những chiến thuật, những cách đánh cho MiG- 21 thì sao? Tôi không dám bàn luận thêm về vấn đề này.

        Chỉ biết rằng, cậu bé Mai Cao Đa đã sống, đã trải qua tuổi niên thiếu của mình tại thành phố Đà Lạt này - nơi pha trộn nền văn hóa kiến trúc Pháp với những nét văn hóa Tây Nguyên đầy bản sắc.

        Cậu bé Mai Cao Đa bấy giờ được gửi cho một bà họ hàng bên ngoại là bà Bôn nuôi nấng. Tuổi thơ của cậu hòa nhịp và cùng lớn theo đám con cháu của bà Bốn. Bà Bốn coi Mai Cao Đa như con và như người anh cả của đám con cháu bà là Hữu, Việt, Đường... (sau này Mạc Như Đường trở thành giáo sư, Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh).

        Rồi cậu bé Mai Cao Đa về Quy Nhơn theo học tại trường Quốc học Quy Nhơn (College de Quy Nhon), học hết, Thành chung. Sau khi lấy bằng Thành chung ở Quốc học Quy Nhơn, Mai Cao Đa vào Sài Gòn ở với bố mẹ và theo học tại trường Petrus Ký nổi tiếng. Trường Petrus Ký từng là nơi các văn sĩ và các nhà cách mạng nổi tiếng như Huỳnh Văn Nghệ, Huỳnh Tấn Phát, Lưu Hữu Phước... theo học. Trong thời gian học ở trường Petrus Ký, Mai Cao Đa đã nhiều lần phản kháng gay gắt chương trình dạy lịch sử kiểu thực dân của giáo viên Pháp. Tức tối và bất lực trước những lý lẽ phản kháng của Mai Cao Đa, giáo viên Pháp đã tấu trình lên trên và cậy quyền thế đuổi học Mai Cao Đa.

        Trước khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, ngay từ năm 1944, khi mới 16 tuổi, chàng thanh niên Mai Cao Đa đã sớm giác ngộ và tham gia Đội thanh niên cứu quốc Sài Gòn - Gia Định, tham gia phong trào sinh viên phản đối chương trình lịch sử kiểu thực dân của giáo viên người Pháp... và là cán bộ quân sự Sài Gòn - Chợ Lớn. Mai Cao Đa được giao nhiệm vụ giữ kho súng, cất giữ vũ khí ngay tại nhà.

        Là một thanh niên năng động, được cất giữ súng ống tại nhà nên Mai Cao Đa rất thèm được bắn súng, nhưng còn e ngại. Tới khi có lệnh bàn giao kho súng cho tổ chức để chuẩn bị Cách mạng tháng Tám thì Mai Cao Đa đã tự ý mang súng ra ngoài đồng bắn thử để thỏa nguyện lòng mong ước của mình. Sau này, cái thú bắn súng ấy được thể hiện một cách điêu luyện, tài năng qua các cuộc đi săn trên những chặng đường công tác.

        Và để tránh liên lụy đến gia đình, để giữ bí mật cho cả các hoạt động của bản thân mình và của tổ chức, chàng thanh niên Mai Cao Đa đã đổi tên thành Trần Mạnh (có lúc là Trần Văn Mạnh).

        Vậy là từ đây, hầu như cái tên Mai Cao Đa chìm vào ký ức, không mấy khi được nhắc tới. Từ đây trở đi, mọi người chỉ biết đến cái tên Trần Mạnh - cái tên gắn với rất nhiều sự kiện về sau này. Những bước chuyển biến lớn trong đời của chàng Mai Cao Đa xưa - Trần Mạnh nay cũng đã bắt đầu.

        Đến năm 1946, sau khi Pháp gây hấn, tấn công Sài Gòn - Gia Định, cùng với rất nhiều thanh niên học sinh Sài Gòn, Trần Mạnh đã xung phong nhập ngũ.

        Tháng 10 năm 1947, Trần Mạnh đã được đồng chí Dương Cự Tẩm - người chỉ huy Chi đội Hải ngoại về chiến trường Nam Bộ để hỗ trợ kháng chiến giới thiệu vào Đảng. Tháng 10 năm 1948, Trần Mạnh được kết nạp Đảng và được chọn đi học Trường Quân chính Khu 8.

        Sau khi tốt nghiệp, Trần Mạnh được bổ nhiệm làm Chính trị viên Trung đội rồi Chính trị viên Đại đội 981, Trung đoàn 109, Khu 8.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #7 vào lúc: 23 Tháng Bảy, 2016, 09:23:30 am »


        Ngày 5 tháng 1 năm 1948, Tiểu đoàn 307 ra đời. Đến ngày 27 tháng 12 năm 1948 thì Bộ Tư lệnh Khu 8 quyết định thành lập Tiểu đoàn 308. Đây là hai đơn vị chủ lực của bộ đội Đông Nam Bộ. Ngày 20 tháng 3 năm 1949, tại Giồng La Ghì (thuộc xã Vĩnh Xuân, Trà ôn, Vĩnh Long), Tiểu đoàn 308 làm lễ xuất quân. Trần Mạnh được đích thân tướng Đồng Văn Cống điều về làm Chính trị viên Tiểu đoàn 308. Khi ấy, Trần Mạnh mối tròn 20 tuổi.

        Lúc mới thành lập, Tiểu đoàn 308 có 1.300 cán bộ, chiến sĩ, chiến đấu trong đội hình liên Trung đoàn 109-111. Ngay từ ngày đầu ra quân, Tiểu đoàn 308 đã liên tiếp lập được những chiến công vang dội. Ví dụ như, tại địa bàn hoạt động là Vĩnh Long - Trà Vinh - Sóc Trăng - Cà Mau, tiểu đoàn 308 đã đối đầu với các đơn vị tinh nhuệ của địch được trang bị nhiều loại vũ khí hiện đại, hơn hẳn về tính năng và đã đánh tan nhiều đơn vị ấy của địch.

        Trên chiến trường Vĩnh Long, chiến công đầu tiên của Tiểu đoàn 308 là bắn rơi chiếc máy bay Pháp đầu tiên vào ngày 26 tháng 12 năm 1948 khi Tiểu đoàn về Mỹ Thạnh Trung chuẩn bị làm lễ chính thức thành lập Tiểu đoàn. Khi ấy, máy bay địch lao đến ném bom, không ngờ vấp ngay phải lưới lửa của Tiểu đoàn 308 bắn trả và một chiếc đã bị chiến sĩ Ngô Tùng Châu bắn hạ ngay lập tức (hiện nay vẫn còn tượng đài kỷ niệm đặt tại Tam Bình, Vĩnh Long).

        Chiến công này đã động viên, cổ vũ tinh thần cán bộ chiến sĩ toàn Tiểu đoàn 308 trước ngày thành lập, tạo đà tạo thế cho Tiểu đoàn 308 tiếp tục giành thắng lợi trong những trận chiến đấu tiếp theo.

        Sự kiện này chắc chắn cũng đã để lại dấu ấn sâu sắc và kinh nghiệm quý báu đối với Chính trị viên Trần Mạnh, giúp ông rất nhiều về sau này khi ông trỏ thành phi công tiêm kích, thành người chỉ huy để ông cùng đồng đội tìm ra cách đánh những máy bay hiện đại của Mỹ.

        Ngày 1 tháng 6 năm 1949, Tiểu đoàn 308 đã đánh tan cuộc càn của địch vào Đồng Tháp Mười, liền sau đó Tiểu đoàn 308 tập kích vào tỉnh lỵ Vĩnh Long, đánh đắm tàu địch trên sông Tiền và phá căn cứ hậu cần của thực dân Pháp.

        Tại thị trấn cầu Kè, địch lập 3 cứ điểm, ngoại vi còn có 31 đồn và 100 trạm gác. Nhiệm vụ của Tiểu đoàn 308 là phải phối hợp với các đơn vị bạn, nhổ toàn bộ căn cứ địch. Từ tháng 12 năm 1949 đến tháng 1 năm 1950, Tiểu đoàn 308 cùng các đơn vị bạn đã hoàn thành chiến dịch cầu Kè, đánh tan toàn bộ lực lượng của địch, giành thắng lợi to lớn.

        Đây là chiến dịch tấn công đầu tiên ở đồng bằng Nam Bộ đã giành được thắng lợi trọn vẹn về quân sự, binh vận, dân vận, tạo ra một vùng giải phóng rộng lớn, phá tan hệ thống đồn bốt của địch, mở rộng vùng đông dân Khmer ở cầu Kè, Trà Vinh.

        Sau chiến dịch này, Tiểu đoàn 308 đã được tặng cờ “Đơn vị lập công đầu” và được tặng thanh gươm “Đơn vị chủ công” của Bộ Tư lệnh Khu 8.

        Sau chiến dịch cầu Kè, Tiểu đoàn 308 tiếp tục tham gia chiến dịch cầu Ngang (Trà Vinh) rồi tiếp đến chiến dịch Bến Tre cùng với các đơn vị bạn giành thắng lợi ròn rã.

        Phải nói rằng, Tiểu đoàn 308 cùng với Tiểu đoàn 307 đã lập nên những chiến công oai hùng, hiển hách, lừng lẫy cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long qua các trận Tháp Mười, Mộc Hóa... nổi tiếng khắp Nam Bộ. Chắc hẳn ai ai cũng nhớ bài hát “Tiểu đoàn 307’ của nhạc sĩ Trần Hữu Trí phổ thơ Nguyễn Bính qua giọng hát của ca sĩ Quốc Hương - cựu chiến binh của đồng bằng Nam Bộ.

        Những trận đánh ấy đã làm cho “bao nhiêu quân Pháp run rẩy, sợ hãi”...

        Năm 1951, khi thành lập Tỉnh đội Vĩnh Trà (Vĩnh Long, Trà Vinh), Trần Mạnh được giữ chức Tỉnh đội trưởng, Tỉnh ủy viên tỉnh Vĩnh Trà khi mới 23 tuổi.

        Tiểu đoàn 308 bấy giờ cũng chuyển về hoạt động tại miền Tây Nam Bộ, ở các chiến trường Sóc Trăng, Cần Thơ...

        Đến năm 1954, Tiểu đoàn được lệnh của Bộ Quôc phòng tập kết ra Bắc, xóa phiên hiệu và có phiên hiệu mới là Tiểu đoàn 8 thuộc Trung đoàn 3, Sư đoàn 330.

        Khoảng giữa năm 1953, theo chỉ thị của Bác Hồ, tướng Đồng Văn Cống được lệnh ra Bắc tham gia khóa tập huấn quân sự và dự Hội nghị Cán bộ trung cao cấp để nghe phổ biến Nghị quyết của Bộ Chính trị và Kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #8 vào lúc: 23 Tháng Bảy, 2016, 09:31:30 am »


        Nhìn thấy trước khả năng phát triển lâu dài của Chính trị viên trẻ tuổi Trần Mạnh, đồng chí Đồng Văn Cống đặc biệt quan tâm và đề nghị đưa Trần Mạnh đi theo ông ra Bắc để học tập, đào tạo lâu dài.

        Trần Mạnh không thể nghĩ được rằng sau chuyến đi này, ông sẽ ở lại hẳn ngoài Bắc.

        Vậy là đoàn ra Bắc chỉ có mấy người: Đồng Văn Cống, Đào Sơn Tây, Trần Mạnh.,.

        Họ đi theo đường bộ qua các đường giao liên, dọc theo dãy Trường Sơn hùng vĩ hết ngày này qua tháng khác, vừa đi vừa nghỉ rồi lại tiếp tục đi...

        Ngày nối ngày, đêm nối đêm. Bước chân vạn dặm của những người lính bộ binh từng chinh phục các đồn bốt địch trong suốt từng ấy năm không hề biết nghỉ, nay lại tiếp tục chinh phục chặng đường thiên lý đầy hiểm trở, gian nguy... Không hề biết mệt mỏi, không hề chùn bước.

        Tôi bỗng liên tưởng đến những lời trong bài hát “Bài ca Trường Sơn”, một sáng tác của nhạc sĩ Trần Chung:"... Trường Sơn ơi! Trên đường ta qua không một dấu chân người! Có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác. Dừng ở lưng đèo mà nghe suốỉ hát. Ngắt một đóa hoa rừng cài lên mũ ta đi...” Những ca từ đẹp đẽ và cảnh tượng thơ mộng ấy chắc không dành cho đoàn của ông Trần Mạnh khi vượt Trường Sơn năm ấy.

        Tôi không thể tưởng tượng họ đã đi như thế nào để vượt được chặng đường dài thăm thẳm, xuyên rừng xuyên núi, vượt sông vượt suối..., nhưng với thời gian 1 năm 10 ngày, họ đã ra đến miền Bắc thì phải nói rằng chí khí, nghị lực, kỹ năng sông của họ thật đáng khâm phục, thật tuyệt vòi, mà như ngôn từ của lớp trẻ thời nay thì là “trên cả tuyệt vời”!

        Vì thời gian đi bộ dài như vậy nên khi Trần Mạnh ra đến Chiến khu Việt Bắc thì chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã tiến hành.

        Hòa bình lập lại, tháng 7 năm 1954, Trần Mạnh được cử đi học Trường Sĩ quan Lục quân khóa 9. Sau khi tốt nghiệp, ông được điều về làm Chính ủy Trung đoàn 556 thuộc Sư đoàn 330.

        Ở đây xin được nói thêm một chút là các đơn vị miền Nam tập kết ra Bắc được chia thành 2 Sư đoàn là Sư đoàn 330 và Sư đoàn 338. Sư đoàn 330 của Trần Mạnh đặt dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Sư đoàn là Đồng Văn Cống - người chỉ huy cũ từng gắn bó ở Khu 8 và là người cùng chuyến đi xuyên Việt vối Trần Mạnh.

        Sau này, con trai của tướng Đồng Văn Cống là Đồng Văn Đe cũng trở thành phi công tiêm kích, ở cùng Trung đoàn với Trần Mạnh. Tôi sẽ kể sau.

        Năm 1958, trong đợt phong quân hàm của Quân đội Nhân dân Việt Nam, Trần Mạnh được Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký quyết định phong quân hàm Thiếu tá. Khi ấy Trần Mạnh vừa tròn 30 tuổi.


Chứng minh thư quân đội đầu tiên của ông Trần Mạnh

        Ông cũng không thể ngờ được rằng từ đây đời ông sẽ có bước chuyển biến lớn, bước ngoặt lớn - từ một người lính bộ binh, từ một Chính ủy Trung đoàn lại trỏ thành người lính canh trời với danh hiệu cao quý: Phi công tiêm kích!
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #9 vào lúc: 23 Tháng Bảy, 2016, 09:36:30 am »


        Hai người con trai sau của ông Mai Cao Đống là Mai Cao Văn và Mai Cao Võ thì Mai Cao Văn sinh năm 1929, cũng trốn gia đình, theo anh trai đỉ kháng chiến và có bí danh là Trần Hùng. Sau này, sau khi tập kết ra Bắc, Mai Cao Văn từng giữ chức Giám đốc Công ty Xây lắp đường dây và trạm 2 (kéo đường dây 110 kv qua sông Tiền, sông Hậu vào những năm 80 của thế kỷ trước) thuộc Bộ Điện và Than.

        Mai Cao Văn mất năm 1989.

        Người con út là Mai Cao Võ, vào năm 14 tuổi cũng thoát ly gia đình, theo 2 anh trai đi kháng chiến, nhưng bị 2 anh bắt phải quay về gia đình để chăm sóc bố mẹ. Mai Cao Võ đã ở lại miền Nam làm phiên dịch và là giáo viên dạy tiếng Anh.

        Mai Cao Võ mất năm 1981.

        Mãi gần đây khi có dịp, có cơ hội đến thăm Bình Định, tôi mới thực sự hiểu được Bình Định chính là nơi giao hòa giữa đồng bằng và đồi núi, sông suối và biển cả... Bản giao hưởng của non nước ấy đã tạo nên một Bình Định với dáng “sơn kỳ thủy tú”. Nơi ấy chính là nơi “địa linh sinh nhân kiệt”, nơi “đất võ, trời văn”. Ba anh em nhà họ Nguyễn đã dựng cờ đào với những chiến công chói lọi của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ đi vào sử sách của muôn đời.

        Bình Định có Đào Tấn, Xuân Diệu. Rồi Bình Định có nhà thơ lớn là Hàn Mặc Tử, tuy gốc ỏ Quảng Bình, nhưng sông và chết đều ở Bình Định, thành danh cũng ở đất Bình Định.

        Ở Bình Định cũng có nhóm thơ “Bàn thành tứ hữu” gồm 4 thi sĩ tài hoa: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn.

        Ai đó đã từng nói: “Người Bình Định có truyền thống “vũ nhân, văn nhân”. Bởi võ hay văn đều thuộc về “Nhân” chứ không thuộc về “Thiên” hay “Địa”. Tôi tâm đắc vối bài thơ “Về Tây Sơn” của nhà thơ Nguyễn Đình Trọng viết về mảnh đất Bình Định:

                        Về thăm đất võ Tây Sơn
                        Quê hương của những người con Anh hùng
                        Non xa biêng biếc chập chùng
                        Lúa vàng trải đến tận cùng chân mây
                        Nhìn đồng lúa chín mà say
                        Nâng niu gié lúa trên tay bồi hồi
                        Trải bao gió dập, mưa dồi
                        Mồ hôi và máu bao người tuôn rơi
                        Cả dòng sông nữa, sông ơi
                        Hạt phù sa đã cho đời ấm no...

                        Mải mê với bóng con đò
                        Xa xa mát rượi những gò dâu xanh
                        Nắng chiều buông xuống mỏng manh
                        Ngỡ như sắc kén đã thành lụa tơ
                        Dâu xanh phủ kín bãi bờ
                        Cho con tằm thức nằm chờ ăn lên
                        Đã nghe kén giục lò ươm
                        Nhịp thoi khung củi dệt nên nắng vàng
                        Sông Kôn trong đến ngõ ngàng
                        Dâu xanh đến tận cuối làng còn xanh

                        Ghé thăm Kiên Mỹ - Bình Thành
                        Ta về dưới mái nhà tranh của Người
                        Bao đời me vẫn xanh tươi
                        Trái cong như thể gươm rời khỏi bao
                        Nâng gầu nước giếng, nao nao
                        Ngàn năm non nước quyện vào lời ca
                        Áo Người đỏ tựa ráng pha
                        Vó câu muôn dặm đường xa mới về
                        Đồng làng lúa đã vàng hoe
                        Nghiêng soi mặt nước bốn bề dâu xanh

                        Ôm hôn mảnh đất nghĩa tình
                        Bâng khuâng nghĩ tới lúc mình sẽ xa
                        Mẹ già tóc bạc sương sa
                        Con xin hát một khúc ca tặng Người!


        Càng ngày thì tôi càng hiểu thêm con người Bình Định. Những phi công tiêm kích - những người con của quê hương Bình Định mà tôi từng biết đều có những tố chất, đều có những nét đậm chất Bình Định, ví như phi công Anh hùng Đinh Tôn, phi công Anh hùng Nguyễn Hồng Nhị, phi công Anh hùng Trần Việt, tới các phi công liệt sĩ như Phạm Thành Nam, Nguyễn Ngọc Thiên, Phạm Ngọc Tâm, Phan Trọng Vân, Đỗ Hạng... rồi phi công Trần Mạnh - người chưa được nhận danh hiệu Anh hùng nhưng trong tâm khảm của nhiều thê hệ, ông hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu ấy.
Logged

Trang: 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM