Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 02:33:02 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tiêm kích sống bằng chiến trận  (Đọc 53459 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #30 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2016, 04:15:16 pm »

        Trận không chiến kết thúc không phân thắng bại. Trên sân bay, Balanôp nhảy ra khỏi buồng lái, đầy tức giận. Chúng tôi chưa ai thấy đồng chí ấy như thế bao giờ cả. Chạy lại phía đầu máy bay, nhìn vào đấy, đồng chí còn bực hơn văng câu chửi, thì ra băng đạn không được láp vào phần kéo đạn của súng.

        - Tại sao đồng chi lại không bắn?

        - Tôi phải bảo vệ đồng chí...

        - Ai dạy đồng chí như vậy? Số 2 không những chỉ biết đi bảo vệ, mà còn phải biết tấn công khi cần thiết.

        Điều ấy quả tình tôi được nghe lần đầu tiên. Mà không phải nghe một người nào khác nói - mà là người Anh hùng của Tây Ban Nha, người giỏi nhất trong số các phi công chiến đấu, con người từng hiểu biết tất cả những khía cạnh nhỏ nhất của một nghề nghiệp không lấy gì làm giản đơn - phi công tiêm kích!

        Sau một lúc trấn tĩnh, đại tá Balanôp thân ái vỗ vai tôi:

        - Cám ơn vì đồng chí đã bảo vệ rất tốt, nhưng những gì còn lại, phải tự rút ra kết luận cho những ngày sau!

        Chỉ có một người dũng cảm, biết đánh giá mình mới hành động như vậy. Balanôp chính là người như thế.

        ... Chiến dịch "Núi" và "Biển" tiến hành không có những thành tích đáng kể. Nhưng dầu sao quân ta cũng tiến được về phía trước. Như vậy, nhìn chung trong quá trình chiến đấu của tháng giêng, bộ đội của phương diện quân Tây Capcadơ lợi dụng chiến thắng của quân đội Xô viết ở gần Xtalingrat đã giải phóng một phần đất rất lớn của Bắc Capcadơ, tiến đến gần biển Adôp và phối hợp với bộ đội của Phương diện quân phía Nam đánh chặn một lực lượng chính của bọn Hítle rút qua Rôstôp.

        Vào tháng Giêng năm 1943 trên bờ Hắc Hải của Capcadơ tất cả chỉ có sáu ngày là bay được, 13 ngày bay giới hạn. Dù sao, một phần của Quân đoàn 5 không quân cũng thực hiện được số lần xuất kích gần gấp đôi tháng 12. Điều ấy đối với trung đoàn không quân tiêm kích 164 của chúng tôi cũng vậy. Những ngày căng thẳng ấy chúng tôi là những người chứng kiến được sự tích anh hùng - chuyến đâm máy bay đầu tiên trong trung đoàn chúng tôi. Lép Simantrich - người Bạch Nga được tất cả mọi người yêu mến đã làm chuyện ấy. Chừng như đồng chí ấy sinh ra để làm một người hào hiệp, để cho đồng chí ấy không có gì khác hơn, cao quý hơn là người bạn tốt và người đồng chí đáng tin cẩn.

        Có một lần, Lep của chúng tôi trở về sân bay, chúng tôi nhìn máy bay của đồng chí ấy và không thể nào hiểu nổi vì sao nó lại có hình thù kỳ dị như thế, ở nó hình như thiếu một cái gì đó thì phải. Rồi có một ai đó thốt lên:

        - Cánh bên phải của nó ngân hơn cánh bên trái!

        Đúng thật - phía mút cánh phải quả tình như bị ai cắt.

        - Lep, sao thế?

        - Tự làm hỏng - đồng chí trả lời.

        - Thế cậu bay ra làm sao?

        - Bay như bình thường, mũi máy bay về phía trước.

        Chúng tôi hiểu rằng sẽ không moi được thêm một tý gì ở Simantrich cả, nên chạy hết lại chỗ số 1 của đồng chí ấy - đại úy Đmitriep.

        - Các đồng chí ạ, Lep cần được bế tung lên - đồng chí ấy đã đâm nhau. Chúng tôi không sao diệt được " cái khung", đạn đã hết, bấy giờ Simantrich tiến tới gần "cái khung" lấy cánh của mình táng cho nó một cái... Lep là người hùng của chúng ta!

        Chúng tôi chạy lại phía Simantrich. Đồng chí ấy chui tọt vào buồng lái, đóng nắp lại, ngồi trong ấy cho tới khi sự say mê của chúng tôi dịu đi mới trở ra.

        Chỉ đến khi đồng chí ấy được nhận Huân chương chiến đấu Cờ đỏ chúng tôi mới có dịp nâng tung đồng chí vì bấy giờ thì Lep không trốn vào đâu được cả.

        Bọn Đức đã rút lui. Thực ra thì Nôvôrôxisk vẫn còn nằm trong tay chúng. Và chúng tôi tin rằng chẳng bao lâu nữa chúng tôi sẽ rời khỏi nơi này.

        Vào những ngày đầu của tháng hai, chúng tôi nhận lệnh chuyển sân về Bêlôrôchenscaia.

        Chúng tôi rất buồn khi phải xa rời Atler, bờ Hắc Hải của Capcadơ... ở đấy chúng tôi đã đánh trận đầu tiên để trở thành những người lính bay. Chúng tôi đến đấy đơn giản là những đứa trẻ chỉ biết bay và mơ ước về những chiến công. Chúng tôi rời khỏi đấy thì đã là những phi công tiêm kích, hiểu được rằng chiến công không tự nó đến, mà cần phải chuẩn bị lâu dài và cẩn thận nó đòi hỏi lòng yêu lao động, kiên nhẫn, và thêm một điều nữa là - lòng thành thật và chân thực. Không thể bỗng dưng mà có chiến công được. Nó chín muồi rất khó nhận, dần dần, nhưng sau đó thì bùng cháy như một ngọn đuốc sáng rực, cũng tựa như tài năng của Lep Simantrich vậy.

        Thật luyến tiếc khi phải rời Atler.

        Trên mảnh đất của nó đã nằm lại những mảnh máy bay thù do chúng tôi bắn rơi.

        Đâu đó trên núi và dưới biển cũng đã nằm lại những đồng chí của chúng tôi.

        Để tỏ lòng kính trọng những đồng đội đã mất, sáng ngày 11 tháng 2 chúng tôi cùng bắn một loạt súng ngắn tiễn chào. Động cơ nổ máy, chúng tôi cất cánh lấy hướng về Bêlôrôchenscaia.

        Tất cả chúng tôi cùng lắc cánh: vĩnh biệt bạn hữu mãi mãi nằm lại nơi đây, vĩnh biệt Atler - thành phố Đại bàng!
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #31 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2016, 04:17:42 pm »


Chương III

NHŨNG CƠN DÔNG CUBAN

        Ngày mồng 2 tháng 2 năm 1943, trận chiến đấu Xtalingrat lịch sử đã kết thúc. Nhiều năm sau chiến tranh, khi khánh thành những tượng đài kỷ niệm ở Vongagrat, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô L.I.Brêgiơnep đả nói: "Sau trận đánh trên Vonga, chiến tranh còn kéo dài hơn hai năm nữa. Còn nhiều cái phải chịu đựng, nhiều cái phải hoàn tất, nhưng kết quả của tất cả các sự kiện thì đã được xác định từ trước rồi...".

        Tất cả chúng tôi đều vui mừng trước chiến thắng vĩ đại, tự hào vì nó, ước mong được thấy nó trong tầm tay của mình, và đều hiểu được rằng: phía trước còn rất nhiều, rất nhiều những thử thách...

        Chúng tôi bay về Bêlôrôchenscaia... Chuyến chuyển sân này là bằng chứng xác nhận những thành tích  chiến đấu của quân đội chúng ta. Nhưng không hiểu vì sao mỗi người đều thấy buồn buồn và lo lắng? Củng dễ hiểu thôi: chúng ta đã mất khá nhiều đồng đội...

        Những gì sẽ chờ đón chúng tôi ở phía trước đây?

        Vượt qua vùng núi, chúng tôi bắt gặp vùng đất phủ đầy tuyết trắng hiện ra. Mùa xuân đã chuyển sang đông rồi! Ở Xôtri thì chỉ thấy rặt một mầu xanh và nắng, còn ở đây - lúc hạ cánh, những cánh quạt của máy bay đã tạo ra những cơn bão tuyết mịt mù.

        Sân bay Bêlôrôchenscaia. Bọn phát xít vừa mới rút chạy khỏi đây bữa qua thôi. Thật là may cho chúng tôi vì chúng không kịp rải mìn và tàn phá gì ở đây cả. May mán bởi vì chúng tôi đã mất cảnh giác không để ý đến chuyện đó, mà như vậy thì rất dễ xảy ra tai nạn. Sau này, kẻ thù còn cho chúng tôi những bài học nhớ đời, nhưng ở đây mọi chuyện đã qua đi êm đẹp. Chúng tôi rất thích những căn nhà hầm còn nguyên vẹn của bọn Đức vì trong đó được trang bị đầy đủ mọi tiện nghi.

        Chúng tôi làm quen với sân bay rất nhanh. Sau đó chúng tôi được đi thăm Bêlôrôchenscaia. Đấy là một làng lớn hầu như không bị phá hủy chút nào. Dân địa phương là người Cadăc. Thấy chúng tôi, họ ùa ra đường mang theo nào táo, nào những chậu sữa, nào những bánh mỳ còn nóng nguyên để tiếp đón.

        Họ đón tiếp chúng tôi như đón tiếp những người anh hùng giải phóng. Còn chúng tôi, nhất là lớp trẻ rất bối rối và rụt rè trước sự biểu lộ tình cảm tốt đẹp và nhiệt tình ấy. Không hiểu sao tôi lại có cảm tưởng là tất cả những điều này đang xảy ra ở Bataisk, và chỉ chút nữa đây thôi, ông Anhixim sẽ xuất hiện, sẽ chạy bổ đến ôm lấy chúng tôi mà hôn... nhưng thực ra thì vì cái gì? Chúng tôi còn chưa làm được trò trống gì cả. Chỉ mới thu lượm được chút kiến thức và kinh nghiệm chiến đấu mà thôi.

        Những người dân của Bêlôrôchenscaia thì mặc cho chúng tôi tự nghĩ về mình thế nào cũng được. Họ coi chúng tôi như những người giải phóng họ và đón tiếp rất chu đáo.

        Chúng tôi nhận thấy rằng những người dân Cadăc ở đây không hiểu gì về trận đánh ở Xtalingrat cả. Họ làm sao hiểu nổi một khi bọn Đức vừa mới rời khỏi đây bữa qua?

        Lập tức, chính ủy trung đoàn cấp cho chúng tôi những số báo mới.

        - Đọc đi, rồi kể cho mọi người nghe các đồng chí ạ - ngoài tin tức ra họ không cần gì đâu, - đồng chí ấy nói.

        Những người đàn ông, đàn bà Cadăc luống tuổi tụ tập vào một ngôi nhà của ai đó, nín thở lắng nghe các bạn trẻ của chúng ta đọc và thảo luận rất lâu, rất xúc động về từng chi tiết của trận đánh vĩ đại.

        Chiều đến, trong thôn xóm vang lên tiếng nhạc của bọn trẻ vui đùa, nhảy nhót.

        Trên mảnh đất cổ xưa của người Cadăc ngày lễ hội lớn với tương lai sáng lạng đã đến.

        Chia sẻ với những người dân địa phương niềm vui giải phóng, chúng tôi lại tiếp tục bước tiếp đoạn đường chiến đấu của mình. Trên bước đường đó, số phận đã đưa đẩy chúng tôi, những phi công trẻ gặp gỡ một người mà cuộc chiến đấu ngắn ngủi nhưng sáng ngời của người ấy tựa như những tia sáng lùa vào tất cả các góc thầm kín nhất của cảm giác, nhận thức về nỗi sợ hải trong tâm hồn chúng tôi.

        Ngày nay thì tôi có thể khẳng định được một cách dứt khoát rằng: không nên coi mình là người phi công tiêm kích chân chính cho tới khi nào mình không tự giải thoát hoàn toàn khỏi những cảm giác sợ hãi. Tôi nghĩ rằng sẽ không ai chống lại cái sự thật giản đơn ấy, nhưng nó phải được nhận thức chính trong những hoàn cảnh đặc biệt, khác thường.

        Chúng tôi đã gặp người lạ thường chính trong hoàn cảnh đặc biệt ấy - đó là trung đội trưởng bay của trung đoàn không quân ném bom 502 - trung úy Liasencô Varvara Xavêlepna. Đúng, chính là Varvara Xavêlepna - người nữ phi công dũng cảm mà chúng tôi đã từng biết hồi ở Atler. Hồi ấy các trung đoàn chúng tôi đóng quân ở cạnh nhau.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #32 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2016, 04:26:46 pm »

        Chị ấy đã cho chúng tôi nhớ lại một thời trẻ trung, đẹp đẽ nhưng héo mòn bởi đau khổ.

        Tiểu sử của chị làm cho chúng tôi phải sửng sốt.

        Là một nữ học sinh được đào tạo trong Câu lạc bộ hàng không của Ucraina, chị đã phục vụ trong trung đoàn không quân chiến đấu 502, bay trên loại máy bay liên lạc PO-2. Chồng chị, Alêchxây Ôrêkhôp - phi công tiêm kích chiến đấu. Anh đã không trở về sau trận không chiến. Khi biết chắc chắn là anh không bao giờ còn trở lại nữa. Varia đã đến gặp ban chỉ huy yêu cầu cho chị được bay trên loại máy bay "IL". Ban chỉ huy không đồng ý vì Varia mới sinh con được 2 tháng. Nhưng Varia không chịu nhượng bộ, thêm nửa lại có đoàn nữ đại biểu của lực lượng bảo quản dù cũng đến gặp Ban chỉ huy với lời đề nghị:

        - Chúng tôi sẽ trông nom đứa bé, hãy để cho Varia bay trên loại máy bay chiến đấu!

        Một thời gian sau, phó chính ủy - thiếu tá Siranôp đã đọc bản thông báo cho tất cả mọi người nghe như sau:

        "Trung úy Liasencô Varvara Xavêlepna, Đảng viên dự bị Đảng Cộng sản Bôn sê vích Nga, đã hoàn thành 12 chuyến xuất kích, hai lần được Chính phủ tặng thưởng vì lòng dũng cảm, can đảm trong chiến đấu chống bọn phát xít Hítle".

        Varia đã đứng trong đội ngũ chiến đấu thay vào chỗ của chồng mình và xứng đáng kế tục sự nghiệp của anh ấy.

        Chúng tôi rất muốn làm quen với Varia, nhưng chiến tranh đã chia cắt chúng tôi quá nhanh: trung đoàn 502 phải chuyển sân về Maicôp.

        Nhưng những cuộc gặp gỡ của chúng tôi không kết thúc ở đấy. Nó vẫn tiếp diễn trong không trung - bởi chúng tôi vẫn đi bảo vệ các máy bay ném bom trong thời gian xuất kích chiến đấu.

        Những chiếc "IL" thường bay qua sân bay chúng tôi, chúng tôi tập họp đội hình với họ rồi cùng nhau lấy hướng ra phòng tuyến mặt trận.

        Tất cả chúng tôi đều quý mến Varia - ai cũng muốn được đi bảo vệ chính chị ấy. Chuyến xuất kích đầu tiên, khi tôi còn là số 1 của biên đội 4 chiếc, Varia liên lạc với tôi qua đối không:

        - Xcômôrôc, lại gần một chút nữa đi, như vậy yểm hộ có vẻ chắc chắn hơn, - chị ấy nói nửa đùa nửa thật.

        Tôi lập tức làm theo yêu cầu của chị ấy. Thành thực mà nói, cho tới lần ấy chưa lần nào chúng tôi lại cảnh giác, cẩn thận đến như thế, sẵn sàng xông vào mọi hiểm nguy để bảo vệ tổ bay ném bom...

        Trên đường bay đến phòng tuyến mặt trận, thi thoảng chúng tôi có nói chuyện với Varia, và khi thời điểm chiến đấu đến, chị ấy truyền lệnh: "Nào, Xcômôrôc, hãy quan sát cho cẩn thật!" đồng thời dẫn nhóm bay vào công kích. Đất dưới chân bọn phát xít rung chuyển dữ dội, những mảnh lỗ châu mai bay tung lên không trung, vũ khí, khí tài của địch bị phá hủy văng ra tứ phía.

        Trận không kích diễn ra rất nhanh và táo bạo. Biên đội của Varia hoạt động như một cỗ máy thống nhất, rõ ràng, nhịp nhàng, điêu luyện. Tôi lo sợ nếu cứ mải xem trận không kích mà để cho bọn "Metxer" lén tới gần thì gay go. Nhưng chúng tôi phát hiện được những con diều ấy từ rất xa, một đôi tách ra không chiến với bọn chúng, còn tôi cùng với số 2 vẫn tiếp tục cảnh giác bảo vệ biên đội máy bay ném bom.

        Sau những chuyến bay như vậy, trong nhận thức của các phi công trẻ đã có sự đánh giá quá cao về những khả năng của mình.

        Đôi khi, cuộc gặp gỡ với một người, mà sự có mặt của người ấy trước đó mình không tưởng tượng được lại có rất nhiều ý nghĩa! Trong trường học dũng cảm của chúng tôi, Varvara Xavêlepna Liasencô đã trở thành nhà sư phạm giỏi nhất mà ngay bản thân chị ấy cũng không biết. Những gì chị ấy đã làm đối với chúng tôi - không có gì có thể sánh được, lòng dũng cảm đã gắn chặt vào tim chúng tôi, làm cho chúng tôi trong sạch hơn, mạnh mẽ hơn, sống quên mình hơn...

        Chẳng bao lâu, những cuộc gặp gỡ trên không của chúng tôi với Varia bị gián đoạn - chúng tôi phải đi nhận nhiệm vụ khác. Nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục theo dõi số phận của chị ấy. Chúng tôi vui mừng biết bao khi ngày mồng 8 tháng 3 năm 1943 thấy ảnh của Varia được đăng ngay trên trang đầu của tờ báo quân đội với khuôn mặt rất đẹp, nghiêm nghị, cương trực. Chúng tôi đọc với niềm tự hào: "Trung úy V.Liasencô, người con gái dũng cảm của nhân dân Xô viết đã tiêu diệt bọn Đức đê tiện bằng những chuyến bay rất xuất sắc. Chị đã xuất kích 41 chuyến, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và vũ khí, khí tài của chúng". Một số dòng ngay trên cột đầu trang nhất dành cho chị ấy nhân ngày Phụ nữ quốc tế: "Đồng chí Liasencô, một người nữ phi công tuyệt vời công tác ở một trong số những đơn vị của chúng ta. Trên máy bay chiến đấu của mình, Liasencô thường xuất kích 2-3 lần trong ngày đi diệt thù. Chị đã điều khiển thành thục loại "IL-2" phức tạp".
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #33 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2016, 04:30:42 pm »

        Đấy là ngày mồng 8 tháng 3, còn ngày mồng 5 tháng 5 năm đó, một tin tang thương tựa như tiếng sấm giữa trời quang mây tạnh dội đến đã làm tất cả chúng tôi sửng sốt: chiếc máy bay "IL" bị trúng một viên đạn bắn thẳng đã rơi. Varia Liasencô hy sinh. Không ai muốn tin điều ấy.

        Chúng tôi yêu cầu Mêlenchep gọi điện hỏi Ban tham mưu sư đoàn cho rõ thực hư.

        Chừng như, tất cả đã là sự thực. Varia cùng với tổ lái của mình đã hy sinh ở khu vực làng Crưmskaia.

        Ngày mồng 7 tháng 5, trung đoàn ném bom cử hành tang lễ. Chúng tôi không được tham dự, nhưng chúng tôi mang đám tang trong lòng. Chiến tranh đã nhẫn tâm cướp đi bao người như thế.

        Biết được mối gắn bó của các phi công trẻ, mà cũng chẳng phải chỉ có riêng lớp trẻ của chúng tôi với Varia Liasencô, chính ủy trung đoàn đề xuất nên mở một cuộc thảo luận liên quan tới cái chết của chị ấy: "Chúng ta sẽ trả thù, bắt bọn phát xít phải đền nợ đối với cái chết của người nữ phi công chiến đấu dũng cảm!". Từng lời nói một thiêu cháy lòng chúng tôi, kêu gọi sự trả thù. Trong nhận thức của chúng tôi. Varia đã đứng cùng đội ngũ với Dôia Côsmôđêmianscaia. Bọn Hítle đã bị trừng phạt thích đáng để trả giá cho cái chết của chị ấy.

        Một người nữ chiến binh... Niềm tự hào và vinh quang của chúng ta. Những tác phẩm nghệ thuật quý giá nhất, những bài thơ tuyệt tác, những bài hát tuyệt vời nhất đã dành cho chị ấy đâu phải là vô cớ.

        Đến bây giờ, cứ mỗi lần nghe những chiến công mới của những người phụ nữ của chúng ta, tôi lại nhớ đến Varia Liasencô. Tôi lại thấy được cuộc ném bom, lại nghe thấy giọng nói bình thản đến lạ lùng của chị ấy.

        Vào năm 1943, qua những tin tức trên báo chí của quân đội, chúng tôi còn được biết thêm tên tuổi của một nữ phi công dũng cảm nữa của trung đoàn ném bom ban đêm - Epghênhia Aculênôc. Hồi đó, chúng tôi cùng bay với trung đoàn đặc biệt này trên bầu trời Cuban. Tất nhiên, chúng tôi muốn biết tường tận những công việc chiến đấu của trung đoàn ấy.

        Chẳng bao lâu sau, chúng tôi được thông báo là Epghênhia Aculênôc đã trở thành Anh hùng Liên Xô, sau đó những đường bay của chúng tôi bị chia cách.

        Số phận của người nữ phi công này quả là khác thường.

        Giênhia ra mặt trận cùng với chồng mình là Grigôri, sau khi để lại hai đứa con gái của mình nhờ mẹ chăm sóc. Chồng chị là lính xe tăng, chị là nữ phi công.

        Bức thư cuối cùng Grigôri viết cho chị khi anh ở Beclin. Sau đó bặt vô âm tín, không ai biết được những gì đã xảy ra với anh ấy và anh ấy đang ở đâu, còn hay mất. Sau chiến tranh, rất nhiều năm nối tiếp nhau, hai người con gái đã nhận được tiền từ rất nhiều địa điểm, từ rất nhiều người khác nhau gửi đến, họ đều nói rằng một người thương binh nào đó nhờ chuyển hộ.

        Một lần, một người quen cũ của Epghênhia từ thời chiến tranh - cựu phi công tiêm kích, nay là nhà văn, Anh hùng Liên Xô - Vaxili Bôđarencô đến thăm gia đình Aculênôc. Câu chuyện lạ lùng của việc chuyển tiền đã làm ông ngạc nhiên, còn Epghênhia đã ròng rã đợi chồng mình 22 năm kể từ sau chiến tranh vẫn không tin rằng anh ấy đã chết.

        Vaxili Bôđarencô đã tham gia vào cuộc tìm kiếm Grigôri. Và ông đã tìm thấy. Grigôri bị thương, cụt cả hai chân, phải đi bâng chân giả. 22 năm, người Anh hùng lái xe tăng trở thành thương binh của nhóm thương binh đầu tiên trong những ngày cuối cùng của chiến tranh, không muốn cho gia đình biết về mình, sợ sẽ trở thành gánh nặng cho họ. Và cũng 22 năm, anh đã quá lầm về ý nghĩ ấy.

        Với cái tin sửng sốt tựa như một bước ngoặt lớn này, Vaxili Bôđarencô đã thổ lộ tình cảm của mình bằng lời của bài hát được nhạc sĩ Ucraina - Vlađimia Vermênhich phổ nhạc. Bài hát mang tựa đề: "Em tin là Anh không thể chết!".

        Trong trí tưởng tượng của tôi, Varia Liasencô và Giênhia Aculênôc - là hai chị em sinh đôi, khi kể về người này, tôi không thể không kể về người kia được...

        Còn bây giờ, chúng ta lại quay trở về Bêlôrôchenscaia, về trung đoàn 164 của chúng tôi. Ở đó cũng có nhiều biến cố, không thể làm ngơ được.

        Có lệnh tập họp toàn trung đoàn. Có chuyện gì vậy? Tất cả đoán già đoán non đủ mọi thứ.

        Thiếu tá Mêlenchep ra lệnh bâng giọng nói oang oang:

        - Binh nhất Calisencô, con nuôi của trung đoàn ra khỏi hàng!

        Một, hai... nhân vật được tất cả mọi người yêu mến bước ra. Người cậu ta toát lên vẻ vui sướng, rạng rỡ. Điều ấy làm chúng tôi yên tâm: có nghĩa là người ta không lấy mất Vanhia của chúng tôi. Nhưng điều gì sẽ xảy ra đây?

        Chúng tôi căng thẳng nghe tham mưu trưởng - thiếu tá Gornôp đọc lệnh:

        - "Binh nhất Calisencô I.I., về trung đoàn tháng 11 năm 1941, trở thành người được trung đoàn nuôi nấng, sau một thời gian ngắn đã thành thạo trong việc sử dụng các thiết bị hàng không, đảm bảo làm việc không gián đoạn. Là một người có kỷ luật, có trách nhiệm, người cơ giới viên trẻ tuổi đó đã là tấm gương về việc tự giác hoàn thành chức trách của người chiến sĩ.

        Với những thành tích phục vụ mẫu mực, trình độ nghiệp vụ cao, tinh thần quên mình hoàn thành chức trách của mình, binh nhất Calisencô Ivan Ilich được tặng thưởng Huy chương "Vì thành tích phục vụ chiến đấu".

        Những lời nói cuối cùng của Tham mưu trưởng bị chìm trong làn sấm vỗ tay vang dội.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #34 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2016, 04:33:24 pm »

        Sự tặng thưởng ấy đã cổ vũ tinh thần Vanhia Calisencô. Suốt ngày hôm đó, chúng tôi chúc mừng đứa con của trung đoàn, âu yếm, ôm hôn cậu ta và thết đãi tất cả những gì có thể thết đãi được. Còn những cô gái - bạn cùng trang lứa của cậu ấy không biết đã kiếm được ở đâu cả hoa tươi để tặng nhân vật chính trong ngày nữa kia.

        Lúc đó chúng tôi không hề nghĩ rằng rất nhiều người trong số chúng tôi sẽ phải chịu đựng nỗi khổ của sự chia ly với đại gia đình chiến đấu đầu tiên của mình.

        Ngày 22 tháng 2 - trước ngày kỷ niệm 25 năm thành lập quân đội Xô viết và hạm đội Hải quân - phó chính trị viên phi đội, đại úy Craves đã tập họp toàn bộ phi công lại. Đồng chí nói:

        - Chúng ta cần phải đón ngày lễ của các lực lượng vũ trang toàn Liên bang Nga Xô viết bằng những chiến thắng mới trong các trận không chiến. Phải làm sao để diệt được thật nhiều bọn giặc lái phát xít - đấy là phương châm hành động của chúng ta.

        Với lời chúc trước lúc lên đường ấy, chúng tôi ra đi làm nhiệm vụ. Chúng tôi có hoàn thành được lời huấn thị của chính trị viên phó hay không? Chúng tôi có gặp địch hay không? Và nếu chúng tôi gặp - chúng tôi có găm được chúng xuống đất hay không?

        Chúng ta có 4 người: Cubarep, Sakhbagian, Pôpôp và tôi. Hồi trước, số 2 của Pôpôp là Xecgây Lapchep...

        Chúng tôi bay về vùng Đất Nhỏ.

        Đất Nhỏ chịu lẳm đau thương, uất hận, đã đổ máu! Ai mà chẳng hiểu nơi ấy, lại chẳng biết những sự tích Anh hùng của nó!

        Theo sự tổng kết của chính bọn Đức, chúng đã phải chi vào mỗi đầu chiến sĩ của Đất Nhỏ ít nhất là năm viên đạn đại bác cỡ lớn. Thường có những ngày, trên mảnh đất nhỏ nhoi này đã phải chịu đựng đến 2.000 lần oanh tạc của bọn phát xít. Những trận không chiến ác liệt thường hay xảy ra ở vùng Mưxkhacô.

        Và chúng tôi cũng đang bay tới chính vùng đất ấy. Tất cả chúng tôi đều hồi hộp, bởi có thể chúng tôi sẽ phải tham chiến ngay trên Đất Nhỏ, trước mắt những người anh hùng bảo vệ đất đó... Chắc các đồng chí củng đồng ý với tôi là trong hoàn cảnh như vậy thật khó mà giữ được bình tĩnh, vì mọi hành động của chúng tôi đều phải làm sao cho thật xứng đáng với những con người ở mũi đất này.

        Bọn Đức không để chúng tôi phải chờ lâu. Chín chiếc "Iu-87" dưới sự yểm hộ của hai biên đội hai chiếc "Metxer" ngang nhiên tiến vào Nôvôrôxiski. Chúng tôi thử phá ý đồ của chúng xem sao! Tập họp biên đội kéo dài về một phía, chúng tôi lao vào trận đánh quyết định. Chúng tôi tạo một màn lửa dày đặc bằng cách chiếc thứ nhất vừa thoát ly ra bên cạnh, thì chiếc thứ hai vào công kích luôn, sau đó là chiếc thứ ba, thứ tư... Rồi vòng lại tiếp lần nữa để bắn, tiếp vòng nữa...

        Chiếc "Iunker" đầu tiên bốc cháy. Nó bị Cubarep bắn. Sau khi bị một loạt đạn chính xác từ các họng súng của Pôpôp, chiếc thứ hai lao cắm xuống đất.

        Những chiến thẳng ấy đã kích động trong chúng tôi lòng dũng cảm của lính chiến, truyền cho chúng tôi tính quả cảm. Tất cả chúng tôi ngay từ đầu đã có cảm giác là thế chủ động của chiến trận nằm trong tay chúng tôi rồi. Chừng như cảm giác ấy có đặc điểm kỳ lạ - nó tăng thêm sức lực. Nếu như anh mất đi cái dè dặt thì anh thấy hành động sẽ tự do hơn, cương quyết hơn. Chuyện xảy ra với tôi củng như vậy. Thấy một thằng "Iunker" né tránh sang bên, tôi bắt kịp hắn, theo đúng những điều mà Mikitchencô đã dạy, tôi ngắm bắn và ấn cò súng. Thằng "Iunker" giật bắn lên phía trên rồi lật ngửa hẳn ra. Có thể là nó làm động tác giả để đánh lừa chăng? Nhưng nó không đủ sức để làm nổi chuyện ấy. Sau một giây, khi mà thằng ấy vừa nhào lộn, vừa lao xuống đất thì tất cả mối nghi ngờ kia tiêu tan: nó đã bị bắn rơi! Bọn phát xít còn lại vội vàng chạy tháo thân.

        Cuộc oanh tạc Nôvôrôxisk đã bị bẽ gãy, chúng tôi đã bắn rơi 3 chiếc. Từ trước tới giờ trung đoàn tôi chưa bao giờ làm được như vậy. Lời huấn thị của chính trị viên phó đã được thực hiện - chúng tôi trở về với món quà lớn mừng lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập lực lượng vũ trang quang vinh của chúng ta.

        Trên sân bay, mọi người sôi nổi chúc mừng chúng tôi. Bữa ăn tối ngoài mặt trận bỗng dưng thật hào phóng, có 100 gram rượu Pepnhe cho mỗi suất, trên mâm còn thấy có cả một chú lợn con rán nữa.

        Buổi sáng ngày hôm sau toàn trung đoàn cất cánh, lấy hướng về Crasnôđar. Bọn Đức đã bỏ chạy khỏi nơi ấy.

        Crasnôđar đón tiếp chúng tôi bằng đường băng bị phá hủy, bằng những cảnh đổ nát của các căn phòng của thành phố, bằng những hố chôn người tập thể. Trong các hố ấy là xác hàng chục nghìn người Xô viết bị bọn phát xít xử bắn...

        Ở đây, con ác thú phát xít khát máu đã trở nên hung dữ đến cùng cực. Không có điều phạm pháp nào mà nó không dám làm. Cướp bóc, tàn phá, giết chóc đúng ngay từng bước đi một - đó là những gì mà chính quyền phát xít duy trì ở thành phố này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #35 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2016, 04:36:22 pm »

        Ngay cho đến bây giờ, sau 30 năm rồi, khi nghĩ về những tội ác ấy, bất giác tôi lại nắm tay lại. Sau những gì chúng tôi đã thấy, đã biết ở Crasnôđar, mà điều ấy đối với chúng tôi là lần đầu tiên, tiếng cười trong trung đoàn trở nên thưa thớt hẳn, cây phong cầm không bao giờ biết buồn nản của Vanhia Calisencô cũng câm bặt. Nỗi xúc động quá lớn.

        Muốn xông vào chiến trận ngay lập tức.

        Chúng tôi đã sống trong trạng thái như vậy, chừng như có thể dùng răng xé tan từng chiếc máy bay thù ra từng mảnh một được. Và chính trong trạng thái như vậy, tôi đã bắn rơi chiếc "Me-109" đầu tiên.

        Tôi chờ đón trận đánh này đã từ lâu, song cảm giác cảnh giác đã không rời bỏ tôi. "Metxersmit" dường như là loại máy bay hung dữ và tất nhiên lái nó phải là những tên dày dạn kinh nghiệm, chuyện ấy chúng tôi được thấy không phải chỉ một lần.

        Tôi sợ trận đánh này, nhưng biết rằng sớm hay muộn rồi nó cũng sẽ trở thành cuộc kiểm tra chiến đấu thực sự của tôi. Như người ta vẫn nói hoặc chiến thắng, hoặc chiến bại.

        Mỗi lần cất cánh lên trời, tôi đều trông đợi trận gặp gỡ quyết định, trong ý nghĩ luôn tưởng tượng ra cảnh tượng của trận đánh.

        Đánh thằng "Metxersmit" đã trở thành sự cấp bách đối với tôi. Để tin tưởng ở mình, để củng cố thêm tinh thần cho mình.

        Thế đấy, cũng tựa như người vận động viên thể thao cần đến chiến thắng. Thiếu nó, người ta không rèn được ý chí, bản lĩnh và không đạt được đỉnh cao của chuyên môn.

        Cuối cùng, trận gặp gỡ ấy đã diễn ra. Nó đến trong hoàn cảnh thật trớ trêu, khi mà tôi cùng với Cubarep vừa mới đi trinh sát về.

        Nhiệm vụ của chúng tôi là không được tham chiến với bất kể loại máy bay nào, chúng tôi cần phải về để báo cáo cho Bộ chỉ huy biết tất cả những số liệu về sự chuyển quân của bọn Đức ở khu vực bán đảo Tamanski, hơn nữa dầu liệu của chúng tôi lúc đó củng đã gần cạn.

        Nhưng bọn "Metxer" lại ở ngay đây, đang tiến thẳng về phía chúng tôi.

        - Chúng ta sẽ làm gì đây, Xcômôrôc? - số 1 hỏi.

        - Đánh! - tôi trả lời.

        - Đồng ý! Yểm hộ cho tôi vào tấn công!

        Máy bay của số 1 vọt tới đối đầu kẻ địch. Tôi bám sát đồng chí ấy không rời nửa bước. Một ý nghĩ thoáng qua: "Bọn Đức chắc sẽ chia cắt đội hình chúng tôi, chúng nó đông đúc ghê gớm!". Nhưng ngay lúc ấy, những cái hố chất đầy những xác người bị bắn ở Crasnôđar lại bơi đến trong ký ức. Nỗi sợ hãi đã nhường chỗ cho sự hung hãn và căm thù. Tay cầm cần lái thấy chặt hơn.

        Bắn bằng tất cả các họng súng, chúng tôi trượt giữa bọn "Metxer" làm cho bọn chúng dạt sang tứ phía, sau đó lại tập họp lại, cùng thắt vòng chiến đấu. Chúng tôi lặp lại hệt như vậy. Đâu đó trên điểm cuối của vòng chiến đấu chúng tôi lại đối đầu với kẻ địch.

        - Xcômôrôc, tôi đánh vỗ mặt chúng đây! - Cubarep thông báo.

        Đúng là các viên đạn, các máy bay chĩa thẳng vào nhau. Chỉ vài giây nữa là đâm vào nhau mà thôi. Thật lạ lùng là trong khoảnh khắc ấy tôi không hề nghĩ gì cả. Trong tôi, một ý nguyện bướng bỉnh đã- làm chủ: không rẽ đi đâu hết! Tôi chưa hề thấy được tôi như thế bao giờ. Trong tôi đã mở ra một phẩm chất mới, và nó đã cứu giúp tôi: số 1 của bọn "Metxersmit" đã vòng tránh Cubarep lượn về phía tôi, tôi ấn cò súng. Những viên đạn đã xuyên thủng bề mặt có in hình chữ thập đen và cánh giữa của nó. Thằng Đức lật nghiêng, đâm xuống đất...

        - Giỏi lắm, Xcôm..., giọng nói của Cubarep bị ngắt quãng qua đối không. Tôi lo lắng nhìn sang phía máy bay của đồng chí ấy và thấy ở phía trước ngang đường chân trời có đến hàng chục chấm đen đang tiến lại. Vậy là rõ rồi - đồng chí ấy không kịp khen là thế.

        Cubarep vòng gấp lại và giảm độ cao. Tôi lặp theo động tác của đồng chí ấy, chúng tôi tăng hết cửa dầu cố quay về. Vừa vòng, tôi vừa thấy một ngọn đuốc bơi dưới đất: đấy là chiếc máy bay "Me-109" đầu tiên của tôi bốc cháy - điều mà tôi từng mong mỏi bấy lâu nay.

        Như vậy, tôi đã bẳn rơi ba chiếc: "Phôcker", "Iunker", "Metxer" sau ba tháng chiến tranh. Ba tháng của trường học mà trong những trường hợp khác thì hàng năm cũng không được như thế. Chẳng phải vô cớ mà mỗi ngày của cuộc chiến tranh lại được coi bằng ba ngày thường.

        Những gì đã thay đổi trong tôi trong những ngày ấy?

        Nhìn vẻ ngoài, tôi vẫn là một cậu bé ngây thơ như xưa, nhưng trong tư tưởng thì đã lớn lên nhiều. Nó cứng cỏi, biết căm thù. Điều đó có nghĩa rằng, trong thâm tâm tôi đã từ biệt tuổi thơ thanh bình. Chiến tranh đã thúc đẩy nhanh quá trình trưởng thành, nó đã cướp mất rất nhiều sự trẻ trung của chúng tôi, sau khi đổi cho họ sự hiểu biết khe khắt trong những trận không chiến ác liệt, để xứng đáng với danh hiệu người lính chiến bảo vệ Tổ quốc mình. Chúng tôi đã sử dụng nó không hề do dự mảy may.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #36 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2016, 08:10:04 am »

        ... Trên sân bay, thiếu tá Mikitchencô là người đầu tiên đến chúc mừng tôi:

        - Vậy đó, thượng sĩ Xcômôrôkhôp ạ, hạnh phúc chiến đấu đã mỉm cười với đồng chí rồi, - đồng chí ấy nói, - những tia nâng mặt trời đã vụt qua, phía trước vẫn còn là những đám mây dông. Hãy bảo trọng.

        Cái nhìn của người chỉ huy thật thấu suốt.

        Ngày sau thì mọi người rất tin tưởng ở tôi - lần đầu tiên tôi được giao nhiệm vụ dẫn đầu biên đội 8 chiếc tiêm kích bay ra dải đất Chusca, vào vùng vịnh Kerchenski.

        Thiếu tá Ermilôp tiễn chúng tôi. Đồng chí ấy thúc giục tôi, nghĩ như biên đội sẽ hạ cánh được ngay tắp lự. Chúng tôi nhanh chóng ngồi vào buồng lái, lăn ra vị trí cất cánh. Ermilôp không đợi cho bụi của các máy bay cất cánh trước lắng xuống hẳn, đã phất cờ ra lệnh: "Cất cánh!".

        Tôi tăng hết cửa dầu, thả phanh. Máy bay giật mạnh, lao đi và tách đất. Bất ngờ, ở độ cao khoảng 10-12m, nghe thấy những tiếng nổ giòn và những tiếng nghiến cót két. Tôi nhìn nắp đậy đầu máy bay - vẫn nguyên vẹn, tôi nhìn sang phía cánh trái - ở đó có những miếng gì đó đang đập lên đập xuống. Máy bay bay rất nặng nề. Tôi không thể hạ cánh ngay được vì phía dưới chi chít những hố là hố. Phải nhảy dù thôi. Tôi mở nắp buồng lái, cởi dây chằng người vào ghế và bắt đầu bò ra khỏi buồng lái, nhưng vẫn chưa vội buông cần lái. Tôi phát hiện thấy có một cái ống nào đấy đang chuyển động lại phía tôi. Tôi không kịp nhảy rồi. Tôi lại ngồi vào ghế, kéo nghiêng máy bay - chiếc ống vụt qua. Tất cả như tạm ổn! Nhưng còn phải làm gì tiếp đây? Nhảy dù thì đâu có được vì độ cao quá thấp.

        Máy bay bay với độ nghiêng và trượt. Ngay dưới cánh lại là một vùng đất lồi lõm. Chẳng lẽ lại chết một cách ngớ ngẩn như thế này sao?

        Trong khoảnh khắc ấy, tôi lại nhớ lại chuyện khi xuyên qua khỏi mây ở Xôtri! Kinh nghiệm đã giúp ta rất nhiều! Nó dạy ta rằng: trong bất kể hoàn cảnh nào củng đều có lối thoát, chỉ cần phải tìm và phải hành động.

        Tôi thu càng. Bánh máy bay lại không thu được hoàn toàn vào trong buồng càng. Tôi giảm cửa dầu, bay sát mặt đất để tìm chỗ thuận lợi cho hạ cánh. Tốc độ giảm, máy bay củng mất tính ổn định luôn. Khó nhọc lắm tôi mới giữ được nó khỏi độ nghiêng rất lớn.

        Thật là, họa vô đơn chí! Bất ngờ, máy bay bị tắt máy. Mặt đất lại ở ngay kề đó rồi, tôi đành cày nó bằng bụng máy bay.

        Những dây chằng người vào ghế đều bị tuột, tôi bị đập rất mạnh vào bảng đồng hồ. Cú đập mạnh tới mức tôi bị ngất. Không có gì khốn nạn hơn khi số mệnh của con người không phụ thuộc vào ý chí của nó. Nếu như không có Vôlôđia Balankin, phi công mới về trung đoàn lượn máy vòng ngay trước mặt tôi, thì không biết tôi còn mê man đến tận bao giờ, đồng thời cũng chẳng thông báo gì được cho đồng chí ấy biết về tình trạng của tôi ra làm sao, chắc chắn chỉ còn nước tự tìm lấy đường mà về, mà bấy giờ lại lạnh, đêm thì dài, tất cả kết thúc ra làm sao ai mà biết được.

        Thế là, tôi phải chờ người của mình đến.

        Trước hết, tôi đi xem xét khẳp chiếc LAAG-3 của tôi đã. Tai nạn khá nghiêm trọng: phần bên trái, cánh giữa, một phần thân bị cánh quạt phạt hỏng. Thùng dầu bị thủng, chảy hết dầu nên cháy máy là phải. Chà! Tôi sống sót được thì thật là lạ lùng. Số mệnh là thế đấy! Chuyến bay đầu tiên của biên đội 8 chiếc đấy, thấy chửa! Đồ quỷ tha ma bắt, tại sao họ lại yêu cầu chúng tôi vội vã thế nhỉ? Không biết các số còn lại có ai bị sao không, có ai còn sống không?

        Ngày đã dần chuyển sang đêm. Tôi bực mình, vác dù đi vào một làng gần đó. Ở đấy, tôi được đưa đến giới thiệu với đồng chí chủ tịch nông trường. Đồng chí ấy phái hai cậu bé ra canh gác máy bay. Chúng tôi còn chưa kịp nói chuyện gì thì hai cậu bé đã chạy về, thở hổn hển:

        - Chú phi công ơi, đằng ấy đang có người tháo cái gì trong máy bay của chú ấy...

        Đám đông chúng tôi chạy đến máy bay. Tôi thấy đúng là có người trong buồng lái thật. Tôi rút súng ngắn, bắn chỉ thiên. Hai bóng đen chạy vụt đến chiếc mô tô đỗ gần đấy và biến mất hút trong bóng tối của hoàng hôn.

        Chúng tôi đến gần máy bay, tôi nhìn vào buồng lái: những đồng hồ trong đó đã bị tháo.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #37 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2016, 08:13:04 am »

        Tôi và chủ tịch nông trường nhìn nhau ngượng ngùng. Hiểu được tâm trạng của tôi, vì đồng chí đầu đã hai thứ tóc rồi còn gì, đồng chí nói:

        - Chà! Anh bạn trẻ ạ, ở đây chúng tôi chưa bao giờ có chuyện như vậy đâu. Sẽ nhanh chóng tìm ra bọn đểu ấy thôi, bây giờ, tôi có thể cho anh bạn gặp một người.

        Chúng tôi quay về văn phòng của nông trường, người ta đã trói tay giải tới đấy một gã mặt mày ủ rủ, sợ sệt, mắt đảo láo liên.

        - Đây, chúng tôi đã tìm thấy thằng đểu ấy đây. Thằng này trước kia là lý trưởng, đã từng hành hạ nhân dân, cướp bóc nhiều và đã định khăn gói cuốn xéo theo bọn Đức. Không thoát được đâu. Chúng ta sẽ xử án.

        Thằng lý trưởng nhận thấy tôi có lẽ là một trong những người quyết định số phận của nó, nó bèn quỳ xuống, nói lấy nói để một điều gì đó.

        Trông nó thật là hèn hạ. Tôi yêu cầu người ta giải nó đi.

        Ngày hôm sau, chiếc PO-2 chở các chuyên gia hàng không và các linh kiện, phụ tùng của máy bay tới để sửa chữa. Tôi cất cánh sau khi quyến luyến từ biệt các nông trường viên và các bạn trẻ.

        Về tới trung đoàn, một "món quà bất ngờ" đã chờ đợi tôi - lệnh phạt giam tôi năm ngày vì tội để mất các đồng hồ trên máy bay. Đấy là do lời yêu cầu có tính chất bắt buộc của Ermilôp. Hình phạt rõ ràng là không có căn cứ. Mikitchencô bực bội chạy đến chỗ Ermilôp và to tiếng với đồng chí ấy. Các bạn trẻ kể lại là bản thân họ củng gặp những trường hợp sau khi máy bay đâm nhau, cuộc đời của hai phi công tưởng chừng chấm dứt, nhưng hạnh phúc làm sao, họ vẫn sống, đến thế còn chẳng lôi ai ra xử phạt nửa là. Đằng này, chỉ vì một chuyện cỏn con mà bị phạt giam năm ngày thì lạ...

        Trong chuyện này át hẳn phải có gì uẩn khúc nên phi đội trưởng, một người rất điềm tĩnh, sống có lý có tình mới không kìm chế được mình như vậy.

        Đứng trước tình trạng khẩn trương, căng thẳng của các trận đánh ngày một tăng, tất nhiên tôi đã không bị đem ra xử phạt.

        Chúng tôi thường bay đến doi đất Chusca, vào vùng vịnh Kerchenski sâu trong hậu phương địch khoảng 150-160 km. Dọc tuyến đường bay khi đi, về chúng tôi thường đụng độ với bọn "Metxersmit" và thường hay xảy ra những trận không chiến kịch liệt với bọn chúng. Đấy là giai đoạn rất nặng nề đối với các phi công chúng tôi. Chúng tôi bị tổn thất - Cubarep, Philippôpski, Pêtơrôpski - người nọ nối tiếp người kia không trở về sau khi cất cánh đi làm nhiệm vụ.

        Trong chiến tranh, chúng tôi đã phải làm quen với tất cả, nhưng chúng tôi không sao quen được với cái chết của đồng đội. Mỗi người hy sinh trong chiến trận đều để lại trong tim chúng tôi những vết thương không bao giờ lành.

        ... Vào một ngày trong giai đoạn ấy, có đồng chí thiếu tướng với tầm vóc cao ráo, cân đối đáp máy bay đến trung đoàn tôi. Hình như đấy là C.A.Versinhin - Tư lệnh Quân đoàn 4 không quân. Chúng tôi không nghĩ rằng chuyến bay của đồng chí ấy lại có quan hệ trực tiếp tới chúng tôi.

        Sakhbagian, Martíừiôp, Giriacôp và tôi được gọi đến Sở chỉ huy trung đoàn. Chúng tôi được giới thiệu với đồng chí thiếu tướng Versinhin và lập tức đồng chí giao nhiệm vụ cho chúng tôi đi trinh sát vùng tiền duyên và những vị trí vượt sông của địch.

        Đi trinh sát - có nghĩa là phải thu thập được tài liệu, không được tham gia không chiến. Điều ấy không đơn giản một chút nào khi mà bầu trời lúc nhúc những máy bay địch. Phức tạp nhất là làm sao phát hiện cho được vị trí vượt sông của kẻ địch được ngụy trang dưới làn nước. Từ trên trời nhìn xuống thì không thấy gì cả, nhưng thình lình, các xe tăng và ô tô chạy ngay trên mặt nước hệt như trong các chuyện thần thoại.

        Bọn Đức bảo vệ những vị trí vượt sông rất cẩn thận. Hầu như không thể mon men đến đấy được nếu không vượt qua những hàng rào của bọn "Metxer". Nhưng chúng tôi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình và tướng C.A.Versinhin đã gửi lời khen và cám ơn chúng tôi.

        Vài ngày sau đó, những chiếc máy bay "Aerôcôbra" mà chúng tôi chỉ thấy ở trên trời đã về sân bay của chúng tôi hạ cánh. Trong số các phi công mới tới có một đồng chí đại úy người vạm vỡ, ngực đeo Huân chương Lênin là nổi bật hơn cả với nét mặt trầm tư. Đấy là phi đội trưởng Alêchxanđrơ Pôcrưskin. Hồi đó chưa có những truyền thuyết về đồng chí ấy, nhưng tên tuổi đồng chí đã thấy xuất hiện trên các báo. Chúng tôi vây quanh Pôcrưskin và các phi công của đồng chí ấy. Câu chuyện về nghề nghiệp được bắt đầu. Mọi chi tiết trong chiến trận của phi đội Pôcrưskin đều làm chúng tôi quan tâm.

        Alêchxanđrơ Pôcrưskin nói rất ít và từ tốn. Qua ngữ điệu của đồng chí củng có thể đoán được nghị lực và sức mạnh của người lực sĩ Nga này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #38 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2016, 08:16:03 am »

        Qua họ, chúng tôi biết được tin là: đã có lệnh chuyển một số đơn vị của quân đoàn 5 sáp nhập vào Quân đoàn 4 không quân và phải chuyển đến vùng vòng cung Cuốc - thuộc mặt trận Xtrepnôi.

        - Có nghĩa là chúng ta sẽ được chiến đấu cùng nhau?

        - Điều ấy chưa hẳn, - Pôcrưskin lưỡng lự trả lời.

        Việc phải sáp nhập vào Quân đoàn 4 không làm cho chúng tôi buồn phiền, ngược lại, còn mừng nửa là khác bởi những trung đoàn tiêm kích của Quân đoàn ấy đều được trang bị các máy bay "Aerôcôbra" tốt hơn loại LAGG-3.

        Câu chuyện tự nhiên xoay sang loại máy bay "Aerôcôbra". Chúng tôi đến gần chúng, ngâm nghía. Buồng lái cấu tạo khá lạ lùng: trong đó có nhiều bộ phận trông giống như trong buồng lái của ô tô loại nhẹ. Hỏa lực mạnh, gồm: 1 khẩu pháo 37 li, 2 khẩu liên thanh cỡ lớn và 2 khẩu cỡ nhỏ. Khá khủng khiếp!

        Đặc biệt, những phi công của Pôcrưskin rất khoái chuyện những máy bay tiêm kích của Mỹ đã đến chỗ chúng tôi theo hiệp ước đã định. Họ không nói ra, nhưng có vẻ hài lòng vì chúng. Qua một người trong số họ đã từng gặp những phi công bay thử loại "Aerôcôbra", chúng tôi được biết câu chuyện khá hấp dẫn. Hình như, loạt máy bay đầu tiên của loại này xuất xưởng không đạt đến độ hoàn chỉnh, một số tai nạn đã xảy ra do hiện tượng "bị cuốn đuôi", không có khả năng cải "Aerôcôbra" ra khỏi xoắn ốc được. Người ta thông báo điều ấy cho hãng sản xuất máy bay của Mỹ. Hãng này vội vã cải tiến một số chi tiết cần thiết và yêu cầu cử một phi công và một kỹ sư của Xô viết sang để bay thử máy bay ngay tại chỗ.

        Nhiệm vụ quan trọng ấy được giao cho phi công bay thử Anđrây Côchetcôp và kỹ sư Phêđo Xupơrun - là em của Xchêpan Xupơrun nổi tiếng.

        Các chuyên gia Xô viết đã đến thành phố Buphalo nằm trên bờ sông Nhiagra. Những chuyến bay thử được tiến hành. Trung tâm không vực nhào lộn - ở gần thác Nhiagraski. Đã đến thời điểm kiểm tra động tác xoáy ốc. Cái điều mà trong các trận không chiến trên đất Nga bao la từng xảy ra không phải chỉ một lần lại bị lặp lại: máy bay rơi vào xoáy ốc nông và không sao cải ra nổi. Côchetcôp đành phải nhảy dù...

        Chỉ sau đó thì người Mỹ mới thận trọng sửa chửa "Aerôcôbra" cho đến nơi đến chốn và chế tạo nó thành loại như bây giờ đang đứng trước chúng tôi.

        Những vị khách không mời này đem đến cho chúng tôi lắm chuyện hiếu kỳ. Chỉ tiếc là họ cất cánh đi quá sớm. Chúng tôi chia tay họ như chia tay những người bạn chân chính, tin tưởng rằng thế nào rồi chúng tôi cũng sẽ được sát cánh với họ cùng chiến đấu.

        Nhưng những sự kiện sau đấy lại diễn ra hoàn toàn theo hướng khác.

        Vào khoảng gần cuối tháng 3, một nhóm phi công của trung đoàn chúng tôi chuyển về Xaratôp bằng máy bay Li-2. Từ đó để rồi đi xa hơn nửa. Trên đường đi, chúng tôi yêu cầu tổ bay bay qua Xtalingrat. Chúng tôi rất muốn quan sát thành phố xem nó còn lại những gì sau những trận đánh ác liệt. Hơn nửa, thời thơ ấu của tôi củng đã có lần tôi đến đây thăm người anh họ làm việc ở nhà máy sản xuất máy kéo.

        Những gì chúng tôi quan sát được đã làm cho tâm hồn chúng tôi run rẩy: những dãy phố đen ngòm trong những đống đổ nát dày chi chít, những đường phố ngập đầy gạch vụn, những công viên bị san bằng mặt đất, những cầu cống bị phá sập...

        Nghĩ rằng, thành phố không thể nào còn khả năng khôi phục lại nửa.

        Rồi lại nghĩ thêm: hay cứ để nguyên trạng thành phố như thế này để làm kỷ niệm, minh chứng cho trận chiến đấu vĩ đại để tất cả mọi thế hệ chiêm ngưỡng?

        Chúng tôi tiếp đất trên sân bay mới với tâm trạng trĩu nặng, buồn bã. Chừng như khó mà khôi phục thành phố anh hùng trở lại được như cũ - những đổ nát của Xtalingrat đã gây cho chúng tôi cảm giác nặng nề là vậy.

        Rồi chúng tôi củng hiểu được vì sao chúng tôi lại chuyển đến đây: nhận những máy bay Xô viết mới toanh - loại LA-5.

        Vậy đó!

        Bốn mươi ngày - từ 17 tháng 3 đến 27 tháng 4 - chúng tôi đã sống chỉ bằng những tiêm kích mới. Chúng tôi say mê nó ngay từ đầu, có thể nói là vậy.

        Và chúng tôi đã không lầm. Máy bay đầu tù, với động cơ hai kỳ khá khỏe khoắn, nó có thể đạt được tốc độ lớn hơn 500km/h trên mặt đất, được trang bị 2 súng máy. Tính năng cơ động và mang vũ khí rất tốt, chỉ có điều, chúng tôi còn bối rối là hầu như nó được cấu tạo toàn bằng gỗ.

        Được làm quen với máy bay mới quả là thú vị. Chúng tôi mệt tới muốn chết, chiều về không nhấc chân lên được. Nhưng sớm hôm sau, ngay từ tinh mơ chúng tôi lại có mặt ngoài sân bay. Cất cánh, hạ cánh, tập bắn vào bia hình chóp... ở đây, bài học mà Mikitchencô đã dạy rất bổ ích đối với tôi. Cho đến tận bây giờ, đồng chí ấy vẫn tiếp tục, bền bỉ huấn luyện cho chúng tôi nghệ thuật bắn mục tiêu sao cho chính xác.

        - Hỏa lực - đấy là sức mạnh của tiêm kích, - đồng chí nói.

        Chỉ đến khi Mikitchencô tin tưởng là những loạt đạn của chúng tôi phá tan được lớp gỗ của các mục tiêu hình chóp, đồng chí mới huấn luyện tiếp chúng tôi mọi động tác nhào lộn có thể có được của máy bay tiêm kích. Đồng chí truyền đạt tiếp một công thức mới, tương đối hoàn chỉnh:

        - Hãy nhớ lấy - sức mạnh của tiêm kích là Cơ động và Hỏa lực.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #39 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2016, 08:19:45 am »

        Trên sân bay này, tôi đã có một cuộc gặp gỡ thật thú vị. Có một đoàn ca múa nhạc đến biểu diễn cho chúng tôi xem. Trong lúc giới thiệu, tôi đã nhận ra người giới thiệu các tiết mục ca nhạc lại là người quen cũ từng làm việc với tôi ở nhà máy của Axtrakhan, - đồng chí Tôlia Kirpichep. Tôi suýt nữa thì nhảy lên sân khấu vì vui mừng. May mà đồng đội giữ lại được. Đợi cho buổi hòa nhạc kết thúc, tôi chạy lên cánh gà của sân khấu. Tôlia trông thấy tôi, kêu lên vì kinh ngạc. Chúng tôi ôm hôn nhau, sau đó suốt buổi chiều, chúng tôi ngồi kể cho nhau nghe về thành phố của mình, về những người cùng quen biết. Tôi rất tiếc vì đồng chí nhập ngũ sau tôi có một thời gian ngân nên không biết những tin tức mới mẻ về Masa. Mối liên lạc bằng thư từ của chúng tôi tạm thời bị gián đoạn vì tôi thường xuyên chuyển sân.

        Tôi vô cùng hy vọng muốn được nghe một chút gì đó về cô ấy qua Kirpichep.

        Đó là buổi sáng ngày 26 tháng 4, sáng hôm sau, khi mặt trời mọc thì chúng tôi đã ở trên không trung rồi. Chúng tôi lấy hướng bay về một thành phố mới, xa lạ - Millerôvô.

        Lần đi này, đại úy Mikhaiin Uxtinôp dẫn đầu phi đội, đấy là phi công có kỹ thuật lái điêu luyện. Ngay lần đầu tiên khi đồng chí xuất hiện trên sân bay, mọi người đã biết điều ấy - đồng chí thông báo về sự có mặt của mình bằng cách thắt nửa vòng đứng từ độ cao rất thấp, đã bị Mêlenchep phê bình thậm tệ. Có ai đó trong số chúng tôi quen biết Uxtinôp từ trước, hỏi đồng chí ấy rằng làm thế để làm gì, thì nhận được câu trả lời hóm hỉnh:

        - Mình thấy trên sân bay lộn xộn quá nên làm thế để góp phần cho lộn xộn thêm!

        Đùa thì đùa vậy thôi, nhưng chính chuyện ấy đã làm cho chúng tôi cảm thấy ràng đã có một đồng chí chỉ huy nắm vững hoàn toàn tính năng của máy bay đến với chúng tôi rồi.

        Thời gian lưu lại ở Millerôvô được đánh dấu bằng sự kiện vô cùng quan trọng - trung đoàn không quân tiêm kích 164 của chúng tôi chuyển thành một bộ phận của Quân đoàn không quân 17. Đó là Quân đoàn mới được thành lập, nhưng đã nổi tiếng trong những trận chiến đấu với quân đội phát xít.

        Quân đoàn thành lập ngày 16 tháng 11 năm 1942 - sau ba ngày đến giai đoạn bắt đầu phản công của quân đội Xô viết trên mặt trận Xtalingrat.

        Trung đoàn sinh ra để rồi ngay sau đó tham gia vào trận đánh mang tính chất lịch sử, qua đó được tôi luyện và chuẩn bị sẵn sàng lao vào những trận đánh mới. Tư lệnh Quân đoàn đầu tiên là thiếu tướng không quân X.A.Cranôpski, nay là nguyên soái không quân. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí, Quân đoàn đã tham gia vào tất cả 3 gian đoạn phản công gần Xtalingrat. Để đánh giá mức độ, cường độ hoạt động của Quân đoàn, có thể lấy những số liệu sau để minh chứng: chỉ riêng thời gian tham gia chiến dịch Xrêtnhe Đônscaia từ 16 đến 31 tháng 12 đã thực hiện 3.672 chuyến xuất kích chiến đấu.

        Quân đoàn đã có truyền thống chiến đấu vẻ vang. Những phi công của Quân đoàn đều lập được những kỳ tích Anh hùng. Nurơken Apđirôp đã lặp lại chiến công của Nhicôlai Gaxtelô và đã xứng đáng được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô vì chiến công ấy. Các phi công tiêm kích như I.I. Chuchơvaga, LA.Malôinôp, V.A.Daixep củng đã được tặng thưởng danh hiệu cao quý ấy vào tháng 8 năm 1943 - Huân chương Sao vàng lần thứ hai.

        Số phận chiến đấu đã sắp đặt chúng tôi trong gia đình chiến đấu vẻ vang là như vậy! vẫn luyến tiếc là tại sao không được xảy ra sớm hơn, vào tháng 11 chẳng hạn, vì như vậy, chúng tôi sẽ có diễm phúc được tham gia chiến đấu, sát cánh với những người bảo vệ Xtalingrat...

        Khi chúng tôi được chuyển về Quân đoàn không quân 17, thì bấy giờ Tư lệnh Quân đoàn đã là Trung tướng VA.Xuđes. Đồng chí tiếp tục chỉ huy Quân đoàn suốt quãng đường chiến đấu cho tới ngày toàn thẳng.

        Bạn đọc chắc hẳn vẫn còn nhớ đồng chí thợ máy của máy bay tôi là Marchiusep đã từng một thời với cương vị là xạ thủ - thông tin cùng bay với V.A.Xuđes trên bầu trời Mông cổ.

        Marchiusep là người biết rất rõ tiểu sử người đồng chí, người chỉ huy của mình đã kể lại ràng, đồng chí Tư lệnh trưởng thành từ một người thợ máy hàng không đến cương vị Sư trưởng, đã bay trên 45 loại máy bay, thể hiện khí phách Anh hùng trong cuộc chiến đấu với bọn Nhật và bọn Phần Lan trắng. Năm 1941 V.A.Xuđes là Tư lệnh Quân đoàn ném bom tầm xa. Bấy giờ, đồng chí ấy về tiếp nhận Quân đoàn không quân 17.

        Cái chuyện trong tổ bay của tôi có người rất gần bó với Tư lệnh - đã từng một thời là thợ máy và xạ thủ - thông tin của Tư lệnh đã không giữ kín được qua cửa miệng của mọi người.

        - Chà, chà, Côlia, giờ thì cậu chẳng còn ở lâu với chúng tớ nữa rồi, - Kiriliuc nói, - cậu cùng với thợ máy của cậu thế nào chẳng trở thành tổ bay riêng của Tư lệnh...

        - Vichia, nếu như viễn cảnh như thế quyến rũ cậu, thì tớ có thể tổ chức sự bảo hộ, - tôi trả miếng.

        Chuyện cãi cọ của chúng tôi chỉ ngừng khi đích thân Tư lệnh tới trung đoàn chúng tôi. Đồng chí là người rất khắt khe, đòi hỏi, và nhất là với những người đồng chí từng quen biết trước kia - rất nghiêm khắc...

        Bộ chỉ huy chỉ thị cho chúng tôi chuyển sân về Nhidnhaia Đubanca mà phía sau nó là vùng đất Ucraina chịu quá nhiều thương đau.

        Những cơn dông Cuban đã lui về phía sau, phía trước chúng tôi - trang sử mới của đời chiến đấu của chúng tôi đã mở. Trang sử ấy mang tên Bầu trời Ucraina rực lửa.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM