Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:55:55 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bộ tham mưu PK-KQ trong chiến tranh  (Đọc 29684 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #50 vào lúc: 23 Tháng Sáu, 2016, 09:34:26 pm »

        Theo mệnh lệnh hành quân do Tham mưu phó Lê Thanh Cảnh phổ biến, lịch nhập tuyến của các đơn vị phòng không như sau:

        - Ngày 19 tháng 2, Trung đoàn 221 pháo cao xạ xuất phát, đi theo hướng Trường Sơn Đông.

        - Ngày 7 tháng 3, Trung đoàn 263 tên lửa xuất phát, đi theo hướng Trường Sơn Tây.

        - Ngày 25 tháng 3, Trung đoàn 226 pháo cao xạ xuất phát đi theo hướng Trường Sơn Tây.

        - Ngày 31 tháng 3, tiểu đoàn 8 rađa xuất phát, đi theo hướng Trường Sơn Đông.

        Sau khi tiểu đoàn 43, đơn vị hỏa lực đầu tiên của trung đoàn tên lửa rời Làng Vây, hai hôm sau, sở chỉ huy tiền phương của chúng tôi cũng "nhổ neo" lên đường. Anh Phạm Sơn được phân công đi cùng Trung đoàn tên lửa 263. Còn tôi, đi cùng xe với Tham mưu phó Lê Thanh Cảnh, theo hướng đông. Lái xe tên là Chiến, đồng chí công vụ tên là Cường.

        Xe chúng tôi qua Sa Trầm, Ly Tôn, ngã ba Lan Nam rồi tiến vào A Lưới. Một cảnh tượng nhức nhối đập vào mắt tôi. Lần đầu tiên tôi được hiểu thế nào là chất độc hóa học của Mỹ. Cả một cánh rừng bạt ngàn toàn những cây cao lớn, nhưng trụi lá trơ cành. Những hàng cây chết đứng cứ như chạy trốn về phía sau, khi xe chúng tôi tiến nhanh lên phía trước. Chiến khu A Lưới có nữ anh hùng Kan Lịch, người dân tộc Vân Kiểu. Nghe nói vùng này xưa kia sầm uất lắm. Vậy mà dưới bàn tay tàn bạo của giặc Mỹ, cây cối ở đây đang lụi tàn, cảnh vật biến thành một màu đen xám.

        Đang miên man suy nghĩ, tôi chợt nghe anh cảnh quay lại nói như reo: Ông Lân ơi! Buôn Ma Thuột giải phóng rồi!" Anh vặn to âm thanh chiếc đài bán dẫn để chúng tôi cùng nghe rõ. Trừ cậu Chiến cầm vô lăng, cả ba chúng tôi cùng vỗ tay đôm đốp: 'Trời ơi! Phấn khởi quá!" Bài xã luận của Báo Quân đội nhân dân về chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 11 tháng 3, được Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi trên làn sóng nghe sao rạo rực lòng người.

        Chiếc xe 'com-măng-ca” của chúng tôi còn mới, chạy rất khỏe. Nó vượt hết mọi xe trên đường. Càng vào sâu, tôi càng thấy quang cảnh nhộn nhịp, tưng bừng của con đường ra trận. Núi rừng Trường Sơn có lẽ chưa bao giờ được chứng kiến cuộc ra quân hùng vĩ như ngày hôm nay. Tôi nhớ lại hồi mở chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ có một con đường 41, độc đạo, đưa 24 khẩu lựu pháo 105mm và 24 khẩu pháo cao xạ 37mm vào thung lũng Điện Biên. Còn năm nay, cả Đông và Tây Trường Sơn, cùng nhiều con đường khác nữa, đang cuồn cuộn những dòng xe, dòng tăng, dòng pháo, dòng tên lửa, hầu hết là những trang thiết bị hiện đại. Còn nhiều xe chở bộ binh của những quân đoàn chủ lực, xe chở những khoang thuyền vượt sông của công binh, rồi những đoàn xe hậu cần chở lương thực, thuốc men, quân trang, quân dụng, nối tiếp nhau, như thác đổ, chảy về Nam.

        Đường Trường Sơn năm nay mở rộng hơn trước nhiều. Để chuẩn bị đón thời cơ lớn, hàng vạn cán bộ chiến sĩ Trường Sơn đã gấp rút nâng cấp hàng ngàn ki- lô-mét đường ôtô đạt tiêu chuẩn cấp bốn. Cầu, cống, ngầm vượt sông đều được sửa chữa, tôn tạo. Những đoạn đường hiểm trở quanh co, đã được anh chị em công binh, thanh niên xung phong nắn lại cho thẳng hơn. Họ mở rộng vòng cua, hạ thấp triền dốc, bảo đảm cho mọi loại binh khí kỹ thuật nặng có thể hành quân. Phần lớn những con đường đều được rải đá cấp phối. Có tới 50 ki-lô-mét, từ đường 9 trở vào, đã được trải nhựa, xe chạy êm ru. Thắng lợi càng gần, ngoảnh lại, nhìn thấy công lao "xẻ dọc Trường Sơn” của bộ đội Trường Sơn thật vô cùng vĩ đại.

        Đến ngã ba đường 73, chúng tôi dừng xe. Một đoàn xe xích kéo những khẩu pháo nòng dài 122mm đang chuẩn bị rẽ vào lối đi Nam Đông. Một vị chỉ huy pháo binh nhìn tôi ngờ ngợ:

        "Lưu Trọng Lân phải không?" Tôi chợt nhận ra người bạn cũ hồi ở Việt Bắc năm 1952.

        "Hoàng Tuấn hả?" Không ngờ gặp cậu ở đây! Chúng tôi ôm chầm lấy nhau mừng rỡ. Tôi cho Tuấn biết hiện nay mình đang công tác ở Bộ Tham mưu Phòng không - Không quân và đang trên đường vào Tây Nguyên. Tuấn cười, vẫn chiếc răng khểnh dễ thương như ngày nào.

        Chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình trên chặng đường Trường Sơn Đông. Những địa danh A Sầu, Bù Lạch, Xưởng Giấy, A Vương, Trao, Bung... lần lượt lùi lại phía sau. Xe đi xuyên rừng, núi tiếp núi, có đoạn đường bằng, có đoạn cheo leo, xe chúng tôi lượn chênh vênh trên lưng chừng núi, bên đèo cao, bên vực thẳm. Những lúc ấy cảm thấy Trường Sơn kỳ vĩ lạ lùng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #51 vào lúc: 23 Tháng Sáu, 2016, 09:36:25 pm »

        Khi sắp qua bến Giàng, chúng tôi gặp một đơn vị pháo cao xạ 37mm đậu sát bên đường. Hỏi ra thì biết đó là Tiểu đoàn 106, thuộc Trung đoàn 545, Sư đoàn 377. Một cán bộ trạc tuổi 45. Thấy quen quen, tôi nhìn kỹ, hóa ra đó là Hà Văn Lực, người dân tộc Thổ, đại đội trưởng cũ của tôi trong chiến dịch Điện Biên. Lúc ấy tôi là đại đội phó. Tôi gọi tên anh. Anh quay lại, ngỡ ngàng: "Lân đấy à! Đã lâu lắm bây giờ mới gặp lại nhau. Lâu nay trung đoàn mình bảo vệ bến Giàng. Trung đoàn 227 của Nguyễn Văn Chí ở Bi Hiên, Trung đoàn 528 của ông Tùng Trố'5 ở A Lưới. Còn Trung đoàn 594 của cậu Chính, Trung đoàn 218 của cậu Toàn, hiện cũng đang di chuyển vào phía trong". Tôi lấy sổ tay ra ghi chép.

        Anh Lực nắm tay tôi thật chặt: "Thôi! Cậu đi mạnh khỏe! Đừng quên tớ nhé!" Tôi cười:

        "Quên làm sao được Hà Vãn Lực, đại đội trưởng xuất sắc nhất của trung đoàn pháo cao xạ 367 trong chiến dịch Điên Biên năm xưa".

        Một buổi chiều, xe đang chạy ngon trớn, bỗng cậu Chiến nói to:

    "Sắp hết xăng rồi, thủ trưởng ơi! Còn chạy được vài chục cây số nữa!" Anh Cảnh nói:

        "Yên tâm! Tớ đã nghĩ tới chuyện đó rồi. Trạm tiếp xăng cũng gần đây thôi".

        Đi được một quãng, xa xa chúng tôi thấy có hai nữ chiến sĩ đang đi tới. Một cô cầm chiếc cờ lê to. Một cô gánh trên vai toòng teng mấy chiếc ống nối, cái hình tròn, cái hình chữ T. Anh Cảnh bảo xe dừng lại:

        " Quân đường ống đây rồi! Các cô ơi! Cho chúng tôi hỏi..." Hai nữ chiến sĩ gọn gàng trong bộ quân phục, đầu đội mũ tai bèo, nhoẻn miệng cười khi nhìn thấy chúng tôi. Cậu Chiến buột miệng:

        "Hai thím giải phóng quân xinh quá!” - Chuyện trò bỗng nở như ngỏ rang giữa chúng tôi và hai cô gái trẻ. Cuối cùng chúng tôi hỏi đường đi đến trạm xăng. Cô gái cầm chiếc cờ-lê đưa tay chỉ:

        "Kìa! Chỗ có mấy chiếc xe Din đang chờ "ăn" xăng đấy!" Chúng tôi vui vẻ chia tay hai cô gái. Tại trạm tiếp nhiên liệu, cậu Chiến trình giấy. Xe chúng tôi được nạp xăng đầy thùng, còn thêm mấy can dự trữ. Xe lại bon bon lên đường.

        Tôi thật không ngờ khi được biết hàng chục vạn tấn xăng dầu, như những dòng suối nhỏ vô tận, ngày đêm âm thầm len lỏi trong những con đường ống có đường kính 200mm ấy, đã vượt ngàn trùng sông núi, băng qua những đỉnh núi cao ngất ở đường 12, đường 10, đường 18, chạy dọc theo chiều dài của Đông Tây Trường Sơn, vươn tới chiến trường, vào mãi tận Bù Gia Mập, miền Đông Nam Bộ. Xe chạy đến đâu, có xăng dầu phục vụ đầy đủ ngay đến đó. Kẻ địch quyết tâm phá, nhưng đã không có cách gì ngăn chặn được nỗ lực của chúng ta. Thật khó tưởng tượng nổi chiến công kỳ diệu của đội quân đường ống Trường Sơn!

        Chúng tôi đến Khâm Đức trong một ngày đẹp trời. Tin giải phóng Phước An, Kon Tum, Pleiku dồn dập bay tới. Rồi tin hàng vạn tên địch kinh hoàng tháo chạy khỏi Tây Nguyên, đang bị quân ta đuổi và chặn đánh ở Cheo-Reo, Phúc- Túc. Niềm hân hoan tràn ngập trên ánh mắt mỗi người: đâu đâu cũng thấy xe ta đậu kín đường, kín bãi. Các quán ăn tấp nập người vào ra, cả bộ đội, cán bộ dân chính, cả đồng bào Kinh, Thượng, nhìn ai cũng vui như Tết.

        Từ Khâm Đức, chúng tôi còn phải đi hơn một trăm ki-lô-mét nữa để đến Đắc Công, ở ngay ki-lô-mét "không" đường 14B. Lẽ ra phải đi Sa Thầy, nhưng do Bắc Tây Nguyên đã được giải phóng, chúng tôi chuyển hướng đi Kon Tum. Trên đường nhựa trơn láng của đường 14, xe chúng tôi lướt nhanh qua Đắc Tô, một địa danh nổi tiếng.

        Bên đường, chúng tôi thấy một xe tải đổ kềnh, bốn bánh chổng lên trời, bẹp dúm. Được biết đó là xe từ Khâm Đức vào, đường xấu chuyển sang đường tốt, lái xe cho xe chạy quá nhanh nên mới xảy ra tai nạn. Đây là một kinh nghiệm mà sau đó chúng tôi đã phải phổ biến cho đội ngũ lái xe của mình. Thị xã Kon Tum vắng vẻ, đồng bào đang lục tục kéo về, rải rác trên các đường Hùng Vương, Trịnh Minh Thế.

        Anh Quang Hùng - Phó Tư lệnh Quân chủng chỉ thị cho chúng tôi phải liên lạc gấp với các đơn vị đi đầu của trung đoàn tên lửa 263 từ cánh Tây Trường Sơn xuống. Được giao nhiệm vụ này, tôi lập tức tìm đường tắt sang thẳng Sa Thầy. Ớ đây là khu vực ngã ba biên giới đường sá chằng chịt. Đến Nam Plây Khốc, khi đang lớ ngỡ tìm đường, tôi gặp một cán bộ đứng cạnh một chiếc xe con. Đến gần, tôi đang định hỏi anh đường ra Xê Sụ, thì chợt nhớ ra, tôi mừng rỡ:

        "Anh Phan Biên! Chính ủy Binh trạm 31...".

        "A! Nhớ ra rồi. Anh là Lưu Trọng Lân - Trung đoàn phố trung đoàn 227. Bây giờ anh đi đâu đây?".

        "Tôi đi ngược Trường Sơn Tây, đón đơn vị tên lửa".

        "À! mình vừa ở ngoài đó vào. Tiểu đoàn đi đầu của các ông có lẽ đang qua ngầm Xê ụ, chuẩn bị vượt đèo Ảm Pun. Nói rồi, anh Biên hướng dẫn đường đi cho tôi, tỉ mỉ. Được biết: Nay anh là chính ủy sư đoàn xe 471, phụ trách quãng đường này, vào tận B2. Sư đoàn anh cũng đang chuẩn bị đưa sở chỉ huy vào đứng chân ở Buôn Ma Thuột để chuẩn bị cho chiến dịch mới.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #52 vào lúc: 23 Tháng Sáu, 2016, 09:42:14 pm »

        Tôi gặp anh Phạm Sơn và Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 43 Trần Đăng Trạm ở chân đèo Ảm Pun lầy lội, sau mấy trận mưa đầu mùa. Phạm Sơn kể cho tôi nghe cuộc hành trình vượt Trường Sơn khá gian nan của tên lửa ta. Đường nói chung tốt, nhưng do khí tài tên lửa vừa cao, vừa dài, vừa nặng, rất cồng kềnh, nên khi vào cua hoặc lên xuống dốc, rất khó khăn. Càng kéo hỏng nhiều, thiếu đồ dự trữ thay thế, anh em đã nghĩ cách khắc phục để tiếp tục hành quân. Một số trường hợp hư hỏng khác đã được các trạm của Đoàn 559 giúp đỡ sửa chữa kịp thời. Việc đảm bảo hậu cần như: Gạo, lương khô, cá hộp, thịt hộp, xăng dầu cho các đơn vị, cũng được các binh trạm dọc đường phục vụ chu đáo. Anh em quân nhu ta rất cảm ơn hậu cần 559.

        Tôi nói với Phạm Sơn:

        - Anh Quang Hùng chỉ thị: Ông về sở chỉ huy tiền phương Quân chủng ở Pleiku để báo cáo tình hình. Trung đoàn 263 không dừng lại ở Tây Nguyên nữa mà vào thẳng B2 luôn. Đoàn nặng đi tiếp đường 14B. Đoàn nhẹ, gồm xe kéo đạn và cơ quan, rẽ Pleiku đi thẳng đường 14. Hai đoàn sẽ tập kết ở Đức Lập, chờ lệnh mới. Anh Phạm Sơn truyền đạt mệnh lệnh đó cho anh Tích, Trung đoàn trưởng 263. Sẵn có sơ đồ đã chuẩn bị, tôi trao cho anh Tích một bản, rồi dặn thêm: Bộ phận đi đường 14, qua vùng mới giải phóng, phải nhớ giữ vững kỷ luật về công tác dân vận và bảo đảm lái xe an toàn khi từ đường Trường Sơn sang đường nhựa. Bộ phận đi tiếp đường 14B cần hết sức chú ý khi qua các bến phà, như phà 10 ở ki-lô-mét 114, phà 4 Srê Pốc, bảo đảm an toàn tuyệt đối.

        Tôi và anh Phạm Sơn lên xe về Pleiku. Sau khi sở chỉ huy tiền phương Quân chủng được đặt xong ở căn cứ sư đoàn không quân chiến thuật số 6 của ngụy cũ, anh Lê Thanh Cảnh được phân công đi trước vào B2, để tranh thủ đặt sớm mối quan hệ với cơ quan tiền phương Bộ ở địa điểm mới.

        Trong những ngày ở Pleiku, tôi xin phép dành một buổi dạo vòng quanh khu vực.

        Vào khu vực Bộ Tư lệnh quân đoàn II ngụy, tôi chứng kiến mọi thứ tan hoang, bề bộn. Bọn chung đã rút ngay trong lúc hoảng loạn, cuống cuồng. Trong các phòng làm việc, hồ sơ giấy tờ vứt tung tóe, máy điện thoại, máy chữ lăn lóc, ngổn ngang. Nhiều quyển sách Play Boy, tranh ảnh khỏa thân vương vãi.

        Bước vào một gian phòng, tôi thấy cơ man là huân chương, huy chương còn nằm trong hộp, mới toanh, chất đầy trong các ngăn tủ. Anh chiến sĩ đi cùng tôi, tiện chân, đạp mạnh lên một đống huân chương đã bị ai vứt xuống đất từ trước. Tôi tiếp tục đi loanh quanh thế nào, lọt vào một gian phòng đầy ắp những bản đồ quân sự. Vui mừng quá đỗi, tôi vội vàng lôi ra từng tập, xem xét. Bản đồ khắp các vùng, với đủ loại tỉ lệ khác nhau. Chẳng đủ sức mang nhiều tôi chọn ra được một bộ bản đồ đường sá toàn miền Nam, tỉ lệ 1/250.000.

        Tình hình chiến sự diễn biến mau lẹ. Quân ta thắng như chẻ tre. Tin tức đến dồn dập:

        - 26 tháng 3: Giải phóng Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên.
 
        - 28 tháng 3: Giải phóng Quảng Nam.

        - 29 tháng 3: Giải phóng Đà Nẵng. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng kết thúc thắng lợi với sự xóa sổ hoàn toàn quân khu I và quân đoàn I hùng mạnh của quân ngụy. Đến ngày 3    và 4 tháng tư thì Nha Trang, Cam Ranh, Đà Lạt cũng được giải phóng nốt. Anh Quang Hùng bảo tôi:

        - Thời cơ mở cuộc đại tiến công vào Sài Gòn sắp đến! Miền Nam sẽ được giải phóng sớm! Không phải kéo dài một năm nữa đâu, Lân ạ! Anh Tuấn1 đã có lệnh cho chúng ta chuẩn bị vào B2.

        Sáng ngày 9 tháng 4, đang đi trên đường Vạn Kiếp ở Bắc thị trấn Pleiku, tôi gặp xe của Tiểu đoàn 8 rađa vừa tới. Tiểu đoàn trưởng Trần Quang Sáng, người cao to khỏe mạnh, nước da ngăm đen, đang tìm đường đến tiền phương Quân chủng. Tôi dẫn Sáng về sở chỉ huy và nghe anh báo cáo với Phó Tư lệnh Quang Hùng:

        - Tiểu đoàn 8 gồm 4 đại đội rađa trinh sát, xuất phát từ Khe Sanh ngày 31 tháng 3, đi theo tuyến Tây Trường Sơn. Ngày 4 tháng 4 đến Khâm Đức, ngày 9 tháng 4 đến đây, gồm 47 xe, máy, đầy đủ an toàn. Theo kế hoạch cũ, do anh Hứa Mạnh Tài phổ biến, thì Tiểu đoàn 8 triển khai ở Tây Nguyên.

        Rồi hồn nhiên, anh hỏi:

        - Tây Nguyên giải phóng rồi! Chóng tôi đi đâu bây giờ thủ trưởng?".

        Anh Quang Hùng nhìn Sáng, cười vui vẻ, nói:

        - Mệnh lệnh tám chữ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa truyền đi khắp toàn quân: "Thần tốc - Táo bạo - Bất ngờ - Chắc thắng! Trên tinh thần đó, con đường của Tiểu đoàn 8 các cậu là hướng vào Sài Gòn đấy! vắt chân lên cổ mà chạy! Hôm nay nghỉ ở Pleiku. Ngày mai đi tiếp, để có mặt ở B2 trước 15 tháng 4. Đằng sau chúng ta là Quân đoàn I, được sự giúp đỡ của các sư đoàn xe Binh đoàn Trường Sơn cũng đang tăng tốc độ hành quân.

--------------
1. Tuấn là bí danh của Thượng tướng Văn Tiến Dũng.
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Sáu, 2016, 04:29:58 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #53 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2016, 04:29:32 am »

        Chúng tôi đi tiếp vào Đức Lập. Ở đây, anh Phạm Sơn cử một trợ lý tên lửa nằm lại chờ Trung đoàn 263, còn tất cả tiếp tục cuộc hành trình. Đây là đoạn đường mà chúng tôi được phổ biến là còn nhiều mìn do địch để lại. Xe chỉ được chạy giữa đường. Đến Tuy Đức, chúng tôi bỏ đường 14, rẽ lối Bù Gia Mập - Bù Đốp về thẳng Lộc Ninh.

        Đến trạm tiếp đón, chúng tôi được hướng dẫn về cơ quan tham mưu phòng không B2 và được bố trí nơi làm việc bên cạnh sở chỉ huy Sư đoàn pháo cao xạ 77. Thật là may mắn, vì chúng tôi được sử dụng mọi cơ sở và phương tiện cần thiết của sư đoàn, để thiết lập ngay một sở chỉ huy cho tiền phương Quân chủng. Các anh Trần

        Trung Tín, Hai Sả, cán bộ chỉ huy sư đoàn, Thái Công Danh, Tham mưu trưởng đã hết sức nhiệt tình tạo điều kiện cho chúng tôi mọi thứ thuận tiện dễ dàng, ở đây tôi được gặp lại Phan Chiến Sĩ, Tôn Kỳ, hai trợ lý cũ của tôi hồi còn ở Quân chủng Phòng không - Không quân. Các anh được tăng cường cho B2 hồi đầu năm trước.

        Trong khi Phó Tư lệnh Quang Hùng, cùng Trưởng Phòng Tác chiến Phạm Sơn đi nhận nhiệm vụ trên Bộ chỉ huy Chiến dịch, thì chúng tôi ở nhà triển khai công việc sở chỉ huy.

        Tối hôm ấy, chúng tôi được nghe phổ biến nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến chiến dịch. Anh Phạm Sơn cho tôi xem những ghi chép mà anh đã được cơ quan Cục Tác chiến hướng dẫn. Thời gian rất gấp rút. Chúng tôi phân công nhau xây dựng "Quyết tâm chiến đấu của lực lượng phòng không trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia định".

        Riêng tôi, nhờ đã sơ bộ nắm được toàn bộ lực lượng phòng không phía Nam trước đây, nay được thông tin thêm về những bổ sung mới, những chuyển dịch mới, tôi có thể dễ dàng thể hiện lên sơ đồ tác chiến vị trí các đơn vị phòng không, trong đội hình tiến công của các quân đoàn chủ lực, từ nắm hướng, xung quanh Sài Gòn.

        Nhớ lại hồi Điện Biên Phủ năm 1954, lực lượng phòng không chúng tôi tham gia chiến dịch chỉ có một trung đoàn pháo cao xạ 37mm và năm tiểu đoàn súng máy 12,7mm. Vậy mà hôm nay, trong trận đánh tổng lực vào sào huyệt cuối cùng của địch, lực lượng phòng không của chúng tôi - không tính gần ba chục trung đoàn cao xạ, tên lửa, rađa đang lằm nhiệm vụ bảo vệ hậu phương miền Bắc và các vùng mới giải phóng từ Cam Ranh trở ra - lên tới: Bốn sư đoàn và lữ đoàn pháo cao xạ hỗn hợp 57mm và 37mm trực tiếp nằm trong đội hình tiến công của các quân đoàn; một sư đoàn pháo cao xạ bảo vệ giao thông chiến dịch. Nếu tính cụ thể, tổng cộng tất cả có tới gần hai chục trung đoàn pháo cao xạ tham gia chiến dịch này.

        Đó là chưa kể ở mỗi sư đoàn bộ binh còn có trong biên chế những tiểu đoàn pháo 37mm và nhiều đơn vị súng máy cao xạ 12,7mm riêng.

        Tên lửa có một trung đoàn SAM-II bố trí ở bắc sông Bé và một tiểu đoàn tên lửa vác vai A-72 được chia làm nhiều mũi, đi cùng bộ binh và đặc công trên các hướng.

        Rađa có 1 tiểu đoàn, gồm 4 đại đội, bố trí từ Bắc Sông Bé đến Bắc Biên Hòa.

        Lực lượng phòng không tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn quả thật hùng hậu, thật sung sức. Đúng như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị: 'Quân chủng phải gấp rút tăng cường lực lượng tối đa cho miền Nam".

        Về phía không quân địch, tuy ta vẫn phải đề phòng Mỹ can thiệp bằng máy bay chiến lược B-52, nhưng đối tượng tác chiến chủ yếu của bộ đội phòng không trong chiến dịch này là không quân chiến thuật ngụy. Lực lượng chúng có ba sư đoàn với hơn 1.000 máy bay các loại. Số máy bay tiêm kích, cường kích F-5, A-37 có hơn 100 chiếc, bố trí ở các sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ. So với thời kỳ còn quân Mỹ ở Việt Nam, thật là một trời một vực, nhất là khi tinh thần của bọn phi công đã suy sụp, thi lực lượng so sánh ở mặt trận trên cao rõ ràng là có lợi cho ta rất nhiều. Tuy nhiên ta không thể chủ quan.

        Còn về nhiệm vụ của các đơn vị Phòng không - Không quân tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh được Bộ chỉ huy chiến dịch giao như sau:

        - Yểm hộ các binh đoàn làm nhiệm vụ bao vây, chia cắt, tiêu diệt địch ở vùng ngoài thành phố.

        - Yểm hộ trực tiếp đội hình của các binh đoàn cơ giới thọc sâu. Bảo vệ các cầu phà quan trọng, trên đường hành tiến, nhất là các cầu Bông, cầu Xáng, cầu Biên Hòa, cầu Sài Gòn và phà Cát Lái.

        - Bảo vệ hậu phương và giao thông chiến dịch trên các hướng, nhất là trên trục quốc lộ 1 và 13.

        - Phối hợp với pháo binh mặt đất khống chế sân bay Biên Hòa và Tân Sơn Nhất.

        - Sử dụng không quân tập kích những mục tiêu có ý nghĩa chiến dịch đạt yếu tố táo bạo, bất ngờ.

        Riêng nhiệm vụ thứ năm, chúng tôi chỉ biết vậy, còn tổ chức thực hiện ra sao thì không được rõ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #54 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2016, 04:34:41 am »

        Tất cả những tình hình và số liệu trên đây đều được chúng tôi thể hiện tổng quát lên sơ đồ tác chiến chiến dịch.

        Một buổi chiều trong căn lán nhỏ, khi tôi và anh Phạm Sơn đang cùng nhau hoàn chỉnh những chi tiết cuối cùng trên tấm sơ đồ "Quyết tâm chiến đấu", thì anh Quang Hùng bước vào. Bằng một giọng nghiêm trang, anh nói:

        - Tôi vừa ở Bộ tư lệnh chiến dịch về. Báo các cậu một tin quan trọng: Bộ Chính tri vừa điện vào cho phép chiến dịch này mang tên "Chiến dịch Hồ Chí Minh".

        Phạm Sơn và tôi đứng bật dậy, nói như reo:

        - Thật thế hả anh? Ôi! Thích quá!

        - Chứ lại không thật à! Chính xác một trăm phần trăm!

        Đồng chí Lê Duẩn thay mặt Bộ Chính trị ký tên đấy! Anh Tuấn trực tiếp phổ biến mà! Thôi! Cậu Lân nét chữ tốt, viết ngay tên bản đồ chiến dịch. Còn Phạm Sơn chuẩn bị cùng tôi lát nữa lên Bộ Tham mưu thông qua kế hoạch tác chiến.

        Lòng mừng vui khấp khởi, tôi nắn nót kẻ lên tấm sơ đồ cỡ lớn, một dòng chữ đậm: "Quyết tâm chiến đấu của bộ đội Phòng không - Chiến dịch Hồ Chí Minh".

        Tay cầm bút mà lòng tôi như trào một niềm vui khó tả. Ôi! Chiến dịch được mang tên Bác. Thật là hạnh phúc cho những ai được tham gia chiến dịch này. Tôi nghĩ: Đúng rồi! Còn gì hợp lý hơn việc lấy tên của Bác đặt cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn.

        Sáng 23 tháng 4, rời Lộc Ninh, Phạm Sơn và tôi mỗi người đi một hướng. Phạm Sơn đi đốc chiến ở trung đoàn tên lửa 263. Còn tôi đi hướng Quân đoàn 3.

        Theo đường liên tỉnh 17, quẹo sang lộ Trắng, vượt lộ Đỏ, qua suối Bà Chiêm, cầu Võ Tùng, tôi đến núi Ông, nơi trú quân của Bộ Tư lệnh Quân đoàn. Chủ nhiệm phòng không Quân đoàn 3 là Trung tá Nguyễn Cần. Vừa thấy tôi, Nguyễn Cần hỏi ngay:

        - Phạm Sơn đâu? Tôi đáp:

        - Phạm Sơn xuống theo dõi Trung đoàn tên lửa 263. Còn mình được phân công sang đây với các cậu.

        - Ôi! Thế thì còn gì bằng! Mày với tao sẽ cùng vào Sài Gòn nhé!

        Đi vào công việc, Nguyễn Cần rút tấm sơ đồ trong cặp ra, giới thiệu cho tôi biết nhiệm vụ của pháo cao xạ, tên lửa tầm thấp A-72 trong đội hình Quân đoàn 3. Các Trung đoàn 232, 234, 593 và một đại đội tên lửa vác vai đã sẵn sàng, đang bám sát các Sư đoàn bộ binh 316, 320 và Sư đoàn 10 ở vị trí tập kết. Cần nói thêm: "Tớ cũng vừa đi thực địa, xuống các trung đoàn về đây. Khí thế lắm!".

        Nhìn ra, thấy anh Luân và anh Như, hai cán bộ của cơ quan tham mưu Quân chủng được tăng cường cho quân đoàn tuần trước, đang đi vào. Chúng tôi bắt tay nhau, chuyện trò vui vẻ.

        Chiều 26 tháng 4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, từ phía Đông. Năm cánh quân của các Quân đoàn chủ lực 1, 2, 3, 4 và Binh đoàn 232 dồn dập tiến công quân địch từ 5 hướng. Quân đoàn 3 phụ trách hướng Tây Bắc: Đồng Dù, Củ Chi, Trảng Bàng, Hóc Môn.

        Chiến sự trong 2 ngày đầu chiến dịch, qua quân đoàn thông báo, diễn ra trong thế thắng áp đảo của quân ta trên mọi hướng. Chiều 28 tháng 4, các quân đoàn chủ lực ta, cùng với bộ đội địa phương và lực lượng quần chúng nổi dậy đã bao vây chặt Sài Gòn. Tối hôm đó được tin thêm: Một phi đội A-37 do anh em ta lái đã ném bom khu để máy bay quân sự ở Tân Sơn Nhất. Tôi nghĩ ngay đến chàng phi công trẻ Nguyễn Thành Trung mà tôi mới gặp ở Lộc Ninh hôm nào. Sau đó là lệnh tổng công kích trên toàn mặt trận.

        Đúng lúc ấy, tôi nhận được điện của anh Quang Hùng từ sở chỉ huy chiến dịch bên Cam Xe gọi xuống. Anh chỉ thị cho tôi tìm mọi cách bám sát bộ binh, để vào Sài Gòn thật nhanh, tìm địa điểm lập sở chỉ huy mới của Quân chủng tại Tân Sơn Nhất.

        Xe chúng tôi chạy về Chơn Thành, rồi rẽ phải, theo quốc lộ 13 đi xuống Bến Cát. Vừa đi được một quãng, chúng tôi bị một cây ba-ri-e sơn màu trắng đỏ, chặn ngang:

        - Bến Cát còn địch. Đề nghị các đồng chí quay lại! Đó là tiếng nói nghiêm túc của một chiến sĩ đội mũ tai bèo, đeo băng cờ Mặt trận. Không lẽ ngồi chờ, tôi đành bảo lái xe quay lại, mở bản đồ tìm lối khác. Thôi! Quay sang Đồng Xoài, rồi sẽ liệu.

        Đồng Xoài, một ngã 5 toàn màu đất đỏ. Cầy cối hai bên đường phủ kín một lớp bụi dày, chẳng còn màu xanh nữa. Cạnh ngã 5 có cắm một cột mốc to, treo chi chít những mũi tên chỉ đường. Xe nào qua đây không biết lối, cũng dừng lại để xem. Tôi đến gần, thấy một tấm biển hình mũi tên, ghi "367 đi tiếp Chơn Thành' Thế là Sư đoàn pháo cao xạ 367 đã đi qua đây, theo đội hình của Quân đoàn 1 rồi. Xe cộ của các đơn vị vẫn nối đuôi nhau đi về các ngả. Có một xe lạc hướng, vòng đi vòng lại. Tiếng người gọi nhau í ới. Đến bên một chiếc Jeep, tôi hỏi anh cán bộ ngồi trên xe. Anh là người của Quân đoàn 4, có việc trở ra Phước Long. Anh gợi ý tôi nên đi hướng Vĩnh An, gặp đường 22, về Tây Xuân Lộc, rồi theo đường 1 về Biên Hòa. Tôi nghĩ bụng lối này xa quá, nhưng chẳng còn đường nào khác, đành quyết định đi theo hưởng anh bạn vừa chỉ. Vừa đi vừa thắc thỏm, vì không có máy thu thanh nên tôi không biết các cánh quân đã vào đến đâu rồi?

        Xe qua Cầu Cây, đường trở nên xấu, vì là đường mới mở phục vụ chiến dịch. Bến phà Vĩnh An phía trước chật cứng hàng trăm xe chờ sang sông. Nhích mãi, nhích mãi, cố gắng len lỏi lắm, xe tôi mới sang được bên kia phà.

        Bỗng nghe hàng loạt đạn tiểu liên nổ giòn phía sau, tiếp theo là những tiếng hô: "Sài Gòn giải phóng rồi! Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng rồi! 'Tiếng la hét, tiếng reo mừng vang dội. Đạn liên thanh các cỡ nổ rầm trời. Chúng tôi cũng hò reo khản cổ. Những chiếc đài bán dẫn đâu đó vang vang tin chiến dịch toàn thắng.

        Chạy khoảng mươi ki-lô-mét, chúng tôi gặp đường 20. Thấy đường tốt, cậu lái xe mừng rơn: Đi lối nào thủ trưởng? Tôi cười: Nếu cậu muốn lên Đà Lạt nghỉ mát thì rẽ trái. Còn nếu muốn về Sài Gòn thì rẽ phải:

        - Thủ trưởng tuyệt quá! Đường lạ mà sao thủ trưởng thành thạo thế!

        - Cậu nên "khen" thắng MỸ ấy. Đó là nhờ bản đồ của nó vẽ quá chính xác đấy thôi!

        Đường tốt, xe chúng tôi lại bon bon. Đến Dầu Giây, gặp đường số 1, tôi cho xe chạy thẳng đến sân bay Biên Hòa. Đại tá Hoàng Ngọc Diêu, Tham mưu trưởng Quân chủng Phòng không - Không quân, Chủ nhiệm Phòng không - Không quân chiến dịch cũng vừa có mặt ở đây. Theo chỉ thị của anh Diêu, sáng hôm sau, ngày 1 tháng 5, tôi đi tiếp về Sài Gòn.
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Sáu, 2016, 04:39:45 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #55 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2016, 04:36:51 am »

        Xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa rộng thênh thang, có những đường vạch sơn phân tuyến. Thỉnh thoảng có những "con lươn” bằng bê tông chạy dài chính giữa. Xe từ phía ngoài vào vẫn không ngớt. Có nhiều xe chở cán bộ dân chính vào tiếp quản. Xe nào cũng cắm cờ Mặt trận nửa đỏ nửa xanh. Xe tôi cũng cắm cờ. Cánh tay tôi cũng đeo băng xanh đỏ. Cờ giải phóng phần phật tung bay trong gió. Ôi! náo nức và phấn khởi vô cùng.

        Chiến sĩ ta trẻ măng, ngồi trên xe, vẻ mặt ai cũng hân hoan. Một chiếc xe khác, hình như chở đoàn văn công, chạy cùng chiều, cả nam lẫn nữ đều đội mũ tai bèo, nhưng hất tung về phía sau. Những cô văn công xinh đẹp, với mớ tóc dài bổng bềnh bay trong gió, đang hát vang bài ca: "Tiến về Sài Gòn”.

        Cầu Đồng Nai, cầu Sài Gòn thật đẹp! và cả cầu Rạch Chiếc, vẫn còn nguyên vẹn cả. Tôi thầm nghĩ không biết có bao nhiêu chiến sĩ đặc công mình đã ngã xuống nơi đây, để cho đại quân ta tiến vào thành phố nhanh như cơn lốc? Hai bên xa lộ vắng vẻ. Nhưng trên đường thì đầy dẫy những áo quần, giày mũ của các sắc lính ngụy tháo chạy, vứt bỏ ngổn ngang. Có nhiều xe nhà binh vô chủ, đậu rải rác.

        Qua ngã tư Hàng Xanh, chúng tôi thấy người đông hẳn lên. Đồng bào thành phố, ăn mặc đủ kiểu, đứng chật ních trên vỉa hè, vẫy cờ, hoa chào các anh giải phóng. Trên các cổng nhà đều treo cờ, cả cờ Mặt trận và cờ đỏ sao vàng. Xen vào dòng xe ôtô của bộ đội là những chiếc xe gắn máy của dân thành phố chạy ngược xuôi. Lúc ấy, tôi chẳng nghĩ đến đường ngược chiều hay thuận chiều gì cả. Cứ thẳng đường dự kiến mà đi.

        Lẽ ra xe tôi cứ thẳng đường vào Tân Sơn Nhất, nhưng thoáng nghĩ đến dinh Độc Lập sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn, nơi Tổng thống Dương Văn Minh vừa tuyên bố đầu hàng quân cách mạng, tôi liền bảo lái xe rẽ sang cầu Thi Nghè, qua đường Hồng Thập Tư. Gặp đường Đinh Tiên Hoàng, xe ngoặt trái, rồi rẽ sang đại lộ Thống Nhất (Lê Du ẩn ngày nay). Đầu óc tôi bỗng bừng bừng khó tả khi trước mắt tôi hiện ra một tòa nhà đồ sộ. Tôi đoán đó là dinh Độc Lập. Trên đỉnh cột cao, lá cờ giải phóng đang tung bay, uốn lượn theo chiều gió. Đẹp đẽ làm sao! Tôi hình dung giữa lá cờ như có hình bóng Bác thân yêu đang giơ tay vẫy vẫy. Nhớ đến Bác, tôi lại nhớ đến hai câu thơ của Tố Hữu.

        "Miền Nam đang thắng mơ ngày hội.
        Rước Bác vào thăm thấy Bác cười”.

        Bây giờ khổng còn là mơ nữa. Cả miền Nam đang trong ngày hội lớn. Cả Sài Gòn như đang đón Bác trở về sau hơn 60 năm trời xa cách. Bến Nhà Rồng năm xưa tiễn Bác ra đi, hôm nay như đang được đón Bác trở về, giữa lòng mọi người, và trên đài vinh quang chói lọi. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài 30 năm đã kết thúc. Hẳn Bác rất vui lòng.

        Hai bên đại lộ và trong sân dinh Độc Lập, xe tăng, xe pháo đậu san sát. Bộ đội ta tràn ngập các vườn cây bãi cỏ bên ngoài và bên trong dinh. Rải rác có những bếp cơm của anh nuôi đang đỏ lửa. Thấy một đại đội 4 khẩu pháo cao xạ 57mm đang ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, tôi đến bên thăm hỏi tình hình. Anh pháo thủ cho tôi biết đây là pháo của Tiểu đoàn 7, thuộc Trung đoàn 284. Tôi mừng quá, nói lớn:

        - Các cậu giỏi thật! Tiểu đoàn 7 cao xạ anh hùng của đường Trường Sơn, giờ đây đã có mặt giữa Sài Gòn.

        Tôi chào anh em pháo thủ, rồi lên xe hướng về Tân Sơn Nhất theo đường Lê Văn Duyệt.

        Đường Lê Văn Duyệt quá đẹp, người lại đông. Xe cứ nổ máy, nhích lên từng bước, chậm rì. Mỗi khi xe đứng, tôi tranh thủ nói chuyên với những người ở gần. Ai cũng thích tiếp chuyện với chúng tôi.

        Tân Sơn Nhất trước mặt rồi, nhưng vào cổng nào đây? Sau một lúc hỏi thăm đường, chúng tôi rời ngã tư Bảy Hiền rẽ về lãng Cha cả, để vào sân bay bằng cổng số 5 mà bà con gọi là cổng Phi Long. Nhìn sang hai bên đường tôi thấy mấy chiếc xe tăng T-54 của quân ta bị bắn cháy. Tôi lặng người, chạnh nghĩ: "Cho đến những phút cuối cùng của cuộc chiến tranh, trước giờ toàn thắng, vẫn còn những đồng đội của tôi tiếp tục ngã xuống cho nền độc lập của Tổ quốc!”.

        Trình giấy, qua ba-ri-e do các chiến sĩ ta đứng gác, chúng tôi đi thẳng vào căn cứ sư đoàn 5 không quân ngụy. Doanh trại rộng thênh thang. Tôi đi vào gian sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh sư đoàn này. Vào phòng, một tấm mica dày cộm, to cao sừng sững đập vào mắt tôi. Thì ra đó là tấm sơ đồ đánh dấu đường bay, có ánh điện tỏa sáng giữa những lớp mica trong suốt. Toi đem so sánh nó với tấm mica đánh dấu đường bay của ta, mà chúng tôi thường gọi là bản đồ9x9và5x5ở các sư đoàn, thậm chí ở cả Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, nơi đã từng là cơ quan đối đầu với Bộ Chỉ huy tập đoàn không quân chiến lược Mỹ trong cuộc chiến 12 ngày đêm cuối năm 1972, thì thấy phương tiện chỉ huy của mình nhỏ bé, đơn sơ quá! Nhưng kỳ diệu thay, những cái bé nhỏ đơn sơ ấy đã lần lượt chiến thắng mọi phương tiện chiến tranh hiện đại bậc nhất của kẻ thù.

        Các anh trên Bộ Tư lệnh, sau khi đến xem xét, đã quyết định cho đặt sở chỉ huy tạm thời của tiền phương Quân chủng tại đây.

        Đứng trên tầng thượng của tòa nhà, phóng tầm mắt ngắm nhìn quang cảnh Sài Gòn, lòng tôi lâng lâng tự hào, vinh dự là một sĩ quan Bộ Tham mưu Quân chủng PK-KQ được có mặt trong đoàn quân trở về giải phóng thành phố. Hướng về phía Tây Bấc, nhìn ra xa, xa mãi, tôi nhớ lại chặng đường hành quân vừa qua dọc theo chiều dài đất nước, trên dãy Trường Sơn hùng vĩ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #56 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2016, 08:28:19 pm »

       
CÔNG TÁC THAM MƯU Ở QUÂN CHỦNG PHÒNG KHÔNG - KHÔNG QUÂN

Đại tá Lê cổ                                 
Nguyên sĩ quan Huấn luyện tên lửa Bộ Tham mưu       

        Tôi được điều về công tác tại Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không - Không quân năm 1969. Trước đó tôi đã là sĩ quan tham mưu trung đoàn bộ binh trong kháng chiến chống Pháp, sau này là eBB93 sư đoàn 324 anh hùng. Khác với công tác tham mưu ở bộ binh, công tác tham mưu ở Quân chủng Phòng không - Không quân là binh quân chủng kỹ thuật, sĩ quan tham mưu nắm chắc binh khí kỹ thuật của ta và của địch mới làm tròn nhiệm vụ.

        Quân đội Mỹ được trang bị rất hiện đại, là đội quân xâm lược nhà nghề, rất thực dụng và nhạy bén về sử dụng binh khí kỹ thuật. Hôm nay địch sử dụng thủ đoạn này bị thất bại, ngày mai chúng đổi ngay thủ đoạn khác. Do đó, sĩ quan tham mưu ta phải vừa nắm vững binh khí kỹ thuật vừa phải bám sát diễn biến chiến trường kịp thời đề xuất, tham mưu cho Bộ tư lệnh và hướng dẫn kịp thời cho đơn vị.

        Hồi chiến tranh, Quân chủng đã tổ chức những đoàn cán bộ có trình độ và kinh nghiệm thực tiễn đi sát các đơn vị nghiên cứu địch để kịp thời chỉ đạo tác chiến. Đó là chủ trương rất đúng đắn, công tác tham mưu nhạy bén đã góp phần giành thắng lợi.

        Từ năm 1967, ta đã giải quyết được cách đánh máy bay không quân địch gây nhiễu dải bằng phương pháp 3 điểm (TT), bám sát được dải nhiễu của một chiếc máy bay gây nhiễu để tiêu diệt chúng.

        Nhưng từ tháng 4 đến tháng 5/1972, khi máy bay Mỹ mở đợt đánh phá lần thứ hai ra miền Bắc, địch thay đổi cách gây nhiễu dải trong đội hình. Chúng sử dụng máy gây nhiễu ALQ-87, ALQ-101 công suất lớn, cường độ nhiễu mạnh nên gián cách giữa các chiếc trong đội hình với biên độ rộng hơn (300 - 600m), nên việc chọn dải nhiễu để bám sát của trắc thủ tay quay như cũ không phù hợp. Thêm vào đó, trước đây mỗi tốp 4 chiếc máy bay chiến thuật có một chiếc gây nhiễu cho cả tốp, nay mỗi chiếc mang hai máy gây nhiễu dải, do đó đa số đạn tên lửa bắn lên vượt mục tiêu, xác suất diệt mục tiêu thấp. Thòi gian này, các đơn vị tên lửa Hà Nội đã bắn gần 100 quả tên lửa nhưng hiệu quả rất thấp, trái lại có 6 bộ khí tài bị tên lửa không đối đất (Shrike) của địch đánh hỏng.

        Các đoàn sĩ quan tham mưu của Quân chủng cùng với phòng tham mưu Sư đoàn 361 đi sát các phân đội phát hiện khuyết điểm ta và đã đề xuất biện pháp khắc phục hữu hiệu. Ta đã lắp lại đài quan sát mắt PA-00 hiệu chỉnh đồng bộ trục quang - trục điện. Sau đó, ngày 27/06/1972, tiểu đoàn 57 trung đoàn 261 đã bắn rơi chiếc F4E bằng cách phối hợp chặt chẽ giữa kíp chiến đấu đài điều khiển với PA-00. Rút kinh nghiệm trận này, các phân đội tên lửa đã đổi mới cách chọn dải và bám sát để bắn rơi nhiều máy bay địch. Đồng thời lúc này máy bay hải quân địch cũng giở thủ đoạn gây nhiễu xung trả lời mới, kết hợp nhiều mục tiêu giả, không ít đơn vị đã bắn vào mục tiêu giả.

        Đoàn sĩ quan tham mưu tên lửa của Quân chủng đã phát hiện được thủ đoạn này, dùng phương pháp phóng giả của đài điều khiển với quan sát mắt nên kíp chiến đấu tên lửa đã phân biệt được tín hiệu mục tiêu thật và mục tiêu giả để bắn rơi máy bay địch.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #57 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2016, 08:29:14 pm »

        Những năm 1968 - 1969, ở những nơi xa hỏa lực tập trung, thì máy bay địch sử dụng tên lửa không đối đất Shrike, sau này là AGM-78 (88) rất lợi hại. Hồi đó, tôi còn là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn hỏa lực của chiến trường Nghệ An. Qua hàng chục lần phát hiện tín hiệu tên lửa Shrike trên màn hiện sóng và một số lần tên lửa Shrike rơi cách trận địa lOOm trở ra. Chúng tôi tính toán ước lượng tốc độ của Shrike so sánh với tốc độ trung bình tên lửa của ta để lập bảng tính đối phó với tên lửa địch khi bắn. Tuy nhiên, điều kiện ở phân đội không có thời gian và phương tiện, may thay đoàn sĩ quan Bộ tham mưu Quân chủng trong đó có đồng chí Hoàng Bát cũng đang nghiên cứu vấn đề này đến theo dõi đơn vị. Chúng tôi trao đổi với nhau. Sau này (1969) tôi được điều về Bộ Tham mưu Quân chủng thì đồng chí Bát đã hoàn chỉnh dần tài liệu. Sau đó, nhờ Viện Kỹ thuật Quân sự sử dụng máy tính với hàng ngàn phép tính ở những cự ly bắn, độ cao mục tiêu khác nhau, đã lập bảng tính sẵn và viết thành quy tắc bắn máy bay địch trong điều kiện có sử dụng tên lửa Shrike. về sau nhiều đơn vị đã xử lý thành thạo bắn máy bay địch, diệt máy bay tại chỗ trong điều kiện chúng sử dụng tên ỉửa Shrike.

        Sĩ quan tham mưu Quân chủng trong các "gánh hát rong” đã thâm nhập các đơn vị nghiên cứu tìm cách đánh B-52 và dần dần bổ sung phương án đánh B-52, bảo vệ Hà Nội - Hải Phòng là cả một quá trình công phu.

        Kể từ 17/9/1967, lần đầu tiên tiểu đoàn 84 trung đoàn 238 bắn B-52 ở Vĩnh Linh đến tháng 10/1972, tên lửa phòng không đã bắn B-52: 110 trận được công nhận rơi 23 chiếc, nhưng chưa có chiếc nào rơi tại chỗ. Các sĩ quan tham mưu tên lửa đã theo chân các đơn vị vào đường 20, đường 12 biên giới Việt - Lào, mang ba lô, ruột nghé gạo, ăn cơm vắt, ngủ hầm để nghiên cứu cách đánh B-52. Lúc đầu ở Quảng Bình, Vĩnh Linh khi B-52 vào ném bom, dù cự ly xa hay gần, khi mở máy thu đài điều khiển tên lửa quay 360°, hướng nào cũng có nhiễu dải. Nhiều sĩ quan ở đơn vị, ngay cả một số sĩ quan trong đoàn của Bộ Tham mưu Quân chủng cũng cho rằng B-52 không mang nhiễu trong đội hình, không thể bắn bằng phương pháp TT. Sau khi chúng tôi ngồi cạnh kíp chiến đấu tên lửa theo dõi dải nhiễu di chuyển có quy luật trên cả 2 màn hiện sóng và xác định là nhiễu dải của B-52. Cho đến đêm 22/11/1972, Tiểu đoàn 43 và 44 ở Nghệ An thuộc trung đoàn 263 bắn trúng chiếc B-52, xác chiếc B-52 này rơi ở Na-khon-pha-nom (Thái Lan). Lần đầu tiên giới quân sự Mỹ đã phải thừa nhận tên lửa phòng không ta bắn hạ được B-52 của chúng. Đây là chiến công có ý nghĩa to lớn của công tác nghiên cứu dày công của bộ đội tên lửa phòng không, trong đó có sự đóng góp rất lớn của sĩ quan tham mưu Quân chủng. Nó mở ra khả năng tên lửa phòng không có thể bắn rơi B-52 tại chỗ và củng cố niềm tin cho bộ đội, bổ sung cho phương án đánh B-52 bảo vệ Hà Nội - Hải Phòng.

        Qua rút kinh nghiệm nhiều trận đánh và thông qua hội nghị tháng 10/1972, mà các Phòng Huấn luyện, Khoa học quân sự, Tác chiến đã đúc kết trong báo cáo trung tâm, tài liệu đánh B-52 đã được hoàn chỉnh. Tài liệu này đã được huấn luyện cho các đơn vị tên lửa phòng không ở Hà Nội - Hải Phòng và tổ chức luyện tập thật chu đáo. Từ chỗ các phân đội chỉ quen sử dụng phương pháp PC, nay đã quen với phương pháp TT, nhưng lại chỉ dùng máy thu dải nhiễu mà không phát sóng đài điều khiển. Khuynh hướng này đã được Tư lệnh Quân chủng Lê Văn Tri chấn chỉnh. Thực tế chiến đấu cho thấy khi B-52 bay đến cự ly 32km trở vào thì cần phát sóng, thu tín hiệu mục tiêu để tăng xác suất tiêu diệt B-52 và hạ B-52 rơi tại chỗ.

        Trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, tên lửa phòng không đã bắn rơi 29/34 B-52, có 16 chiếc rơi tại chỗ, góp phần xứng đáng vào chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta, buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận thất bại có tính chất chiến lược trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.

        Tóm lại, công tác tham mưu ở một binh chủng kỹ thuật như tên lửa phòng không thì việc tổ chức bộ phận sĩ quan cổ trình độ và kinh nghiệm thực tiễn với những gánh hát rong như vừa là chủ trương đúng đắn và có hiệu quả thiết thực.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #58 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2016, 08:31:35 pm »

        
MỐI QUAN HỆ "THẨN" THIÊNG NHỜ "BỘ HẠ"

Đại tá Hà Văn Chấp                        
Nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân chủng        

        Tôi xin kể những kỷ niệm về mối quan hệ giữa người chỉ huy và cơ quan tham mưu Quân chủng trong những năm chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ. Mối quan hệ đó là: Thần thiêng nhờ bộ hạ.

        Thần thiêng là muốn nói vai trò và thế thái của đồng chí Tư lệnh Quân chủng - đồng chí Phùng Thế Tài, sau đó là đồng chí Lê Văn Tri.

        Bộ hạ là nói rõ năng lực và trí tuệ của tập thể sĩ quan Bộ Tham mưu Quân chủng trong vai trò tổ chức và chỉ huy chiến đấu.

        Năm 1963, khi hợp nhất hai lực lượng là Phòng không và Không quân thành Quân chủng; Bộ Tham mưu ra đời là cơ quan quân sự cao nhất của Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân chủng, có nhiệm vụ tổ chức chỉ huy chiến đấu và xây dựng lực lượng. Cơ quan tham mưu được tổ chức hoàn chỉnh ngay từ đầu, có đủ các phòng chức năng, khối tác chiến và khối bảo đảm chiến đấu.

        Cán bộ tham mưu hầu hết từ lục quân về, đa số là cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn đã qua chiến đấu 9 năm chống Pháp, ở chiến trường Trung, Nam, Bắc; đã qua huấn luyện đào tạo hệ chỉ huy tham mưu ở nhà trường, học viện trong và ngoài nước như Trung Quốc, Liên Xô (cũ); có trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, năng lực tổ chức chiến đấu, làm tốt công tác tham mưu.

        Năm 1964, khởi sự cuộc chiến tranh phá hoại, không quân Mỹ bắt đầu đánh phá mục tiêu ở miền Bắc nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng, Bộ Tham mưu đã tỏ rõ vai trò tổ chức, chỉ huy chiến đấu của mình. Dưới sự điều hành của đồng chí tham mưu trưởng, các sĩ quan tham mưu chủ chốt làm nhiều phần việc quan trọng về kế hoạch tác chiến, chiến lược, kế hoạch xây dựng lực lượng tổ chức hệ thống sở chỉ huy, quy định chế độ trực ban, sẵn sàng chiến đấu; nghiên cứu khảo sát chiến trường, xác định mục tiêu quan trọng cần được bảo vệ kiểm tra và dự kiến tu sửa, xây dựng phát triển hệ thống sân bay, trận địa, lập kế hoạch phòng tránh sơ tán, ngụy trang, nghi binh. Cơ quan tham mưu hoạt động rất khẩn trương.

        Người tham mưu trưởng đầu tiên là đồng chí Nguyễn Quang Bích, là người rất am hiểu và có năng lực điều hành, hướng dẫn công tác tham mưu có hiệu lực.

        Các năm về sau lần lượt các đồng chí phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng là:

        Anh Hoàng Văn Khánh (thời gian ngắn).

        Anh Đỗ Đức Kiên (thời gian ngắn).

        Anh Hoàng Ngọc Diêu (lâu hơn cả).

        Có nhiều tham mưu phó phụ trách cao xạ, tên lửa, không quân, rađa, cán bộ trưởng, phó phòng và trợ lý chủ chốt được bổ sung, thay thế đầy đủ, phong phú. Cơ quan lãnh đạo của Đảng ủy Bộ Tham mưu được tăng cường. Guồng máy hoạt động của Bộ Tham mưu rất sôi nổi ngay từ đầu chiến tranh.

        Đồng chí Tư lệnh Phùng Thế Tài trực tiếp làm việc với Bộ Tham mưu và coi trọng ý kiến đề xuất của Bộ Tham mưu về bố trí điều chỉnh lực lượng, phán đoán, dự kiến tình huống có thể xảy ra. Sau những đợt đánh trả bắn rơi máy bay Mỹ. Đồng chí thường biểu dương Bộ Tham mưu là "bộ hạ” đắc lực.

        Không quân, hải quân Mỹ cùng đánh phá và leo thang đánh sâu ra phía Bắc, các đợt đánh phá của địch dày đặc hơn, thủ đoạn thâm độc, thay đổi cách đánh của không quân Mỹ, được Bộ Tham mưu phát hiện và có biện pháp xử lý, nhanh chóng, chủ động, kịp thời, không bị bất ngờ, do vậy các đợt đánh trả của các lực lượng cao xạ, tên lửa và không quân có hiệu lực, hiệu suất bắn rơi máy bay địch cao hơn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #59 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2016, 08:33:53 pm »

        Từ năm 1970 - 1972 cuộc chiến tranh phá hoại diễn ra rất ác liệt, mức độ, quy mô, lực lượng không quân, hải quân Mỹ đánh phá mục tiêu sâu rộng hơn bắt đầu có những đợt đánh vào khu vực Hà Nội, Hải Phòng. Đồng thời ráo riết chuẩn bị mở chiến dịch tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 vào Hà Nội, nhiều lần xuất hiện máy bay trinh sát chiến lược SR71.

        Đồng thời quân Mỹ cơ động lực lượng lớn ra giới tuyến mở chiến dịch Lam Sơn 79 đánh vào lực lượng ta ở đường số 9 - Nam Lào nhằm ngăn chặn đường vận chuyển của ta.

        Bộ Tham mưu Quân chủng được giao nhiệm vụ tăng cường điều chỉnh lực lượng lớn bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng, chuẩn bị kế hoạch đánh trả cuộc tập kích đường không bằng máy bay B-52 của Mỹ.

        Đồng thời tổ chức chỉ đạo 3 sư đoàn phòng không 367, 377, 365 và một bộ phận máy bay MiG 21Bis cơ động vào phía Nam Quân khu 4 chuẩn bị tham gia tác chiến hiệp đồng quân binh chủng trong các chiến dịch phản công của Bộ.

        Bộ Tham mưu Quân chủng tăng cường chế độ trực ban sẵn sàng chiến đấu cao hơn, tổ chức sở chỉ huy tiền phương lúc đầu vào đóng quân ở Yên Thành - Nghệ An, sau đó cơ động vào Lệ Thủy - Quảng Bình do đồng chí Dương Hán chỉ huy, các thành phần trực ban tác chiến đều có đủ trực 24/24 giờ. Bên cạnh có sở chỉ huy không quân do đồng chí Nguyễn Phúc Trạch chỉ huy. Các sĩ quan tham mưu bám sát bộ đội, kiểm tra đốc chiến. Địch bắt đầu mở chiến dịch Lam Sơn 79.

        Các tổ đại diện của Quân chủng bên cạnh sở chỉ huy chiến dịch của Bộ được tổ chức nhanh chóng.

        Chiến dịch đường 9 Nam Lào có đồng chí Hoàng Văn Khánh tham gia Bộ Tư lệnh chiến dịch, Bộ Tham mưu có đồng chí Hoàng Ngọc Diêu, tác chiến có đồng chí Hà Văn Chấp và Nguyễn Văn Thân, một số trợ lý chủ chốt theo dõi chỉ đạo các sư đoàn, trung đoàn và không quân chiến đấu trong đội hình của mặt trận.

        Chiến dịch Cánh Đồng Chum Lào, Bộ Tham mưu cử đồng chí Lê Văn Thiêm làm chủ nhiệm phòng không tại mặt trận, có trực ban tham gia chiến dịch. Không quân có tổ chỉ huy bổ trợ cho máy bay IL 28 ném bom vào Sầm Thông Long Chẹn, Lào.

        Chiến dịch Trị Thiên (1972) Bộ Tham mưu tổ chức đại diện bên cạnh sở chỉ huy chiến dịch, anh Hoàng Ngọc Diệu phụ trách, có anh Trịnh Duy Hậu, Hà Văn Chấp, Nguyễn Đăng Tâng, Nguyễn Văn Chí và một số trợ lý chủ chốt tham gia theo dõi thực hiện kế hoạch tác chiến hiệp đồng binh chủng giữa Sư đoàn 367, 377 với các sư đoàn, trung đoàn bộ binh chiến đấu phản công suốt chiến dịch.

        Trong các chiến dịch của Bộ, đồng chí Tư lệnh Quân chủng Lê Văn Tri đều tham gia kế hoạch sử dụng lực lượng phòng không - không quân tác chiến với Bộ tư lệnh chiến dịch.

        Sở chỉ huy tiền phương của Quân chủng và các tổ đại diện bên cạnh Bộ tư lệnh các chiến dịch của Bộ hoạt động rất có hiệu lực. Bộ đội phòng không chiến đấu hiệu quả cao, bắn rơi nhiều máy bay chiến thuật của Mỹ, bắn rơi cả máy bay B-52 được Bộ tư lệnh chiến dịch và các sư đoàn bộ binh hài lòng và biểu dương, lực lượng phòng không - không quân chi viện đắc lực cho bộ binh phản công thắng lợi.

        Sau thắng lợi các chiến dịch tác chiến hiệp đồng binh chủng, những cuộc họp rút kinh nghiệm các đợt chiến đấu lại thấy Tư lệnh Quân chủng có lúc cả Tư lệnh chiến dịch biểu dương cơ quan tham mưu bằng câu tục ngữ "Thần thiêng nhờ bộ hạ”.

        Đến chiến dịch 12 ngày đêm 1972, lực lượng phòng không - không quân đương đầu và đánh trả các đợt tập kích đường không bằng B-52 của Mỹ đã làm nên chiến công lớn - "Điện Biên Phủ trên không", bắn rơi nhiều máy bay B-52 của Mỹ. Đúng với tiên đoán của Bác Hồ khi Bác đến thăm Quân chủng Phòng không - Không quân.

        Bộ Tham mưu rất phấn khởi và tự hào đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Qua chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân nhà nghề của Mỹ có nhiều kinh nghiệm về tổ chức chỉ huy chiến đấu của Quân chủng Phòng không - Không quân hiện đại và anh hùng.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM